Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.2 KB, 26 trang )

Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU
Đại hội lần thứ VI( 15-18/12/1986) của Đảng đánh dấu một bước chuyển hướng và đổi mới
quan trọng trong sự lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực. Trong lĩnh vực kinh tế, đó là chuyển
hướng về bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, đổi mới các chính sách kinh tế và cơ chế quản lý,
nhằm khai thác mọi tiềm năng của đất nước, giải phóng năng lực sản xuất, tăng nhanh sản phẩm
xã hội, thực hiện mục tiêu ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định và cải thiện đời sống nhân
dân. Tuy nhiên đất nước ta chưa thốt khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”(thông qua
vào Đại hội Đảng lần thứ VII ngày 27/6/1991) đã đề ra: Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết
thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với
kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hoá phù hợp, làm cho nước ta trở thành một
nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh. Trong đó việc phát triển kinh tế đối ngoại cũng được chú trọng
phát triển. Mục tiêu của chính sách đối ngoại là tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh chung
của nhân dân thế giới vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Vấn đề phát triển kinh tế đối ngoại cũng được đề cập đến trong các kì đại hội sau. Gần đây
nhất là đại hội Đảng lần thứ X(18/4-25/4/2006) Ban chấp hành trung ương Đảng đã nhận định:
Quan hệ kinh tế giữa nước ta với các nước và các tổ chức quốc tế được mở rộng; việc thực hiện
các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa
Kỳ, quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và thực hiện các hiệp định
hợp tác đa phương, song phương khác đã góp phần tạo ra một bước phát triển mới rất quan trọng
về kinh tế đối ngoại, nhất là xuất khẩu.
Chính vì tầm quan trọng việc phát triển kinh tế đối ngoại hiện nay nên em đã chọn nghiên
cứu đề tài: “Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”.Hơn thế
nữa em đang theo học chuyên ngành Kinh tế quốc tế cũng có liên quan đến vấn đề kinh tế đối
ngoại, việc nghiên cứu này giúp em thu thập thêm nhiều kiến thức bổ ích cho việc học tập bây
giờ cũng như cho thực tiễn khi làm việc sau này.
Kinh tế đối ngoại gồm rất nhiều hình thức như: ngoại thương, hợp tác sản xuất, hợp tác khoa
học-công nghệ, đầu tư quốc tế, hợp tác tín dụng quốc tế, các hoạt động dịch vụ như du lịch quốc


tế, giao thông vận tải, thông tin liên lạc quốc tế, dịch vụ thu và chuyển ngoại tệ...tuy nhiên trong
đề tài này em không thể đề cập đến tất cả các vấn đề mà chỉ đi vào những hình thức chủ yếu có
hiệu quả nhất được coi trọng đó là: ngoại thương, đầu tư quốc tế và dịch vụ thu ngoại tệ.
Đây là đề tài đầu tay của em do đó cịn nhiều thiếu sót, em rất mong có được sự góp ý bổ
sung để bài thêm hồn chỉnh.Cảm ơn cơ đã tận tình chỉ bảo để em có thể hồn thành đề tài này.

1

Khúc Ngọc Anh


Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

NỘI DUNG
Phần I: Tính tất yếu khách quan của việc mở rộng kinh tế đối ngoại.
I. Khái niệm.
Kinh tế đối ngoại của một quốc gia là một bộ phận của kinh tế quốc tế, là tổng thể của các
quan hệ kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của một quốc gia nhất định với các quốc gia khác
còn lại hoặc với các tổ chức kinh tế quốc tế khác, được thực hiện dưới nhiều hình thức, hình
thành và phát triển trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế.
II. Vai trò
Vai trò to lớn của kinh tế đối ngoại được thể hiện qua các mặt:
- Góp phần nối liền sản xuất và trao đổi trong nước với sản xuất và trao đổi quốc tế; nối kiền
trị trường trong nước với thị trường thế giới và khu vực.
- Hoạt động kinh tế đối ngoại góp phần thu hút vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và vốn viện trợ
chính thức từ các chính phủ và tổ chức tiền tệ quốc tế (ODA); thu hút khoa học, công nghệ, khai
thác và ứng dụng những kinh nghiêm xây dựng và quản lý nền kinh tế hiện đại vào nước ta.
- Góp phần tích lũy vốn phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa nước
ta từ một nước nông nghiệ lạc hậu, lên nước công nghiệp tiên tiến hiện đại.
- Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất

nghiệp,tăng thu nhập ổn định và cải thiện đời sống nhân dân theo mục tiêu dân giàu nước mạnh,
xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Kinh tế đối ngoại chỉ phát huy hết hiệu quả của nó khi vượt qua hết những thách thức của
tồn cầu hóa và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
III. Cơ sở khách quan của việc hình thành và phát triển kinh tế đối ngoại.
1. Phân công lao động quốc tế.
Phân cơng lao động quốc tế là q trình tập trung việc sản xuất và cung cáo một hoặc một số
sản phẩm và dịch vụ của một quốc gia nhất định dựa trên cơ sở những lợi thế của các quốc gia đó
về các điều kiện tự nhiên kinh tế, khoa học công nghệ và xã hội để đáp ứng nhu cầu của quốc gia
khác thơng qua trao đổi quốc tế.
Hình thái phân công lao động quốc tế mới dựa trên nguyên tắc "chuỗi giá trị" hay "chuỗi
cung ứng toàn cầu". Nước ta chỉ là một khâu trong một quá trình sản xuất ra một sản phẩm. Làm
tốt hơn thiên hạ khâu nào thì ta sẽ dành được chỗ đứng trong hệ thống phân cơng lao động tồn
2

Khúc Ngọc Anh


Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
cầu và khu vực ở khâu đó. Nhưng hiện nay, nhìn chung, Việt Nam mới tham gia vào sự phân
công này ở những khâu có giá trị gia tăng thấp. Như vậy, mục tiêu đặt ra mang tính sống cịn là,
Việt Nam phải làm tốt khâu mình đang làm, nhanh chóng chuyển lên nấc cao hơn trên bậc thang
giá trị đó.
2. Lý thuyết về lợi thế - cơ sở lựa chọn của thương mại quốc tế.
A.S.Mith, đã đưa ra lý thuyết lợi thê tuyệt đối, song lý thuyết này như David Ricardo nhận
xét chỉ mới giải thích được một phần nhỏ sự phân cơng lao động và thương mại quốc tế, vì vậy
ơng đưa ra lý thuyết mới – lý thuyết lợi thế tương đối.Theo thuyết này một dân tộc có hiệu quả
thấp hơn so với dân tộc khác trong việc sản xuất sản phẩm vẫn có cơ sở cho phép tham gia vào
sự phân công lao động và thương mại quốc tế, tạo lợi ích cho dân tộc mình.
Một số nhà kinh tế sau David Ricardo đã làm rõ hơn bản chất và đưa ra cách lý giải về lợi thế

tương đối như Các Mác, G.Haberler...Song cách lý giải đều đi đến một chân lý chung là lợi thế
đối so sánh tồn tại là khách quan mà mỗi quốc gia phải lợi sụng để góp phần vào sự phân cơng
lao động và thương mại quốc tế nhằm nâng cao hiểu quả của hoạt động kinh tế đối ngoại.
3.Xu thế thị trường.
Tồn cầu hóa và khu vực hóa trở thành xu thế tất yếu của thời đại dẫn đến “mở cửa” và “hội
nhập” của mỗi quốc gia vào cộng đồng quốc tế trong đó có xu thế phát triển của thị trường thế
giới.Xu thế này liên quan đến phân công lao động quốc tế và vận cụng lợi thế so sánh giữa các
quốc gia trong thương mại các nước với nhau.
Biểu hiện của xu thế phát triển thị trường thế giới:
- Thương mại trong các ngành tăng lên: sự phân công giữa các ngành dần chuyển sang phân
cơng nội bộ ngành, do đó thương mại trong các ngành phát triển mạnh.Các công ty xuyên quốc
gia cũng phát triển nhanh, đã có sự giao dịch nội bộ giữa công ty mẹ và công ty con. Tại các
cơng ty này đang diễn ra q trình quốc tế hoá hoạt động nghiên cứu và phát triển một cách
mạnh mẽ. Công nghệ mới ra đời từ các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp của TNC.
- Khối lượng thương mại trong nội bộ các tập đoàn kinh tế khu cực không ngừng mở rộng:
Kim ngạch xuất nhập khẩu của EU chiếm tỷ trọng 37,7% tổng giá trị xuất nhập khẩu của toàn thế
giới(2001).Năm 2007 trị giá xuất khẩu của EU là 9 095 953 nghìn USD, trị giá nhập khẩu là 5
139 358 nghìn USD. Trị giá xuất khẩu của ASEAN trong năm này là 7 813 358 nghìn USD,
nhập khẩu là 15 889 221 nghìn USD;
- Thương mại cơng nghệ phát triển nhanh chóng: Hiện nay nhiều nước đang phát triển đã xây
dựng các cơ sở nghiên cứu chuyên sâu, các trung tâm nghiên cứu hoặc các khu công nghệ.
Những quốc gia này đang trở thành những trung tâm thu hút FĐI chất lượng cao, do có đội ngũ
nhân lực lành nghề và hạ tầng cơ sở khoa học công nghệ tương đối hiện đại. Những nước cơng
nghiệp hố mới cũng thành lập các cơ sở nghiên cứu tại một số quốc gia. LG của Hàn Quốc là
một thí dụ khá điển hình. Tập đồn này đã thiết lập các cơ sở hoạt động nghiên cứu và phát triển
độc lập, hoặc liên kết với các công ty nước ngoài tại Tokyo, Califonia, Chicago, Germany và
Ireland. Trên cơ sở đó để xây dựng các chiến lược liên minh, nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh. Tiếp theo Hàn Quốc, hàng loạt nước như Israel, Ấn Độ, đang lập các cơ sở hoạt động
nghiên cứu và phát triển tại nước ngoài.


3

Khúc Ngọc Anh


Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Thương mại phát triển theo hướng tập đồn hóa kinh tế khu vực: Do sự cạnh tranh quốc tế
ngày càng gay gắt. Cục diện thế giới thay đổi từ hai cực sang đa cực, so sánh sức mạnh thế giới
cũng thay đổi rõ rệt. Cùng với sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật làm cho cơ cấu
ngành trên quy mô thế giới thay đổi. Để duy trì lợi ích của mình mà nhiều nước phát triển cũng
như các nước đang phát triển đã tổ chức các loại hình liên minh như: Cộng đồng Châu Âu(EC);
Khối thương mại tự do Bắc Mỹ NAFTA gồm Canada, Mexico, Mỹ; Hiệp hội các nước Đơng
Nam Á ASEAN...Xu thế tập đồn hóa này đem lại cơ hội và cả những bất lợi cho sự phát triển
kinh tế đất nước.
Tóm lại sự hình thành và phát triển kinh tế đối ngoại mà cơ sở khoa học của nó chủ yếu là
được quyết định bởi sự phân công và hợp tác lao động trên phạm vi quốc tế được các quốc gia
vận dụng thông qua lợi thế so sánh để quyết định lựa chọn các hình thức kinh tế đối ngoại trong
xu hướng tồn cầu hóa.

Phần II: Những hình thức chủ yếu của kinh tế đối ngoại.
I.Ngoại thương.
Ngoại thương hay còn gọi là thương mại quốc tế, là sự trao đổi hàng hóa, dịch vụ (hàng hóa
vơ hình và hàng hóa hữu hình) giữa các quốc gia thông qua xuất nhập khẩu.
Ngoại thương bao gồm: xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa, th nước ngồi ra cơng tái xuất
khẩu, trong đó xuất nhập khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của hoạt động kinh tế đối ngoại
ở các nước nói chung và nước ta nói riêng.
Trong điều kiện nền ngoại thương của thế giới có nhiều đặc điểm mới ngoại thương Việt
Nam cũng ngày càng phát triển và đóng vai trị quan trọng trong việc thúc đẩy sự tăng
trưởng của nền kinh tế ,cải thiện cán cân thanh tốn,tạo cơng ăn việc làm và giúp nền kinh
tế Việt Nam từng bước hội nhập với các nền kinh tế các nước trong khu vực và trên thế

giới.
1.Xuất khẩu
a, Tình hình xuất khẩu
Trước đổi mới, Việt Nam chủ yếu có quan hệ bn bán với các nước trong hệ thống xã hội
chủ nghĩa cũ và một số nước bạn bè có cảm tình với Việt Nam. Từ sau đổi mới, đặc biệt là từ sau
khi Quốc hội ban hành Luật Đầu tư nước ngoài, số nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam
cũng như nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam bước đầu được mở rộng.
Từ năm 1995, sau khi Mỹ bỏ cấm vận, giữa Việt Nam và Mỹ thiết lập quan hệ bình thường,
Việt Nam gia nhập Hiệp hội Các nước Đông Nam Á, số nước và vùng lãnh thổ nhập khẩu hàng
hoá từ Việt Nam đã tăng nhanh. Đặc biệt, từ sau khi Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ được ký
kết năm 2000 và khi Việt Nam trở thành thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm
2007, hầu hết các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới đã nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam.
Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá hàng năm thời kỳ 1990-1999 đạt 20%;
2000-2006 là 19,3%, được xếp vào mức cao nhất khu vực, chỉ đứng sau Trung Quốc. Từ chỗ chỉ
chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng thu nhập quốc dân (24% GDP năm 1991), đến nay xuất khẩu đã
4

Khúc Ngọc Anh


Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
chiếm 64,9%, đứng thứ 5 so với các nước trong khu vực Đông Nam Á, thứ 6 ở châu Á, thứ 8 trên
thế giới. Nếu như năm 2000 tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam chỉ đạt xấp xỉ 14,5 tỉ USD,
thì năm 2006 đã đạt 39,6 tỉ USD, gấp 2,7 lần năm 2000, đứng thứ 6/11 nước khu vực Đông Nam
Á, 39/165 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu hàng hố bình qn đầu
người năm 2006 gấp 2,5 lần so với năm 2000, tăng 20,7% so với năm 2005, đứng thứ 6 trong
khu vực, thứ 25 ở châu Á, thứ 92 trên thế giới. Hệ số giữa tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu hàng
hoá với tốc độ tăng GDP đạt hơn 2,7 lần.. Đây là dấu hiệu tích cực đối với xuất khẩu, lượng hàng
hóa xuất khẩu tăng thể hiện quy mô sản xuất đã được mở rộng, là yếu tố giúp duy trì nhịp độ
tăng trưởng xuất khẩu một cách bền vững.


Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu ba năm 2004- 2006 (%)
Trong đó

KNXK tăng
(triệu USD)

Do tăng giá XK

Do tăng lượng XK

KN (triệu
USD)

Tỷ trọng
(%)

KN (triệu
USD)

Tỷ trọng
(%)

Năm 2004

6,327.0

1,973.4

31.2


4,353.6

68.8

Năm 2005

5,730

3,294.1

57.5

2,436.2

42.5

Năm 2006

7,163.3

2,941.0

41.1

4,222.3

58.9

Nguồn: Bộ Thương mại


Theo Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2007 đạt 48,4 tỉ USD, tăng
21,5% so với năm 2006. Kết quả này là sự nỗ lực rất lớn của các doanh nghiệp trong năm qua.
Theo ước tính, nếu tính bằng USD tổng kim ngạch xuất khẩu so với GDP đạt 67,9%, thuộc loại
cao ở châu Á và thế giới. Tổng kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người đạt khoảng 568 USD,
cao nhất từ trước tới nay. So với năm trước, xuất khẩu tăng 21,5%. Đây là năm đầu tiên Việt
Nam gia nhập WTO, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước cao hơn
tốc độ tăng chung, chứng tỏ khu vực này đã tận dụng được cơ hội do vị thế mới của thành viên
WTO. Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Thành Biên cho biết: Từ khi gia nhập WTO, chúng
ta đã và đang chứng kiến những chuyển biến tích cực của nền kinh tế đất nước. Tăng trưởng
GDP cao 8,48% so với năm 2006, XK đạt 48,56 tỉ USD, tăng 21,5%; quý I/2008, tổng kim
ngạch XK ước đạt 13 tỉ USD, tăng 22,7%. Theo ông, việc gia nhập WTO cũng đồng nghĩa với
việc VN hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới và độ mở của nền kinh tế ngày càng lớn với
tổng kim ngạch XNK tương đương khoảng 160% GDP, trong đó nhập khẩu chiếm gần 90%
GDP (Báo lao động)
b, Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam
Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam trong 15 năm gần đây đã có sự thay đổi theo hướng tích cực.
Tỷ trọng nhóm hàng nông - lâm - thủy sản đã giảm từ 52,2% năm 1990 xuống còn khoảng
20,5% năm 2006. Tỷ trọng xuất khẩu nhóm hàng cơng nghiệp và thủ cơng mỹ nghệ tương đối ổn
định: 33,9% năm 2001; 40,4% năm 2004 và 39,0% năm 2006. Tỷ trọng nhóm hàng nhiên liệu,
5

Khúc Ngọc Anh


Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
khoáng sản cũng dao động trong khoảng từ 21,6 % năm 2001 đến 24,7% năm 2005 và 23,4%
năm 2006.
Bảng 2: Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 2001 - 2006 (%)
2001


2002

2003

2004

2005

2006

Nông, Lâm, Thuỷ sản

24,3

23,9

22,1

20,5

21,1

20,5

Nhiên liệu,khoáng sản

21,6

20,5


19,9

22,7

24,7

23,4

CN và TCMN

33,9

40,0

40,5

40,4

38,4

39,0

Hàng hoá khác

20,2

15,6

17,5


16,4

15,6

17,1

Nguồn: Báo cáo tổng kết của Bộ Thương mại 2005, 2006

Để thấy rõ hơn sự chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu, có thể quan trắc cơ cấu của hàng xuất
khẩu chế biến. Theo cách phân tích này hàng xuất khẩu chế biến được chia thành 3 nhóm chính:
Ngành chế biến dựa vào nguồn tài nguyên; Ngành chế tạo công nghệ thấp sử dụng nhiều lao
động và sản xuất các cấu kiện, công nghệ trung bình; Các ngành cơng nghệ cao, sử dụng nhiều
vốn.
Bảng 3: Sự thay đổi cơ cấu xuất khẩu sản phẩm chế biến thời kỳ 1985 - 2004
Hàm lượng xuất
khẩu

Tỷ trọng (%)

Tốc độ tăng trưởng (%)

1985

2000

2005

1985 1990


1990 1995

1995 2000

20002005

1. Ngành chế biến
dựa vào nguồn tài
nguyên

74

17,6

17,8

21

23

5

4,8

2. Ngành chế tạo
công nghệ thấp sử
dụng nhiều lao động
và sản xuất các cấu
kiện, công nghệ trung
bình


21,7

77

76,0

34,3

102

20

18

3. Cơng nghệ cao,
sử dụng nhiều vốn

3,9

5,4

6,2

40

62,2

2,4


3,7

Nguồn: Ngân hàng Thế giới, năm 2005 và tính tốn của tác giả

Năm 2007 xuất khẩu tăng ở hầu hết các mặt hàng, trong đó có những mặt hàng có kim ngạch
tăng khá cao: dệt may, điện tử máy tính, hàng thủ cơng mỹ nghệ, dây điện và cáp điện, sản phẩm
nhựa, gỗ, cà phê, hạt tiêu, hạt điều. Đã có 9 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD là
6

Khúc Ngọc Anh


Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
dầu thô, dệt may, giày dép, thuỷ sản, sản phẩm gỗ, điện tử máy tính, cà phê, gạo và cao su với
kim ngạch đạt 33 tỷ USD, chiếm 68,2% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
c, Thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam:
Đến năm 2006, thị trường xuất khẩu của Việt Nam đã được mở rộng đến 220 nước và vùng
lãnh thổ. Từ chỗ chúng ta phải lệ thuộc hoàn toàn vào khu vực thị trường Đông Âu và Liên xô
(cũ), từ năm 1991 đến nay, thị trường ngày càng được mở rộng từ ASEAN đến châu Á, châu Âu
và châu Mỹ, châu Phi. Nếu như từ năm 2000 trở về trước thị trường xuất khẩu thị trường chủ yếu
của nước ta chủ yếu ở khu vực châu Á, thì từ 2001 đến nay, thị trường đã được đa dạng hoá.
Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường châu Mỹ tăng đều trong 3 năm qua (từ 21,3%
năm 2004 lên 23,2% năm 2006). Thị trường Hoa Kỳ vẫn là đối tác chính của Việt Nam về xuất
khẩu với kim ngạch 8 tỉ USD, chiếm tỷ trọng 86,8%, các nước khác chỉ chiếm 13,2% trong tổng
kim ngạch xuất khẩu hàng hoá sang thị trường châu Mỹ.
Trong khi đó, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn đối với xuất khẩu giày dép nhưng thị trường
châu Âu vẫn duy trì được tỷ trọng 19-20% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước từ năm
2004 đến nay. Các nước EU chiếm tỷ trọng 89,2% kim ngạch xuất khẩu hàng hoá sang thị
trường châu Âu (6,81 tỉ USD), tăng 23,5% so với cùng kỳ năm 2005.
Riêng châu Á, kim ngạch xuất khẩu chiếm tỷ trọng rất lớn so với các châu lục khác, bởi đây

là thị trường lớn nhất từ trước tới nay. Ngoài ra, việc số liệu thống kê về xuất khẩu vào châu Đại
Dương được tính gộp vào châu Á (kể từ năm nay) đã làm tăng thêm tỷ trọng của khu vực này
(châu Đại Dương chiếm tỷ trọng 8,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước). Trong đó,
khu vực Đông Bắc Á chiếm tỷ trọng 51,8%, đạt kim ngạch 10,79 tỉ USD; khu vực Đông Nam Á
chiếm tỷ trọng 31,5%, đạt kim ngạch 6,56 tỉ USD; châu Đại Dương chiếm tỷ trọng 15,87%, đạt
kim ngạch 3,3 tỉ USD... trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá sang thị trường châu Á.

Bảng 4: Cơ cấu thị trường xuất khẩu (%)
Khu vực thị trường

2002

2003

2004

2005

2006

60,5

52,0

49,0

54,8

58,5


52,6

23,0

Châu Á
Châu Âu

2000

23,0

22,0

20,4

18,1

19,3

Châu Mỹ

6,7

16,0

20,2

21,3

21,3


23,2

Châu Phi, Tây Nam

1,0

1,0

0,8

1,6

2,1

4,8

Châu Đại Dương

8,8

8,0

8,0

6,7

-

-


Á

7

Khúc Ngọc Anh


Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Tổng

100,0

100,0

100,0

100,0

100,0

100,0

Nguồn: Tổng cục Thống kê và Bộ Thương mại

Cho đến nay, hàng Việt Nam đã thâm nhập được hầu hết vào các thị trường lớn. Sau khi Việt
Nam gia nhập WTO, cơ hội để mở rộng thị trường xuất khẩu ngày càng lớn, việc tăng trưởng
xuất khẩu của nước ta chỉ còn phụ thuộc vào năng lực sản xuất.
d, Cơ cấu xuất khẩu theo thành phần kinh tế:
Có thể thấy một điểm tích cực là trước đây, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực

FDI thường cao gấp 1,5 - 2 lần khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước, song năm 2006, tốc
độ tăng kim ngạch xuất khẩu của hai khu vực này (20,5 và 23,2%). Đây là kết quả của q trình
đầu tư chiều sâu, đổi mới cơng nghệ của khu vực doanh nghiệp trong nước.
Bảng 5: Cơ cấu xuất khẩu phân theo thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu
2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

Tổng kim
ngạch (tr.
USD)

14.455

15.027

16.706

20.176


26.503

32.442

39.605

Tốc độ
tăng trưởng
(%)

25,3

4,0

11,2

20,8

31,5

22,4

22,1

DN 100%
vốn trong
nước

7.646


8.228

8.834

10.015

12.017

13.889

16.740

52,9

54,8

52,9

49,6

45,0

43,0

42,0

- Tăng
trưởng (%)

11,5


7,6

7,4

13,4

20,3

15,6

20,5

DN có
vốn ĐTNN

6.809

6.799

7.872

10.161

14.486

18.553

22.865


47,1

45.2

47,1

50,4

55,0

57,0

58,0

45,4

-0,2

15,8

29,1

42,6

28,1

23,2

- Tỷ trọng


- Tỷ trọng
- Tăng
trưởng (%)

Nguồn: Số liệu của Tổng cục Thống kê và Bộ Thương mại

* Hạn chế:

8

Khúc Ngọc Anh


Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Tốc độ chuyển dịch theo hướng đáp ứng yêu cầu biến đổi của thị trường và xu thế thế giới
diễn ra còn chậm, tỷ trọng hàng thơ, sơ chế vẫn cịn cao. Tỷ trọng nhóm hàng chế biến cơng nghệ
cao cịn q nhỏ bé.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu xuất khẩu nói riêng cịn chưa vững chắc.
Vấn đề cơ cấu kinh tế sẽ còn chứa đựng nhiều nguy cơ làm chậm quá trình tăng trưởng. Trong
những năm qua, quá trình chuyển dịch cơ cấu thị trường ở nước ta diễn ra tương đối tốt. Tuy
nhiên, sự chuyển dịch này chưa được định hướng trên một tầm nhìn dài hạn nên đã bộc lộ những
điểm yếu.
- Việc tập trung quá lớn vào một số thị trường đã làm suy giảm khả năng thực hiện mục tiêu
mở rộng thị trường mới, dẫn tới nguy cơ tự chúng ta đánh mất thị trường, khó có thể phát triển
bền vững và duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong dài hạn.
- Với tỷ trọng nhóm hàng xuất khẩu chế biến hạn chế và chậm thay đổi như hiện nay, việc
tăng trưởng xuất khẩu để cải thiện cán cân thương mại trong ngắn hạn là rất hạn chế. Bởi vì
khơng thể tăng trưởng dựa vào các mặt hàng hạn chế về năng suất, khả năng khai thác, đánh bắt
và phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên liệu nước ngoài.
- Với giá trị gia tăng thấp như hiện nay, nếu không cải thiện năng lực cạnh tranh, chủ động

nguồn nguyên liệu, trình độ cơng nghệ, chất lượng lao động, giảm chi phí trung gian thì rất khó
có thể tạo ra được những đột phá nâng cao chất lượng xuất khẩu và cải thiện cán cân thương mại.
- Việc gia tăng xuất khẩu nhóm hàng công nghệ cao và sử dụng nhiều vốn, trước mắt có thể
cịn rất khó khăn nên phải nhanh chóng có chiến lược thực thi ngay từ bây giờ thì mới có thể
xuất khẩu một cách bền vững và cải thiện cán cân thương mại trong dài hạn.
- Thủ tục hành chính trong vận hành xuất khẩu và xuất khẩu tuy đã được cải tiến nhiều,
nhưng đâu đó vẫn cịn phiền hà, phải "làm luật" mỗi khi vận tải trên đường, ở bến bãi và qua cửa
khẩu.
- Trong thương mại vẫn cịn bị méo mó do can thiệp của các nước lớn. Từ tháng 2-2007, mặt
hàng tôm Việt Nam, khi nhập khẩu vào Nhật, ngoài chất Chloramphenicol sẽ bị kiểm tra bổ sung
100% đối với chất AOZ. Chè Việt Nam có nhiều khả năng mất thị trường EU sau khi Anh và
nhiều nước châu Âu (tháng 5- 2007) thông báo về dư lượng thuốc bảo về thực vật vượt ngưỡng
cho phép nhiều lần. Cơ chế giám sát hàng dệt may Việt Nam mà Hoa Kỳ đang áp dụng đã và sẽ
gây nên những thiệt hại khôn lường. Như vậy rào cản kỹ thuật, rào cản môi trường được xem
như “binh pháp” trong thương mại sẽ là những lá chắn mà thương nhân Việt Nam phải tính đến
mỗi khi xuất ngoại. Trong đó, rào cản chống bán phá giá cũng sẽ là một lực cản khơng dễ gì vượt
qua trong một sớm một chiều.
*Giải pháp:
- Với mỗi thị trường, mỗi mặt hàng xuất khẩu phải có những nghiên cứu và giải pháp thật cụ
thể, rõ ràng.

9

Khúc Ngọc Anh


Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Công tác thị trường ngoài nước và hoạt động của thương vụ Việt Nam tại nước ngồi cần
có những chuyển biến mạnh mẽ nhằm cung cấp kịp thời tình hình chính trị, thị trường, chính
sách, biện pháp quản lý xuất nhập khẩu, rào cản....

- Xóa bỏ những biện pháp mang tính trợ cấp, cần tìm ra các biện pháp hỗ trợ mới. Theo đó,
đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tìm kiếm đối tác, thị
trường mới, mặt hàng mới, thâm nhập các kênh phân phối, tham dự hội chợ, triển lãm... được
xem là những việc cần làm ngay.
- Khả năng bị kiện hay trả đũa có thể sẽ gia tăng trong thời gian tới, vì vậy việc chuẩn bị và
minh bạch hoá sổ sách, kế toán, theo dõi thông tin, phối hợp công bố thông tin, nhân lực am hiểu
luật lệ, vận động hành lang, ngoại giao... sẽ là những vấn đề doanh nghiệp phải chuẩn bị.
- Rà sốt các thủ tục hành chính có ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu của từng ngành hàng,
từng doanh nghiệp... để có biện pháp xử lý kịp thời.
- Xây dựng quy hoạch, chính sách và giải pháp để xây dựng các vùng sản xuất và cung ứng
nguyên liệu tập trung, các vùng sản xuất lớn cho các ngành, doanh nghiệp sản xuất mặt hàng
xuất khẩu.
- Triển khai, phát triển nhanh công nghiệp phụ trợ để hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất
hàng xuất khẩu.
- Xây dựng quy trình và thực thi các biện pháp quyết liệt để kiểm tra chất lượng hàng xuất
khẩu nhằm nâng cao uy tín và chất lượng hàng xuất khẩu Việt Nam.
- Đổi mới nhanh công nghệ, thiết bị, ứng dụng công nghệ sinh học, áp dụng quy trình kỹ
thuật nghiêm ngặt để sản xuất sản phẩm xuất khẩu phù hợp các tiêu chuẩn quốc tế.
- Đẩy mạnh việc xây dựng và quảng bá, đăng ký, bảo vệ thương hiệu nhằm duy trì vị thế của
sản phẩm “Made in Vietnam“ trên trường quốc tế.
- Phát huy vai trò của các sàn giao dịch điện tử để tiết kiệm chi phí, thời gian giao dịch, đẩy
nhanh q trình lưu thơng.
- Phát huy vai trị của Việt kiều trong việc quảng bá cho thương hiệu quốc gia và để hàng
Việt Nam có thể lách chân vào các thị trường khác.
2.Nhập khẩu:
Nhập khẩu trong những năm qua tuy có tăng, nhưng tốc độ chậm dần. Chúng ta tập trung chủ
yếu vào nhập nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất, trong khi đã cố gắng giảm dần tỷ trọng
kim ngạch nhập khẩu hàng tiêu dùng. Một số mặt hàng trước đây vẫn phải nhập khẩu nay đã
được thay thế bằng sản xuất trong nước, nhờ vậy giảm tương đối thâm hụt cán cân thương mại.
Kim ngạch nhập khẩu trong những năm qua cũng đã có thay đổi về cơ cấu. Tỷ trọng hàng tiêu

dùng trong tổng kim ngạch nhập khẩu giảm đáng kể, trong khi tỷ trọng nhóm nguyên nhiên vật
liệu tăng lên nhanh. Thay đổi này phản ảnh chính sách khuyến khích sản xuất trong nước và
giảm nhập khẩu những mặt hàng đã sản xuất trong nước có thể thay thế nhập khẩu được.
Trong giai đoạn 2001-2005, nhập khẩu cũng là nhân tố quan trọng, góp phần đảm bảo cung
cấp cơng nghệ, máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên, nhiên vật liệu phục vụ sản xuất trong nước và
sản xuất hàng xuất khẩu. Kim ngạch nhập khẩu năm 2005 đạt 36,98 tỷ USD. Tốc độ tăng kim
ngạch nhập khẩu so với năm 2004 là 15,7%, là năm có tốc độ tăng kim ngạch thấp nhất trong 4
năm qua (năm 2002 so với năm 2001 là 21,8%, tương tự năm 2003 là 27,9%, năm 2004 là 26,5).
Nhập khẩu dịch vụ cả năm ước đạt 5,3 tỷ USD.
10

Khúc Ngọc Anh


Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Bộ Thương mại cho biết, nhập siêu trong giai đoạn 2001-2005 đạt 19,54 tỷ USD, trong đó
năm 2005 nhập siêu khoảng 4,75 tỷ USD, giảm mạnh so với 5,11 tỷ USD năm 2003 và 5,45 năm
2004. Cũng trong giai đoạn 2001-2005, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ xã hội
đạt 1.648.277 tỷ đồng. Tốc độ tăng bình quân hàng năm là 14,8%, vượt mục tiêu kế hoạch đặt ra
cho giai đoạn này là 11-12%/năm.
Kim ngạch nhập khẩu năm tháng đầu năm 2006 ước đạt 16,0 tỉ đô la Mỹ, tăng 7,3% so với
cùng kỳ năm 2005 và bằng 37,7% kế hoạch cả năm. Cũng giống như xuất khẩu, nhập khẩu của
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi tăng nhanh hơn nhập khẩu chung của cả nước. Tính
chung trị giá nhập siêu về hàng hóa trong năm tháng đầu năm 2006 ở mức 930 triệu đô la Mỹ,
giảm 67% so với cùng kỳ năm 2005 và chỉ bằng 6,2% so với tổng kim ngạch xuất khẩu.(Nguồn
Thời báo Kinh tế Sài Gòn tháng 06/2006)
Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2007ước đạt 60,83 tỷ USD, cũng là mức kỷ lục từ trước tới
nay, tăng tới 35,5% so với năm trước. Đã có 13 mặt hàng đạt kim ngạch từ 1 tỷ USD trở lên:
Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng đạt trên 10 tỷ USD, xăng dầu đạt trên 7 tỷ USD, sắt thép
đạt gần 5 tỷ USD, vải 4 tỷ USD, điện tử máy tính và linh kiện đạt gần 3 tỷ USD.

*Hạn chế
Nhập siêu cao là vấn đề nổi cộm của nền kinh tế nước ta. Chỉ tính riêng q I/2008, tổng giá
trị nhập khẩu hàng hố của cả nước đã lên hơn 20 tỉ USD, trong khi xuất khẩu chỉ khoảng 13 tỉ
USD, khiến lượng nhập siêu lên trên 7 tỉ USD, gấp 3,5 lần so với cùng kỳ năm 2007.Nguyên
nhân của tình trạng này là:
- Nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng cao, đầu tư nước ngoài tăng mạnh. Năm 2006 thu hút đầu
tư nước ngoài đạt mức kỷ lục với nhiều nhà đầu tư lớn, tới năm 2007 con số đó cịn tăng gấp
rưỡi. Một số ngành xuất khẩu mũi nhọn như dệt may, da giày, sản phẩm gỗ, và mới đây là thuỷ
sản và ngành điều, muốn tăng xuất khẩu buộc phải tăng nhập khẩu nguyên liêu. Trong số các
nguyên, phụ liệu phải nhập khẩu có khá nhiều chủng loại chúng ta có thể sản xuất được, nhưng
vì nền cơng nghiệp phụ trợ trong nước còn kém phát triển, nên buộc phải nhập khẩu. Điều này
đúng với cả nhiều ngành sản xuất hàng tiêu thụ nội địa.
- Giá và nhu cầu một số nguyên, vật liệu nhập khẩu “nóng lên”: giá thép thành phẩm tăng
thêm 93 USD/tấn; phôi thép tăng 105 USD/tấn; phân bón tăng 21 USD/tấn; chất dẻo tăng 144
USD/tấn; sợi tăng 151 USD/tấn, kim loại thường khác tăng 469 USD /tấn, kết hợp với nhu cầu
xăng dầu, thép thành phẩm, phân bón, sợi các loại đều tăng mạnh đã đẩy trị giá nhập khẩu tăng
thêm khoảng trên 7 tỉ USD. Trong khi đó, chúng ta khơng có mặt hàng nào tận dụng cơ hội này
xuất khẩu đối ứng để “hạ nhiệt” nhập khẩu và nhập siêu.
- Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thấp hơn tốc độ tăng trưởng nhập khẩu. Nhập siêu là hiệu số
của kim ngạch nhập khẩu trừ (-) kim ngạch xuất khẩu và tỷ lệ nhập siêu là thương số của trị giá
nhập siêu với kim ngạch xuất khẩu. Mấy năm trước đây, xuất khẩu thường tăng nhanh hơn nhập
khẩu, nhưng năm nay chẳng những không cùng tăng ở thế đồng hành, mà lại đổi ngôi nên kết
cục trên là không tránh khỏi.

11

Khúc Ngọc Anh


Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

- Ảnh hưởng của việc cắt giảm thuế nhập khẩu và nhu cầu tiêu dùng cao, nhất là tâm lý
“sính” tiêu xài hàng ngoại khiến cho dịng hàng nhập khẩu càng có điều kiện đổ vào Việt Nam.
Tuy vậy, kim ngạch nhập khẩu hàng tiêu dùng mới chỉ chiếm khoảng 3% tổng kim ngạch xuất
khẩu, nghĩa là kim ngạch nhập khẩu máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên, phụ liệu chiếm tuyệt đại
bộ phận trong cấu thành nhập khẩu, nên chúng ta có thể yên tâm rằng, tuy nhập khẩu tăng (điều
tất yếu trong giai đoạn cơng nghiệp hố, hiện đại hố, tích cực thu hút đầu tư nước ngoài, chuyển
dịch cơ cấu sản suất hướng tới xuất khẩu), nhưng là sự tăng lành mạnh. Về lâu dài, khi trình độ
sản xuất trong nước khá lên, xu hướng trên vẫn tiếp diễn, chỉ có thay đổi cơ cấu nhập khẩu theo
hướng hàm lượng nhập khẩu cơng nghệ cao tăng lên, nhằm theo kịp trình độ của thế giới.
*Giải pháp
Trước tình hình này, Bộ Cơng thương đã đề ra sáu giải pháp cơ bản để kiềm chế nhập siêu
trong năm 2008.
- Đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu
những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, tăng sản xuất chế biến, chế tạo các mặt hàng có lượng
cơng nghệ và chất xám cao…
- Phát triển sản xuất các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, nghành công nghiệp phụ trợ thay thế
hàng nhập khẩu. Bộ Cơng thương đề nghị các tập đồn, các Tổng Công ty Nhà nước, các doanh
nghiệp đẩy nhanh tiến độ xây dựng, sớm đưa các dự án đầu tư về điện, phân bón, thép, cơ khí,
dệt may... vào sản xuất nhằm thay thế các mặt hàng nhập khẩu, góp phần giảm nhập siêu.
Bộ đang tập hợp kiến nghị của các doan nghiệp đề nghị Chính phủ xem xét, có cơ chế
khuyến khích tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước được tham gia với tỷ lệ ngày càng
cao hơn trong xây lắp và cung cấp thiết bị đối với các cơng trình, dự án lớn (ví dụ cơ chế lựa
chọn nhà thầu, phương thức mua sắm...)
- Nghiên cứu xây dựng các biện pháp và tiêu chuẩn kỹ thuật đối với thương mại, nhằm bảo
vệ sản phẩm trong nước khỏi sự cạnh tranh không công bằng trên thị trường trong nước, phù hợp
với các quy định của WTO và Hiệp định quốc tế mà VN ký kết.
- Kiến nghị Chính phủ các giải pháp về tiền tệ, tài chính để thu hút vốn đầu tư nước ngoài,
đảm bảo đủ vật tư nguyên liệu, thiết bị cho sản xuất.
- Chống lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản, trong tiêu dùng và sử dụng hợp lý nguồn tài
nguyên trong nước.

Giải pháp cuối cùng là tiếp tục thực hiện các biện pháp bình ổn thị trường, cân đối cung cầu
hàng hóa.
Bộ Cơng thương đang chỉ đạo các đơn vị có liên quan kế hoạch thực hiện đề án đẩy mạnh
tuyên truyền, vận động rộng rãi trong xã hội việc sử dụng hàng Việt Nam. Đây cũng là biện pháp
hữu hiệu góp phần giảm nhập siêu.(Theo VnMedia)

12

Khúc Ngọc Anh


Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Việc Việt Nam gia nhập WTO là một chủ trương đúng đắn. Các doanh nghiệp có điều kiện
chủ động nắm bắt thời cơ, mở rộng thị trường xuất khẩu, được hưởng mức thuế thấp, được đối
xử bình đẳng và có nhiều sự lựa chọn khi nhập khẩu; vốn đầu tư nước ngoài thu hút được nhiều
hơn, phát huy các lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên, nhân cơng, tài ngun, vị trí địa lý, nâng
cao năng lực của nền kinh tế, đặc biệt đối với sản xuất hàng xuất khẩu, từ đó tác động tích cực
đến xuất khẩu, vị thế, hình ảnh Việt Nam trên thương trường quốc tế.
Dưới sức ép của tồn cầu hố kinh tế, cạnh tranh ngày càng gay gắt, ngày càng xuất hiện
nhiều hình thức rào cản thương mại mới, tinh vi như áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an
toàn thực phẩm hay các biện pháp chống bán phá giá, do đó, một mặt, chúng ta phải nâng cao
năng lực của nền kinh tế, của từng doanh nghiệp, đồng thời cần nâng cao khả năng nhận biết sớm
các rào cản đó để kịp thời ứng phó nhằm đạt được sự cơng bằng trong quan hệ thương mại quốc
tế.
Theo xu thế chung, thể chế kinh tế nói chung và ngoại thương nói riêng sẽ tiếp tục được
minh bạch trong mơi trường chính trị - xã hội ổn định. Do đó sự chỉ đạo sát sao cùng với điều
hành nhất quán của các bộ, ngành, với sự tham gia của các hiệp hội ngành hàng; trong đó khuyến
khích khả năng sáng tạo của cộng đồng doanh nghiệp. Cải cách hành chính cần được tiếp tục đẩy
mạnh để giúp các doanh nghiệp giảm phí, thời gian, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, khả
năng cạnh tranh, tạo ra nhiều tích luỹ ban đầu, chuẩn bị cho những bước tiến mới.

II.Đầu tư quốc tế.
Đầu tư quốc tế là một hình thức cơ bản của quan hệ kinh tế đối ngoại. Nó là q trình trong
đó hai hay nhiều bên (có quốc tịch khác nhau) cùng góp vốn để xây dựng và triển khai một dự án
đầu tư quốc tế nhằm mục đích sinh lợi.Có hai loại hình đầu tư quốc tế là: đầu tư trực tiếp và đầu
tư gián tiếp.
1. Đầu tư trực tiếp:
Là hình thức đầu tư mà quyền sở hữu là quyền sử dụng vốn của người đầu tư thống nhất với
nhau, tức là người có vốn đầu tư trực tiếp tham gia vào việc tổ chức, quản lý và điều hành dự án
đầu tư, chịu trách nhiệm về kết quả, rủi ro trong kinh doanh và thu lợi nhuận.
Các hình thức đầu tư trực tiếp: Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư trong
nước hoặc 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài; Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các
nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngồi; Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC, hợp
đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng BT; Đầu tư phát triển kinh doanh; Mua cổ phần hoặc góp
vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư; Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh
nghiệp; Các hình thức đầu tư trực tiếp khác.
a.Tình đình đầu thư trực tiếp nước ngoài (ĐTNN) vào Việt Nam
Trước đổi mới Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng nề bởi chiến
tranh, nền kinh tế ở tình trạng kém phát triển, sản xuất nhỏ, mang nặng tính chất tự cấp tự túc, cơ
chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng,
mức lạm phát lên tới trên 700% vào năm 1986, sản xuất đình trệ, cơ sở kỹ thuật lạc hậu và lâm
13

Khúc Ngọc Anh


Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
vào tình trạng thiếu vốn trầm trọng. Để khôi phục và phát triển kinh tế-xã hội, Đảng ta đã chủ
trương mở cửa nền kinh tế, thực hiện cơng cuộc “đổi mới” tồn diện, trong đó có việc hồn
thiện, nâng Điều lệ Đầu tư năm 1977 thành bộ Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987,
đã khẳng định sự đúng đắn của chủ trương, đường lối mở cửa nền kinh tế của Đảng, góp phần

quan trọng vào thành cơng của sự nghiệp đổi mới trong chặng đường vừa qua.Sự ra đời của Luật
Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã tạo môi trường pháp lý cao hơn để thu hút vốn
ĐTNN vào Việt Nam. Luật này đã bổ sung và chi tiết hố các lĩnh vực cần khuyến khích kêu gọi
đầu tư cho phù hợp với hoàn cảnh mới.
Thời kỳ 1988-1990 việc tăng vốn đầu tư hầu như chưa có do số lượng doanh nghiệp ĐTNN
cịn ít. Từ số vốn đầu tư tăng thêm đạt 2,13 tỷ USD trong 5 năm 1991-1995 thì ở giai đoạn 19962000 đã tăng gần gấp đôi so với 5 năm trước (4,17 tỷ USD). Giai đoạn 2001-2005 vốn đầu tư
tăng thêm đạt 7,08 tỷ USD (vượt 18% so dự kiến là 6 tỷ USD) tăng 69% so với 5 năm trước.
Trong đó, lượng vốn đầu tư tăng thêm vượt con số 1 tỷ USD bắt đầu từ năm 2002 và từ năm
2004 đến 2007 vốn tăng thêm mỗi năm đạt trên 2 tỷ USD, mỗi năm trung bình tăng 35%.Vốn
tăng thêm chủ yếu tập trung vào các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất công nghiệp và xây dựng, đạt
khoảng 40,6% trong giai đoạn 1991-1995 ; 65,7% trong giai đoạn 1996-2000, khoảng 77,3%
trong thời kỳ 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 80,17% và 79,1% tổng
vốn tăng thêm.
Việc tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất thực hiện chủ yếu tại các vùng kinh tế trọng điểm nơi
tập trung nhiều dự án có vốn ĐTNN: Vùng trọng điểm phía Nam chiếm 55,5% trong giai đoạn
1991-1995 ; đạt 68,1% trong thời kỳ 1996-2000 và 71,5% trong giai đoạn 2001-2005. Trong 2
năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 71% và 65%. Vùng trọng điểm phía Bắc có tỷ lệ tương
ứng là 36,7%; 20,4% ; 21,1% ; 24% và 20%.
Diễn đàn Liên hiệp quốc tế về thương mại và phát triển (UNCTAD) vừa công bố báo cáo về
đầu tư thế giới (WIR) 2007 đã đưa ra một dự báo lạc quan: Việt Nam được xếp thứ 6 trong top
10 nền kinh tế hấp dẫn nhất về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Đánh giá của
UNCTAD hoàn toàn phù hợp với tình hình diễn biến đầu tư FDI tại Việt Nam năm 2007. Riêng
9 tháng đầu năm nay, cả nước đã thu hút được 13 tỷ USD, vượt qua con số 10,2 tỷ USD của năm
2006. Điều này chứng tỏ sự tin tưởng và an tâm của nhà ĐTNN vào môi trường đầu tư-kinh
doanh tại Việt Nam.
- Trong lĩnh vực cơng nghiệp và xây dựng

Tính đến hết năm 2007, lĩnh vực cơng nghiệp và xây dựng có tỷ trọng lớn nhất với 5.745 dự
án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 50 tỷ USD, chiếm 66,8% về số dự án, 61% tổng vốn đăng
ký và 68,5% vốn thực hiện.

STT Chuyên ngành
1 CN dầu khí

Số dự
án
38

2 CN nhẹ

2,542

3 CNnặng

2,404

4 CN thực phẩm
5 Xây dựng

310
451

Vốn đầu tư
(USD)
3,861,511,815

Vốn thực hiện
(USD)
5,148,473,303

13,268,720,90

8
23,976,819,33
2
3,621,835,550
5,301,060,927

3,639,419,314

14

7,049,365,865
2,058,406,260
2,146,923,027
Khúc Ngọc Anh


Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Tổng số

5,74
5

50,029,948,53
2

20,042,587,769

- Trong lĩnh vực dịch vụ:

Trong khu vực dịch vụ ĐTNN tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động sản, bao gồm: xây

dựng căn hộ, văn phịng, phát triển khu đơ thị mới, kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp (42%
tổng vốn ĐTNN trong khu vực dịch vụ), du lịch-khách sạn (24%), giao thông vận tải-bưu điện
(18%) (xem bảng).
TT
1
2
3
4
5
6
7
8

Chuyên ngành
Giao thông vận tải-Bưu điện
(bao gồm cả dịch vụ logicstics)
Du lịch - Khách sạn
Xây dựng văn phòng, căn hộ để
bán và cho thuê
Phát triển khu đơ thị mới
Kinh doanh hạ tầng KCN-KCX
Tài chính – ngân hàng
Văn hoá - y tế – giáo dục
Dịch vụ khác (giám định, tư vấn,
trợ giúp pháp lý, nghiên cứu thị
trường...)
Tổng cộng

Số
dự án

208
223
153
9
28
66
271

Vốn đầu tư
(triệu USD)
4.287

Đầu tư đã
thực hiện
(triệu USD)
721

5.883
9.262

2.401
1.892

3.477
1.406
897
1.248
2.145

283

576
714
367
445

28.609

7.399

954
1.912

Trong năm 2007 tuy vốn đầu tư đăng ký tiếp tục tập trung vào lĩnh vực công nghiệp (50,6%),
nhưng đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư mạnh vào lĩnh vực dịch vụ, chiếm 47,7% tổng vốn
đăng ký của cả nước, tăng 16,5% so với năm 2006 (31,19%) với nhiều dự án xây dựng cảng
biển, kinh doanh bất động sản, xây dựng khu vui chơi, giải trí.v.v...
- Trong lĩnh vực nơng- lâm- ngư nghiệp

Cho đến nay, đã có 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào ngành nơng-lâm-ngư
nghiệp nước ta, trong đó, các nước châu Á ( Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc, Hồng Kông,..)
chiếm 60% tổng vốn đăng ký vào ngành nông nghiệp (riêng Đài Loan là 28%). Các nước thuộc
EU đầu tư vào Việt Nam đáng kể nhất gồm có Pháp (8%), quần đảo British Virgin Islands
(11%). Một số nước có ngành nơng nghiệp phát triển mạnh (Hoa Kỳ, Canada, Australi)a vẫn
chưa thực sự đầu tư vào ngành nông nghiệp nước ta. Các dự án ĐTNN trong ngành nông-lâmngư nghiệp tập trung chủ yếu ở phía Nam. Vùng Đơng Nam Bộ chiếm 54% tổng vốn đăng ký
của ngành, đồng bằng sông Cửu Long 13%, duyên hải Nam Trung Bộ 15%. Miền Bắc và khu
vực miền Trung, lượng vốn đầu tư còn rất thấp, ngay như vùng đồng bằng sông Hồng lượng vốn
đăng ký cũng chỉ đạt 5% so với tổng vốn đăng ký của cả nước.
STT
1


Nông,lâm,ngư
Số dự án
nghiệp
Nông-Lâm
nghiệp
803
15

Vốn đăng ký
Vốn thực hiện
(USD)
(USD)
4,014,8
1,856,71
33,499
0,521
Khúc Ngọc Anh


Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
450,1
2

Thủy sản

130

87,779

169,82

2,132

4,465,0
Tổng số

933

21,278

2,026,53
2,653

b, Các đối tác đầu tư vào nước ta
Qua 20 năm đã có 81 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký
trên 83 tỷ USD. Trong đó, các nước Châu Á chiếm 69%, trong đó khối ASEAN chiếm 19% tổng
vốn đăng ký. Các nước châu Âu chiếm 24%, trong đó EU chiếm 10%. Các nước Châu Mỹ chiếm
5%, riêng Hoa Kỳ chiếm 3,6%. Tuy nhiên, nếu tính cả số vốn đầu tư từ các chi nhánh tại nước
thứ 3 của các nhà đầu tư Hoa Kỳ thì vốn đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam sẽ đạt con số trên 3 tỷ
USD, đứng vị trí thứ 5 trong tổng số 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam.
Hiện đã có 15 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vốn đăng ký cam kết trên 1 tỷ USD tại Việt
Nam (xem Phụ lục). Đứng đầu là Hàn Quốc vốn đăng ký 13,5 tỷ USD, thứ 2 là Singapore 10,7 tỷ
USD, thứ 3 là Đài loan 10,5 tỷ USD (đồng thời cũng đứng thứ 3 trong giải ngân vốn đạt 3,07 tỷ
USD), thứ 4 là Nhật Bản 9,03 tỷ USD. Nhưng nếu tính về vốn thực hiện thì Nhật Bản đứng đầu
với vốn giải ngân đạt gần 5 tỷ USD, tiếp theo là Singapore đứng thứ 2 đạt 3,8 tỷ USD. Hàn Quốc
đứng thứ 4 với vốn giải ngân đạt 2,7 tỷ USD.
. c, Tác động của ĐTNN vào Việt Nam:
Về mặt kinh tế:
- ĐTNN là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển
xã hội và tăng trưởng kinh tế:
Đóng góp của ĐTNN trong tổng vốn đầu tư xã hội có biến động lớn, từ tỷ trọng chiếm 13,1%

vào năm 1990 đã tăng lên mức 32,3% trong năm 1995. Tỷ lệ này đã giảm dần trong giai đoạn
1996-2000, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính khu vực và trong 5 năm 2001-2005 chiếm
khoảng 16% tổng vốn đầu tư xã hội; hai năm 2006-2007 chiếm khoảng 16%.
Vốn ĐTNN đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Từ năm 1991-2000, GDP
tăng liên tục qua các năm với tốc động tăng bình quân mỗi năm 7,56%. Nhờ vậy, đến năm 2000
tổng sản phẩm trong nước tăng gấp hơn 2 lần năm 1990. 5 năm 2001-2005: tốc độ tăng GDP đạt
7,5%.Năm 2006 đạt 8,17% và Năm 2007 đạt 8,48%.
- ĐTNN góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, nâng cao năng lực sản
xuất công nghiệp:
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cao hơn mức tăng trưởng
cơng nghiệp chung của cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), tăng tỷ trọng của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong
ngành cơng nghiệp qua các năm (từ 23,79% vào năm 1991 lên 40% năm 2004, 41% năm 2005
và năm 2006). Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong 5 năm qua
chiếm trung bình 42,5% giá trị sản xuất cơng nghiệp của cả nước. ĐTNN đã tạo ra nhiều ngành
công nghiệp mới và tăng cường năng lực của nhiều ngành cơng nghiệp như dầu khí, cơng nghệ
thơng tin, hóa chất, ô tô, xe máy, thép, điện tử và điện tử gia dụng, công nghiệp chế biến nông
sản thực phẩm, da giày, dệt may
- ĐTNN thúc đẩy chuyển giao công nghệ:
16

Khúc Ngọc Anh


Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
ĐTNN góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam, phát triển một số
ngành kinh tế quan trọng của đất nước như viễn thơng, thăm dị và khai thác dầu khí, hố chất,
cơ khí chế tạo điện tử, tin học, ô tô, xe máy...Trong nông-lâm-ngư nghiệp, ĐTNN đã tạo ra một
số sản phẩm mới có hàm lượng kỹ thuật cao và các cây, con giống mới.
- Tác động lan tỏa của ĐTNN đến các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế:

ĐTNN có tác động lan tỏa đến các thành phần khác của nền kinh tế thông qua sự liên kết
giữa doanh nghiệp có vốn ĐTNN với các doanh nghiệp trong nước, công nghệ và năng lực kinh
doanh được chuyển giao từ doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Mặt khác, các doanh nghiệp ĐTNN
cũng tạo động lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước nhằm thích ứng trong bối cảnh
tồn cầu hóa.
- ĐTNN đóng góp đáng kể vào NSNN và các cân đối vĩ mô:
Cùng với sự phát triển các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam, mức đóng góp của khu
vực kinh tế có vốn ĐTNN vào ngân sách ngày càng tăng. Thời kỳ 1996-2000, không kể thu từ
dầu thô, các doanh nghiệp ĐTNN đã nộp ngân sách đạt 1,49 tỷ USD, gấp 4,5 lần 5 năm trước.
Trong 5 năm 2001-2005, thu ngân sách trong khối doanh nghiệp ĐTNN đạt hơn 3,6 tỷ USD,
tăng bình quân 24%/năm. Riêng 2 năm 2006 và 2007 khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã nộp
ngân sách đạt trên 3 tỷ USD, gấp đôi thời kỳ 1996-2000 và bằng 83% thời kỳ 2001-2005.
- ĐTNN góp phần giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế quốc tế:
ĐTNN chiếm một tỷ trọng cao trong xuất khẩu một số sản phẩm: 100% dầu khí, 84% hàng
điện tử, máy tính và linh kiện, 42% sản phẩm da giày, 35% hàng may mặc… Thơng qua mạng
lưới tiêu thụ của các tập đồn xuyên quốc gia, nhiều sản phẩm sản xuất tại Việt Nam đã tiếp cận
được với các thị trường trên thế giới. ĐTNN cịn góp phần đưa nền kinh tế nước ta từng bước hội
nhập với kinh tế thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Về mặt xã hội:
- ĐTNN góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm, tăng năng suất lao động, cải thiện
nguồn nhân lực:
Đến nay, khu vực có vốn ĐTNN đã tạo ra việc làm cho trên 1,2 triệu lao động trực tiếp và
hàng triệu lao động gián tiếp khác theo kết quả điều tra của WB cứ 1 lao động trực tiếp sẽ tạo
việc làm cho từ 2-3 lao động gián tiếp phục vụ trong khu vực dịch vụ và xây dựng, góp phần
nâng cao phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống một bộ phận trong cộng đồng dân cư, đưa mức GDP
đầu người tăng lên hàng năm, thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới công
nghệ, phương thức quản lý để nâng cao hơn chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ
trên thị trường trong nước và quốc tế.
- ĐTNN góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế
giới:

ĐTNN đã góp phần quan trọng trong việc xóa bỏ cấm vận của Hoa Kỳ đối với Việt Nam, tạo
điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế theo hướng đa phương hóa và đa dạng hóa, thúc đẩy
Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương
mại và đầu tư.
*Hạn chế
- Sự mất cân đối về ngành nghề, vùng lãnh thổ:
17

Khúc Ngọc Anh


Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Mục đích cao nhất của các nhà đầu tư là lợi nhuận. Do đó những lĩnh vực, ngành,nghề dự án
có tỷ suất lợi nhuận cao đều được các nhà đầu tư quan tâm, còn những dự án, lĩnh vực mặc dù rất
cần thiết cho dân sinh, nhưng không đưa lại lợi nhuận thỏa đáng thì khơng thu hút được đầu tư
nước ngồi.
- Tranh chấp lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chưa được giải quyết
Các tranh chấp lao động là khó tránh, khi người chủ thường trả cơng cho người lao động thấp
hơn cái mà họ đáng được hưởng, không thỏa đánh với nhu cầu của người lao động dẫn đến mâu
thuẫn giữa chủ sử dụng lao động và người lao động, dẫn đến tình trạng đình cơng bãi cơng làm
thiệt hại cho doanh nghiệp.
- Sự yếu kém trong chuyển giao công nghệ
Một số trường hợp các nhà ĐTNN đã lợi dụng sơ hở của pháp luật Việt cũng như sự yếu kém
trong kiểm tra giám sát tại các cửa khẩu nên đã nhập vào Việt Nam một số máy móc thiết bị có
cơng nghệ lạc hậu thậm chí là những phế thải của các nước khác. Tính phổ biến của việc nhập
máy móc thiết bị là giá cả đươc ghi trong hóa đơn thường cao hơn giá trung bình của thị trường
thế giới. Nhờ vậy một số nhà ĐTNN có thể lợi dụng để khai tăng tỷ lệ góp vốn trong các liên
doanh với Việt Nam.
d, Giải pháp
- Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu; điều chỉnh các quy

hoạch đã lạc hậu tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác định và xây dựng dự án.
- Sửa đổi hoặc loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với cam kết của
Việt Nam với WTO và có giải pháp đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư liên quan
- Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tư tiềm năng có nhu cầu đầu tư vào Việt Nam.
- Tiến hành tổng rà sốt, điểu chỉnh, phê duyệt và cơng bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng
đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng
- Đẩy nhanh việc triển khai kế hoạch tổng thể về đào tạo nhằm nâng tỷ lệ lao động qua đào
tạo lên 40% vào năm 2010.
- Đơn giản hóa và cơng khai quy trình, thủ tục hành chính đối với đầu tư nước ngoài, thực
hiện cơ chế "một cửa" trong việc giải quyết thủ tục đầu tư.
- Tiếp tục nâng cao hiệu quả việc chống tham nhũng, tiêu cực và tình trạng nhũng nhiễu đối
với nhà đầu tư. Đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân trong xử lý cơng việc, thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí ở các cơ quan quản lý nhà nước.
2.Đầu tư gián tiếp:
Là loại hình đầu tư mà quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng vốn đầu tư, tức là người có vốn
khơng trực tiếp tham gia vào việc tổ chức, điều hành dự án mà thu lợi dưới hình thức lợi tức cho
vay, hoặc thu lợi tức cổ phần, hoặc có thể khơng thu lợi trực tiếp.
Các hình thức đầu tư gián tiếp: Viện trợ hồn lại, viện trợ khơng hồn lại, cho vay ưu đãi
hoặc không ưu đãi, mua cổ phiếu và các chứng khoàn theo quy định của từng nước.Trong các
nguồn vốn đầu tư gián tiếp, một trong những bộ phận quan trọng là viện trợ phát triển chính thức
ODA của Chính phủ một số nước có nền kinh tế phát triển. Nguồn vốn này giúp phát triển các
vấn đề kinh tế xã hội tuy nhiên nó cũng có mặt trái, vì vậy cần đề phịng trong việc ký kết, triển
khai...
18

Khúc Ngọc Anh


Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Hiện nay, 25% nguồn vốn ODA của WB vào Việt Nam không kèm theo điều kiện. Nguồn

vốn này được sử dụng cho chương trình 135. Năm 2006, giải ngân nguồn vốn hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA) của Việt Nam dự kiến sẽ đạt 1,78 tỷ USD, cao hơn mức kế hoạch (1,75 tỷ
USD). Việt Nam có thể ký kết khoảng 3,066 tỷ USD vốn ODA; trong đó vốn vay đạt 2,543 tỷ
USD và vốn viện trợ khơng hồn lại 522,4 triệu USD.
Hội nghị CG 2007 kết thúc với mức cam kết viện trợ kỷ lục giành cho Việt Nam, đạt 5,426 tỷ
USD, tăng hơn 20% so với năm 2006. Trong đó, cam kết viện trợ song phương đạt hơn 2,6 tỷ
USD, cam kết đa phương đạt hơn 2,55 tỷ USD và cam kết của các tổ chức phi chính phủ quốc tế
là 250 triệu USD. Ngân hàng phát triển châu Á ADB, Nhật Bản và Ngân hàng thế giới là những
nhà tài trợ lớn nhất cho Việt Nam với hơn 1 tỷ USD tài trợ. Năm 2007, lần đầu tiên kết quả giải
ngân ODA tại VN đã vượt dự kiến đề ra, tăng trên 10% so với năm 2006. Mức giải ngân này tiến
tới mức trung bình của thế giới. "Đối với Ngân hàng thế giới, Việt Nam là nước sử dụng ODA
hiệu quả nhất, đem lại lợi ích cho người dân".Thời gian qua, Chính phủ Việt Nam đã áp dụng mơ
hình quản lý ODA cho một số dự án trong nước, đưa thủ tục của Việt Nam gần với thủ tục của
các nhà tài trợ, đạt chuẩn quốc tế.
Tuy nhiên tốc độ giải ngân nguồn vốn vẫn còn chậm, đặc biệt trong việc thơng qua dự án. Có
những dự án mặc dù được phân cấp về địa phương nhưng vẫn phải xin ý kiến trung ương, làm
chậm quá trình giải ngân. Riêng với các dự án cơ sở hạ tầng, chiếm hơn 50% nguồn vốn ODA,
thường mất nhiều thời gian hơn do tính chất đặc thù của loại hình dự án này. Các dự án cơ sở hạ
tầng bản thân thời gian cam kết cũng dài hơn các dự án khác.
III. Các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ, du lịch quốc tế.
1. Du lịch quốc tế:
Du lịch là nhu cầu khách quan, vốn có của con người.Phát triển ngành du lịch quốc tế sẽ
phát huy được lợi thế của Việt Nam về cảnh thiên nhiên, về nhiều loại hình lao động mang tính
dân tộc, truyền thống.
Theo thống kê năm 2006, du lịch Việt Nam(DLVN) đã đón được 3,585 triệu lượt khách quốc
tế, 17,5 triệu lượt khách nội địa, đạt tổng doanh thu toàn xã hội từ du lịch là 51.000 tỉ đồng (tính
cả mức chi tiêu của khách du lịch). Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam năm 2007 đạt 4,171
triệu lượt khách, tăng 16,4% so với năm 2006. DLVN đã có “bước chuyển” quan trọng, được Tổ
chức Du lịch thế giới đánh giá là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng du lịch cao nhất
trong khu vực. Mới đây, DLVN được Hội đồng Du lịch và Lữ hành thế giới xếp thứ 7/174 nước

về tăng trưởng lượng khách. Không những thế, Việt Nam được thế giới đánh giá là “điểm đến an
toàn và thân thiện” nhất trong khu vực và xếp vào 1 trong 10 điểm du lịch hấp dẫn nhất thế
giới.Đây là những điều kiện lý tưởng để thúc đẩy phát triển du lịch, nhất là trong bối cảnh Việt
Nam hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.
Tuy nhiên, để tạo ra một “sân chơi” thực sự hấp dẫn, thời gian tới, ngành du lịch sẽ tập trung
phát triển một số loại hình du lịch, như MICE, Caravan, thể thao mạo hiểm (golf, leo núi, lặn
biển, motor…), hướng vào từng thị trường, từng nhóm đối tượng cụ thể.
Công tác xúc tiến, quảng bá du lịch thời gian qua được chính ngành du lịch đánh giá là “tụt
hậu quá xa” so với thế giới. Chúng ta không chỉ phát triển du lịch chậm hơn các nước láng giềng
như Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Singapore... tới vài thập kỷ, mà thương hiệu du lịch cũng
19

Khúc Ngọc Anh


Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
mới bắt đầu được hình thành. Bên cạnh đó là vơ vàn thách thức về cơ sở hạ tầng, sản phẩm du
lịch, năng lực cạnh tranh...Trong khi các nước xung quanh đã có những chiến lược tiếp thị,
quảng bá du lịch rất bài bản, thì DLVN vẫn đang luẩn quẩn về cơ chế, chính sách, về kinh phí, về
sự phối hợp liên ngành… Như vậy, bên cạnh việc xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp làm
công tác xúc tiến quảng bá du lịch, cần nâng cao năng lực quản lý ngành. Ngoài ra, cũng cần tích
cực tham gia vào các sự kiện du lịch quốc tế để quảng bá hình ảnh Việt Nam; đa dạng hóa
phương thức quảng bá du lịch; chủ động tạo sự kiện, thu hút khách quốc tế. Nhưng quan trọng
nhất vẫn là phải nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, chất lượng dịch vụ… để khẳng định
thương hiệu DLVN.
2.Vận tải quốc tế:
Vận tải quốc tế là hình thức chuyên chở hàng hóa và hành khách giữa hai nước hoặc nhiều
nước. Vận tải quốc tế có tác dụng làm tăng nguồn thu ngoại tệ thông qua vận tải và tiết kiệm chi
ngoại tệ.
Vận tải quốc tế sử dụng các phương thức như: đường biển, đường sắt, đường bộ, đường hàng

khơng...trong đó vận tải đường biển có vai trị quan trọng nhất. Việt Nam có một vị trí quan
trọng, có nhiều hải cảng thuận lợi cho vận chuyển đường biển. Theo Cục Hàng hải VN ngày
17.12, sản lượng vận tải biển năm 2007 ước đạt 59.376.000 tấn hàng hoá, tăng 20% so với năm
2006. Trong đó, container đạt 1.347.000 TEU, tăng 21%, vận tải nước ngoài đạt 44.286.000 tấn
và vận tải trong nước đạt 15.090.000 tấn. Năm 2008, toàn ngành phấn đấu tăng sản lượng vận tải
20% so với năm 2007 - tương đương với 70,8 triệu tấn. Tuy nhiên, sản lượng vận tải của đội tàu
VN mới chiếm khoảng 20 - 30% lượng hàng hoá XNK.
3. Xuất khẩu lao động ra nước ngoài và tại chỗ.
Xuất khẩu lao động ra nước ngoài thực ra đã được nhà nước ta quan tâm từ lâu. Ngay vào
đầu thập niên 80, Việt Nam bắt đầu thực hiện các hoạt động xuất khẩu lao động. Trong giai đoạn
10 năm đầu (1980-1990) chương trình được thực hiện theo cơ chế ban cấp thông qua các hiệp
định ký song phương với các nước XHCN. Từ cuối năm 1991 đến nay, cùng với chính sách đổi
mới và mở rộng quan hệ quốc tế với bên ngoài, hoạt động xuất khẩu lao động đã chuyển sang cơ
chế thị trường với quy mô lớn hơn. Nơi tập trung nhiều nhất lao động hiện nay là Hàn Quốc,
Nhật Bản, ĐàiLoan, Cơ-t, Lybia, Lào. Các ngành nghề ở nước ngồi thu hút nhiều nhất lao
động Việt Nam là xây dựng, hàng hải, dệt may, cơ khí, và giúp việc gia đình.
Theo số liệu của Cục quản lý lao động nước ngồi thuộc Bộ LĐ-TBXH, tính đến thời điểm
cuối năm 2006, nước ta đã có hơn 420.000 lao động có mặt trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ
khác nhau trên thế giới.
Đây là một con số không nhỏ, khả quan về hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam trên
thị trường lao động quốc tế. Với một số lượng lao động lớn như vậy, hằng năm đã mang lại một
nguồn thu nhập rất lớn bằng ngoại tệ mạnh góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời cải
thiện đời sống của nhiều gia đình. Đối với người lao động, mức lương trung bình 300500USD/tháng, bình quân hàng năm mỗi lao động làm việc ở nước ngoài tiết kiệm được khoảng
4000 USD, góp phần giúp đỡ cho gia đình, cộng đồng và quê hương. Ngoài ra, bản thân người
20

Khúc Ngọc Anh


Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

lao động còn tiếp thu học hỏi được nhiều kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công
nghiệp, lối sống văn minh, tiếp nhận các giá trị xã hội mới. Đây là những cái được cần phát huy.
Tuy nhiên, lao động Việt Nam cũng có những nhược điểm căn bản như trình độ ngoại ngữ,
tay nghề, ý thức kỷ luật, trách nhiệm trong công việc còn kém so với lao động từ nhiều nước
khác. Về mặt tổ chức, công tác tuyển chọn và đào tạo trước khi đi làm việc ở nước ngoài chưa
được thực hiện tốt dẫn đến nhiều tiêu cực. Tình trạng lao động Việt Nam bị bỏ rơi sau khi đặt
chân đến nước bạn, hoặc bị trả về trước thời hạn do không đáp ứng được nhu cầu của bên sử
dụng lao động hoặc do phá hợp đồng diễn ra thường xuyên trên thực tế. Hoạt động xuất khẩu lao
động của nước ta gặp nhiều khó khăn hơn do sự khốc liệt của thị trường quốc tế. Lao động Việt
Nam giờ đây phải cạnh tranh với ngay chính các lao động đến từ các nước trong khu vực như
Inđơnêxia, Băng-la-đét, Philípin. Các thị trường tiếp nhận lao động trên thế giới trở nên “khó
tính” hơn, thận trọng hơn, trong khi tiền lương tối thiểu cho người lao động ngày càng giảm sút
trong bối cảnh cạnh tranh, tồn cầu hố.
Như vậy để đẩy mạnh xuất khẩu lao động cần chú ý: Tăng cường khai thác, mở rộng thị
trường lao động, đẩy mạnh công tác đào tạo tay nghề cho công nhân theo nhu cầu của thị trường.
4. Các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ khác.
Ngoài những hoạt động trên, lĩnh vực kinh tế đối ngoại cịn có nhiều hoạt động dịch vụ thu
ngoại tệ khác như dịch vụ thu bảo hiểm, dịch vụ thông tin bưu điện, dịch vụ ăn uống, dịch vụ tư
vấn...
Hoạt động xuất nhập khẩu dịch vụ bảo hiểm chủ yếu là các dịch vụ bảo hiểm hàng hoá, phi
nhân thọ, tái bảo hiểm. Giá trị xuất nhập khẩu bảo hiểm nhân thọ rất nhỏ bé. Xuất khẩu dịch vụ
bảo hiểm hàng hoá hiện nay cũng chỉ đạt khoảng 0,5 triệu USD và nhập khẩu trên 4,6 triệu USD.
Giá trị nhập khẩu tái bảo hiểm khoảng 10,7 triệu USD. Các ngân hàng, nhất là khối thương mại
cổ phần đang ra sức khai thác các dịch vụ, sản phẩm kiều hối, như chuyển, nhận tiền tận nhà,
thông qua thẻ ATM... Để thu hút được lượng kiều hối từ các nước trên thế giới “chảy” về Việt
Nam và chảy về ngân hàng, các ngân hàng đang cạnh tranh nhau về phí chuyển tiền, thậm chí,
nhiều ngân hàng đã giảm phí đến mức tối đa, hoặc miễn hoàn toàn cho khách hàng.
Các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ ở nước ta mới đang ở giai đoạn hình thành và phát triển
bước đầu. Để hoạt động này thu được hiệu quả cao cần phải có những biện pháp tối ưu.Bộ
Thương mại đã soạn thảo và triển khai chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2010,

trong đó rất chú trọng tới phát triển dịch vụ thu ngoại tệ. Mục tiêu đạt tốc độ tăng doanh thu
ngoại tệ trung bình tối thiểu trên 15%. Tổng thu ngoại tệ từ du lịch đến năm 2010 đạt trên 1,6 tỉ
USD, chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ. Khu vực ngân hàng, bưu chính viễn
thơng, vận tải đạt 2,5 tỉ USD. Tuy nhiên để đạt mục tiêu này, ngay từ bây giờ phải có sự chuyển
biến nhanh chóng và đồng bộ cả trong nhận thức lẫn hành động.

Phần III: Mở rộng và phát huy hiệu quả của Kinh tế đối ngoại
Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá; chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và bảo đảm thực hiện những
21

Khúc Ngọc Anh


Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
cam kết trong quan hệ song phương và đa phương như AFTA, APEC, Hiệp định thương mại
Việt - Mỹ, tiến tới gia nhập WTO...
Nhà nước có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất,
kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ. Nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển mạnh
những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế; nâng dần tỷ
trọng sản phẩm có hàm lượng trí tuệ hàm lượng cơng nghệ cao. Xây dựng các quỹ hỗ trợ xuất
khẩu, nhất là đối với hàng nông sản. Khuyến khích sử dụng thiết bị, hàng hố sản xuất trong
nước. Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, tiến tới cân bằng xuất nhập. Thực hiện chính sách bảo
hộ có lựa chọn, có thời hạn đối với sản phẩm sản xuất trong nước.
Đẩy mạnh các lĩnh vực dịch vụ thu ngoại tệ: du lịch, xuất khẩu lao động, vận tải, bưu chính viễn thơng, tài chính - tiền tệ, dịch vụ kỹ thuật, tư vấn, thu hút kiều hối...
Chủ động và tích cực thâm nhập thị trường quốc tế, chú trọng thị trường các trung tâm kinh
tế thế giới, duy trì và mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, tranh thủ mọi cơ hội mở
thị trường mới. Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị, xúc tiến thương mại, thông tin thị trường bằng
nhiều phương tiện và tổ chức thích hợp, kể cả các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngồi.
Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngồi nước tham gia các hoạt động mơi giới, khai

thác thị trường quốc tế.
Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, hồn thiện các hình thức đầu tư, nâng cao khả năng
cạnh tranh trong việc thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Giảm mạnh, tiến tới xố bỏ sự
phân biệt về chính sách và pháp luật giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Cải tiến nhanh
các thủ tục hành chính để đơn giản hoá việc cấp phép đầu tư, thực hiện từng bước cơ chế đăng
ký đầu tư. Chú trọng thu hút đầu tư của các công ty nắm công nghệ nguồn và có thị phần lớn trên
thị trường thế giới. Nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp,
khu chế xuất và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi. Thực hiện cổ phần hố những doanh
nghiệp có điều kiện. Triển khai từng bước vững chắc các hình thức đầu tư gián tiếp của nước
ngồi ở nước ta.
Khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài về nước đầu tư kinh doanh, doanh
nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngồi và có chính sách hỗ trợ công dân Việt Nam kinh doanh
hợp pháp ở nước ngoài.
Tiếp tục tranh thủ nguồn tài trợ của các chính phủ và các tổ chức tài chính quốc tế, các tổ
chức phi chính phủ. Đẩy nhanh tốc độ giải ngân, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, gắn chặt việc
sử dụng vốn vay với trách nhiệm trả nợ.

22

Khúc Ngọc Anh


Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

KẾT LUẬN

Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Đây
là một quá trình vận động quan trọng mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội và buộc Việt Nam phải
đối mặt với những áp lực điều chỉnh cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý với những thách thức to
lớn và tất yếu.

Cả nền kinh tế, các ngành sản xuất, các doanh nghiệp và các loại hàng hoá và dịch vụ Việt
Nam đều phải đương đầu với sức ép cạnh tranh cực kỳ gay gắt. Lĩnh vực kinh tế đối ngoại Việt
Nam, một lĩnh vực hết sức đa dạng, thường xuyên biến động và là động lực quan trọng hàng đầu
thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển theo hướng hội nhập hiện nay, đang chịu những tác
động trực tiếp và hết sức to lớn của quá trình này.
Sự phát triển lĩnh vực kinh tế đối ngoại thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển và sự phát triển
các quan hệ kinh tế trong nước tạo đà cho sự phát triển của lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Việc phát
triển mạnh của lĩnh vực kinh tế đối ngoại làm cho nền kinh tế đất nước trở thành một mắt khâu
quan trọng trong chuỗi giá trị tồn cầu và do đó, sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu làm tăng giá trị
nền kinh tế. Động lực phát triển kinh tế tồn cầu, lúc đó, sẽ trở thành động lực tăng trưởng trực
tiếp của nền kinh tế.
Vấn đề là cần có những giải pháp thích hợp để tăng tính nghi, vừa phát triển nhanh lĩnh vực
kinh tế đối ngoại Việt Nam theo phương châm đa dạng hố và đa phương hố trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế nhằm phục vụ có hiệu quả cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố để đưa
Việt Nam về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá vào năm 2020.

23

Khúc Ngọc Anh


Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình kinh tế chính trị Mác- Lênin, trường đại học Kinh tế quốc dân- Hà
Nội.
2. Webside:










24

Khúc Ngọc Anh


Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...............................................................................................1
NỘI DUNG....................................................................................................2
I. KHÁI NIỆM....................................................................................................................... 2
II. VAI TRÒ......................................................................................................................... 2
III. CƠ SỞ KHÁCH QUAN CỦA VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ ĐỐI NGOẠI................2
PHẦN II: NHỮNG HÌNH THỨC CHỦ YẾU CỦA KINH TẾ ĐỐI NGOẠI............................................4
I.NGOẠI THƯƠNG............................................................................................................... 4
NĂM 2007 XUẤT KHẨU TĂNG Ở HẦU HẾT CÁC MẶT HÀNG, TRONG ĐÓ CÓ NHỮNG MẶT HÀNG
CÓ KIM NGẠCH TĂNG KHÁ CAO: DỆT MAY, ĐIỆN TỬ MÁY TÍNH, HÀNG THỦ CƠNG MỸ NGHỆ, DÂY
ĐIỆN VÀ CÁP ĐIỆN, SẢN PHẨM NHỰA, GỖ, CÀ PHÊ, HẠT TIÊU, HẠT ĐIỀU. ĐÃ CÓ 9 MẶT HÀNG
ĐẠT KIM NGẠCH XUẤT KHẨU TRÊN 1 TỶ USD LÀ DẦU THÔ, DỆT MAY, GIÀY DÉP, THUỶ SẢN, SẢN
PHẨM GỖ, ĐIỆN TỬ MÁY TÍNH, CÀ PHÊ, GẠO VÀ CAO SU VỚI KIM NGẠCH ĐẠT 33 TỶ USD,
CHIẾM 68,2% TỔNG KIM NGẠCH XUẤT KHẨU CỦA CẢ NƯỚC..................................................6
II.ĐẦU TƯ QUỐC TẾ.......................................................................................................... 13
III. CÁC HÌNH THỨC DỊCH VỤ THU NGOẠI TỆ, DU LỊCH QUỐC TẾ...........................................19
PHẦN III: MỞ RỘNG VÀ PHÁT HUY HIỆU QUẢ CỦA KINH TẾ ĐỐI NGOẠI................................21


KẾT LUẬN.................................................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................24
MỤC LỤC...................................................................................................25

25

Khúc Ngọc Anh


×