Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

(LUẬN văn THẠC sĩ) sự kiến tạo căn tính dân tộc qua việt điện u linh và lĩnh nam chích quái​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------

LÊ THỊ MINH THUÝ

SỰ KIẾN TẠO CĂN TÍNH DÂN TỘC QUA
VIỆT ĐIỆN U LINH VÀ LĨNH NAM CHÍCH QUÁI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Hà Nội – 2020

download by :


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------

LÊ THỊ MINH THUÝ

SỰ KIẾN TẠO CĂN TÍNH DÂN TỘC QUA
VIỆT ĐIỆN U LINH VÀ LĨNH NAM CHÍCH QUÁI

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8229030.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Đỗ Thu Hiền

Hà Nội - 2020

download by :


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành luận văn này, tơi xin bày tỏ lịng kính trọng và lời cảm ơn sâu
sắc tới TS. Đỗ Thu Hiền, người hướng dẫn khoa học đã tận tình chỉ dẫn và giúp đỡ
tơi trong suốt q trình nghiên cứu và thực hiện luận văn.
Tơi xin bày tỏ sự biết ơn chân thành tới Ban giám hiệu, tập thể giảng viên,
cán bộ Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã giúp đỡ, góp ý, tư vấn và
tạo điều kiện thuận lợi cho tôi nghiên cứu và học tập tại trường.
Tôi xin tri ân sự động viên, khích lệ và ủng hộ của gia đình, người thân, bạn
bè và đồng nghiệp đã giúp tơi n tâm và có thêm động lực để hồn thành luận văn.
Hà Nội, ngày …… tháng…….. năm……...

Học viên cao học

Lê Thị Minh Thuý

download by :


LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Lê Thị Minh Thuý, học viên cao học lớp QH K 2018 – 2019, Khoa
Văn học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn, Đại học Quốc gia Hà Nội . Tôi
xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu cá nhân dưới sự hướng dẫn
khoa học của TS. Đỗ Thu Hiền, hiện là giảng viên khoa Văn học, Đại học Khoa học

Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn là sự trung thực, không
sao chép ở bất cứ cơng trình nào khác. Vì vậy, tơi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm
trước cam kết cá nhân.
Hà Nội, ngày ….. tháng ….. năm ……

Học viên cao học

Lê Thị Minh Thuý

download by :


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................3
2. Lịch sử nghiên cứu ..................................................................................................5
3. Mục đích nghiên cứu .............................................................................................11
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .........................................................................11
5. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................12
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn...............................................................................13
7. Đóng góp của luận văn ..........................................................................................14
8. Cấu trúc luận văn ..................................................................................................14
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ CĂN TÍNH DÂN TỘC VÀ TÁC
PHẨM VIỆT ĐIỆN U LINH, LĨNH NAM CHÍCH QUÁI .................................15
1.1. Vấn đề căn tính dân tộc trong văn học trung đại Việt Nam ...............................15
1.1.1. Nội hàm về khái niệm căn tính dân tộc ...........................................................15
1.1.2. Căn tính dân tộc trong văn học .......................................................................17
1.1.3. Các biến động lịch sử và ý thức dân tộc .........................................................18
1.2. Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái trong sự vận động của lịch sử văn xuôi
Việt Nam trung đại ....................................................................................................20

1.2.1. Khái lược về văn xuôi trung đại Việt Nam ......................................................20
1.2.2. Việt điện u linh và sự hình thành của nền văn xi tự sự Việt Nam trung đại .........21
1.2.3. Lĩnh Nam chích quái và sự hình thành của nền văn xi tự sự Việt Nam trung đại ...23
CHƢƠNG 2: XÁC LẬP CĂN TÍNH DÂN TỘC QUA SỰ ĐỐI KHÁNG, GIAO
LƢU VÀ TIẾP NHẬN VĂN HOÁ TRUNG HOA ...............................................30
2.1. Sự giao lưu và tiếp nhận văn hóa Trung Hoa.....................................................30
2.1.1. Tư tưởng tơn giáo: Phật giáo, Đạo giáo, Nho giao ........................................30
2.1.2. Nguồn gốc xuất thân các vị thần .....................................................................34
2.2. Tinh thần đối kháng với văn hóa Trung Hoa .....................................................36
2.2.1. Xác lập căn tính về nguồn gốc và giống nịi Việt Nam ...................................36
2.2.2. Diễn ngơn khẳng định chủ quyền, độc lập dân tộc .........................................41
2.3. Ý thức xây dựng đế chế và đạo sắc phong thần .................................................44
1

download by :


2.3.1. Ý thức xây dựng đế chế ...................................................................................44
2.3.2. Chiến đấu chống tà thần .................................................................................47
2.3.3. Thần quyền như một công cụ đắc lực duy trì quyền lực của giai cấp thống trị
(âm phù) ....................................................................................................................52
2.3.4. Đạo sắc phong thần ........................................................................................56
3.1. Ảnh hưởng của văn hóa dân gian Việt Nam ......................................................62
3.1.1. Tín ngưỡng dân gian là một bộ phận của văn hóa dân gian ..........................62
3.1.2. Tín ngưỡng dân gian thờ nhân thần................................................................64
3.1.3. Tín ngưỡng dân gian thờ nhiên thần ...............................................................69
3.2. Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái trong mối quan hệ với Sử .................70
3.3. Sự quay trở về với yếu tố dân gian trong Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích
qi nhìn từ yếu tố hình thức nghệ thuật...................................................................74
3.3.1. Type và motif dân gian ....................................................................................74

3.3.2. Yếu tố “linh” và “quái” ..................................................................................82
Tiểu kết Chương 3 .....................................................................................................85
KẾT LUẬN ..............................................................................................................87
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................91

2

download by :


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự bùng nổ cơng nghệ của thế kỷ XXI, chúng
ta đang đứng trước ngưỡng cửa của cuộc cách mạng công nghiệp 5.0. Thế giới giờ
đây được coi như là một ngơi nhà chung và khơng có ranh giới đường biên. Vì thế
những yếu tố thuộc về văn hoá truyền thống dân tộc, bản sắc dân tộc, căn tính dân
tộc, tinh thần dân tộc... lại trở thành một vấn đề được quan tâm nhiều hơn trong thời
gian gần đây. Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành trung ương khoá VII
đã khẳng định văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện tầm cao và chiều
sâu về trình độ phát triển của một dân tộc, là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất
trong quan hệ giữa người với người, với xã hội và với thiên nhiên. Nó vừa là một
động lực thúc đẩy vừa là một mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của chúng ta. Vì
thế tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội đều có nhiệm vụ nêu cao tinh thần dân
tộc thể hiện ở việc giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống tạo nên bản sắc văn
hoá của dân tộc. Văn học, nghệ thuật cũng nằm trong quỹ đạo đó, đặc biệt lĩnh vực
văn học có sứ mệnh thời đại quan trọng trong việc kiến tạo, duy trì, phát huy, gìn
giữ tính dân tộc, bản sắc văn hố dân tộc vì văn học chính là tư liệu, bằng chứng thể
hiện tính cách, nhân cách, tâm hồn người Việt.
Là những nhà Nho yêu nước với niềm tự hào về lịch sử, văn hố của dân tộc
mình, Lý Tế Xun và Trần Thế Pháp đã chép lại những câu chuyện về thần, người

và đất Việt để con cháu đời sau ghi nhớ. Chính mục đích đó đã thơi thúc họ sưu tập
và biên soạn nên hai cuốn sách có giá trị lớn lao: Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích
quái. Việt điện u linh (cõi u linh của nước Việt) là cơng trình do Lý Tế Xun biên
soạn tập hợp các truyền thuyết về các vị phúc thần được thờ ở đền, miếu nước ta.
Lĩnh Nam chích quái (những truyện kỳ lạ thu góp được, lượm lặt được ở cõi Lĩnh
Nam) do Trần Thế Pháp sưu tầm và biên soạn lại những truyền thuyết và cổ tích về
cõi Lĩnh Nam được lưu hành trong dân gian.
Trong kho tàng văn học trung đại Việt Nam, Việt điện u linh và Lĩnh Nam
chích quái là hai tác phẩm văn xuôi tự sự cổ nhất của nước ta mở đầu cho thời kỳ
văn xuôi trung đại Việt Nam. Hai tác phẩm khơng chỉ có giá trị to lớn về văn học
3

download by :


mà cịn có giá trị lịch sử sâu sắc. Hơn nữa đây cịn là hai tư liệụ vơ giá phản ánh
mọi mặt đời sống tinh thần của nhân dân ta từ thời tối cổ. Hai cuốn sách tồn tại như
một hiện tượng “quý hiếm” với hai phạm trù lịch sử, hai phạm trù văn hóa đó là dân
tộc và quốc gia. Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái là hai tác phẩm chứa đựng
những yếu tố đặc trưng tính dân tộc Việt Nam vì chúng mang bề dày những chứng
tích, trầm tích văn hóa dân gian về cội nguồn dân tộc, kết tinh sâu sắc của một nền
văn hóa lâu đời, của một thời đại lịch sử, khái quát một cách toàn diện và sâu đậm
những dấu ấn riêng về văn hóa, phong tục tập qn, tơn giáo, tín ngưỡng, hay tâm
lí, tính cách con người Việt. Việc sưu tầm, biên soạn, sáng tác những truyện xưa,
tích cũ có liên quan đến lịch sử dân tộc, văn hố dân tộc, triều đại, dịng họ, thần
tích, địa linh, đền miếu, anh tài nhân kiệt, đời sống tâm linh và sinh hoạt cộng đồng
của người Việt cổ xưa,... đã khơi nguồn hồn cốt văn hố và điểm tơ diện mạo lịch
sử dân tộc. Đồng thời trong từng thiên truyện của hai tác phẩm gửi gắm tình yêu tổ
quốc, niềm tự hào, lịng tự tơn về tổ quốc. Với nguồn gốc giống nịi cao q, sự
hình thành quốc gia vững mạnh, ý thức xây dựng lãnh thổ rộng lớn, tinh thần khẳng

định chủ quyền, độc lập dân tộc, những địa linh nhân kiệt xuất chúng, những giá trị
văn hóa vật chất, giá trị văn hoá tinh thần,... đã chứng minh căn tính dân tộc Việt
Nam khơng trộn lẫn với bất cứ quốc gia nào. Trở về với quá khứ lịch sử tức là trở
về bản sắc dân tộc và cội nguồn tổ tiên. Nghiên cứu sự kiến tạo căn tính dân tộc qua
Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái chính là trở về cội nguồn dân tộc, các giá
trị cố kết dân tộc. Những giá trị văn học, văn hoá, lịch sử của người đời xưa để lại
chưa bao giờ vắng bóng trong đời sống văn hóa tinh thần người Việt ngày nay và đã
xuyên thấm trong tư tưởng, tình cảm của nhiều thế hệ, tạo nên một dịng chảy của
lịch sử văn hóa dân tộc.
Trải qua hàng nghìn năm, hai cuốn sách này vẫn luôn là một trong những đề
tài cuốn hút mạnh mẽ nhiều nhà học giả quan tâm. Từ trước đến nay, chúng được
nhiều học giả hoài cổ lại, chấp bút “phục chế” lại trên những trang sách của mình.
Hai tác phẩm được ghi chép, trùng bổ, khảo đính, biên dịch, giới thiệu, khảo cứu,
nghiên cứu với mục đích bảo tồn, phát huy những truyền thống văn hóa dân tộc, thể
hiện tình u và lịng tự hào Tổ quốc đồng thời phản ánh sự vận động tất yếu của
4

download by :


tiến trình lịch sử, văn học nước nhà. Điều đó cho thấy giá trị to lớn, sức sống bất
diệt và vị trí quan trọng của Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích qi. Thế nhưng,
hai cuốn sách có sức sống mãnh liệt và giá trị quan trọng như vậy song vẫn có
khoảng trống cho người viết nghiên cứu.
Xuất phát từ những yêu cầu cấp thiết trên, chúng tôi quyết định lựa chọn “Sự
kiến tạo căn tính dân tộc qua Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái” làm đề tài
cho luận văn của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Nghiên cứu về sự kiến tạo căn tính dân tộc qua hai tập Việt điện u linh và
Lĩnh Nam chích quái nói riêng gắn liền với nền văn xi tự sự Việt Nam trung đại

nói chung là một trong những đề tài được nhiều nhà học giả quan tâm và xoay
quanh vấn đề này có nhiều ý kiến khác nhau. Trong phần lịch sử vấn đề này, chúng
tôi xin giới thiệu những thành tựu nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đi trước. Đã
có nhiều cơng trình mang tính lý luận chung về hai tác phẩm Việt điện u linh và
Lĩnh Nam chích quái gắn liền với những tên tuổi của các tác giả: Vũ Quỳnh, Kiều
Phú, Đinh Gia Khánh, Trần Đình Sử, Nguyễn Đăng Na, Trần Nho Thìn, Nguyễn
Hùng Vĩ, Tạ Chí Đại Trường,...
Trước hết, chúng ta nhắc tới Vũ Quỳnh và Kiều Phú - hai người đầu tiên có
cơng phát hiện và biên soạn Lĩnh Nam chích qi vì hai nhà sử gia đã nói lên niềm
tự hào dân tộc trong những thiên truyện. Cách đây hơn năm trăm năm, trong bài tựa
Lĩnh Nam chích quái liệt truyện, Vũ Quỳnh đã viết:“.... Kẻ ngu tôi xin nghiên cứu
gốc ngọn, trần thuật lại mà suy xét cho sáng tỏ ý người viết truyện. Xem Truyện
Hồng Bàng thì hiểu rõ được việc lai do khai sáng nước Hoàng Việt; Truyện Dạ
Thoa Vương lược thuật về điềm manh nha của nước Chiêm thành. Có Truyện Bạch
Trĩ chép sự tích họ Việt Thường; Truyện Rùa Vàng chép sử vua An Dương Vương.
Đồ sính lễ q nhất nước Nam khơng gì bằng trầu cau cũng lấy đó mà biểu dương
nghĩa vợ chồng, tình huynh đệ. Nước Nam Việt về mùa hạ khơng gì q bằng quả
dưa hấu cũng dùng nó mà kể truyện tự cậy vật báu của mình, quên cả ơn chúa.
Truyện Bánh chưng ngợi khen lịng hiếu dưỡng; Truyện Ơ Lơi răn dặn thói dâm ơ,
Đổng Thiên Vương phá giặc Ân, Lý Ông Trọng diệt Hung Nô, đủ để biết nước Nam
5

download by :


có người tài giỏi. Chử Đồng Tử gá nghĩa cùng Tiên Dung, Thôi Vĩ tao phùng tiên
khách cho nên ơn đức có thể thấy vậy. Những truyện Đạo Hạnh, Khơng Lộ khen
việc báo được thù cha, các vị thần tăng ấy há có thể mai một sao? Những Truyện
Ngư Tinh, Hồ Tinh nêu rõ sức trừ yêu quái mà ơn đức Long Quân không thể quên
được vậy! Hai Bà Trưng trung nghĩa, khi chết thành thần minh, treo cờ mà biểu

dương, ai dám nói khơng được? Thần Tản Viên linh thiêng, trừ loài thủy tộc, nêu
lên cho hiển hách, ai lại bảo không phải? Than ôi! Nam Chiếu là con cháu Triệu Vũ
Đế, nước mất lại biết phục thù; Man Nương là mẹ Mộc Phật năm hạn làm được
mưa rào; Tô Lịch là thần đất Long Đỗ; Xương Cuồng là thân cây chiên đàn; một
đằng thì lập đàn tế lễ, dân được hưởng phúc, một đằng thì dùng trị vui mà trừ, dân
được thốt hoạ, việc tuy kì dị mà khơng qi đản, văn tuy thần bí mà khơng nhảm
nhí, tuy có phần hoang đường mà tơng tích vẫn có phần bằng cứ, há chẳng phải chỉ
cốt khuyên điều thiện, răn điều ác, bỏ giả theo thật để khuyến khích phong tục mà
thơi ư!” [105, tr. 25]. Tuy trích dẫn hơi dài nhưng Vũ Quỳnh đã đưa ra những nhận
xét vơ cùng chính xác thâu tóm được cái thần, hồn của các thiên truyện.
Nhận xét về mặt nội dung của hai tác phẩm, Đinh Gia Khánh có viết: “Viện
điện u linh trước hết có giá trị lịch sử […] Việt điện u linh giúp ta tìm hiểu một
phần nào đời sống tinh thần, tín ngưỡng, phong tục,... của một thời đại lịch sử rất
xưa... Ngoài ra Việt điện u linh cũng mang những khía cạnh tích cực thuộc truyền
thống tốt đẹp của dân tộc. Hầu hết các vị nhân quân, nhân thần đều là người nước
ta, những cơng tích siêu việt của các vị đó há chẳng đáng cho dân tộc tự hào vì
nhân vật nước ta hay sao? Các vị thần thuộc loại hạo khí anh linh há chẳng đủ biểu
dương khí thiêng sơng núi của đất nước ta hay sao?” [46, tr. 9]. Là người có cơng
dịch Lĩnh Nam chích qi, ơng cũng đưa ra một nhận xét rất sắc sảo tổng quát được
nội dung cốt lõi của tác phẩm, đó là: “ít nhiều chúng ta vẫn thấy được ở các truyện
ấy lòng yêu, ghét của nhân dân, yêu chính nghĩa, ghét phi nghĩa, yêu điều thiện,
ghét điều ác, u cái gì có lợi cho nhân dân, ghét cái gì có hại cho nhân dân, đề cao
những mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người” [105, tr. 24].
Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí đã có những nhận xét về
Việt điện u linh như sau: “Việt điện u linh tập, một quyển, Lý Tế Xuyên đời Trần
6

download by :



soạn, chép những truyện linh dị về các đền thần nước ta, chuyện nào cũng chép kỹ
lưỡng.... Tập này chép những đế vương và bề tôi các đời, những người có tiếng anh
linh, gồm 28 truyện” [80, tr. 45].
Trần Quốc Vượng trong cơng trình Văn hố Việt Nam, tìm tịi và suy ngẫm, ở
mục “Từ việc nghiên cứu một số tên riêng trong các truyền thuyết nói về thời kỳ
dựng nước” cụ thể là thời kỳ Hùng Vương – An Dương Vương đã nghiên cứu về
một số thiên truyện trong Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái với mục đích
khơi phục dần vốn từ vựng cơ bản và hệ thống ngữ âm tiếng Việt cổ nhằm khẳng
định rằng tên riêng trong truyền thuyết là một nguồn tài liệu quý đối với ngôn ngữ
học lịch sử đặc biệt đối với giai đoạn lịch sử trước thế kỷ X ở nước ta. Bên cạnh đó
ơng cũng cho rằng truyền thuyết có tính “dân gian hố” và bản thân nó khơng phải
lịch sử.
Trần Đình Sử trong cuốn Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam
cho rằng Việt điện u linh thuộc truyện thần linh cịn Lĩnh Nam chích quái tiêu biểu
cho truyện thần quái Việt Nam. Hai chữ “u linh” trong Việt điện u linh đã nói rõ đối
tượng thể hiện trong truyện là các thần linh thông minh, chính trực được phong tặng
danh hiệu và được thờ cúng dó có cơng đức với đất nước. Chính đặc điểm này làm
cho tác phẩm thuần nhất, linh thiêng [108, tr. 340]. Ơng cịn cho rằng so với Việt
điện u linh và Thiền uyển tập anh, Lĩnh Nam chích quái có sự đa dạng về nội dung
và thể loại, có truyện thần, có truyện quái, có truyền thuyết lịch sử, có truyện cổ
tích, truyện tình u, truyện tiên, truyện Phật, truyện trong nước, truyện ngoài
nước,... Cái mới của Lĩnh Nam chích quái là thu thập được nhiều truyện quái lạ về
cội nguồn dân tộc, anh hùng dân tộc, thần thiêng sông núi, về các phong tục độc
đáo, về chiến công trừ hại của tiên nhân. Ý thức về dân tộc, dòng giống, quốc gia
qua các truyện ấy là hết sức rõ rệt. Ngồi ra cịn có truyện đền ơn, truyện dị nhân,
truyện báo ốn, thác sinh, truyện hiếu sắc... Tình tiết các truyện đã phức tạp hơn
nhiều [108, tr. 344].
Nguyễn Đăng Na trong cuốn Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, dựa
trên xu hướng phát triển của văn xi tự sự, ơng xếp Lĩnh Nam chích qi vào xu
hướng dân gian (sưu tầm, ghi chép, cải biên truyện dân gian) nhưng cũng có mầm

7

download by :


mống của xu hướng thế tục và Việt điện u linh vào xu hướng lịch sử (sưu tầm, ghi
chép về nhân kiệt địa linh đất Việt, bao gồm các nhân vật lịch sử (người, thần) và
các sự kiện lịch sử) [59, tr. 34- 42].
Nguyễn Hùng Vĩ trong bài viết Lĩnh Nam chích qi từ điểm nhìn văn hố,
đăng trên Tạp chí nghiên cứu văn học (số 8), trang 98 - 112, năm 2006 cho rằng
“Lĩnh Nam chích quái là một tượng đài tinh thần cổ kính vừa thiêng liêng vừa kì
diệu. Đó là một kì quan văn hóa kết tụ qua thăng trầm của một lịch sử phức tạp
nhưng đầy quyết tâm cho độc lập dân tộc, cho văn hiến bản địa... Về cấu trúc, Lĩnh
Nam chích quái đã hướng hẳn về cội nguồn dân tộc, về phía nhân dân và văn hóa
bản địa.” Đồng thời, ơng nhấn mạnh tư tưởng ái quốc trong tác phẩm chính là kim
chỉ nam cho mọi học giả dù tiếp cận tác phẩm dưới bất cứ phương pháp khoa học
ngữ văn nào. Ơng cịn cho rằng với 22 cốt truyện, mỗi câu chuyện là một diễn ngơn
lịch sử, “Lĩnh Nam chích qi trình diễn trước chúng ta ý thức về truyền thống lịch
sử riêng của đất nước từ buổi hồng hoang đến những câu chuyện xảy ra ở thời đại
nhà Trần. Sau này, các bậc túc nho giàu nhiệt huyết có bổ sung thêm bao nhiêu đi
nữa thì vẫn theo tư tưởng đó: đây là những câu chuyện được truyền ở cõi Lĩnh
Nam, khác với Trung Hoa.” Bên cạnh đó về mặt nghệ thuật, ơng cịn chỉ ra Lĩnh
Nam chích qi là “sử trong truyện” với kiểu tự sự trầm tích và kết cấu các thiên
truyện theo mạch thẳng của trình tự thời gian đồng dạng với kiểu chí qi, truyền
kì.
Tạ Chí Đại Trường trong Thần, người và Đất Việt, tác giả đã có những đóng
góp về phương pháp nghiên cứu mới về tơn giáo và tín ngưỡng. Tác giả đã nhấn
mạnh những biến chuyển văn hóa ẩn sâu dưới lớp hỗn độn của thần thoại, huyền sử
và tín ngưỡng. Trong đó tác giả nhắc tới “Lĩnh Nam chích qi vì là truyện dân
gian, chỉ cần có các dấu vết niên đại đủ làm nên khung truyện, cịn nội dung thì dàn

trải ra trong sự phô diễn phần ý thức xã hội…” [87, tr. 27]. Tác giả không chỉ dừng
lại ở việc khảo sát hệ thống thần linh thủa sơ khai với các Nhiên thần: các thần Cây
đá, thần Sông nước và các Nhân thần như Cao Lỗ, An Dương Vương, Hai Bà
Trưng,… mà còn đặt những bước đi đầu tiên trong việc làm sáng tỏ chiều hướng kết
tập thần linh mới.
8

download by :


Trần Đăng Trung trong bài viết “Mối quan hệ giữa quyền lực và diễn ngôn
văn chương qua trường hợp Lĩnh Nam chích quái” (2014), đăng trên tạp chí nghiên
cứu Văn học (số 2), tr 88 – 98 chỉ ra rằng: “Lĩnh Nam chích qi khơng đơn thuần
chỉ là sưu tầm, biên soạn hay bảo tồn các sáng tác dân gian, mà sâu xa hơn, tất cả
các truyện kể ở đây đều nhằm tới việc xây dựng và củng cố quyền lực phong kiến
trên hai bình diện chính: kiến tạo một ý niệm chính thống về vương quyền và độc
tơn các giá trị của ý thức hệ Nho giáo, tất nhiên, theo những cách hết sức tinh vi và
không dễ nhận ra.” Mặc dù 22 cốt truyện là những sáng tác truyền miệng đặc sắc
dân gian, nhưng các quan điểm của học thuyết Nho giáo, hệ giá trị thuộc về tầng lớp
thống trị khẳng định vị trí tối thượng của vua có sức ảnh hưởng mạnh mẽ và xuyên
suốt “như một quyền lực chi phối sự hình thành văn bản Lĩnh Nam chích quái. Hệ
thống các yếu tố mang tính chất phong kiến ở đây phải được nhìn nhận như một
trung tâm kiến tạo ý nghĩa của tác phẩm.” [97, tr. 88 -98]
Bên cạnh đó, Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích qi cịn là đối tượng tìm
hiểu của các luận án, luận văn Thạc sĩ, khóa luận tốt nghiệp. Xu hướng chung của
các cơng trình nghiên cứu là phương diện nghệ thuật của hai tác phẩm.
Đào Phương Chi trong luận án Tiến sĩ: Nghiên cứu văn bản Việt điện u linh
và quá trình dịch chuyển văn bản ( 2006) đã khảo sát toàn bộ các văn bản Việt điện
u linh hiện cịn để tìm ra một văn bản gần với bản gốc nhất. Đào Phương Chi cũng
cho rằng giữa Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích qi có sự khai thác một số nhân

vật giống nhau ở các thiên truyện như: Lý Ông Trọng, Trương Hống, Trương Hát,
thần Tơ Lịch, thần Tản Viên nhưng mỗi tác phẩm có chức năng khác nhau. Tác giả
luận án khẳng định Việt điện u linh là tác phẩm văn học chức năng lễ nghi được viết
một cách tóm lược cịn Lĩnh Nam chích quái là tác phẩm dân gian mang đặc trưng
văn học nghệ thuật thiên về kể và khai thác tình tiết.
Vũ Thị Hương trong luận án Nghiên cứu so sánh Sư thần ký (Trung Quốc)
với một số truyện chí quái Việt Nam từ góc độ đặc trưng thể loại và ngôn ngữ Hán
văn năm 2016 chỉ ra đặc trưng riêng thể loại chí qi của mỗi nước song về hình
thức ngơn ngữ cơ bản là giống nhau. Bên cạnh đó, tác giả luận án chỉ ra một số hiện
tượng ngữ pháp tiêu biểu cho thể loại chí qi. Đó là hiện tượng ngữ pháp bạch
9

download by :


thoại thời kỳ đầu. Đồng thời chỉ ra câu tồn tại và câu phán đoán là hai loại câu tiêu
biểu được sử dung làm câu mở đầu của chí quái như một khuôn mẫu nhất định.
Kim Kỳ Hiền trong luận án Nhân vật trong truyền kỳ ảo trung đại Việt Nam
và Hàn Quốc dưới góc nhìn so sánh năm 2019 tiến hành phân tích hai kiểu nhân vật
tuyến nhần vật kỳ ảo và tuyến nhân vật bình thường gắn bó chặt chẽ và thể hiện
sinh động những vẻ đẹp phẩm chất, tâm hồn con người, những thuần phong mỹ tục,
văn hoá truyền thống Việt Nam cũng như Hàn Quốc thời đại lúc bấy giờ. Nhìn
chung, qua nhân vật trong truyện kỳ ảo trung đại của Việt Nam và Hàn Quốc,
những chiều cạnh văn hoá được biểu hiện như văn hoá Phật giáo, văn hoá Nho giáo,
văn hoá Lão – Trang. Đồng thời tác giả luận án cũng khẳng định truyện kỳ ảo trung
đại Việt Nam và Hàn Quốc có quá trình hình thành, phát triển khá sớm dựa trên cơ
sở tiếp thu truyền thống văn học dân gian của mỗi dân tộc.
Bên cạnh đó cịn có một số luận văn thạc sĩ:
Đinh Thị Lệ Phương trong bài viết Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam
chích quái năm 2017 đã phân tích một cách tồn diện và có hệ thống về thế giới

biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái đồng thời chỉ ra những đặc trưng cơ bản của
hệ biểu tượng này cũng như các phương thức cơ bản xây dựng biểu tượng.
Nguyễn Thị Huyền Thu trong bài viết Phương thức thể hiện nhân vật kỳ ảo
trong truyện chí quái Việt Nam (Qua Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái lục)
năm 2017 đã chỉ ra và phân tích các phương thức xây dựng nhân vật kì ảo mà Lý Tế
Xuyên, Trần Thế Pháp sử dụng. Từ đó, có thể thấy được những thành tựu trong xây
dựng nhân vật kì ảo của Việt điện u linh tập và Lĩnh Nam chích quái lục. Nhận thức
được những đặc điểm nghệ thuật của thể loại truyện chí quái Việt Nam giai đoạn
đầu. Góp phần hình dung thêm về con đường hình thành và phát triển của văn xi
kì ảo Việt Nam nói riêng và văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam nói chung.
Như vậy, điểm qua đã có những nghiên cứu về nội dung và nghệ thuật của
hai tác phẩm Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích qi. Những cơng trình này chưa
đi sâu vào sự kiến tạo căn tính dân tộc. Chính vì vậy, trên tinh thần tiếp thu kết quả
và sự gợi ý của những cơng trình nghiên cứu đã có trước đây, trong luận văn này
chúng tơi sẽ đi sâu vào nghiên cứu sự kiến tạo căn tính dân tộc trong hai tác phẩm
10

download by :


trên nhằm đưa ra những phát hiện góp phần mở rộng và phát triển thêm giá trị của
hai tác phẩm đầu tiên của văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam.
Bàn luận về sự kiến tạo căn tính dân tộc qua Việt điện u linh và Lĩnh Nam
chích quái là một cơng việc có ý nghĩa. Chúng tơi mong muốn góp một phần cơng
sức nhỏ bé của mình để tìm hiểu về tính dân tộc, cội nguồn dân tộc, tinh thần dân
tộc và bản sắc văn hoá dân tộc thể hiện tâm hồn, tính cách, nhân cách con người
Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu
Tiến hành nghiên cứu sự kiến tạo căn tính dân tộc qua Việt điện u linh và
Lĩnh Nam chích qi, chúng tơi nhằm:

- Chỉ ra vấn đề căn tính dân tộc trong văn học trung đại Việt Nam.
- Nghiên cứu sự xác lập căn tính dân tộc qua sự đối kháng, giao lưu và tiếp nhận
văn hóa Trung Hoa.
- Nghiên cứu sự xác lập căn tính dân tộc qua sự quay trở về với các yếu tố văn hóa
bản địa.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong luận văn này chúng tôi sẽ nghiên cứu sự kiến tạo căn tính dân tộc
được thể hiện trong hai tập Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích qi. Đồng thời
chúng tơi sẽ tìm hiểu và tham khảo thêm nội dung các tài liệu sử học khác, các tài
liệu văn học khác gắn liền với hai bộ phận văn học: văn học dân gian, văn học trung
đại để thấy sự kiến tạo căn tính dân tộc biểu hiện trong hai tập Lĩnh Nam chích quái
và Việt điện u linh nói riêng và văn xi tự sự Việt Nam trung đại nói chung.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong điều kiện còn khá nhiều dị bản và rất phức tạp trong quá trình truyền
bản của hai tác phẩm, chúng tôi tập trung nghiên cứu và khảo sát các thiên truyện
trong tập Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên do Trinh Đình Rư dịch theo bản A.751
của Thư viện Khoa học Xã hội được Đinh Gia Khánh giới thiệu, xuất bản năm
1960, nhà xuất bản Văn hoá.

11

download by :


Về tác phẩm Lĩnh Nam chích qi, trong tình hình tài liệu hiện nay, việc tìm
ra bản Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp là rất khó vậy nên chúng tôi khảo
sát và nghiên cứu bản dịch của Vũ Quỳnh, Kiều Phú sưu tập biên soạn ở thế kỷ XV
và Đinh Gia Khánh (chủ biên), Nguyễn Ngọc San biên khảo, giới thiệu in lần thứ
hai có sửa chữa, bổ sung của nhà xuất bản Văn học Hà Nội năm 1990.

Căn cứ vào nhu cầu thực tiễn, chúng tôi tiến hành nghiên cứu sự kiến tạo căn
tính dân tộc qua hai tập Lĩnh Nam chích quái và Việt điện u linh về những phương
diện: đề tài, thi pháp, thể loại, khuynh hướng sáng tác, hình tượng nhân vật, motif
và type, sự ảnh hưởng mơi trường văn hóa, bản sắc dân tộc gắn liền với sự hình
thành tín ngưỡng tâm linh của người Việt… nhằm có cái nhìn tổng thể và khái quát
về sự kiến tạo căn tính dân tộc Việt Nam. Qua việc nghiên cứu và bàn luận về sự
kiến tạo căn tính dân tộc trong văn xi tự sự trung đại Việt Nam qua hai tập Lĩnh
Nam chích quái và Việt điện u linh chúng tôi muốn chỉ ra điểm đặc sắc trong cội rễ
văn hoá, các giá trị cố kết dân tộc, nét truyền thống, sự kế thừa tinh hoa của nền văn
học dân tộc. Đồng thời chỉ ra những sáng tạo, cách tân trong phương pháp, tư duy lý
luận thực tiễn trong việc nghiên cứu của những học giả ngày nay khi tìm về những
giá trị truyền thống văn hóa, văn học dân tộc.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này chúng tôi sẽ sử dụng những phương pháp chủ yếu dưới đây:
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: sử dụng phương pháp này để nghiên cứu sâu
về phương diện nghệ thuật trong mối quan hệ với nội dung để chỉ ra những đặc
trưng nghệ thuật, quá trình hình thành và phát triển của hai tác phẩm.
- Phương pháp liên ngành: kết hợp giữa các phương pháp tiếp cận văn hoá học,
phương pháp lịch sử, để giải quyết vấn đề một cách toàn diện, khách quan:
+ Phương pháp tiếp cận văn hoá học: vận dụng những tri thức về văn hoá để nhận
diện và giải mã các yếu tố thi pháp, nội dung của hai tác phẩm đồng thời thấy được
tinh thần dân tộc, đời sống cộng đồng, đời sống tâm linh con người Việt Nam.
+ Phương pháp lịch sử: Văn học là một hình thái ý thức xã hội được đặt trong hệ
quy chiếu của bối cảnh lịch sử xã hội. Nghiên cứu hai văn bản Việt điện u linh và
Lĩnh Nam chích qi khơng thể không đặt trong bối cảnh lịch sử ra đời của hai tác
12

download by :



phẩm, những tác động của lịch sử trong quá trình hình thành và phát triển của hai
văn bản. Bên cạnh đó, hai văn bản này có chứa đựng nhiều giá trị sử học nên cần
phải xem xét nó trong mối quan hệ với lịch sử để khẳng định tính khách quan và
xác thực.
- Phương pháp tự sự học: nghiên cứu cấu trúc, đặc điểm nghệ thuật trần thuật của
hai tác phẩm. Từ đó, chúng ta hình dung thêm về con đường hình thành và phát
triển của văn xi tự sự trung đại Việt Nam.
- Phương pháp phân tích – tổng hợp: đi sâu phân tích sự kiến tạo căn tính dân tộc
Việt Nam trong Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái trên hai khía cạnh nội dung
và thi pháp nghệ thuật. Sau khi đã nghiên cứu các chi tiết, sự kiện, nội dung của các
thiên truyện, chúng tôi tiến hành kết luận, tổng hợp lại những nội dung, phương
diện hình thành nên căn tính dân tộc Việt Nam qua hai tác phẩm.
Ngồi ra, chúng tơi cịn kết hợp với các thao tác:
+ So sánh: chúng tôi tiến hành so sánh đối chiếu hai tác phẩm. Đồng thời chúng tơi
cịn tiến hành so sánh các thể loại văn học với nhau, giữa truyền thuyết, thần thoại
và sử ký để thấy được nét tương đồng và khác biệt.
+ Thống kê: các thiên truyện, các nhân vật, các vị thần, địa danh, tình tiết trong Việt
điện u linh và Lĩnh Nam chích qi để hình dung cụ thể về hệ thống nhân vật, các vị
thần thánh trong hai tác phẩm.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Nếu thực hiện tốt luận văn chúng tôi sẽ xác lập được sự kiến tạo căn tính dân
tộc được thể hiện qua hai tác phẩm Việt điện u linh và Lĩnh nam chích quái. Điều
này sẽ hoàn thiện thêm cho việc tiếp cận hai tác phẩm này dưới góc độ nội dung, tư
tưởng. Mặt khác, việc chỉ ra được cụ thể, rõ ràng sự phát triển giữa Việt điện u linh
và Lĩnh nam chích quái sẽ góp phần vào việc nghiên cứu q trình hình thành và
phát triển của văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam.
Nghiên cứu “Sự kiến tạo căn tính dân tộc qua Việt điện u linh và Lĩnh Nam
chích qi” cịn cung cấp những tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy
hai tác phẩm này.


13

download by :


7. Đóng góp của luận văn
Luận văn Sự kiến tạo căn tính dân tộc qua Việt điện u linh và Lĩnh nam chích
qi sẽ đóng góp vào việc xác lập căn tính dân tộc Việt Nam qua Việt điện u linh và
Lĩnh nam chích quái. Đồng thời giúp bạn đọc có cái nhìn tồn diện và thấu đáo hơn
khi đánh giá hai tác phẩm và hiểu thêm về con đường đi của thể loại văn xuôi tự sự
Việt Nam trung đại.
Thực hiện đề tài này, người viết chỉ mong được coi là đã đóng góp một phần
cơng sức nhỏ bé trong hành trình trở về cội nguồn dân tộc. Đây cũng là một vấn đề
khơng giản dị, địi hỏi người viết phải có tri thức, kĩ năng thấu hiểu văn hoá, lịch sử
và văn học nước nhà.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, phần thư mục tài liệu tham khảo, phần
Nội dung chính của luận văn được bố cục thành 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề căn tính dân tộc và tác phẩm Việt điện u linh, Lĩnh
Nam chích quái.
Chương 2: Xác lập căn tính dân tộc qua sự đối kháng, giao lưu và tiếp nhận văn hoá
Trung Hoa.
Chương 3: Xác lập căn tính dân tộc qua sự quay trở về với các yếu tố văn hoá bản địa.

14

download by :


CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ CĂN TÍNH DÂN TỘC VÀ TÁC

PHẨM VIỆT ĐIỆN U LINH, LĨNH NAM CHÍCH QUÁI
1.1. Vấn đề căn tính dân tộc trong văn học trung đại Việt Nam
1.1.1. Nội hàm về khái niệm căn tính dân tộc
Các khái niệm: Quốc gia/dân tộc/quốc gia tính/dân tộc tính/Căn tính dân
tộc/bản sắc dân tộc (nation/nationality/nationalism) đều có sự giống nhau và cùng
một trường từ vựng. Do đó việc định nghĩa những khái niệm này là vô cùng khó
khăn. Vì thế trước khi đi vào bài nghiên cứu một cách chi tiết và cụ thể, chúng tôi
sẽ xem xét vắn tắt về hai khái niệm “dân tộc” và “căn tính dân tộc” để đưa ra một
định nghĩa hợp lí nhất.
Trước hết chúng tơi bàn luận về khái niệm dân tộc (nation). Benedict
Anderson trong cơng trình nghiên cứu Những cộng đồng tưởng tượng do Lưu Ngọc
An dịch cho rằng: các khái niệm “dân tộc”, “căn tính dân tộc” được hình thành vào
cuối thế kỷ XVIII như là một cấu trúc xã hội để thay thế các chế độ quân chủ, trật tự
xã hội nặng về tôn giáo trước đây [2, tr. 29]. Với một tinh thần nhân học, Benedict
Anderson nhận định: dân tộc là một cộng đồng chính trị tưởng tượng - được tưởng
tượng có giới hạn và chủ quyền một cách cố hữu [2, tr. 23]. Nó được tưởng tượng
nên bởi lẽ các thành viên của ngay cả những dân tộc nhỏ nhất cũng không bao giờ
biết hết đồng bào của mình, gặp họ hay thậm chí nghe nói về họ, nhưng trong ý
thức mỗi người vẫn duy trì một hình ảnh về cộng đồng mình”. Có nghĩa là, theo
ông, cái gọi là quốc gia/dân tộc, không phải là điều gì có sẵn và có tính thực hữu,
mà chỉ là một sự tưởng tượng - hay dùng thuật ngữ của ông: “một cộng đồng được
tưởng tượng mà ra”. Những cộng đồng đó mang trong mình những “giới hạn” (mọi
quốc gia dân tộc đều có biên giới), “chủ quyền” như một “cộng đồng” và có một
dân số nhất định, chứ không phải một thực thể hữu cơ, vĩnh cửu [2, tr. 25]. Bên
cạnh đó, cũng theo ơng, các căn tính (indentity) của một dân tộc khơng phải là một
thực thể tồn tại hoàn toàn khách quan tự nhiên mà là những tạo tác văn hóa có tính
nhân tạo. Do vậy, căn tính dân tộc khơng phải là một yếu tố được hình thành một

15


download by :


cách khách quan, lịch sử mà được hun đúc lên từ một loạt các yếu tố văn hóa dân
tộc bắt đầu từ các huyền thoại về tổ quốc đến các nhân vật lịch sử.
Dân tộc thuộc phạm trù lịch sử, phạm trù văn hóa. Có rất nhiều các định
nghĩa khác nhau về khái niệm dân tộc. Theo quan niệm của một số nhà sử học, “dân
tộc” là những cộng đồng người được hình thành trong quá trình lịch sử, trên cở sở
những chung đụng về giống nịi, ngơn ngữ, lãnh thổ, tổ chức đời sống chính trị, đời
sống kinh tế và văn hoá, đặc biệt là về truyền thống văn hố. Mỗi dân tộc đều có
q trình hình thành và phát triển không giống nhau gắn liền với điều kiện lịch sử,
địa lý, văn hoá, tâm lý,... dân tộc ấy. Dân tộc khác với chủng tộc và giai cấp. Chủng
tộc là cơ sở tập hợp dựa trên sự khác nhau của đặc tính di truyền về màu da, màu
tóc, cấu tạo cơ thể hay các đặc tính về khn mặt. Cũng cần phân biệt dân tộc với
bộ lạc, bộ lạc là một phạm trù nhân chủng chỉ có trong chế độ cộng sản nguyên
thủy, còn dân tộc là một phạm trù lịch sử do những người thuộc nhiều chủng tộc, bộ
lạc họp nhau lại mà thành. Còn giai cấp đề cập đến các bậc thứ khác nhau để phân
biệt giữa các cá nhân hoặc các nhóm người trong các xã hội hoặc các nền văn hóa
dựa trên cơ sở địa vị khác nhau, sở hữu vật chất khác nhau và thành quả lao động
khác nhau trong một hệ thống sản xuất, hình thái xã hội nhất định của giai đoạn lịch
sử cụ thể. Dân tộc là một cộng đồng người, nó bao gồm nhiều giai cấp. Đặc tính dân
tộc khơng thể và khơng phải là những gì chung cho mọi giai cấp, mọi người trên
cùng một lãnh thổ.
Về khái niệm căn tính dân tộc. Đó là đặc tính, tính chất riêng biệt chỉ có ở một
dân tộc nào đó làm nổi bật lên bản sắc của dân tộc ấy. Đó là cái làm cho dân tộc này
khác với dân tộc khác dựa trên cơ sở những giá trị vốn có, sẵn có hay tái tạo và sáng
tạo từ những giá trị văn hóa của dân tộc khác. Trong bài nghiên cứu này, căn tính dân
tộc được hiểu là những nét tiêu biểu, đặc trưng về lịch sử, văn hoá, phong tục tập
quán, tổ chức đời sống sinh hoạt cộng đồng, đời sống tâm linh, thói quen, tính cách,
tín ngưỡng,... của một dân tộc nào đó. Ở nhiều nước Âu - Mĩ , dân tộc sinh ra trong

thời kỳ tư bản chủ nghĩa, cịn ở Việt Nam, dân tộc được hình thành từ rất sớm, có thể
bắt đầu có từ khi lập nước. Ðiều kiện để dân tộc Việt Nam hình thành sớm là do các
cộng đồng người cần liên kết nhau lại để chống thiên tai, để sản xuất lúa nước, để
16

download by :


chống giặc ngoại xâm và ổn định địa bàn cư trú. Căn tính dân tộc Việt Nam được
hiểu là những nét tiêu biểu, đặc trưng về lịch sử, văn hoá, phong tục tập quán, tổ chức
đời sống sinh hoạt cộng đồng, đời sống tâm linh, thói quen, tính cách, tín ngưỡng,...
của người Việt Nam. Đó chính là gia tài, cái vốn liếng thiêng liêng của quốc gia và là
sản nghiệp chung của giống nịi người Việt đã được hình thành trong suốt q trình
hàng nghìn năm lịch sử với mn vàn biến cố, thăng trầm và được biểu hiện ở các giá
trị trong truyền thống văn hóa của người Việt. Khẳng định về tầm quan trọng của đặc
tính dân tộc, Nguyễn Hùng Vĩ cho rằng: “Dân tộc và quốc gia là hai phạm trù lịch
sử, hai phạm trù văn hóa. Nó nảy sinh trong lịch sử như kết quả phát triển lâu dài
của nhân loại cả ở phương diện thực tiễn, cả về phương diện tinh thần. Đến bây
giờ, ta có thể vững tin ở sự tồn tại lâu bền của nó cùng nhân loại tương lai. Khơng
một nhà văn hóa nào lại tưởng tượng được khơng gian văn hóa dân tộc, khơng gian
văn hóa quốc gia một ngày nào đó sẽ mất đi. Sự mất đi của nó sẽ đồng nghĩa với sự
tàn lụi của bản sắc văn hóa ở cấp cộng đồng cơ bản nhất [79]. Chúng ta tự định
nghĩa bản thân trong phạm trù có tính quốc gia, dân tộc: Việt Nam. Và khi làm thế,
một trong những chúng ta chắc chắn coi bản thân mình là một nhân tố được quyền
sống trong một không gian xã hội và lãnh thổ kế thừa từ các giá trị cố hữu của quá
khứ tiền cách mạng. Theo các nhà dân tộc học, trên lãnh thổ dân tộc Việt Nam có
54 tộc người sinh sống với những nét văn hố riêng nhưng lại gắn bó chặt chẽ nhau
trong vận mệnh dân tộc chung.
1.1.2. Căn tính dân tộc trong văn học
Trong kho tàng văn chương nhân loại, ta thấy mỗi dân tộc có một nền văn

chương riêng, một truyền thống văn chương khác nhau. Cái làm nên sự phân biệt ấy
chính là bản sắc dân tộc của văn chương. Tính dân tộc trong văn học cịn thể hiện ở cái
nhìn dân tộc đối với thế giới xung quanh, là biểu hiện đầy đủ nhất những cảm nhận của
nhà văn, nhà thơ trước không gian, thời gian và các mối quan hệ giữa con người với
con người.
Mỗi tác phẩm văn học nghệ thuật là sản phẩm riêng của cá nhân nghệ sĩ,
nhưng đằng sau mỗi người nghệ sĩ bao giờ cũng mang bóng dáng của dân tộc, giai
cấp mà họ đang sống. Vì thế có thể nói văn học được coi là một phương tiện bảo
17

download by :


tồn và phát huy căn tính dân tộc. Trước hết văn học phản ánh rõ ràng linh hồn và
tính cách của con người Việt Nam và những đặc trưng cơ bản của nền văn hóa Việt
Nam dựa trên cơ sở ngôn ngữ tiếng Việt. Văn học được khơi nguồn từ những căn
nguyên chân thật của lịch sử, những biến đổi của đời sống xã hội và sự thay đổi
trong nhận thức về thế giới của con người. Hay nói các khác, mỗi dân tộc được hình
thành trong quá trình lịch sử đã tạo ra những đặc trưng, truyền thống văn hố gắn
liền với những đặc trưng hình thành của chính dân tộc ấy. Nó được hình thành dựa
trên các cơ sở: điều kiện địa lý, lịch sử, tôn giáo, điều kiện xã hội,… Chính vì vậy
bản sắc dân tộc, căn tính dân tộc của văn học được xem xét là sản phẩm của một
quá trình lịch sử và phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử, truyền thống văn hố
thơng qua khung tham chiếu của người nghệ sĩ hoặc các nhà nghiên cứu. Nói tới
dân tộc, đặc tính dân tộc, chúng thường mang tính ổn định, ít biến đổi bởi chúng
được thừa nhận như một thuộc tính có tính chất truyền thống.
Tính dân tộc là thuộc tính tất yếu của văn học. Căn tính dân tộc trong nền
văn học Việt Nam nói chung và nền văn học trung đại Việt Nam nói riêng được thể
hiện trong phương diện nội dung, tư tưởng tác phẩm ở các khía cạnh: Tình cảm yêu
nước nhiệt thành, niềm tự hào về truyền thống, về đất nước độc lập, ý thức tự tôn

dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân, gia đình, làng xã, tổ
quốc, đạo lý Việt Nam,… Cịn trong phương diện nghệ thuật, tính dân tộc được
biểu hiện ở các khía cạnh: ngơn ngữ, thể loại, hình tượng nghệ thuật,…
1.1.3. Các biến động lịch sử và ý thức dân tộc
Bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam thế kỷ XIV – XV đã có nhiều thay đổi hết
sức cơ bản. Đất nước mở ra kỷ nguyên mới. Các triều đại phong kiến đã thực hiện
chính sách “khoan dân”, “thư dân” để ổn định đời sống trong nước, thu phục lịng
dân, đồn kết nhân dân cả nước, góp phần bảo vệ sự thống trị của nhà nước phong
kiến. Về chính sách đối ngoại, nước ta giữ gìn được quan hệ với các nước láng giềng
nhất là với Trung Quốc. Các lĩnh vực: nông nghiệp, thương nghiệp, thủ công nghiệp
phát triển mạnh mẽ, giao thông được mở mang. Chế độ phong kiến Việt Nam nhìn
chung phát triển.

18

download by :


Đất nước bước vào thời kỳ phục hưng văn hoá dân tộc lần thứ nhất. Mặc dù,
chịu ảnh hưởng của yếu tố bên ngồi song nền văn hố vẫn mang đậm nét dân tộc
và dân gian. Vì vậy, văn hố nước Đại Việt là một lĩnh vực nhận được nhiều quan
tâm của một lực lượng Nho sĩ trí thức đơng đảo. Với tinh thần dân tộc và ý thức
quốc gia sâu sắc họ tái hiện lại một thời kỳ lịch sử gắn liền với tiến trình văn hố
dân tộc, tri thức văn học dân tộc, các nhà nho đã góp phần thúc đẩy tinh thần yêu
nước, đấu tranh giành quyền tự chủ, khơi gợi lịng tự tơn và niềm tự hào dân tộc.
Qua đó cịn phản ánh trí tuệ và tâm hồn của tầng lớp trí thức và nhân dân bấy giờ,
phản ánh khơng khí xây dựng đất nước trong hịa bình và q trình phục hưng dân
tộc, phát triển quốc gia trong thế kỉ XIV của dân tộc Việt Nam. Như là một sự tri ân
sâu sắc với những thành quả to lớn mà ông cha ta để lại, các nhà nho đã “dấn thân”
vào một cuộc hành trình, cơng cuộc tìm kiếm lại những “chiến tích” của một thời kỳ

lịch sử mang đầy bản sắc văn hóa truyền thống riêng biệt không trộn lẫn với bất cứ
quốc gia nào. Đó cũng là một cơng việc để khẳng định khát vọng độc lập dân tộc.
Họ đã dùng những tựu của văn hố dân gian như một vũ khí sắc bén chống lại dã
tâm cướp nước của các chế độ phong kiến phương Bắc và phục hồi quốc thống. Họ
đã dùng thành tựu văn hoá văn nghệ dân gian để nêu cao những cuộc đấu tranh bảo
vệ Tổ quốc, hay những truyền thuyết về một số vị thần đã tăng thêm niềm tự hào
dân tộc. Gìn giữ văn hố vật chất đã khó song lưu giữ văn hố tinh thần cịn khó
hơn. Tuy khó, song những nhà nho đã lưu giữ được những câu chuyện thể hiện
nhiều mặt của văn hố Việt, góp phần khẳng định nền văn hố bản địa. Thực chất
đây là một kỳ tích vì cha ơng không chỉ giành được thắng lợi trên mặt trận quân sự
mà còn chiến thắng trên mặt trận tinh thần với bản lĩnh trí tuệ của mình.
Hồn cảnh lịch sử - xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi giúp các tác giả sưu
tầm, biên soạn hai cuốn sách Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích qi. Khơng chỉ
lưu giữ giá trị văn hoá những nhà chấp bút đã khẳng định được độc lập dân tộc. Qua
đó góp phần khẳng định quốc gia ta trường tồn theo thời gian, không một thế lực
nào đơ hộ được trên phương diện chính trị cũng như tinh thần.

19

download by :


1.2. Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái trong sự vận động của lịch sử văn
xuôi Việt Nam trung đại
1.2.1. Khái lược về văn xuôi trung đại Việt Nam
Văn học là một hình thái ý thức gắn liền với văn tự, bởi vậy khi nghiên cứu
căn tính dân tộc hay bản sắc văn hoá dân tộc qua văn học tất yếu gắn liền với tiến
trình phát triển văn học dân tộc. Văn xuôi tự sự là một bộ phận cấu thành nền văn
học Việt Nam trung đại và phát triển song song với văn học dân gian gắn liền với
diễn trình lịch sử văn học dân tộc.

Trong bài nghiên cứu này, chúng tơi đồng tình và nhất trí với quan điểm của
Nguyễn Đăng Na về phân loại và tiến trình phát triển văn xi tự sự Việt Nam trung
đại. Theo Nguyễn Đăng Na trong cơng trình Văn xi tự sự Việt Nam thời trung đại
tập I, ông cho rằng có thể chia văn xi tự sự thành ba nhóm: truyện ngắn, kí, tiểu
thuyết chương hồi và con đường hình thành, phát triển văn xi tự sự Việt Nam
trung đại vận động theo bốn giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất từ thế kỷ X – XIV, thế kỷ
lấy văn học dân gian và văn học chức năng làm cơ sở. Văn xuôi tự sự giai đoạn này
chưa tách khỏi văn học dân gian và văn học chức năng với hai thể loại: truyện dân
gian và truyện lịch sử dân tộc, truyện lịch sử tơn giáo. Trong đó Việt điện u linh
thuộc loại truyện lịch sử tôn giáo (lễ nghi, tập tục, tín ngưỡng), cịn Lĩnh Nam chích
qi thuộc truyện dân gian (gồm sưu tầm, ghi chép, chỉnh lí... truyện dân gian). Văn
học thời kỳ này tập trung khẳng định chủ quyền lãnh thổ, lịch sử nước Việt. Về
phương diện nghệ thuật văn học giai đoạn này vẫn kế tục đặc trưng thể loại,
motif,… của văn học dân gian. Giai đoạn thứ hai, từ thế kỷ XV – XVII đây là thời
kỳ phát triển mạnh mẽ của văn xuôi tự sự. Các tác phẩm thời kỳ này đã thoát khỏi
đặc trưng của văn học dân gian và văn học chức năng từ đó có sự xuất hiện loại
hình truyện ngắn văn học mang đậm sắc thái dân tộc và phản ánh hiện thực đương
thời. Văn tự sự đi vào quỹ đạo nghệ thuật: văn học lấy con người làm đối tượng và
trung tâm phản ánh. Về phương diện nghệ thuật, giai đoạn văn học này đỉnh cao của
thể loại truyền kỳ. Giai đoạn thứ ba, từ thế kỷ XVIII đến giữa XIX, đây là thế kỉ của
ký, tiểu thuyết chương hồi, truyện ngắn đều được hoàn thiện và dần tiếp cận với văn

20

download by :


học cận - hiện đại. Giai đoạn thứ tư, nửa cuối thế kỷ XIX là giai đoạn chuyển giao
giữa văn xuôi trung đại với văn xuôi cận – hiện đại. Tác giả xếp Việt điện u linh và
Lĩnh nam chích quái vào giai đoạn thứ nhất. Cũng theo Nguyễn Đăng Na, trong bài

nghiên cứu Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, ông cho rằng Văn xuôi tự sự
Việt Nam trung đại phát triển theo ba xu hướng: xu hướng dân gian, xu hướng lịch
sử và xu hướng thế tục, trong đó Viêt điện u linh theo xu hướng lịch sử và Lĩnh Nam
chích quái theo xu hướng dân gian phần lớn là truyện có tính chất truyền thuyết.
Với tư cách là một loại hình nghệ thuật thuộc hình thái ý thức xã hội, nền
văn xuôi tự sự Việt Nam trung đại phát triển qua ba xu hướng, ba hình thức tự sự và
bốn giai đoạn với những đặc trưng, quy luật riêng nhưng tựu trung văn xuôi tự sự
vẫn hồn thành sứ mệnh của mình: phản ánh đời sống tâm linh của người Việt Nam
thời trung đại.
1.2.2. Việt điện u linh và sự hình thành của nền văn xuôi tự sự Việt Nam trung đại
Việt điện u linh - Tập sách chép những truyện linh thiêng ở đất nước Việt là
tác phẩm của đại tạng thư hoả chính chưởng Trung phẩm phụng ngự An Tiêm lộ
Chuyển vận sứ Lý Tế Xuyên biên soạn vào năm Khai Hựu (開祐) nguyên niên 1329
đời Trần Hiến Tông (陳憲宗). Lý Tế Xuyên dựa vào những bản thần tích trong các đợt
phong thần của vua nhà Trần, tham khảo Báo cực truyện, Ngoại sử ký và ít nhiều cũng
có dựa vào lời truyền tụng của nhân dân mà soạn sách Việt điện u linh.
Về tiểu sử Lý Tế Xuyên, ở lời ghi trong cuối bài tựa đầu của cuốn sách có viết:
“Thủ Đại tạng thư, Hỏa chính trưởng, Trung phẩm phụng sứ, An Tiêm lộ chuyển vận
sứ”. Theo như lời ghi thì Lý Tế Xuyên giữ chức Thủ Đại tạng thư Hỏa chính trưởng
(chức quan đứng đầu Nội mật viện, phụ trách kho tài liệu sách vở lưu trữ của Nhà
nước, coi giữ việc tế lễ, tham gia việc quản giám bách thần), chức An Tiêm Chuyển
vận sứ (chức quan nắm việc vận tải thủy bộ, lương gạo, tiền tệ, hóa vật một vùng).
Ngồi Lý Tế Xun ra cịn một số tên tuổi gắn với Việt điện u linh nữa như Nguyễn
Văn Chất (thế kỉ XV) viết phần Tục biên, Lê Tư Chi viết phụ lục, năm 1712 Lê Thuần
Phủ viết bài Bạt, đầu thế kỉ XIX năm 1807 là Cao Huy Diệu viết Bổ chú và Tiếm bình,
Ngơ Giáp Đậu năm 1919 (thế kỉ XX) viết Trùng Bổ và Bạt Trùng Bổ,...

21

download by :



×