Tải bản đầy đủ (.pdf) (297 trang)

Tài liệu LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN MÁY TÍNH pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.89 MB, 297 trang )

LỜI GIỚI THIỆU
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN MÁY TÍNH
Lịch sử máy cá nhân gắn liền với chặng đường phát triển của IBM-PC. Máy IBM-PC được khởi đầu từ
một phòng thí nghiệm tại Atlanta (Georrgia, USA), mục đích của cơng trình thí nghiệm là thiết kế một sản phẩm
vi tính đầu thấp. Điều này có nghĩa là IBM khơng sử dụng các vxl của chính hãng mà dùng các vxl rẻ hơn của
hãng khác như: Intel, Motorola, Zilog.
1979-1980: IBM cho ra đời máy Datamaster dùng vxl 16 bit 8086 của Intel.
1980: Đưa ra khái niệm: Personal Computer (PC). Chiếc IBM-PC đầu tiên dùng vxl 8bit 8085 của Intel.
1981-1982: Dù Intel có vxl 16bit nhưng giá thành còn cao, Để đáp ứng thị trường máy rẻ tiền, Intel đưa
ra vxl 8 bit 8088 mà trong nó là vi mạch 16bit 8086. IBM dùng vxl này để thiết kế PC thế hệ thứ hai: PC-XT
(extended technology) 8088 có 8 bit bus dữ liệu và 20bit bus địa chỉ, có khả năng quản lý tối đa 1MB bộ nhớ vật
lý, chạy với tần số đồng hồ 4,77 MHz. Bên trong nó có 8 khe cắm mở rộng (khe cắm 8bit XT – hay XT-Slots),
khe này có 62 chân. Máy PC-XT trang bị hai đĩa mềm 360KB, 256 KB Ram (cắm trong 1 trong 8 khe cắm trên).
PC-XT dùng HDH CP/M và ct BASIC 80 của Micrrosoft.
1984: Khi vxl 16bit đã quen thuộc thị trường, Intel đưa ra vxl 80286, là vxl 16bit hồn thiện, có thêm 4bit
bus địa chỉ, quản lý 16MB bộ nhớ. IBM tung ra thị trường máy PC-AT (advanced technllogy) với bộ vxl 80286,
với nó PC hoạt động trong chế độ bảo vệ cho phép chia bộ nhớ ra nhiều đoạn dài linh động và ưu tiên cho các
ct ứng dụng do đó tránh được va chạm khi nhiều ct chạy một lúc – đây là nền tảng của chế độ đa nhiệm trên
80286. PC-AT làm việc với tần số 6-8 MHz, do phải thêm 8bit bus dữ liệu, 4bit bus địa chỉ, 8bit u cầu ngắt
cứng và một số bit điều khiển mới, do vậy PC-AT cần bổ xung thêm khe cắm. Để đảm bảo tương thích với máy
XT, khe cắm XT cũ vẫn giữ ngun, thêm một đoạn khe cắm nối dài bổ xung thêm 36 chân, loại khe cắm mới
này được gọi là ISA (Industry Standard Architecture) sau khi nó được cải tiến thêm một chút và đã chở thành
chuẩn ISA.
1987: Thế hệ PC mới ra đời với vxl 80386. Bắt đầu từ đây IBM cơng khai cấu tạo máy và nội dung ct
HDH vào ra cơ sở (BIOS), điều này giúp các hãng khác có thể sx các máy tính tương thích và các bản mạch
cắm tương thích khiến cấu truc IBM-PC trở thành một cấu trúc chuẩn cơng nghiệp. Điều này khiến cho kiểu thiết
kế kín PS/2 (cùng thời) thất bại trên thị trường vi tính cá nhân trong khi cấu trúc IBM-PC ngày càng chiếm lĩnh
thị trường máy tính cá nhân. Bộ vxl 80386DX là một vxl 32bit hồn thiện với 32bit bus dữ liệu, 32bit bus địa chỉ
với bộ nhớ tối đa 4GB. Để đáp ứng tốc độ của 80386 và yc cao của những bản mạch điều khiển màn hình phân
giải cao, chuẩn khe cắm EISA (extended industry standard architecture) được đưa ra. Đây chính là chuẩn khe
cắm 32 bit với tốc độ truyền là 33Mbit/s.


1990: 80486 ra đời với nhiều chức năng hơn, cụ thể là 8 Kbyte bộ nhớ đệm mã lệnh (code cache) và
một bộ đồng xử lý tốn học. Tần số làm việc đặc trưng của máy vi tính trong thời kỳ này là 66MHz.
1993: Vxl Pentium đầu tiên ra đời mở ra một kỷ ngun mới với 64bit bus dữ liệu, 32bit bus địa chỉ, 8KB
bộ đệm dữ liệu, 8KB bộ đệm mã lệnh. Bộ đồng xử lý tốn học của Pentium làm việc nhanh gấp 10 lần so với
80486. Khi này các sx phần cứng lớn thoả thuận một chuẩn khe cắm mới PCI-bus (Peripheral Components
Interconnect), và do đó bản mạch chính máy vi tính cá nhân chỉ còn lại vài vi mạch, tất cả các vi mạch ngoại vi
của cấu trúc IBM-PC cũng như vi mạch điều khiển PCI được tích hợp vào một vi mạch duy nhất, có tên là PCI-
chipset.
1995: Khả năng đa mơi trường (multimedia) của máy vi tính cá nhân càng ngày càng hồn thiện khi
Pentium MMX , PenPro, Pen II lần lượt ra đời. Tần số đồng hồ cao nhất 300 MHz. Một chuẩn giao diện ngoại vi
mới ra đời từ sự thoả thuận từ nhiều hãng lớn là bus tuần tự đa dạng (Universal Serial Bus).
1999 P!!! Ra đời, chuẩn PC99 xố bỏ bus ISA. Bus PCI, giao diện đồ hoạ tiên tiến AGP, giao diện ngoại
vi USB và IEEE 1934 là những đặc điểm nổi bật.
1
Từ năm 2000: Một cấu trúc vxl 64bit ra đời. Intel cho ra đời nhiều vi mạch tổng hợp thích hợp với vxl
của chính hãng. Chipset đảm nhiệm hầu hết các chức năng điều khiển trên máy và có bộ điều khiển hiển thị cấy
ở bên trong . Thị trường máy tính cá nhân cũng như thị trường vxl và vi mạch tổng hợp được chia thành nhiều
phần đáp ứng nhu cầu đa dạng trong xã hội.
Trên đây có thể là những kiến thức cơ bản, có thể giúp bạn tham khảo, lắp ráp, nâng cấp máy tính. Đây
chỉ là một lượng kiến thức rất nhỏ trong vô vàn kiến thức về phần cứng. Hi vọng qua đó với những bạn mới tiếp
xúc với tin học có thể có thêm một chút khái niệm để đọc những tài liệu cao hơn, hay chí ít khi đọc những bài
viết chứa toàn những thuật ngữ tin học, bạn không phải bỡ ngỡ nhiều.
CHÖÔNG I: CAÙC BOÄ PHAÄN CUÛA MAÙY TÍNH
2
A.Thùng máy ( Case)
Có 2 dạng thùng thông dụng là loại nằm theo kiểu máy Mỹ và loại đứng theo kiểu máy Ðài Loan. Về phương
diện giải nhiệt trong điều kiện khí hậu nước ta thì loại đứng có ưu điểm đối lưu không khí tốt hơn nên ít nóng
máy và rộng rải thuận tiện cho việc lắp ráp hơn loại nằm.
Thùng máy loại thường có 2 ngăn 5 1/4 inch và 2 ngăn 3 1/2 inch (để gắn 2 loại ổ đĩa mềm, ổ CD-Rom, hộc
ổ cứng tháo rời ) ngoài máy và 2 ngăn 3 1/2 inch (để gắn ổ đĩa cứng cố định) trong máy, loại đặc biệt là 3 hay

4 ngăn 5 1/4 inch, 2 ngăn 3 1/2 ngoài máy và 4 ngăn 3 1/2 inch trong máy.
Mặt trước thùng máy luôn luôn có các chi tiết sau:
Nút bấm nguồn:
Dùng đóng, ngắt cả 2 dây điện nguồn để đảm bảo an toàn. Vì màn hình lấy điện qua 1 trạm trung gian ở
thùng máy nên nút bấm nầy cũng có tác dụng luôn cho màn hình.
Bộ nguồn của thùng máy có tác dụng đổi điện xoay chiều (110V hay 220V) thành điện 1 chiều ((12V và (5V)
cung cấp cho toàn bộ máy. Ðể tránh cắm nhiều dây lỉnh kỉnh, người ta thiết kế thêm 1 trạm nối điện cho màn
hình và 1 cầu chì bảo vệ cho cã bộ đổi điện và trạm nối. Trong bộ nguồn còn có thêm quạt hút nhỏ để hút hơi
nóng trong máy thổi ra ngoài.
Ðể đáp ứng vấn đề bổ sung các thành phần cần thiết sau nầy như: Card âm thanh, CD- Rom , bạn nên
chọn mua bộ nguồn có công suất 230W trở lên. Khi hoạt động, bạn chỉ nghe tiếng quạt hút cũa bộ nguồn, nếu
có tiếng động lớn hay có tiếng rít là có trục trặc như: quạt bị rít, cánh quạt chạm dây nối, bị quá tải Cần tìm
hiểu nguyên nhân để khắc phục sớm, nếu không có thể gây nguy hiểm cho các linh kiện điện tử trong máy.
Chú ý: Khi mở điện cho máy chạy, bạn không nên chạm vào bất cứ vật kim loại nào nối với máy tính kể cã các
đầu nối dây nếu bạn không mang dép, vì do thiết kế cũa bộ nguồn chúng sẽ có điện xoay chiều. Ðiều nầy là
bình thường, không phải do chạm dây và không ảnh hưởng gì đến hoạt động cũa máy.
Trong trường hợp bộ nguồn hư hay bạn cần nâng cấp bộ nguồn có công suất cao hơn, bạn nên tìm mua lẻ
về thay thế. Thường những chổ bán lẻ riêng bộ nguồn là những cửa hàng nhỏ. Ða số các cửa hàng lớn bán
luôn cả thùng máy.
ổ khoá bàn phím:
Dùng khoá lại, không cho sử dụng bàn phím để điều khiển máy tính.
Nút Turbo:
Là loại nút bấm tự giữ, dùng thay đổi tốc độ hoạt động cũa máy, bấm vào là nhanh (đèn Led sáng), nhả ra là
chậm (đèn Led tắt).
Nếu nút nầy có tác dụng ngược lại là do bị cắm ngược dây, cần phải tráo đổi lại dây 1 và 3 (nút có 3 dây cắm
lên Mainboard).
Nút Reset:
Là loại nút bấm không tự giữ, dùng khởi động lại máy tính trong trường hợp máy bị treo mà bàn phím không
thể khởi động lại bằng cách bấm Ctrl+Alt+Del. Nút nầy còn gọi là nút khởi động nóng vì quá trình khởi động
giống như tắt mở điện nguồn gọi là (khởi động nguội).

Ðèn báo số:
3
Dùng để trang trí cho đẹp, hoàn toàn không có tác dụng gì đối với hoạt động cũa máy. Bạn có thể tắt luôn cho
đở tốn điện nếu bộ nguồn có công suất thấp.
Khi bạn mua lẻ thùng máy, trong thùng sẽ kèm theo sơ đồ hướng dẫn cách Set đèn báo nầy, mỗi thùng máy
tuỳ theo kiểu sẽ có sơ đồ khác nhau. Còn khi mua cả máy, người bán sẽ không kèm sơ đồ nầy cho bạn. Nếu
muốn bạn có thể yêu cầu vì không có sơ đồ nầy bạn không thể Set mò được.
Mặt sau thùng máy có các chi tiết sau:
Bộ nguồn: Khi cắm dây không nên mở điện cho máy để tránh trường hợp bị điện giựt và cháy Card điều khiển
hay mainboard.
ổ nối dây điện nhà và ổ nối đây điện màn hình:
2 ổ nối nầy được thiết kế đặc biệt để tránh tình trạng nối lộn dây.
Nếu bạn muốn cắm màn hình riêng hay nếu màn hình của bạn có điện thế khác với diện thế cũa thùng máy,
bạn có thể thay đầu nối dây và cắm trực tiếp vào ổ cắm điện nhà thích hợp, không cần phải qua trạm trung gian
nầy.
ổ nối dây bàn phím:
Là loại ổ nối tròn DIN có 5 chân, bạn nên quan sát kỹ vị trí 5 chân để cắm cho đúng (nếu vị trí đúng, bạn chỉ
cần ấn nhẹ tay là vào), không nên cắm đại hay nhấn quá mạnh tay (do lệch chân mà không biết), có thể làm nứt
mainboard vì ổ cắm nầy hàn trực tiếp lên mainboard.
ổ nối dây tín hiệu màn hình:
Nói chung các ổ nối dây đều có hình dạng đặc biệt để tránh cắm ngược đầu dây hay cắm lộn dây. Khi cắm
cần phân biệt ổ cắm hay đầu cắm cái chỉ có lổ và ổ cắm hay đầu nối đực chỉ có chấu, ổ nối và đầu cắm phải
ngược nhau thì mới kết nối được.
Ðây là ổ nối cái, 15 chân, chia làm 3 hàng, do dây màn hình to và cứng nên sau khi cắm bạn nên bắt vít để
giữ cho chắc. Nếu cắm lỏng lẻo, màn hình cũa bạn chạy không ổn định.
Cổng COM 1:
Là loại ổ nối đực, 9 chân, chia làm 2 hàng. Thường dùng để cắm dây nối mouse.
Cổng COM 2:
Là loại ổ nối đực, 25 chân, chia làm 2 hàng.
Cổng Game:

Là loại 15 chân, cái, chân chia làm 2 hàng nên dài hơn ổ cắm dây màn hình. Các Mainboard đời mới PCI có
I/O on board hiện nay không có cổng Game, nếu bạn có Card âm thanh thì sử dụng cổng Game trên Card nầy
(gần như tất cả Card âm thanh đều có cổng Game) cũng được. Cổng Game của Card âm thanh còn được dùng
để nối với MIDI.
Cổng máy in (LPT):
Là loại 25 chân, cái, chân chia làm 2 hàng.
Chú ý: Cả 4 cổng đều nối vào 1 Card duy nhất là Card Super I/O nếu máy không phải là loại PCI I/O On Board.
Loại máy nầy không có cổng Game và 3 cổng còn lại nối trực tiếp lên mainboard.
4
Khi nối dây của cổng vào Card I/O hay mainboard coi chừng nối lộn đầu dây cắm của cổng COM 1 và COM 2
vì chúng giống nhau.
Trên đây là các chi tiết bắt buộc phải có cho 1 máy tính đơn giản nhất, nếu bạn có thêm Card bổ sung như:
Âm thanh, mạng, modem thì mỗi card nầy đều có thêm các ổ nối dính liền với Card.
2- Bàn Phím:
Bàn phím có rất nhiều loại, tốt xấu tùy theo giá tiền. Có 1 cách để xác định chất lượng nhanh và tương đối
chính xác là: Cầm bàn phím lên càng nặng tay càng tốt và ngược lại.
Bàn phím thường có 101 phím, bàn phím mới hổ trợ cho Windows 95 có 104 phím
3- Màn hình:
Có rất nhiều nhản hiệu và giá cả khác nhau. Người mua lần đầu khó có thể xác định chất lượng vì có bao
giờ "xài" qua cái nào đâu mà so sánh. Tốt nhất là dựa vào uy tín của nơi bán để an tâm về chất lượng. Theo
chúng tôi việc mua kính che là không cần thiết vì chưa có tài liệu chính thức nào công nhận bức xạ của màn
hình có hại cho con người và các màn hình đời mới đều có bức xạ rất thấp. Ngoài ra do gắn thêm kính lọc, bạn
phải điều chỉnh màn hình sáng hơn , tăng độ tương phản của màn hình để bù lại độ xám của kính lọc, tức là
bạn bắt màn hình chạy mạnh hơn và dỉ nhiên là mau giảm thọ hơn không xài kính lọc.
Màn hình loại cũ, điều chỉnh bằng nút vặn (analog). Màn hình mới, điều chỉnh bằng nút bấm (digital).
4- Mouse:
Hỗ trợ cho bàn phím khi chạy với Dos hay còn gọi là chế độ TEXT. Không thể thiếu được nếu chạy các
chương trình có giao diện đồ hoạ như Windows. Kèm theo Mouse có đĩa mềm chứa chương trình điều khiển và
sách hướng dẫn.
B.Phân biệt các thành phần trong thùng máy

1- Bộ nguồn:
Có hình khối chữ nhật nằm trên cùng, trong hộp đi ra các đầu đây nối gồm có:
- 2 đầu cung cấp điện cho mainboard. Lưu ý khi cắm 2 đầu nối nầu phải tuân theo nguyên tắc: 4 dây đen của
cả 2 đầu (mỗi đầu 2 dây) phải nằm liên tiếp sát nhau và nằm giữa.
- 4 đầu cung cấp điện cho các thành phần khác. Như: ổ đĩa cứng, ổ đĩa mềm, CD- Rom Nếu thiếu các bạn
có thể mua loại đầu nối chia 2 để bổ sung. Các đầu nối có 2 loại: Nhỏ riêng dùng cho ổ 1.4Mb, loại nầy dể cắm
lộn làm hư nguồn nên khi cắm cần quan sát kỹ chớ đừng cắm mò (2 cạng gờ của đầu nối dây phải ôm miếng đế
nhựa của ổ nối). Lớn dùng cho các thiết bị khác, loại nầy có 2 cạnh bị vát nên không thể cắm ngược được.
- 1 dây cấp điện cho bảng hiện số trước mặt thùng máy. Tuỳ theo thùng máy, có thùng không cần dây cấp
điện nầy.
2- Mainboard:
Là bản mạch lớn nhất trong thùng máy, trên bản mạch nầy có các đầu nối để cắm CPU, RAM, CARD bổ
sung.v v Thường bản mạch chiếm trọn 1 bên hông cũa thùng máy dạng đứng. Bản mạch nầy cần được bắt kỹ
vào vách đở của thùng máy, tối thiểu phải bắt 2 ốc để tránh xê dịch theo chiều ngang và có đầy đủ các chốt đệm
bằng nhựa để tránh nhún theo chiều đứng. Nếu không kỹ, khi ráp hay tháo card bổ sung dể làm bản mạch bị
xộc xệch gây ra chạm mạch hay nứt mạch in do oằn.
5
Nên chọn loại mainboard theo chuẩn PCI chứ đừng chọn VESA Local Bus để sau nầy khi nâng cấp máy,
bạn vẫn sử dụng được các card bổ sung cũ.
3- CPU:
Ðược cắm trên 1 đế cắm vuông bằng nhựa, nếu là 486 trở lên thì luôn luôn có kèm theo quạt để giải nhiệt
cho CPU. Cũng có vài loại CPU không có quạt mà chỉ dùng bản giải nhiệt dán cứng vào lưng CPU. Cần cẩn
thận tách các dây nhợ xa khỏi quạt vì chỉ cần quạt ngưng chạy do cánh quạt chạm vào một dây dẫn nào đó là
kể như quạt và CPU cùng "tiêu" một lượt.
Các mainboard 486 hay Pentium cho phép bạn thay đổi đủ loại CPU có tốc độ khác nhau, miễn là cùng họ
486 hay Pentium. Cho nên bạn có thể nâng cấp riêng con CPU theo túi tiền của bạn, nhưng khi thay đổi họ
CPU, bạn phải thay luôn mainboard. Khi mua máy hay mainboard, bạn phải đòi cho được sách hướng dẫn kèm
theo mainboard, nếu thiếu cuốn nầy kể như bạn không thể nào thay đổi gì trên mainboard, thậm chí không thể
sửa chữa máy của bạn khi có trục trặc. Ðối với mainboard PCI còn có thêm đĩa mềm chứa chương trình dành
cho thành phần I/O on board.

Khi tháo ráp CPU bạn cần lưu ý cạnh có dấu chấm trên CPU phải trùng với cạnh có chấm của đế cắm.
Thường cạnh nầy cũng vát xiên để dể phân biệt với 3 cạnh còn lại. Do CPU có nhiều điện thế hoạt động khác
nhau nên khi thay đổi CPU cần quan tâm tới việc Set lại điện thế cung cấp cho CPU, nếu quá cao, CPU sẽ "nổ".
4- Ram:
Là những miếng dài cắm vào các đầu nối đặc biệt dành riêng cho nó, thường có vị trí trên cùng, sát bộ
nguồn của máy. Tuỳ theo thiết kế của mainboard, có 3 loại Ram là:
- 30 chân: Hay có trong các mainboard đời cũ. Gồm 2 Band, mỗi Band bắt buộc phải cắm cùng lúc 4 cây Ram
giống nhau mới sử dụng được. Do bất tiện nầy nên hiện nay không còn sản xuất nữa.
- 72 chân: Các mainboard mới chỉ sử dụng loại nầy. Gồm 4 Band, mỗi Band chỉ cần 1 cây Ram là sử dụng
được nên dể thay đổi hơn loại cũ. Tuy nhiên tùy theo mainboard mà vị trí Band khi cắm 1 cây có thể khác nhau,
cũng có loại mainboard cho phép bạn cắm 1 cây vào bất cứ Band nào. Trong trường hợp sử dụng từ 2 cây ram
trở lên, bạn bắt buộc phải có sách hướng dẫn cũa mainboard để biết phải cắm theo thứ tự nào, và tuỳ theo
dung lượng cây Ram mà chúng có vị trí Band quy định khác nhau.
- 168 chân: Là loại mới nhất và nhanh nhất, mỗi cây có dung lượng 16Mb trở lên. Thường trên main board
đời mới có 4 slot 72 chân và 2 slot 168 chân.
Chú ý: Trên thị trường cũng có xuất hiện 2 loại bản mạch gọi là ConvertRam, dùng để chuyển đổi 4 cây ram 30
chân thành 1 cây 72 chân hay 2 cây ram 72 chân thành 1 cây 72 chân. Nó rất đơn giản, dể sử dụng và rất có
ích trong tình hình hiện nay, giá khoảng 20US trở lại.
5- Card màn hình và Card I/O:
Khi quan sát Card nầy hay Card I/O, ngoài việc phân biệt tên con Chip trên card, bạn cần chú ý thêm loại
giao tiếp của card.
- Card 8Bit: Có 1 đoạn chân để cắm vào ổ nối.
- Card 16Bit: Có 2 đoạn chân để cắm vào ổ nối, 1 đoạn chân dài và 1 đoạn ngắn hơn.
- Card 32 Bit VESA: Có 3 đoạn chân, trong đó ngoài 2 đoạn giống card 16 Bit còn có thêm đoạn thứ 3 có xẻ 1
rảnh nhỏ.
- Card 32Bit PCI: Chỉ có 1 đoạn chân ngắn, có xẻ 1 rảnh nhỏ.
6
Phải dùng Card 32Bit cho máy 486 trở lên. Trong trường hợp bạn mua mainboard PCI thì không có Card
I/O vì thành phần nầy nằm luôn trên mainboard (I/O on board).
Chú ý: Card 16 Bit có thể sử dụng được trên cả mainboard PCI và VESA, nhưng Card 32 Bit VESA chỉ sử dụng

được trên mainboard theo chuẩn VESA và tương tự vậy cho Card PCI.
Ði kèm với Card màn hình Và Card I/O là đĩa mềm chứa các chương trình điều khiển dành riêng cho Card
của hãng sản xuất và tài liệu hướng dẫn sử dụng cũng như tháo ráp card. Khi mua các bạn nhớ đòi cho được
mấy thứ nầy.
6- ổ đĩa mềm:
Thường hiện nay bạn chỉ cần ráp loại 1.4Mb, vì loại 1.2Mb không còn thông dụng và giá mắc hơn. Cách
kiểm tra ổ đĩa mềm hay nhất là bạn thử cho format 1 đĩa mềm, chép chương trình lên đĩa rồi đem qua máy khác
đọc và cho ổ đĩa đọc 1 đĩa mềm được format, ghi bằng máy khác. Nếu ổ đĩa không format được hay chỉ đọc
được đĩa do chính nó ghi thì bạn phải đổi ổ đĩa khác.
7- ổ đĩa cứng:
Nên mua loai IDE vì dể sử dụng và giá rẻ. Luôn luôn đòi hỏi người bán ghi chính xác dung lượng và nhản
hiệu ổ đĩa cứng vào hoá đơn vì đây là thiết bị quan trọng, mắc tiền và nếu hư thì quả là 1 tai họa lớn cho người
sử dụng. Kèm theo ổ đĩa dung lượng trên 528 Mb phải có đĩa mềm chứa chương trình điều khiển ổ đĩa của
hãng sản xuất, không có chương trình nầy bạn không thể dùng ổ đĩa trên các máy 386 hay 486 đời cũ do Bios
các máy nầy không chấp nhận ổ đĩa lớn hơn 528 Mb.
Trong trường hợp bạn mua mainboard đời mới, bạn có thể vào Bios Setup khai báo loại ổ đĩa dung lượng
cao nầy và sử dụng bình thường như các ổ đĩa loại nhỏ, không cần dùng chương trình quản lý đặc biệt chi cho
rắc rối.
C.Các thiết bị bổ sung cần thiết
1/ ổ CD-Rom:
Tổng quát: ổ đĩa CD-Rom có thể nghe được tất cả các đĩa nhạc dân dụng một cách độc lập qua lổ cắm
Headphone hay qua Card âm thanh bằng đầu nối âm thanh 3 chấu riêng. Khi đọc đĩa dành riêng cho máy tính, 2
đường âm thanh âm thanh nầy bị vô hiệu hoá vì dữ liệu và âm thanh nếu có đều được truyền bằng cáp dẹp,
đường cáp nầy bắt buộc phải nối và đâu là do thiết kế của ổ đĩa như phần trình bày dưới đây.
Hiện nay ổ CD Rom là thiết bị không thể thiếu của máy tính, vì tính kinh tế và đa dụng của nó.
ổ CD-Rom có 3 loại giao tiếp:
- Loại có Card riêng: Loại nầy khi sử dụng phải nối cáp tín hiệu vào Card riêng đi kèm theo ổ đĩa. Có Card cho
phép bạn nối với 4 loại ổ đĩa CD-Rom khác nhau (nhưng chỉ sử dụng mỗi lần 1 ổ). Trên Card sẽ có 2 chấu cắm
(L,R) giống chấu cắm của Radio Cassette để dùng cho việc nghe đĩa nhạc.
- Loại nối vào Card âm thanh: Ða số ổ đĩa CD-Rom thuộc loại nầy. Ðường cáp tín hiệu phải nối vào Card âm

thanh khi sử dụng. Nếu máy tính không điều khiển được Card âm thanh thì kể như không điều khiển được ổ đĩa
luôn (nghĩa là nếu bạn không có đúng Driver của Card Sound thi bạn sẽ không sử dụng được o đĩa CDRom).
- Loại IDE: Các ổ đĩa đời mới thuộc loại nầy, đường cáp tín hiệu dùng chung với cáp ổ đĩa cứng. Trên ổ đĩa CD-
Rom cũng có các Jump để xác lập là ổ đĩa chính (master) hay ổ đĩa phụ (slave). Tuy nhiên bạn không cần khai
báo trong Bios Setup, vì ta phải dùng phần mềm để điều khiển nó giống như khi bạn sử dụng ổ đĩa cứng theo
chuẩn giao tiếp SCSI.
7
Tốc độ của CD-Rom cho ổ dưới 12 được tính như sau: 150Kb cho tốc độ x1, như vậy nếu x2 là 300Kb, x4 là
600Kb, x6 là 900Kb. ổ trên 12 do thiết kế đặc biệt nên đọc ở tâm đĩa chậm hơn ngoài rià đĩa và chỉ ở ngoài rìa
mới đạt được tốc độ tối đa như quảng cáo.
Khi mua ổ đĩa CD-Rom, bạn nên chú ý các phẩm chất sau:
* Buffer: dung lượng Ram cache gắn trên ổ đĩa, dung lượng nầy càng cao càng tốt và ổ đĩa càng mắc tiền.
Dung lượng Buffer thường là 32Kb, 64Kb, 128Kb, 256Kb.
* Chuẩn tương thích: Càng tương thích với nhiều chuẩn càng tốt, tối thiểu phải tương thích với những chuẩn
sau: CD-CA, CD-ROM (mode 1, mode 2, Mixer mode, Multi session Photo CD, MPC2 ). Tương lai chúng ta sẽ
sử dụng nhiều loại đĩa CD ghi được nên chuẩn Multi session phải có để đọc chúng.
* Cách lấy đĩa ra khi máy không có điện: Có nhiều cách lấy đĩa khi không có điện, thường là có một lổ nhỏ ở
mặt trước máy, phiá dưới hộc chứa đĩa. Khi muốn lấy đĩa ra, bạn chọt một que nhỏ vào lổ nầy (ổ đĩa Sony) hay
dùng một cây vặn vít nhỏ chọt vào lổ và vừa vặn vít vừa dùng tay kéo học ra (các ổ đĩa khác). Có loại ổ đĩa rẻ
tiền không cho bạn lấy đĩa ra khi không có điện.
Ði kèm theo ổ đĩa CD-ROM phải có sách hướng dẫn và đĩa mềm chứa chương trình điều khiển.
2- Card âm thanh:
Card âm thanh có rất nhiều chủng loại giá chênh lệch rất khũng khiếp. Mắc nhất và chất lượng cao nhất là
của hãng Creative, rẻ nhất và chất lượng thấp nhất là của Trung Quốc. Rất khó đành giá chất lượng Card âm
thanh bằng cách nghe vì không có cơ sở để so sánh nên nhiều người chọn mua loại rẻ tiền mà quên rằng vấn
đề chuẩn rất quan trọng, các Card âm thanh của các hãng khác thường quảng cáo là tương thích hoàn toàn với
Sound Blaster của Creative nhưng thực chất lại không phải như vậy. Tất cả các phần mềm Multi Media muốn
phát hành rộng rải đều phải nhận diện và sử dụng được Card Sound Blaster vì đây là chuẩn về Card âm thanh,
còn các loại vô danh khác nó không cần quan tâm. Do đó sử dụng Card Sound Blaster là bạn hoàn toàn an tâm
cài đặt bất cứ chương trình nào, còn nếu sử dụng Card vô danh thì bạn coi chừng phần mềm không điều khiển

được và cả bộ vừa Card âm thanh, vừa CD-Rom đều vô giá trị.
Các bạn chú ý cho vấn đề sau: Card 8Bit, 16Bit, 32Bit là nói về việc xữ lý âm thanh chớ không có liên quan
gì đến tốc độ vận chuyển dữ liệu. Trong việc xữ lý âm thanh, Card càng nhiều Bit cho chất lượng ghi phát âm
thanh càng cao. Ðối với người sử dụng bình thường chỉ cần Card 16Bit là quá tốt (không thua gì dàn máy HIFI).
Card 32Bit chỉ cấn thiết cho dân chuyên nghiệp soạn nhạc có sử dụng Organ điện tử kết nối vào cổng MIDI của
Card âm thanh. Card 8Bit khi xữ lý các file âm thanh thì tốt nhưng khi nghe đĩa CD nhạc thì thật dở gần như trở
thành MONO, do đó khi nghe CD nhạc bạn nên nghe bằng lổ Headphone có chất lượng cao hơn khi nghe qua
card sound vì không bị card nầy xữ lý bậy bạ.
Thông thường khi mua Card âm thanh, ngoài sách hướng dẫn còn có thêm vài đĩa mềm hay có khi là đĩa
CD chức các chương trình điều khiển và các chương trình tiện ích về âm thanh kèm theo.
Chú ý: Hiện nay ổ đĩa CD-ROM x2 và Card âm thanh 16Bit chỉ còn khoảng 200US cho cả bộ. Ðây là tình
trạng đáng mừng, nhưng chúng tôi đang tìm hiểu nguyên nhân tuột giá nhanh như vậy vì chúng tôi sợ tình trạng
"remark" cho ổ đĩa CD-ROM (tốc độ 1 sửa thành tốc độ 2) hay là làm giả nhản hiệu các hãng danh tiếng.
Do ổ đĩa CD-Rom đã bắt đầu thông dụng nên trên thị trường xuất hiện nhiều loại đĩa CD dùng lau chùi đầu
đọc Laser của ổ đĩa, các bạn cũng nên kiếm mua đĩa nầy về để dành, giá chỉ khoảng 8US.
3/ Ðĩa mềm:
Thông dụng là đĩa 1.4Mb, đĩa 1.2Mb hầu như vắng bóng. Khi mua đĩa mềm nên chú ý: Hiện nay xuất hiện
đĩa giã rất nhiều, hiệu nào cũng có giã, đừng thèm chọn loại nổi tiếng mua chi cho tốn tiền vô ích, chất lượng
không hơn gì loại vô danh (bởi nó là giã), cứ việc chọn mua loại rẻ nhất mà xài là kinh tế nhất.
8
Khi sử dụng đĩa mềm nhớ đừng để đĩa gần vật có từ tính như: nam châm, màn hình, các bộ nguồn điện
nhà Nó sẽ bị xố.
4/ Ðĩa CD-ROM:
Ðại đa số đĩa CD-ROM ta sử dụng hiện nay là của Trung Quốc sản xuất lậu, chất lượng khơng cao nhưng
tính ra vẫn rất có ích vì giá rẻ. Ngồi ra còn có loại đĩa ghi được sản xuất tại thành phố.
Khi sử dụng đĩa CD-ROM, bạn chú ý các vấn đề sau:
Cùng 1 đĩa nhưng có ổ đọc được, có ổ khơng đọc được. Cùng 1 ổ nhưng có đĩa đọc được, có đĩa khơng, tuỳ
theo hiệu.
Nhiều khi trong một loạt đĩa, tất cả đều hư giống nhau, đó là lỗi sản xuất khơng khắc phục được.
Nếu đĩa bị trầy nhiều, khơng đọc được, bạn có thể đem đánh bóng (HTK) cho mất các vết trầy, đòi hỏi người

đánh phải có tay nghề cao để khi đánh, mặt đĩa khơng bị dợn sóng do mòn khơng đều. Hiện nay cũng đã có bán
các dụng cụ đánh bóng đĩa CD bằng tay giá khoảng vài chục ngàn VN.
Ðĩa CD loại ghi được, có thể ghi nhiều lần đến khi nào hết dung lượng đĩa thì thơi nhưng để đọc được đĩa
nầy, ổ đĩa CD phải tương thích với chuẩn Multi Session. Hiện nay các chổ ghi đĩa khơng nhận ghi nhiều lần cho
bạn vì sợ hư đĩa.
CHƯƠNG II: CẤU TRÚC CÁC THÀNH PHẦN CỦA MÁY TÍNH
9
1.Bộ nguồn ATX
Các máy tính sản xuất gần đây, nhất là từ Pentium II trở đi đều sử dụng mainboard và bộ nguồn theo chuẩn
ATX.
Bộ nguồn ATX hoạt động tiết kiệm, an toàn và linh động hơn bộ nguồn AT vì ta có thể điều khiển một số hoạt
động của bộ nguồn thông qua Bios trên mainboard. Thí dụ: Có thể bật/tắt máy từ xa thông qua card mạng,
modem, cổng Tắt máy bằng lịnh Shutdown của Windows 95. Theo dỏi tình trạng hoạt động của máy, kiểm tra
nhiệt độ CPU, Mainboard, tự động tắt máy để tiết kiệm nguồn hay để bảo vệ.
Ðiểm khác biệt lớn nhất khi ráp bộ nguồn ATX là đầu cắm cung cấp điện cho mainboard và công tắc Power.
-Ðầu cắm
Ðầu cắm ATX có 20 chân
Chân Tín hiệu Chân Tín hiệu
1 +3.3v 11 +3.3v
2 +3.3v 12 -12v
3 Ðất (Ground) 13 Ðất (Ground)
4 +5v 14 PW_ON (mở nguồn)
5 Ðất (Ground) 15 Ðất (Ground)
6 +5v 16 Ðất (Ground)
7 Ðất (Ground) 17 Ðất (Ground)
8 PWRGOOD (nguồn tốt) 18 -5v
9 +5vSB 19 +5v
10 +12v 20 +5v
-Công tắc Power
Do có 1 số tính năng điều khiển từ xa nên về nguyên tắc bộ nguồn phải luôn luôn được cấp điện. Bạn sẽ

không thấy công tắc Power tự giử theo kiểu AT nữa (Sau khi bấm, công tắc sẽ tự giử trạng thái đó cho đến khi
bấm lần nửa để thay đổi trạng thái), thay vào đó là 1 nút bấm kích (tự động trở về vị trí ban đầu sau khi ngưng
bấm) tương tự như nút Reset.
Khi bạn bấm nút nầy, đường tín hiệu thứ 14 của đầu cắm nguồn (PW_ON) sẽ được nối đất để tạo ra tín hiệu
mở máy nếu máy đang trong tình trạng tắt (hay tắt máy nếu máy đang trong tình trạng mở).
Chú ý: Khi mở máy bạn chỉ cần kích nút Power (bấm rồi nhả liền) nhưng đặc biệt khi tắt, tùy theo mainboard có
thể bạn phải bấm rồi giử sau 4 giây mới được nhả (do xác lập trong Bios).
Khi máy trong tình trạng tắt, thực sự bộ nguồn vẫn tiêu thụ 1 lượng điện rất nhỏ để duy trì sự hoạt động cho
mạch điều khiển tự động mở máy (theo xác lập trong Bios hay chương trình điều khiển). Chỉ khi nào bạn rút dây
cắm nguồn hay tắt điện bằng công tắt phía sau bộ nguồn thì máy bạn mới bị ngắt điện hoàn toàn.
10
-Kiểm tra bộ nguồn rời
Ðể kiểm tra nhanh bộ nguồn có hoạt động hay không, bạn có thể kích nối tắt đường tín hiệu 14 và 15 (chập
rồi nhả liền) hay chắc ăn nhất là cắm đầu nối nguồn vào Mainboard rồi kích nối tắt 2 chấu của Jumper PowerSw
trên mainboard (khi thử chỉ cần có bộ nguồn và mainboard ATX là đủ, không cần thêm gì nữa).
2.Bus (Baêng thoâng)
Hai loại bus tốc độ cao đang ganh đua chiếm ưu thế trên trường máy tính để bàn. Cái nào thích hợp hơn
cả với bạn để thực hiện các ứng dụng đồ họa đầy màu sắc hay gói dữ liệu
Lý do chính có thể được diễn giải bằng ba từ: Peripheral Component Interconnect (liên kết thành phần
ngoại vi) (PCI).
-Ngôn ngữ của Local Bus
Vấn đề trên đã được nhắc tới khi Windows đưa các hình ảnh đồ họa màu trung thực vào PC. Bên trong
CPU, bộ vi xử lý 486 chuyển dữ liệu với tốc độ 33MHz, sử dụng local bus 32-bit nội. Nhưng luồng dữ liệu đồ
hoạ lại đụng phải một đường dẫn hẹp một khi đi qua bus ISA. Được thiết kế cách đây 10 năm, ISA hoạt động
với 8MHz và là bus 16-bit. Khi các ứng dụng yêu cầu khả năng đồ họa màu thực, video chuyển động và hình
ảnh 3 chiều, lúc đó ISA trở nên bị quá tải.
Để loại trừ sự tắc nghẽn, các nhà sản xuất hệ thống và thiết bị ngoại vi đã phải tạo ra đường dữ liệu tắt cho
các thành phần có nhu cầu tốc độ nhiều nhất. Bằng cách nối trực tiếp mạch điều khiển đồ họa (graphic adapter)
và có thể các thiết bị khác vào bộ xử lý, các nhà sản xuất có thể tạo ra tuyến dữ liệu rộng nhanh cho các thành
phần cần tốc độ. Và đó là điểm chung cho sự ra đời của các chuẩn local bus giống với VL. Bằng cách tạo ra

một đường chung gắn vào bus tốc độ cao của bộ xử lý, local bus chuẩn đã loại bỏ hiện tượng tắc nghẽn dữ liệu
trong các máy PC.
Các bus VL và PCI đều thực hiện một công việc như nhau. Cả hai đóng vai trò là tuyến dữ liệu 32-bit giữa
CPU và thiết bị ngoại vi, hoạt động với tốc độ cao (PCI: 33MHz và VL: 40MHz), tốc độ truyền dữ liệu gần tương
đương (PCI 120MB/sec và VL: 132MB/sec). Hơn nữa, cả PCI lẫn VL đều có các đặc tính nhằm tương thích với
các thiết bị ISA sẵn có.
VL và PCI cung cấp hiệu năng tương đương, ít nhất cũng trên các hệ thống hiện có. Khi chạy các ứng
dụng Windows trên các hệ thống có cấu hình Pentium tương đương được trang bị bus VL hoặc PCI, không thấy
sự khác biệt hiệu năng rõ ràng. Trong khi hệ thống PCI cho thấy các hệ số tốt trong cuộc thử nghiệm, hệ thống
VL cũng cho thấy chỉ kém 2% điểm. Đối với nhiều người dùng, đó không phải là khía cạnh hiệu năng bắt buộc.
Nhưng hai chuẩn đã sinh ra từ đó - và sự khác biệt có thể xác định cái nào tồn tại lâu hơn. Bus VL được
xem như không đắt lắm, là giải pháp tiếp cận nhanh thị trường. Được xây dựng trên local bus sẵn có trên tất cả
CPU 486 Intel, VL hoạt động với tốc độ của bộ xử lý, hoặc đối với các CPU DX2 gấp đôi xung, nó hoạt động
bằng nửa tốc độ của bộ xử lý. Bus VL điều khiển tối đa 2 hoặc 3 thành phần, tăng cường hiệu suất các bo mạch
đồ họa và cả đĩa cứng. Điều quan trọng tuơng tự là các hệ thống bus VL và thiết bị ngoại vi giá rẻ, chỉ hơn chút
ít các phần hợp thành ISA của chúng.
Giá trị của công nghệ này sẽ bao nhiêu? Các nhà sản xuất nghĩ rằng sẽ đắt thêm hàng trăm dollar trên các
hệ thống PCI, nhưng giá có thể thay đổi khi Intel, công ty duy nhất sản xuất chip PCI, cố gắng thu hút bớt thị
trường của chuẩn bus VL.
-Chuyển dữ liệu trên bus
Tốc độ chuyển dữ liệu 16-bit của ISA - 8MHz quá chậm so với các CPU nhanh ngày nay, các tập tin lớn và
các ứng dụng đồ họa. Các bus PCI và local bus VESA (VL) tăng tốc độ chuyển dữ liệu, đặc biệt là dữ liệu liên
tục, chế độ làm việc của đĩa cứng và các bo mạch đồ họa. Tuy vậy mỗi loại sử dụng phương thức khác nhau để
chuyển dữ liệu giữa bộ nhớ hệ thống và thiết bị.
11
-VL Bus: giải pháp trực tiếp
Bus VL là phần mở rộng của local bus của CPU 486. Dữ liệu đi trực tiếp thông qua bus CPU đến bus VL.
Một vài loại bo mạch giao tiếp VL có trang bị vùng đệm nhằm giữ cho dữ liệu không bị mất trước khi thiết bị có
thể nhận được. Bởi vì bus VL chuyển dữ liệu với tốc độ từ 25 đến 40 MHz, các bo mạch VL phải điều khiển
được các tốc độ xung khác nhau. Mỗi bo mạch VL thêm vào một đường tải cho bus CPU, làm giảm số tín hiệu

của bus và hạn chế VL dùng chỉ cho hai hoặc ba thiết bị.á
-PCI Bus: hơn cả local bus
PCI thêm vào bộ điều khiển và mạch tăng tốc nhằm tạo ra bus tách biệt với bus của CPU, và các thiết bị
phụ nhằm tăng cường đường dữ liệu. Một phương pháp PCI dùng để tăng tốc độ chuyển là tăng tốc dữ liệu liên
tục. Đối với dữ liệu không liên tục, CPU phải mất thời gian xác định địa chỉ của đoạn dữ liệu cần đọc, sau đó tốn
thêm thời gian để đọc đoạn dữ liệu đó. Đối với dữ liệu liên tục, như vùng nhớ hình ảnh, tăng cường xác định địa
chỉ kế tiếp trong lúc đang đọc dữ liệu ở địa chỉ hiện hành. Một cách khác để chuyển dữ liệu liên tục, gọi là
multiplexing, là gấp đôi đường truyền bằng cách gửi dữ liệu xuống các đường địa chỉ. Sau cùng, mạch tăng tốc
PCI có thể lưu dữ liệu trong vùng đệm của nó, cho phép bộ tăng tốc đọc dữ liệu từ bộ nhớ đồng thời chuyển dữ
liệu cho thiết bị. Và bởi vì bus PCI tách biệt với CPU, tín hiệu của nó có thể cung cấp cho nhiều thiết bị hơn so
với bus VL.
PCI là một giải pháp mềm dẻo và tinh vi trên thị trường bus máy tính. PCI cho phép các nhà sản xuất
nhanh chóng thiết kế các loại PC khác nhau một cách đảm bảo.
3.Bo Mạch Chủ (Motherboard)
Trong số các thành phần cấu thành máy tính, nếu CPU là yếu tố quyết định khả năng và tốc độ xử lý
của hệ thống thì bo mạch chủ đóng vai trò tạo ra một môi trường hoạt động ổn định cho tất cả các thiết bị khác,
kể cả CPU. Bản thân tên gọi motherboard cũng chứng tỏ điều này.
Bo mạch chủ, hay còn gọi là bo mẹ (motherboard) có ý nghĩa rất lớn trong cả hệ thống PC của bạn. Bạn
có thể là chủ nhân của ổ đĩa cứng SCSI nhanh nhất, đầu DVD/CD-ROM tân kỳ, 64 MB SDRAM DIMM, BXL
Pentium II 400MHz, card âm thanh Creative Sound Blaster Live, đồ họa Voodoo II và modem V.90 56kbps
nghĩa là những gì tốt nhất có thể.
Nhưng tất cả những thứ trên sẽ đều không có nghĩa lý nếu máy tính của bạn thường xuyên bị treo, chạy
chập chờn. Đây là cơn ác mộng của nhiều người dùng máy tính mà có lẽ nguyên nhân chính là bạn đang có
một bo mạch chủ chất lượng kém.
Thật không có gì tồi tệ hơn khi bạn vừa hoàn tất bản luận án 80 trang được trình bày tỷ mỉ với nhiều
hình ảnh minh họa, và ghi thực hiện động tác lưu cuối cùng, máy tính đột ngột đưa ra thông báo lỗi "chết
người", đại loại như "không thể lưu lên đĩa cứng bởi ", và sau đó hoàn toàn bất động trước mọi thao tác của
bạn. Chỉ còn cách cuối cùng là tắt máy rồi bật lại. Kết quả thật thảm hại: tập tin Word của bạn giờ đây chỉ là rỗng
tuếch với kích thước 0 byte. Tất cả những nỗ lực của bạn nhằm hồi phục lại tập tin đều vô nghĩa. Cũng từ đây,
bạn mới hiểu được tác hại của một bo mạch chủ tồi.

-Bài học về tốc độ
Đối với người tự lắp ráp máy tính, điều quan trọng là phải chọn đúng bo mạch chủ. Bởi nếu có trục trặc
sau này, bạn phải tự mình xoay sở lấy mà không có sự hỗ trợ kỹ thuật nào. Bạn có thể đẩy tốc độ bus PCI lên
đến 133MHz, nhưng khi đó đừng đòi hỏi nhà cung cấp đổi cho bạn bo khác trong trường hợp sự cố. Tốc độ
quan trọng, nhưng tính ổn định có ý nghĩa lớn hơn. Có gì hay ho khi bạn lái xe với tốc độ 200km/h để chỉ đi
được nửa quảng đường vì xe chết máy. Tốc độ của bo mạch chủ phải nhanh. Tuy nhiên sự ổn định và những
đặc tính khác như khả năng hỗ loại CPU, chế độ tiết kiệm năng lượng, các đầu kết nối I/O và kiểm soát nhiệt
độ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo dưỡng hệ thống và đáng giá với chi phí bỏ ra.
Để minh họa, bạn hãy thử xem thử một máy server dùng cho LAN. Server và các phần mềm đi kèm
không chỉ mạnh về cấu hình, tính năng mà nó còn báo trước được những sự cố sắp xảy ra, cho dù đó là đĩa
cứng hay các vấn đề liên quan đến mạng, và thường là tự khắc phục chúng. Điều này cho thấy tầm quan trọng
12
của sự ổn định và độ tin cậy của một hệ thống. Bạn dể dàng nhận thấy là các máy PC xoàng xĩnh thường có
nhiều thiết bị, tính năng phụ trợ bổ sung nhằm hấp dẫn người mua.
-Thử nghiệm thực tế
Chúng ta cùng xem xét một số bo mạch sử dụng chip "Klamath", Pentium II của Intel. Đây không phải là
những CPU mạnh nhất, và chúng sử dụng loại SDRAM DIMM 66MHz và thậm chí còn EDO DRAM
SIMM/DIMM. Các bo mạnh dựa trên bộ chip 82440LX này không hỗ trợ AGP và có giá thấp trong số các bo
mạch Slot 1. Các bo mạch mới loại Super Socket 7 (bus 100MHz) vừa được đưa ra có giá cao hơn. Loại bo
mạch tân tiến và nhanh nhất sử dụng bộ chip Intel 82440BX AGP có thể chạy ổn dịnh ở tốc độ 100MHz và hỗ
trợ AGP, SDRAM DIMM 100MHz và tính năng tự kiểm soát. Nhưng đối với các bạn, người tự lắp ráp máy tính,
thì hay nhất có lẽ là đặc tính tự phát hiện và tự cấu hình được cài sẵn vào nhiều bo mạch loại BX, giúp bạn khỏi
phải khó nhọc với các jumper và switch DIP (dual in-line package).
Ngoài ra, các thiết bị ngoại vi được sử dụng cùng với bo mạch bao gồm: đĩa cứng Quantum Fireball
SE2 2,1 GB, 64MB SDRAM DIMM cho các bo mạch LX và 64MB SDRAM DIMM 100MHz theo chuẩn PC-100
cho bo mạch BX; Card AGP và 2D/3D; 24x CD-ROM
Vấn đề tồn tại chung cho tất cả các bo mạch, và không chỉ đối với các loại đang xem xét mà còn tất cả
bo mạch trước đây là sự không cẩn thận, lẫn lộn, đôi khi sai trong tài liệu và sơ đồ hướng dẫn. Thật khó để xác
định vị trí cắm đèn LED của đĩa cứng, và thậm chí cả công tắc nguồn. Điều này có thể do phần lớn các bo mạch
chủ đều được sản xuất tại Đài Loan, nơi mà tiếng Anh chưa phải thông dụng.

Với người dùng PC, không có gì hạnh phúc hơn khi máy tính khởi động chuẩn xác. Nếu tất cả được cấu
hình đúng, trò chơi 3D sẽ chạy nhanh và trơn tru, các ứng dụng văn phòng được thực hiện nhịp nhàng, không
có sự trì trệ khó chịu. Hơn nữa, bạn có thể tin chắc rằng bo mạch của bạn đang kiểm soát nhiệt độ và mọi hoạt
động của nó với sự chính xác và cẩn thận.
Bo mạch sử dụng bộ chip Intel 822440BX
Aristo AM-608BX
Được giới thiệu như một bo mạch tích hợp cao, gọn và có
giá hấp dẫn, Aristo AM-608BX hỗ trợ SDRAM và Registered
SDRAM, có đặc tính Super I/O, Ultra-DMA/33, PCI Bus
Master IDE, AGP version 1.0, tuân thủ PCI version 2.1, USB,
theo chuẩn VRM 8.2, kiểm soát hệ thống LM79/75 và
Creative sound (tùy chọn). Khe cắm Slot 1 có thể tiếp nhận
bất kỳ loại Pentium II nào từ 233 - 450MHz với tốc độ bus
66MHz hoặc 100MHz. Voltage Regulator Module (VRM)
được cài sẵn trên bo cho phép dễ dàng nâng cấp lên các bộ
xử lý OverDriver của Intel trong tương lai.
Bo mạch hỗ trợ đến 412MB SDRAM hay 1GB
Registered SDRAM với các khe DIMM 168 chân. SDRAM chỉ được hỗ trợ cho bus 66MHz. Có 4 khe DIMM (đủ
để nâng cấp bộ nhớ), 3 khe cắm ISA (1 dùng chung với PCI), một khe cắm AGP1 (hỗ trợ version 1.0, 1x/2x), và
4 khe cắm PCI Bus-Master. Bo mạch thuộc loại ATX (ATX form factor). BIOS hệ thống là loại flash có thể nâng
và có jumper để thay đổi điện áp 5V hay 12V. BIOS có thể nhận biết đĩa cứng loại LBA với dung lượng trên
8,4GB. Về khả năng quản lý năng lượng, Aristo hỗ trợ SMM, APM và ACPI.
Ngoài ra, còn có công tắc chuyển đổi dùng để tạm ngưng thao tác hệ thống (suspend/resume), Wake-
On-LAN (WOL), Wake-On-Ring (WOR) dùng cho modem và tuân theo tiêu chuẩn Energy Star "green PC". Bo
Aristo AM608BX là loại PC97/98 và bao gồm cả tính năng kiểm soát hệ thống.
AZZA PT-6IB
13
Đây là bo mạch nhanh thứ hai trong số các bo BX được xem xét (điểm PC WorldBench 98 là 172), và
thuộc loại tốt đối với tùy chọn giá thấp. Tuy nhiên, có vài vấn đề về setup và phải khởi động lại vài lần. Nhưng
sau khi thiết lập, bo mạch hoạt động bình thường.

Điều gây nhầm lẫn là hàng chân nối đèn tín hiệu của LED/power/HDD không có ký hiệu cho cực
dương/âm (+/-), buộc người dùng phải tự mò mẫm để thử.
Với một PCI Local Bus, PT-6IB là bo mạch loại ATX dựa trên
cơ sở bộ chip hệ thống 82440BX AGPset và Winbond I/O. Nó
bao gồm hai kênh PIO (Programmed Input/Output) và cổng
Ultra-DMA/33 Bus Master mode PCI IDE cài trên bo, một cổng
điều khiển đĩa mềm, hai cổng serial tốc độ cao (UART) và một
cổng parallel nhiều chế độ, hỗ trợ mouse PS/2, cổng hồng
ngoại IrDA và USB. AZZA có thể chạy với các chip Pentium II
từ 233 đến 450MHz với cấu trúc SEC.
Ngoài ra, PT-6IB còn có các đặc tính như mạch chỉnh điện áp,
hỗ trợ +1,8V DC đến +3,5V DC của CPU, kích thước từ có thể
là 8-, 16-, 32- và 64-bit, đường địa chỉ 32-bit. Trên bo có 3 khe
cắm DIMM 168 chân, cho phép tối đa 384MB bộ nhớ loại parity
và ECC (error correcting code). AZZA PT-6IB hỗ trợ tính năng
Wake-On-LAN và các chức năng Green (tiêu chuẩn môi
trường).
DFI P2XBL
Bo mạch P2XBL được trang bị đế cắm CPU Slot 1 cho Pentium II các loại từ 266MHz đến 450MHz. PCI
Bus có thể thiết lập 66MHz hay 100MHz. Với 3 khe cắm dành cho bộ nhớ loại DIMM 168 chân, kích thước bộ
nhớ có thể đạt 384MB. Khe cắm mở rộng bao gồm: một dành riêng cho AGP, ba PCI, hai ISA và một chung cho
PCI/ISA. Tất cả khe cắm PCI và ISA có Bus Mastering. P2XBL hỗ trợ bộ nhớ EC và ECC.
Hệ thống kèm theo Desktop Management Interface (DMI) 2.0 được cài vào Award BIOS có thể nâng cấp.
Tiện ích này tự động ghi lại các thông tin về cấu hình hệ thống và lưu
chúng vào "vùng DMI" (một phần trong BIOS Plug-and-Play của hệ
thống. DMI được thiết kế nhằm giúp việc bảo dưởng, sửa chữa, khắc
phục sự cố trở nên dễ dàng hơn. Kết nối I/O có sẵn trên bo mạch bao
gồm: hai cổng serial ND16C550 tương thích DB-9, một cổng parallel
SPP/ECP/EPP DB-25, một giao tiếp cho đĩa mềm hỗ trợ đến hai ổ đĩa
mềm loại 2,88MB, một cổng mouse PS/2 mini-DIN-6, một cổng bàn

phím PS/2 mini-DIN và một đầu nối Wake-On-LAN. Ngoài ra, bo mạch
còn có một cổng IrDA và hai USB.
Bộ điều khiển PCI Bus Master IDE cho phép hai giao tiếp PCI IDE hỗ trợ 4 thiết bị IDE. Bo mạch cũng
hỗ trợ Ultra-DMA/33 (chế độ Synchronous Ultra DMA/33), Enhanced IDE PIO Mode 3 và Mode 4 với tốc độ
truyền 16,6MB/s, ATAPI CD-ROM và LS-120 và Iomega ZIP. DFI P2XBL còn có đầu cắm cho Creative SB-Link
để kết nối giữa bo hệ thống và card Creative SB PCI. Bo mạch này có khả năng theo dõi và điều khiển nhiệt độ
làm việc và hoạt động của quạt thông gió.
P2XBL đạt 172 điểm trong thử nghiệm. Setup bo mạch dễ dàng và nó làm việc ổn định.
Elitergroup P6BX-A+
Đây là bo mạch nhanh nhất và cũng là một trong số những bo mạch nhiều tính năng nhất (điểm trắc
nghiệm 176). P6BX-A+ không chỉ chạy ổn định mà còn rất dễ setup, cả điện áp cho BIOS và xung nhịp đều
được tự động thiết lập. Tuy nhiên, tài liệu hướng dẫn còn chưa hoàn hảo.
14
Bo mạch có 3 khe cắm DIMM, có thể tiếp nhận 384MB SDRAM
loại 3,3V. Elitegroup chỉ sử dụng SDRAM 100MHz tuân theo chuẩn
PC-100 để đạt tốc độ cao nhất. Đặc tính tiết kiệm năng lượng bao
gồm nguồn cung cấp loại ATX và ACPI. BIOS hệ thống hỗ trợ tự
động Wake-On-LAN và Wake-On-Call. P6BX-A+ còn được trang bi
SB-Link của Creative, cho phép tương thích ngược giữa chip PCI
audio và chip ISA audio (thuật ngữ thường dùng là "PC to PCI
bridge").
Bo mạnh có 7 khe cắm mở rộng: hai ISA 16-bit, năm PCI 32-
bit (trong đó 1 dùng chung với ISA) và một khe cắm AGP. Các cổng
chuẩn gồm hai kênh Enhanced IDE, mỗi kênh hỗ trợ hai thiết bị; một đầu nối hỗ trợ hai ổ đĩa mềm; một cổng
parallel và hai cổng serial; hai cổng USB; hai cổng PS/2 (cho mouse và bàn phím). Sử dụng firmware (phần
mềm được cài cứng), bạn có thể cài thêm phím nóng để bật nguồn (power-on hot-key).
Gigabyte GA-686BX
Gigabyte là một trong những nhà sản xuất có tên tuổi trên thị trường hiện nay. Bo mạch mới GA-686BX
của Gigabyte (172 điểm PC WorldBench 98) kèm theo một đĩa CD-ROM với 6 tiện ích hữu dụng cho mainboard.
Tài liệu trình bày tốt với nhiều sơ đồ và hình ảnh. Bo mạch làm việc tốt và ổn định. Các đầu cắm cho LED, DIP

swich được bố trí hợp lý, mạch lạc và tiết kiệm chỗ.
Về tính năng, GA-686BX được trang bị một khe cắm AGP, đế Slot 1 tiếp nhận Pentium II 233 - 450MHz.
Tốc độ bus có thể thay đổi 66 hay 100MHz và được tự động điều chỉnh. Bo mạch gồm bộ chip Intel 440BX
AGPset, Winbond 83977 I/O và chip Winbond 83781 Health (tương đương với LM78). Bộ chip 440BX hỗ trợ đặc
tính Quad-Port Acceleration (QPA) của Intel, cho phép mở rộng
băng thông giữa CPU, AGP, 100MHz SDRAM và bus hệ thống
PCI. Phần bộ nhớ gồm 4 khe cắm 3,3V DIMM với khả năng hỗ trợ
tới 1GB DRAM. Khả năng mở rộng gồm 1 khe cắm AGP, bốn khe
PCI và ba khe ISA.
GA-686BX được trang bị 2Mbit Award BIOS loại flash có chức
năng chống virus và Green. Nó còn cung cấp những thông tin bổ
ích như nhiệt độ CPU và tình trạng quạt gió. Đầu cắm nguồn loại
ATX và các chế độ tắt/mở được áp dụng công nghệ mới nhất. Bo
mạch còn hỗ trợ Wake-On-LAN, đầu nối Creative SB-Link, cầu chì
bảo vệ bàn phím. Các driver bao gồm LDCM, SIV, Intel PIIX4 và
Ultra DMA/33 Bus Master IDE.
Microstar (MSI) MS-6116
Giống như bo mạch LX, MS-6116 với bộ chip 82440BX có đầy đủ tính năng và là bo mạch rất ổn định.
mặc dù chỉ đạt điểm 170 (thấp nhất trong thử nghiệm). Nhưng bạn cần biết rằng khác biệt 10 điểm không đáng
kể và khó nhận thấy đối với nhiều người. Bo mạch có nhiều khả năng tự theo dõi và kiểm soát nhiệt độ tăng
cường.
Một số đặc tính cơ bản của MS-6116 là tuân theo chuẩn
PCI/ISA và Green, kết nối Host/AGP, các chức năng ACPI, hỗ trợ
Ultra-DMA/33 và SHMC (system hardware monitor control).
SHMC có thể nhận biết CPU, nguồn điện, vòng quay của quạt và
kiểm soát điện áp và nhiệt độ của CPU, hệ thống. Đế cắm Slot 1
trên bo có thể dùng cho Pentium II 233 - 400MHz. Tỷ lệ tốc độ
lõi/bus được thay đổi từ x2 đến x6 hoặc cao hơn. Switching
15
Voltage Regulator cho phép điều chỉnh điện áp DC và tuân theo chuẩn Intel VRM 8.2. Bo MS-6116 hỗ trợ cho

bus 66,6MHz và 100MHz, cũng như dành cho 75MHz và 83MHz.
Bộ nhớ chính gồm 4 khe cắm DIMM cho phép đạt tối đa 512MB. Bo mạch cũng hỗ trợ chức năng ECC và hỗ
trợ 3,3V SDRAM DIMM. Có thể mổ rộng với một khe AGP (hỗ trợ thiết bị AGP bất kỳ với 66MHz/133MHz và
3,3V), 4 khe cắm PCI và 3 khe ISA (một khe cho cả ISA và PCI). MS-6116BX hỗ trợ PCI Bus Interface 3,3/5V.
Bộ điều khiển IDE trên cơ sở bộ chip Intel 82371EB PCI cho phép một ổ cứng và/hay một ổ CD-ROM
với PIO, Bus Master và Ultra-DMA/33. Các thiết bị cài sẵn trên bo gồm cổng cho 2 ổ đĩa mềm, hai cổng serial,
một parallel (SPP/EPP/ECP), hai USB và một IrDA.
Tyan S1846S/L/A Tsunami ATX
Bo mạch chất lượng cao của Tyan giành được sự tin cậy của người dùng trên thế giới (mặc dù giá cũng
cao). Bản hướng dẫn sử dụng bo mạch rất rõ ràng, cẩn thận và chi tiết, tốt nhất trong số các tài liệu được xem
xét.
Về những đặc tính cơ bản, S1846S/L/A Tsunami ATX có thể hỗ trợ Pentium II 233MHz đến 400MHz và
cao hơn. Ngoài ra còn có tùy chọn cho chip Celeron. Bo mạch chạy ở tốc độ bus 66MHz hoặc 100MHz và trên
bo cài sẵn các thành phần VRM. Tsunami được trang bi bộ chip National "309" Super I/Ovà Intel 82440BX
AGPset. Bo mạnh sử dụng công nghệ GTL+ cho phép giảm năng lượng tiêu thụ và EMI (electro-Magnetic
Interference). Ngoài ra còn có đặc tính Wake-On-LAN khi sử dụng với bộ nguồn ATX. Một tính năng khác là
power-recovery-after-interrupt (hồi phục nguồn sau khi ngắt).
Khả năng mở rộng của bo mạch gồm 5 khe cắm 32-bit PCI,
hai khe 16-bit ISA và một khe chung PCI/ISA. Trên bo có hai
cổng USB loại ATX, một IrDA, một cổng parallel tốc độ cao,
hai cổng serial UART16550 và hỗ trợ ổ đĩa mềm Mode-3. Hệ
thống I/O và điều khiển đĩa gồm hai cổng Ultra-DMA/33 PCI
Bus Master cho phép CD-ROM loại EIDE. Bus Mastering hỗ
trợ PIO Mode 3 và 4 (tốc độ truyền đạt 22MB/s) và hai ổ đĩa
mềm (dung lượng đến 2,88MB).
Các bo mạch chủ (BMC) dùng cùng chipset thường
có tính năng rất giống nhau, tuy nhiên BMC ECS có thêm một
số đặc điểm mới khá độc đáo làm cho sản phẩm của hãng
khác biệt với các thương hiệu khác. Các BMC ECS được thử nghiệm trong tháng này đều dùng chipset Intel hỗ
trợ bộ xử lý (BXL) Intel socket 775, trong khi Gigabyte dùng BXL AMD socket 939 cũng được thêm vào nhiều

tính năng cao cấp càng làm tăng hiệu năng cho hệ thống vốn đã mạnh này.
ECS 865-M7
Các BMC dùng chipset Intel 865GV thường dùng BXL socket 478, hỗ trợ VGA
tích hợp nhưng không có khe AGP để nâng cấp đồ họa. ECS 865-M7 tuy cũng
dùng chipset 865GV nhưng có một số cải tiến khá hay như hỗ trợ BXL Intel
socket 775 mới, đồ họa tích hợp và có thêm khe AGP Express (thuật ngữ riêng
của ECS) cho phép nâng cấp khi cần khả năng xử lý đồ họa mạnh hơn, khe
CNR dùng cho card âm thanh, mạng hoặc modem với giá thấp hơn card thường.
BMC này được thiết kế theo chuẩn Micro ATX nên khá gọn, tuy nhiên cũng làm
cho việc tháo/lắp bộ nhớ hơi bất tiện nếu có card đồ họa rời.
ECS 865-M7 đáp ứng tốt nhu cầu phổ thông dành cho gia đình và văn phòng với các giao tiếp cần thiết có sẵn
như âm thanh 6 kênh, mạng 10/100, SATA, VGA tích hợp giúp tiết kiệm chi phí. Kết quả thử nghiệm cho thấy
ECS 865-M7

16
BMC có tốc độ xử lý các ứng dụng thông thường khá cao, khả năng xử lý đồ họa tương đối tốt, tuy nhiên với
các tác vụ đồ họa nặng thì hiệu năng giảm đi khá nhiều.
ECS 915G-A và ECS 915P-A
ECS 915G-A và 915P-A có thiết kế rất giống nhau từ vị trí khe cắm, ngõ giao
tiếp, thiết bị đi kèm và tính năng ngoại trừ 915G-A có đồ họa tích hợp.
Cả hai BMC đều hỗ trợ bộ nhớ DDR và DDR2 với công nghệ dual channel (kênh
đôi) nhưng cùng lúc chỉ dùng được một loại; với 2 khe nên có thể hỗ trợ tối đa
2GB. Cả hai đều dùng họ chipset 915 của Intel nên có khe đồ họa PCI Express;
ngoài ra ECS còn tăng cường thêm khe AGP Express nên người dùng “tự do”
hơn trong việc lựa chọn card đồ họa; riêng 915G-A có thêm VGA tích hợp khá
mạnh nên có đến 3 tùy chọn: tích hợp, PCI Express và AGP Express. Hai BMC
còn có các điểm đặc trưng của dòng chipset 915 gồm âm thanh 8 kênh, giao tiếp đĩa cứng SATA, mạng gigabit.
Khả năng xử lý của 915P-A khá cao trong cả ứng dụng phổ thông và đồ họa,
915G-A có vẻ chưa thể hiện được sức mạnh trong ứng dụng phổ thông khi kém
hơn 915P-A khá nhiều, phần xử lý đồ họa có được cải thiện nhưng vẫn kém chút

ít so với 915P-A, tuy nhiên BMC này có được chip đồ họa tích hợp giúp tiết kiệm
chi phí.
ECS 915P-PF4 Extreme
ECS 915P-PF4 thuộc dòng Extreme nên có thiết kế hay và nhiều tính năng cao
cấp. Điểm đáng chú ý đầu tiên là hệ thống tản nhiệt cho chip cầu bắc, cầu nam trông khá hay với dòng chữ
Extreme, ngoài ra còn có quạt tản nhiệt với khung dẫn luồng khí màu xanh đọt chuối nổi bật nằm ngay vị trí của
giao tiếp máy in LPT, vì vậy LPT được chuyển ra gắn phía sau thùng máy bằng cáp đi kèm. BMC có hệ thống 5
đèn LED nằm cạnh các khe PCI và PCI Express x1 giúp chẩn đoán lỗi.
BMC dùng chipset Intel 915P, hỗ trợ 4 khe bộ nhớ DDR2 dual channel, đồ họa PCI Express và nhiều giao tiếp
cao cấp khác gồm IEEE 1394 cho video, âm thanh 8 kênh, ngõ vào/ra cho âm thanh số SPDIF, 6 giao tiếp
SATA, mạng gigabit, khe PCI Extreme với băng thông lớn rất hiệu quả nếu dùng cho card âm thanh chất lượng
cao. ECS 915P-PF4 Extreme được thiết kế với các tính năng và công nghệ dành cho máy chủ (server) với bo
mạch 6 lớp, đặc tính Trinity RAID cần thiết cho file server, Dual LAN giúp BMC
trở thành người trung gian, có thể “trò chuyện” với cả Internet và intranet. Sức
mạnh của 915P-PF4 Extreme còn thể hiện ở các tiện ích đi kèm và cho phép
chỉnh xung hệ thống ở bước nhảy 1MHz.
Kèm theo BMC có BIOS dự phòng cho trường hợp BIOS chính bị lỗi và mặt nạ
đưa giao tiếp USB và IEEE 1394 ra phía trước thùng máy giúp thao tác thuận
tiện hơn.
ECS 915P-PF4 Extreme với nhiều giao tiếp, công nghệ dành cho server, tốc độ
xử lý cao nên có thể đáp ứng yêu cầu máy tính mạnh để giải trí, xử lý đồ họa hay làm server cho gia đình hay
văn phòng nhỏ.
Gigabyte K8NXP-SLI
K8NXP-SLI thuộc dòng 8 Sigma cao cấp của Gigabyte được thiết kế bắt mắt, trông “rất ngầu” với nhiều khe
cắm và ngõ giao tiếp.
BMC dùng chipset nForce4 SLI cao cấp của NVIDIA, hỗ trợ BXL AMD K8 socket 939, bộ nhớ DDR dual channel
cho phép mở rộng đến 4GB; 10 ngõ USB, 3 IEEE 1394, 8 khe SATA, âm thanh 8 kênh và ngõ vào/ra cho âm
thanh số, giao tiếp đĩa cứng qua SATA RAID và có cả giao tiếp “mới toanh” SATA2 hỗ trợ RAID cho tốc độ gấp
đôi SATA, hai ngõ mạng tốc độ gigabit tăng cường giao tiếp mạng.
Điểm đặc trưng của dòng 8 Sigma là hệ thống nguồn phụ DPS (Dual Power System) với quạt tản nhiệt giúp

tăng tính ổn định dòng, công nghệ Dual BIOS cũng không thể thiếu giúp khôi phục BIOS. BMC này cũng có sẵn
card mạng không dây giúp K8NXP-SLI trở thành trung tâm “truyền thông” cho cả mạng không dây và có dây.

ECS 915G-A
ECS 915P-A


ECS 915P-PF4 Extreme
17
Điểm đặc biệt của chipset nForcd4 SLI là công nghệ SLI (Scalable Link Interface) cho phép BMC chạy cùng lúc
2 card đồ họa hỗ trợ SLI, vì thế xử lý đồ họa mạnh lên rất nhiều.
Nếu bạn chọn mua sản phẩm này nhưng là bộ đặc biệt (limited edition) thì có cả
card đồ họa Dual 6600GT. Card 2 trong 1 này (hỗ trợ SLI) có sẵn 2 chip NVIDIA
GeForce 6600GT và được tản nhiệt bằng hai quạt, có ngõ ra VGA, DVI và S-
Video. Đây là sản phẩm mới của Gigabyte, nổi bật với bộ nhớ 256MB DDR3,
trong đó mỗi chip 6600GT là 128MB với băng thông 256bit.
Kèm theo BMC gồm nhiều phụ kiện (xem bảng) và nhiều tiện ích hay giúp xem
thông tin, ép xung, phục hồi và cập nhật hệ thống Việc cài đặt trình điều khiển
cho BMC đơn giản với giao diện web và chỉ cần chọn cài đặt một lần cho tất cả
thiết bị.
Với kết quả thử nghiệm thì K8NXP-SLI chưa phát huy sức mạnh với các ứng dụng phổ thông của SYSmark
2004 và PCMark04, nhưng đối với 3Dmark03 thì hệ thống này quá tuyệt vời với tốc độ “chóng mặt” khi dùng
card đồ họa Dual 6600GT. Tuy chưa công bố nhưng chúng tôi nghĩ giá của sản phẩm này có thể ở mức gây
“choáng”. Nếu bạn luôn “quay quắt” với công nghệ cao như IEEE 1394, SATA RAID, SATA2 RAID, SPDIF,
Wireless LAN và SLI; sức mạnh xử lý và đặc biệt là đồ họa thì sản phẩm này là sự lựa chọn đáng giá.
4.TÌM HIỂU, PHÂN LOẠI, VÀ NHẬN DẠNG CPU
Giới thiệu
Ðể phần nào giúp đỡ các bạn mới trong việc chọn lựa và phân loại cpu, tôi viết bài nầy để chia sẽ cùng
các bạn một số kiến thức căn bản về cpu. Những thông số và hình ảnh trong bài là do tôi đã thu thập từ internet
vốn hầu hết từ các tác giả ở Mỹ. Cũng vì mục đích học tập, tôi nêu lên đây chung để các bạn khác tiện theo dõi

và kiểm tra loại cpu (thường là củ) mình đang có hoặc sắp mua. Nếu bạn nào thấy cần thiết sao chép, truyền bá
thì cá nhân tôi rất khuyến khích bạn, tuy nhiên để mang tính trung thực, mong các bạn không nên sửa đổi (thêm
Gigabyte K8NXP-SLI

18
bớt) nếu bạn không chắc chắn trong nguồn tin để trách việc truyền đạt thông tin thiếu chính xác đến người tham
khảo.
Sự bùng nổ các chủng loại máy tính trên thị trường khiến nhiều người thực sự bối rối. Băn khoăn đầu tiên của
họ là CPU (Central Processing Unit - bộ xử lý trung tâm): Cho dù Intel chiếm phần lớn thị phần máy PC, nhưng
AMD (Advanced Micro Devices) cũng không phải là không có chỗ đứng. Ngoài ra, một số nhà sản xuất khác
cũng vẫn nỗ lực đưa ra các loại CPU khác nhau. Tất cả đều mong muốn thị phần của mình sẽ ngày một lớn
hơn.
-Thực chất CPU là gì?
CPU trong máy tính của bạn là một chip, tức là mạch tích hợp điện tử thu nhỏ, chịu trách nhiệm trực tiếp hay
gián tiếp về mọi hoạt động của máy tính. CPU là đầu não điều khiển máy tính từ lúc khởi động cho đến khi tắt
máy.
Các quảng cáo cho máy PC đều đề cập tới thông số megahertz. Vậy megahertz là gì?
Thông số megahertz đặc trưng cho tốc độ hoạt động của CPU. Nói một cách nôm na, thông số này đo "nhịp
tim" của chip. Con số đứng trước megahertz chỉ ra có bao nhiêu triệu nhịp đập diễn ra trong một giây. Ví dụ,
chip 400MHz đập 400 triệu nhịp/giây, gấp đôi số lần của chip 200MHz.
-Những thuật ngữ thông dụng cần biết
Để có cái nhìn khái quát trước khi đi sâu vào các khái niệm, bạn hãy tham khảo phần từ điển thuật ngữ
"Những thuật ngữ căn bản" trong bài này. Một số nguồn trực tuyến, như Webopedia, The PC Guide hay Tom' s
Hardware Guide, cũng cung cấp định nghĩa về các thuật ngữ máy tính cơ bản.
Trên thị trường hiện nay, CPU của Intel bán chạy nhất, trong đó chủ đạo là dòng Pentium. Vậy có bao nhiêu
loại chip Pentium và chúng khác nhau như thế nào?
Cho đến nay, Intel đã đưa ra bốn thế hệ Pentium. Đầu tiên là Pentium thế hệ thứ nhất, bộ xử lý 32 bit, nghĩa
là nó xử lý được 32 bit dữ liệu đồng thời. Với số lượng transitor nhiều hơn gấp ba so với thế hệ CPU trước đó -
chip 486 - Pentium bắt đầu sự nghiệp vào năm 1993 ở tốc độ dưới 100MHz.
Ra đời sau Pentium là Pentium Pro và Pentium II. Cho dù đều là chip 32 bit và cùng có tên Pentium nhưng

Intel đã quan tâm cải tiến để chúng xứng đáng là những chip thế hệ thứ sáu. Nhằm đáp ứng yêu cầu sử dụng
trên các server, Pentium Pro có hai vùng lưu trữ dữ liệu (thường gọi là cache) L1 và L2. Việc thêm cache phụ L2
vào CPU tuy có làm tăng giá thành của chip nhưng đã đem lại khả năng truyền thông tin với tốc độ của CPU.
Một trong những điểm mới của Pentium II là thiết kế Slot 1, nghĩa là CPU được tổ chức trên một bo mạch con
để cắm vào bo mạch mẹ (motherboard) qua khe cắm dài và mảnh. Cache L2 cũng thuộc bo mạch con nói trên
nhưng không được tích hợp vào CPU. Thiết kế này có một vài thuận lợi: rẻ hơn thiết kế của Pentium Pro, cho
phép Intel tăng kích thước cache L2, đồng thời tăng tốc độ của cache L2 lên bằng 1/2 tốc độ CPU. Theo thời
gian, tốc độ của Pentium II tăng từ 233MHz lên 450MHz và nhờ đó, tốc độ của cache L2 cũng tăng theo.
Bước cuối cùng trong nấc thang tăng trưởng của Pentium là sự ra đời của chip thế hệ thứ bảy - Pentium III.
-Điểm khác biệt giữa Pentium III và các chip Pentium thế hệ trước là gì?
Theo Intel, chip Pentium III có nhiều cải tiến nhưng chủ yếu tập trung vào khả năng xử lý ảnh ba chiều, nhận
dạng tiếng nói, chất lượng phát video (đạt tốc độ 30 khung hình/giây) và tốc độ truy cập Internet. Tuy nhiên,
những hứa hẹn này cần phải có thời gian kiểm chứng. Hai vật cản lớn trên con đường phát triển của Intel là: sự
cần thiết có các phần mềm mới và tốc độ kết nối Internet của người dùng.
Intel đã bổ sung 70 lệnh mới vào tập lệnh của Pentium III. Do một lệnh đơn trong tập lệnh có thể xử lý đồng
thời một số mục dữ liệu, nên Intel gọi là SSE (Streaming Single Instruction, Multiple Data [SIMD] Extension). Khi
19
các nhà phát triển phần mềm viết chương trình multimedia, những lệnh này sẽ góp phần cải thiện việc xử lý
ảnh, phát video và nhận dạng tiếng nói.
Những điều kiện khách quan cũng có thể hạn chế khả năng của Pentium III trong truy cập Internet. Theo lý
thuyết, Pentium III hiển thị ảnh ba chiều thật hơn, chiếu video tốt hơn, tuy nhiên người sử dụng chỉ có được các
lợi thế này khi kết nối trực tiếp Internet với tốc độ truyền dữ liệu ít nhất là 1,5 Mb. Một modem thông thường tốc
độ 56,6 Kb/s nối qua đường điện thoại sẽ khó tận dụng được ưu thế của Pentium III.
Các hệ thống Pentium III đầu tiên trên thị trường được trang bị 512K cache L2, bus hệ thống 100MHz và tốc
độ CPU là 450 hay 500MHz. Pentium III 550MHz được đưa ra vào quí II năm 1999.
-Chip Celeron là gì? Nó có thuộc loại Pentium?
Celeron thuộc vào lớp con của Pentium II. Chúng cũng mắc phải những vấn đề lịch sử. Intel giới thiệu chip
Celeron với mục đích hình thành thị trường PC giá rẻ (dưới 1000 USD). Công ty đã hạ giá chip bằng cách bỏ
qua cache L2, do vậy tốc độ chip này còn thấp hơn cả Pentium MMX 233MHz. Các nhà sản xuất, giới báo chí
và người tiêu dùng đều đánh giá thấp loại chip này.

Intel đã xem xét lại Celeron, cải tiến nó thành Celeron II và bổ sung 128K cache L2. Kết quả là hiệu năng của
CPU tăng đáng kể do cache L2 có tốc độ bằng tốc độ CPU. Các thử nghiệm cho thấy, chip Celeron 300MHz với
cache L2 128K chạy ngang với chip Pentium II có 512K cache L2 gắn riêng.
Tiếp tục, Intel cho ra đời những chip Celeron có tốc độ ngày càng cao, từ 300MHz lên 333MHz, 366MHz,
400MHz và 433MHz. Do cả Celeron và Celeron II đều có tốc độ 300MHz nên đã nảy sinh sự nhầm lẫn. Cho dù
Intel đã ngưng sản xuất chip Celeron nguyên thủy, nhưng chúng vẫn xuất hiện trong sản phẩm của một số nhà
phân phối. Nếu bạn chỉ có khả năng mua máy tính dùng Celeron 300MHz thì hãy lựa chip cải tiến 300A.
Cyrix Corp. (trực thuộc National Semiconductor Corp.) và Integrated Device Technology chỉ là những tên tuổi
mà bạn có thể ghi nhận. Hầu hết các nhà sản xuất, các doanh nghiệp và người sử dụng quan tâm đến PC đều
tập trung vào Intel và AMD.
-Giải nghĩa các tên mã
Giống như đối với Microsoft và các nhà phát triển phần mềm khác, bạn có thể tham khảo các chip sắp ra đời
thông qua tên mã. Thông thường tên mã sẽ biến mất khi chip được đưa ra thị trường. Sau đây là danh sách một
số tên mã:
Cooper Mine - CPU sắp ra đời của Intel. Đó là chip Pentium III tích hợp cache L2 256K.
Dixon - Chip Pentium II 500MHz của Intel dùng cho máy tính di động.
Geyserville - Một công nghệ chip di động mới sẽ đưa ra vào cuối năm 1999. Dự tính, CPU này sẽ rút ngắn
khoảng cách về tốc độ giữa máy tính để bàn và máy xách tay.
Katmai - Là tên khác của Pentium III. Đôi khi bạn sẽ thấy phần tham chiếu tới tập lệnh Katmai, gồm 70 lệnh mới
của CPU.
Mendocino - Tên mã của chip Celeron II.
Merced - Tên các chip của Intel được chế tạo dựa trên kiến trúc IA-64.
McKinley - Là chip cải tiến từ Merced sẽ được đưa ra vào cuối năm 2001. Chip này dự kiến có tốc độ bus hệ
thống nhanh gấp ba lần so với Merced.
Sharptooth - Tên mã K6-III của AMD.
Tanner - Tên khác của chip Xeon.
20
Willamette - Là chip được chế tạo dựa trên lõi Pentium II đã được điều chỉnh. Theo dự báo thì chip này nhanh
gấp 1,5 lần Pentium II.
Hình dáng và pin (chân) bên ngoài của cpu: Sự khác biệt giửa các loại FC-PGA, PPGA, CPGA, Slot 1,

Slot A, Socket 370 and Socket 7.
CPU có nhiều hình dáng và cấu trúc chân (pin) khác nhau, tùy theo từng "model" và từng chủng loại, tôi
xin giới thiệu đến các bạn 7 chủng loại căn bản (mới nhất là pentium III, chưa có pentium 4, sẽ cập nhật thêm
sau). Nếu bạn chưa từng nghe qua các chủng loại trên thì tạm thời chấp nhận tên gọi chúng với bản viết tắt
dưới đây, chẳng qua là chúng được gọi từ hình dạng của mỗi CPU mà thôi.
SEPP Single Edge Processor Package
SECC Single Edge Contact Cartridge
SECC2 Single Edge Contact Cartridge 2
CPGA Ceramic Pin Grid Array
FC-PGA Flip Chip Pin Grid Array
PPGA Plastic Pin Grid Array
Celeron 300A to 533 comes in PPGA, from Celeron 566 in FC-PGA
Sẽ có rất nhiều trường hợp bạn sẽ lẫn lộn khi lựa chọn cpu hoặc người bán cố ý gạt bạn bằng cách giới
thiệu sai sự thật. Căn bản hơn là bạn nên nhớ là cpu chỉ có ở 2 thể là slot (slot A, slot 1 ) hoặc là socket
(socket 370, socket A, socket 423 ). CPU dạng slot (nghĩa tiếng Anh là rãnh, khe cắm) là loại có cấu thì cao
dẹp và to, chân cắm có cấu trúc như các chân cắm RAM. Socket thì luôn là hình vuông, có rất nhiều chân ló ra
như bàn đinh phía dưới, thường thì số chân của nó sẽ được gọi kèm theo, ví dụ, socket 370 có nghĩa là loại cpu
"socket" với 370 chân. Như các bạn thấy hình dưới đây, mặc dù cùng là slot hay socket nhưng cấu hình chân và
tên gọi sẽ rất khác biệt với nhau. Làm thế nào để nắm chắc chủng loại đây? bạn phải đọc thông tin trên mang
trên mình nó là chắc nhất! và bạn nên nhớ là chỉ có AMD và Intel là hai thế giới khác hẵn nhau!
Dưới đây là một số mẩu mã bạn có thể dùng để kiểm chứng (trên thực tế thị trường có rất nhiều loại).
Hình trên là 2 loại "slot" cpu của Intel và của AMD, mặc dù chúng giống nhau như đúc (số chân là 242,
hình dạng ) nhưng signals (tín hiệu) bên trong hoàn toàn khác, nếu motherboard của bạn là loại slot A cho
AMD thì bạn không thể nào đem con slot 1 của Intel mà bỏ vô được! Bảo đảm máy bạn sẽ không chạy và con
chip yêu dấu của bạn sẽ không còn sống luôn!
21
nhìn từ phía
trước
nhìn từ phía
sau

Hình trên là 3 con "socket" cpu thuộc chủng loại socket 370 và socket 7 (bạn nhớ đọc chú thích trên
nó!), loại socket 370 có 370 chân trong khi socket 7 sẽ có 321 chân! mặt dù bên ngoài thoáng nhìn qua bạn
có thể cho là chúng giống nhau.
-Làm sao để đọc các thông tin trên chip đây?
Cách đọc thông số trên chip AMD
Rồi sẽ có rất nhiều trường hợp bạn cầm trên tay một con chip sản xuất từ đời Tần Thủy Hoàng mà lầm
tưởng là mới ra trong năm 2000! có thể chúng sẽ giống y như đúc nhưng khác nhau ở kỹ nghệ chế tạo là 0.25
micron hoặc là 0.18 micron. Hoặc chúng khác nhau ở "core voltage" (dòng điện cần để chạy clock của con
chip), mà quan trọng nhất bạn nên nhớ là cpu càng "xịn" thì càng có core voltage thấp! (đây là xu hướng phát
triễn chung trong kỹ nghệ cmos, bạn hảy hình dung rằng muốn chuyển trạng thái từ 0 sang 1 thì cpu phải có
clock nhảy từ 0V lên 1.6V lẹ hơn hay từ 0V lên 3.3V ?)
Nếu bạn nhìn kỹ vùng khoanh tròn trên thì sẽ thấy cách thông số đại khái như dưới đây:
Hàng đầu tiên (AMD-K7800MPR52B A) sẽ được giải thích cặn kẽ dưới đây.
22
Cách đọc thông số trên chip Intel Pentium II
Ðây là một ví dụ lấy từ con Pentium II
Bạn nên chú ý hàng đầu tiên (350/512E/100/2.2V)
Theo hình trên ta có:
Internal clock speed = 350
Size of L2 cache = 512KB
Frequency of the Front Side Bus = 100
Core voltage = 2.2V
23
Cách đọc thông số trên chip Intel Pentium III
• Chú thích chung:
CPU được nhận dạng qua hình dáng, thông số kỹ thuật và chipset liên quan đến nó. Sẽ có một số từ
ngữ tiếng Anh mà tôi cảm thấy rất khó diễn nghĩa vì nó liên quan đến cả kỹ thuật và từ ngữ, chẳng hạn
khi tôi nói chipset có nghĩ là nói đến tổ hợp nhiều chips trên motherboard (không có liên quan gì đến cpu
vốn cũng được gọi là chip) được các nhà sản xuất motherboard định sẵn về system bus, front side bus,
AGP, loại RAM dùng cho nó nói cách khác đi là chipset trên motherboard sẽ quyết định tất cả tính năng

của motherboard.
On die là một từ có lẽ bạn sẽ thường thấy khi người ta nói đến "cache memory," sẵn dịp bạn cũng nên
nhớ là cache memory thường có giá trị rất nhỏ (dưới 1MB!), nguyên do là vì cache memory chế tạo rất
khó, cũng là "memory" nhưng cache memory có tốt độ lẹ hơn memory bình thường (tất cả các loại
RAM) rất nhiều và "on die" là một vị trí nằm trên rìa cpu. Thông thường bạn sẽ thấy người ta đề cập
đến vị trí (on die hoặc onboard) và tốc độ (1/2 cpu speed, 2/3 cpu speed ) của cache memory. Mọi
thứ trên thế gian hình như được đặt để với ý định và hệ thống rõ ràng! nếu bạn muốn chế một loại
memory có tốt độ chạy gần với tốc độ cpu thì chỉ làm cấu trúc giống cpu thôi! thành ra bạn sẽ thấy
trường hợp cache nằm "on die" là vậy! riêng cache nằm onboard thì sẽ có tốc độ chậm hơn cach on die
rất nhiều (tùy vào nhà chế tạo motherboard, trên nguyên lý thì họ có thể là cache "onboard" có tốc độ
gần với cpu nhưng giá cả cho người tiêu dùng đôi khi mang tính quyết định hơn)
Theo luật chế tạo thì cache càng nằm gần cpu thì càng chạy mạnh, lý do đơn giản là do hiện tượng
Transmission Line, nếu bạn nào học hề hardware bạn sẽ thấy những cản trỡ kỹ thuật hiện nay là do
hiện tượng Transmission Line và EMI (Electro Magnetic Interference) mà ra, đây cũng là đề tài nóng
bỏng để các sinh viên, kỹ sư trẽ có cơ hội tìm một chổ đứng trong các vị trí khoa học then chốt hiện
nay. Hãy lấy một ví dụ đơn giản là tại sao các nhà chế tạo chip gặp khó khăn trong việc nâng cấp tốc
độ cpu? tại sao họ chế ra một con chip nhỏ xíu có tốc độ 1.5GigHz thay vì một con chip to gấp đôi để
có tốc độ 3GHz !!???? Ðiều nầy nếu khả thi thì các tai chế tạo tại Intel có lẽ đã tung ra con cpu có tốc độ
vài chục GigHerzt rồi! Trong tương lai bạn sẽ thấy chip càng xịn sẽ càng nhỏ theo qui luật của
Transmission Line và EMI, nếu có dịp tôi sẽ đào sâu đề tài nầy để các bạn thích hardware tham khảo.
Vì thời gian có hạn, tôi sẽ dừng lại đây, hy vọng là các bạn sẽ thu thập được chút thông tin, tôi sẽ cập
nhật hệ thống Pentium 4 và AMD hiện hành nếu điều kiện cho phép.
-Những thuật ngữ căn bản
Bảng thuật ngữ sau sẽ giúp bạn nắm được các khái niệm cơ bản.
3DNow! - tập gồm 21 lệnh CPU nhằm tăng tốc độ truyền thông giữa CPU và card đồ họa 3D. Các lệnh này đưa
ra khả năng tạo hình ảnh thật hơn trên màn hình và hình video mịn. Công nghệ 3DNow! tương tự như công
nghệ SSE của Intel.
Bus - đường truyền điện tử để truyền dữ liệu giữa các bộ phận trong máy tính. Khi đề cập tới CPU, bus hay bus
hệ thống (system bus) ám chỉ mối liên kết giữa CPU hay bộ nhớ với các thành phần khác của PC.
24

Cache - vùng nhớ mà CPU dùng để lưu các phần của chương trình, các tài liệu sắp được sử dụng. Khi cần,
CPU sẽ tìm thông tin trên cache trước khi tìm trên bộ nhớ chính.
Integrated cache (cache tích hợp) - cache được hợp nhất ngay trên CPU. Cache tích hợp tăng tốc độ CPU do
thông tin truyền đến và truyền đi từ cache nhanh hơn là phải chạy qua bus hệ thống. Các nhà chế tạo thường
gọi cache này là on-die cache.
Cache L1 - cache chính của CPU. CPU trước hết tìm thông tin cần thiết ở cache này. Ơở các chip Pentium thì
cache L1 là cache tích hợp.
Cache L2 - cache thứ cấp. Thông tin tiếp tục được tìm trên cache L2 nếu không tìm thấy trên cache L1. Cache
L2 có tốc độ thấp hơn cache L1 và cao hơn tốc độ của các chip nhớ (memory chip). Trong một số trường hợp
(như Pentium Pro), cache L2 cũng là cache tích hợp.
Megahertz - số đo tốc độ tính toán của CPU. Một megahertz cho một triệu chu trình xử lý trong một giây.
MMX (Multimedia Extensions) - tập gồm 57 lệnh multimedia do Intel phát triển năm 1997. Mục đích chính của
MMX là nâng cao hiệu quả xử lý các lệnh lặp về âm thanh, hình ảnh và đồ họa. Máy đạt được điều này phần
nào do một dòng lệnh đơn có thể xử lý đồng thời một số mục dữ liệu.
Motherboard (bo mạch mẹ) - bo mạch chính trong máy PC. Tất cả các bo mạch khác đều cắm vào bo mạch
chính và nhận thông tin điều từ bo mạch này.
SIMD (Single Instruction, Multiple Data) - phương pháp xử lý thông tin, cho phép một lệnh xử lý một số mục dữ
liệu đồng thời. Các tập lệnh MMX, 3DNow! và SSE được xây dựng xoay quanh khái niệm này.
Slot 1 - khe cắm dài và mảnh nằm trên bo mạch chính. Nó dùng để cắm card chứa CPU vào bo mạch chính.
Card chứa CPU gồm có CPU và cache L2. Thiết kế này dùng cho bộ xử lý Pentium II nhằm tăng tốc độ của
cache L2.
Slot 2 - cũng là khe cắm dùng để cắm card CPU (gồm CPU và cache L2) vào bo mạch chính. Khác với thiết kế
Slot 1, thiết kế Slot 2 cho phép CPU giao tiếp với cache L2 ở tốc độ của bộ xử lý.
Socket L7 Connector - đế cắm hình chữ nhật nằm trên bo mạch chính dùng để cắm CPU vào. Trước đây, các
chip Pentium và AMD dùng thiết kế này, sau đó nó được thay dần bởi thiết kế Slot 1.
Super 7 - bản cải tiến của thiết kế Socket 7. Super 7 thống nhất tốc độ bus hệ thống là 100MHz. Thay đổi thiết
kế này cho phép nâng cao 50% tốc độ truy cập tới cache L2 và bộ nhớ chính.
SSE (Streaming SIMD Extension) - tập gồm 70 lệnh mà Intel đưa vào Pentium III để phục vụ việc xử lý dữ liệu.
Các lệnh này hỗ trợ cho xử lý ảnh, video, âm thanh và dữ liệu ba chiều.
5.Bên trong bộ xử lý

Bộ vi xử lý là trái tim của máy tính hiện đại; đây là một loại chip được tạo thành từ hàng triệu transistor
và những thành phần khác được tổ chức thành những khối chức năng chuyên biệt, bao gồm đơn vị xử lý số
học, khối quản lý bộ nhớ và bộ nhớ đệm, khối luân chuyển dữ liệu và phép toán luận lý suy đoán.
Bộ vi xử lý của máy tính hiện nay đã phát triển cực mạnh về khả năng, tốc độ và tính phức tạp so với
thập niên trước đây. Tốc độ cao, kích thước nhỏ, số lượng transistor khổng lồ. Nếu bộ xử lý năm 1983 chỉ có
30.000 transistor thì hiện nay với một số bộ xử lý con số này là trên 40 triệu.
Bất kỳ chương trình máy tính nào cũng bao gồm rất nhiều lệnh để thao tác với dữ liệu. Bộ xử lý sẽ thực
hiện chương trình qua bốn giai đoạn xử lý: nạp, giải mã, thực thi và hoàn tất.
Giai đoạn nạp (lấy lệnh và dữ liệu) đọc các lệnh của chương trình và dữ liệu cần thiết vào bộ xử lý.
Giai đoạn giải mã xác định mục đích của lệnh và chuyển nó đến phần cứng tương ứng.
25

×