Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

BIỆN PHÁP GIÚP LỚP 9 LÀM TỐT BÀI NGHỊ LUẬN THƠ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.73 KB, 17 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
..........., ngày 26 tháng 3 năm 2021
BÁO CÁO SÁNG KIẾN
Tên sáng kiến: Biện pháp giúp học sinh lớp 9 làm tốt bài văn nghị luận về
đoạn thơ, bài thơ.
Họ và tên:
Đơn vị công tác: Trường THCS xã Hàm Rồng
Cá nhân, tổ chức phối hợp: Cá nhân
Thời gian đã được triển khai thực hiện: Từ năm học 2020 – 2021
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. Tên sáng kiến hoặc đề tài, đề án, giải pháp công tác, giải pháp tác nghiệp
Biện pháp giúp học sinh lớp 9 làm tốt bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ.
2. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện sáng kiến
Như chúng ta đã biết mơn Ngữ văn có vị trí đặc biệt quan trọng trong trường
phổ thơng nói chung và cấp THCS nói riêng. Nói về điều này nhà thơ Tố Hữu đã
từng nói: “Cuộc đời là điểm khởi đầu và là điểm đi tới của văn chương”. Môn học
Ngữ văn cịn là bộ mơn khoa học dạy về ngơn ngữ và tác phẩm văn chương nhằm
hình thành kỹ năng nghe, nói, đọc, viết và hồn thiện nhân cách, nhân phẩm ở con
người. Trong thời đại ngày nay, môn học Ngữ văn cịn có vai trị quan trọng hơn
trong nhiệm vụ giữ gìn sự sống cho ngơn ngữ dân tộc và phát huy nó tốt đẹp hơn
nữa trước đời sống công nghệ ngày càng thay thế dần rất nhiều thứ khác.
Riêng với phân môn tập làm văn giúp học sinh hình thành và phát triển
khả năng sản sinh văn bản (nói và viết). Nói và viết là những hình thức giao tiếp
rất quan trọng, thơng qua đó con người thực hiện quá trình tư duy - chiếm lĩnh tri
thức, trao đổi tư tưởng, tình cảm, quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau, cùng hợp
tác trong cuộc sống lao động. Ngôn ngữ (dưới dạng nói - ngơn bản, và dưới dạng


2


viết - văn bản) giữ vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển xã hội. Chính vì
vậy, hướng dẫn cho học sinh nói đúng và viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ
nặng nề đó phụ thuộc phần lớn vào việc giảng dạy môn Ngữ văn nói chung và
phân mơn Tập làm văn nói riêng. Vấn đề đặt ra là: người giáo viên dạy tập làm như
thế nào để học sinh viết tốt bài văn của mình? Cách thức tổ chức, tiến hành tiết dạy
Tập làm văn ra sao để đạt hiệu quả như mong muốn?
Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy phân môn Tập làm văn là phân mơn khó
trong các phân mơn của môn Ngữ văn. Do đặc trưng phân môn Tập làm văn với
mục tiêu cụ thể là: hình thành và rèn luyện cho học sinh khả năng trình bày văn
bản (nói và viết) ở nhiều thể loại khác nhau như: miêu tả, kể chuyện, biểu cảm,
nghị luận,...Đối với lớp 9, các em đã làm quen với kiểu bài nghị luận văn học trong
đó có nghị luận về đoạn thơ, bài thơ. Trong thực tế dạy – học tôi thấy bài văn của
học sinh mình chưa đáp ứng được những yêu cầu của một văn bản trong nhà
trường. Bài văn của các em vẫn còn nhiều hạn chế như: chưa biết bắt đầu từ đâu,
chưa biết cách phân tích, các em chỉ biết diễn xi theo nội dung bài thơ. Vì vậy
bài viết thường sơ sài, lủng củng hoặc lan man, xa đề. Bên cạnh đó là việc giữa các
đoạn văn chưa có sự liên kết.
Do đó tơi thấy cần phải tìm tịi, nghiên cứu để tìm ra giải pháp tốt giúp học sinh
làm tốt bài văn nghị luận về tác phẩm thơ. Cũng chính xuất phát từ đó tơi đã tiến
hành tìm tịi nghiên cứu và vận dụng vào thực tế giảng dạy: “Biện pháp giúp học
sinh lớp 9 làm tốt bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ”.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN HOẶC ĐỀ TÀI, ĐỀ ÁN, GIẢI PHÁP CƠNG
TÁC, GIẢI PHÁP TÁC NGHIỆP
1/ Kiến thức cần có khi nghị luận bài thơ.
Để học sinh có kĩ năng viết bài văn nghị luận văn học yêu cầu người giáo
viên cần phải truyền thụ đúng, đầy đủ, chính xác để học sinh nắm vững kiến thức
cơ bản về các văn bản thơ cũng như cách làm bài “Nghị luận về một đoạn thơ, bài
thơ”. Trên cơ sở đó giáo viên tiếp tục hướng dẫn chi tiết, cụ thể hơn cách khai thác
chi tiết và phương thức diễn đạt cho học sinh để bài văn đạt kết quả tốt nhất.



3

Đối với học sinh cần phải năm vững kiến thức cơ bản. Vì kiến thức cơ bản là
“bột”, “có bột mới gột nên hồ”. Để phân tích được một bài thơ thì các em cần có
được kiến thức ở các phương diện: nắm vững nội dung và nghệ thuật một văn bản
thơ và kỹ năng làm bài văn nghị luận tác phẩm thơ.
Đối với bài thơ thì các em buộc phải thuộc thơ. Vì có thuộc mới phân tích được
những ảnh hình, từ ngữ, biện pháp tu từ trong bài thơ đó.
Với nghị luận về đoạn thơ, bài thơ là trình bày nhận xét, đánh giá của mình về
nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ qua ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu.
Khi làm bài văn dạng này phải kết hợp nhuẫn nhuyễn các thao tác như lập
luận, giải thích, chứng minh, phân tích, bình giảng, bình luận về mạch cảm xúc,
hình ảnh thơ, ngơn ngữ thơ ca... Nói vậy cũng có nghĩa nghị luận thơ là kiểu bài
địi hỏi tính tổng hợp của tri thức, của kĩ năng. Muốn làm được một bài nghị luận
về bài thơ hay, cùng với kiến thức, năng lực cảm thụ, người viết cần có kĩ năng kết
hợp đồng thời, linh hoạt nhiều phép lập luận để làm sáng tỏ vấn đề, để trình bày
một cách thuyết phục, hấp dẫn ý kiến, nhận định của mình.
Kiểu bài nghị luận về bài thơ như thế đã bao hàm địi hỏi tính tích cực, năng
lực, bản sắc cá nhân của người làm bài. Đồng thời phát huy tính chủ động, tích cực
của học sinh.
2. Những nhiệm vụ cụ thể khi nghị luận về đoạn thơ, bài thơ
Căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể, vào ý đồ sáng tác của nhà văn mà phân
tích, làm sáng tỏ các tầng lớp nội dung, ý nghĩa trong ngơn từ, trong hình ảnh nơi
văn bản. Mọi nhận xét, đánh giá về tác phẩm chỉ thực sự có ý nghĩa khi xuất phát
từ sự hiểu đúng, hiểu sâu nó. Bài nghị luận văn học tối kị lối phát biểu ý kiến một
cách chung chung hoặc chỉ diễn nơm “nội dung”. Muốn bình đúng, bình hay trước
tiên phải phân tích đúng, giảng sâu. Giảng có nghĩa là khám phá, giảng giải nội
dung, ý nghĩa của tác phẩm, là giải thích, khẳng định tính đúng đắn của văn bản.
Nó có nhiệm vụ chỉ ra các tầng lớp nội dung và chứng minh một cách thuyết phục

rằng nội dung ấy tất phải được thể hiện qua hình thức nghệ thuật và ngược lại.
Bài văn nghị luận cần có hệ thống luận điểm rõ ràng, mạch lạc, những luận cứ
đúng đắn, sinh động và lập luận thuyết phục.


4

Lời văn của một bài nghị luận cần chuẩn xác, trong sáng, thể hiện rung cảm
chân thành, tự nhiên của người viết
Khi viết một bài văn, cần xác định viết như thế nào, bằng thái độ, tình cảm
ra sao. Cần cân nhắc từ cách dùng từ đến cách ngắt câu. Ngôn từ phải làm sao diễn
tả sát, trúng bản chất của đối tượng, điều mình muốn nói. Giọng văn làm sao phải
hợp với vấn đề, với nội dung, nhiều khi như có hình khối, có nhịp điệu và giàu cảm
xúc. Có như vậy, bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ của các em mới khơi gợi sự
đồng cảm về cảm xúc của nhân vật trữ tình, của nhà thơ hay ngợi ca trước vẻ đẹp
của hình tượng văn học và bài văn ấy mới thuyết phục được người đọc.
Như vậy, một bài văn nghị luận hay vừa đòi hỏi sự thâm nhập, thẩm bình
sâu tác phẩm vừa yêu cầu kĩ năng tổng hợp, khái quát thành nhận định, đánh giá
riêng.
3. Các bước hướng dẫn học sinh viết bài văn.
Bước 1: Xác định đúng nội dung yêu cầu của đề:
Đối với kiểu bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cần phải xác định phạm
vi đối tượng mà đề yêu cầu (Nghị luận về một bài thơ hay một đoạn thơ). Cần
xác định được đề tài và nội dung của đề bài. Hướng nghị luận (do đề quy định
hay do người viết lựa chọn)
Cần hiểu đúng, đầy đủ nội dung yêu cầu của đề, tránh sai lạc, xác định được
giới hạn phạm vi yêu cầu của đề (chứng minh, bình luận, giải thích hay phân
tích...) Để từ đó lựa chọn lí lẽ, dẫn chứng cụ thể ,tiêu biểu cho bài làm.
Đưa đối tượng phải bàn bạc (nhân vật, chủ đề, nội dung, nghệ thuật ) gắn
câu hỏi tìm ý để có những ý kiến cụ thể (Điều nổi bật nhất, nét tiêu biểu cụ thể?

Chi tiết nào biểu hiện? Ý nghĩa xã hội như thế nào? Giá trị tiêu biểu ra sao? )
Đối với từng đối tượng phải bàn cần có thêm những dạng câu hỏi tìm ý phù
hợp.
*VD: Đề bài: Phân tích và nêu cảm nghĩ về bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh.
(lớp 8)
- Đề bài này, các em phải gạch chân được hai từ (Phân tích và nêu cảm nghĩ)
thuộc thể loại nghị luận về bài thơ.
- Giáo viên hướng dẫn các em tìm hiểu đề bài đưa ra thuộc loại có chỉ định hay
khơng có chỉ định về nội dung cần bàn luận? Vậy đề bài trên thuộc loại có chỉ định
(phân tích và nêu cảm nghĩ về bài thơ Quê hương của Tế Hanh). Nếu dạng đề chưa
có chỉ định thì các em phải suy nghĩ tìm ra yêu cầu mà nội dung của đề bài cần


5

đạt? Chẳng hạn, đề bài “ Những đặc sắc trong bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn
Phương”, đề bài này chưa cho chúng ta biết nét đặc sắc ở phương diện nào của tác
phẩm. Vậy, giáo viên phải gợi mở cho các em hiểu và xác định được đây là tác
phẩm thơ, mà nét đặc sắc trong thơ phải là nội dung và nghệ thuật ( ngơn từ, hình
ảnh, cấu trúc, mạch cảm xúc, cảm hứng bao trùm…)
- Việc xác định kiến thức phục vụ cho nội dung bàn luận là một yêu cầu tất yếu.
giáo viên giúp các em tìm được phạm vi kiến thức trọng tâm phục vụ cho vấn đề
bàn luận.
- Bài nghị luận văn học đòi hỏi người viết phải tìm được hệ thống luận điểm, luận
cứ để phân tích, đánh giá, bình luận làm nổi bật nội dung nghị luận. Vậy, phải dựa
vào đâu để tìm ý?
- Đề nghị luận về đoạn thơ, bài thơ, người viết phải tìm ra nét đặc sắc về nội dung
(dựa vào bố cục của bài thơ- nếu có- và nội dung khái quát từng phần trong bố
cục); nghệ thuật bài thơ (ngơn từ, hình ảnh, giọng điệu, thể thơ, nhịp thơ….)
Bước 2: Hiểu rõ hoàn cảnh sáng tác tác phẩm

Hồn cảnh sáng tác tác phẩm có vai trị rất quan trọng khi cần đánh giá nhận
xét một tác phẩm văn học. Đặt tác phẩm vào hiện thực xã hội lúc đó, ta sẽ hiểu rõ
và nhìn nhận đúng hơn về tâm trạng, hành động suy nghĩ của nhân vật trong một
tác phẩm (hoặc đoạn trích) hay tình cảm, cảm xúc của nhân vật được thể hiện
trong một bài thơ. Từ đó có thể làm rõ các vấn đề: Tại sao đối tượng lại có những
hành động, suy nghĩ như vậy? Hành động suy nghĩ đó bộc lộ tâm trạng cảm xúc
như thế nào? Tâm trạng cảm xúc đó nói lên phấm chất gì của đối tượng.
VD: Khi làm bài văn nghị luận với đề: Cảm nhận bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ”
của Thanh Hải.
Học sinh cần phải nắm rõ hoàn cảnh sáng tác bài thơ là: Năm 1978, cuộc
kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, bước vào xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Tác giả nằm trên giường bệnh tại Huế. Để thấy được cảm
xúc của nhà thơ đối với mùa xuân, đất nước. Nhiều hình ảnh thơ đẹp và gợi cảm,
ngơn ngữ bình dị sâu lắng cùng với giọng điệu tha thiết tác giả muốn gởi gắm
điều nhắn nhủ đầy ý nghĩa khi sắp đi xa.
Bước 3. Xác định luận điểm rõ ràng
Đây là điều khó nhất với học sinh hiểu nội dung trong giờ học văn bản ở
phần “Đọc- hiểu văn bản” nhưng nêu câu luận điểm cho bài văn thế nào cho
đúng? Giáo viên cho ví dụ bài thơ cụ thể đề tìm luận điểm thứ nhất, luận điểm


6

thứ hai...và hướng dẫn học sinh. Để có luận điểm rõ ràng phải đọc kĩ yêu cầu của
đề bài, xác định giới hạn phạm vi yêu cầu của đề và trả lời các câu hỏi tìm ý:
Điều nổi bật nhất để có thể làm rõ vấn đề là gì ? Điều đó được biểu hiện qua
những chi tiết cụ thể nào? Có luận điểm rõ ràng, bài văn sạch sẽ mạch lạc, các ý
trình bày khơng bị chồng chéo, lủng củng. Khi triển khai các luận điểm sẽ dễ tìm
luận cứ, luận chứng và lí lẽ. Cụ thể :
Thứ nhất, dựa vào vấn đề đã nêu( nội dung hoặc nghệ thuật đặc sắc của bài thơ,

hoặc nhan đề…) ở phần mở bài mà các em đã tìm ý được để triển khai luận điểm.
Thứ hai, nếu vấn đề nghị luận là phân tích nội dung cả bài thơ thì giáo viên cho
học sinh dựa vào bố cục bài thơ để tìm ý lớn. Vậy bố cục của bài thơ gồm mấy
phần? Hãy nêu nội dung khái quát của từng phần? Khi tìm ra nội dung khái qt
từng bài có nghĩa là các em đã tìm ra các luận điểm. Có trường hợp bài thơ có dấu
ấn đặc biệt thì giáo viên phải cho học sinh phân tích và bình luận để thấy được nét
phong cách độc đáo của nhà thơ. Dấu ấn bài thơ có thể nằm ở nhan đề, có thể nằm
ở câu đề từ, có thể ở một từ khóa nào đó…Chẳng hạn, bài thơ “Quê hương” của Tế
Hanh khác với một số bài thơ khác ở chỗ có câu thơ đề từ. Câu thơ đề từ nằm ở
đầu bài thơ. Hoặc bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” có nhan đề mang ấn tượng đặc sắc.
Giáo viên cho học sinh hiểu được ý nghĩa nhan đề bài thơ. Hoặc bài thơ “Sang thu”
của Hữu Thỉnh lại có một từ khóa, đó là năm sáng tác (1977) để giúp giáo viên và
học sinh khám phá tác phẩm được sâu hơn.
+Luận điểm 1: Cần phân tích khổ thơ nào? Nội dung khổ thơ đó là gì? (hình ảnh
q hương trong hồi tưởng của nhà thơ qua ba khổ thơ đầu).
+Luận điểm 2: Khổ thơ nào tương ứng với luận điểm 2? Nội dung khái qt khổ
thơ đó là gì? (Nỗi nhớ quê hương da diết - 4 câu cuối)
+ Bài thơ có một câu thơ đề từ rất gợi cảm “Chim bay dọc biển đem tin cá”.
Bước 4. Lựa chọn các chi tiết hình ảnh tiêu biểu
Đối với kiểu bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ quan trọng nhất biết phân
tích sự sáng tạo độc đáo các chi tiết, ngơn ngữ hình ảnh giọng điệu, đặc biệt là
các yếu tố nghệ thuật để làm rõ từng luận điểm cụ thể.
VD: Cảm nhận và suy nghĩ của em về đoạn kết trong bài thơ “Đồng chí” của
Chính Hữu.
-Kết bài bằng 3 câu thơ dựng lên bức tranh đẹp về tình đồng chí trong chiến đấu.
Biểu tượng đẹp về cuộc đời chiến sĩ: ba hình ảnh người lính, khẩu súng vầng
trăng trong cảnh rừng hoang sương muối trong đêm phục kích đợi giặc. Tình
đồng chí đã sưởi ấm lịng họ giữa cảnh đêm trăng mùa đông vô cùng lạnh giá trên
trường.



7

- Hình ảnh sáng tạo: “Đầu súng trăng treo” đầy ấn tượng, cơ đọng và gợi hình, gợi
cảm . Ngồi hình ảnh cịn có nhịp điệu như nhịp điệu như nhịp lắc của một cái gì
đó lơ lửng, chơng chênh, trong sự bát ngát.
Khi phân tích chỉ phân tích một vài chi tiết chính cịn lại có thể phân tích lướt
để đảm bảo bài văn vừa có chỉnh thể, vừa có trọng tâm, có điểm sáng, gây được ấn
tượng.
Bước 5. Lựa chọn từ ngữ phù hợp
Ngôn ngữ giọng điệu của lời văn có vai trị rất quan trọng trong việc diễn tả
các trạng thái cảm xúc, thái độ của người viết. Vì vậy khi viết văn cần lựa chọn
từ ngữ và sắp xếp lời vănn để đạt được hiệu quả diễn đạt cao nhất. Có thể sử
dụng từ ngữ mang sắc thái trang trọng, dùng cách nói giảm, nói tránh, sử dụng từ
ngữ có giá trị biểu cảm cao (tượng thanh, tượng hình) kết hợp sử dụng các cách
nói tu từ ẩn dụ với cá điệp từ, điệp ngữ, so sánh nhân hoá, đặc biệt lời văn phải
gợi cảm, thể hiện sự rung động chân thành.
Bước 6. Bố cục chặt chẽ hợp lí
Mở bài, thân bài, kết bài tách bạch rõ ràng.Trình bày các ý dứt khốt, tránh lan
man đi quá xa đề, trình tự các ý phải theo một lơgic hợp lí. Đối với kiểu bài nghị
luận về một đoạn thơ, bài thơ cần phân tích thẩm bình (cảm thụ) theo mạch cảm
xúc của bài thơ, đoạn thơ...
Bước 7. Luyện viết
a. Hướng dẫn viết đoạn mở bài:
- Mở bài trực tiếp: Đó là mở bài theo kiểu giới thiệu ngay vấn đề sẽ trình bày
trong phần thân bài. Ta có thể viết mở bài với các yếu tố như sau:
1. Giới thiệu tác giả.
2. Giới thiệu tác phẩm (Hoàn cảnh sáng tác).
3. Đánh giá sơ bộ nội dung (nghệ thuật).
- Mở bài gián tiếp: Kiểu mở bài này:

- Không đi thẳng trực tiếp vào vấn đề mà gợi mở vào đề bằng biện pháp so sánh,
tương phản, nghi vấn, giả định… bằng cách đưa ra:
+ Một câu chuyện rồi dẫn vào vấn đề.
+ Mở bài gián tiếp theo kiểu so sánh.
+ Đưa ra một vài câu thơ, lời hát. (Lưu ý câu thơ, lời hát ấy phải gắn với điều
định bàn, phải sinh động, hấp dẫn).
- Ta có thể chọn một trong các kiểu gợi mở vào đề đã giới thiệu kết hợp với các
yếu tố ở phần mở bài trực tiếp (ở trên) để viết đoạn mở bài gián tiếp đúng và hay.


8

Ví dụ 1 : Phân tích bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.
Nói đến Chính Hữu khơng thể khong nói đến bài thơ “Đồng chí”.Bài thơ như
một điểm sáng trong tập “Đầu súng trăng treo”- tập thơ viết về đề tài người lính
của ơng.
Ví dụ 2 : Phân tích khổ thơ đầu của bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh
Hải
Mùa xuân luôn là nguồn cảm hứng vô tận của các thi nhân. Nguyễn Bính đã
từng đánh thức người nhà quê trong mỗichúng ta bằng “Mùa xuân xanh”,Hàn Mạc
Tử thì bâng khuâng xao xuyến nơi đất khách quê người với “Mùa xn chín” . Cịn
‘‘Mùa xn xn nho nhỏ’’của Thanh Hải lại là tâm nguyện sau cùng của ơng về
tình yêu cuộc sống,về khát vọng được cống hiến sức lực của mình cho đất nước
khi ơng sắp lâm chung.
b. Định hướng triển khai luận điểm thành đoạn văn phần thân bài:
+ Đoạn diễn dịch: là cách trình bày ý đi từ khái quát đến cụ thể. Câu chủ đề
mang ý nghĩa khái quát đứng ở đầu đoạn, các câu còn lại triển khai những nội dung
chi tiết cụ thể ý tưởng của câu chủ đề đó. Các câu triển khai được thực hiện bằng
các thao tác giải thích, chứng minh. Phân tích, bình luận; có thể kèm những nhận
xét, đánh giá và bộc lộ sự cảm nhận của người viết.

+ Đoạn quy nạp: cách trình bày ý ngược lại với đoạn diễn dịch- đi từ các ý chi
tiết, cụ thể đến khái quát; câu chủ đề nằm ở cuối đoạn.
+ Đoạn tổng- phân- hợp: (là sự phối hợp diễn dịch với quy nạp)
Ví dụ: Phân tích khổ thơ đầu bài “Sang thu” của Hữu Thỉnh.
“Ngay từ khổ thơ đầu, Hữu Thỉnh đã mang đến cho người đọc những tín hiệu
riêng của mùa thu. Không phải là những rừng phong sắc đỏ, giậu cúc vàng, lá ngô
đồng rơi hay ao sen tàn lạnh… như trong thơ cổ. Cũng không phải là màu trời xanh
ngắt hay làn nước biếc trong thơ thu Nguyễn Khuyến… Tín hiệu của mùa thu này
là làn hương ổi “phả vào trong gió se”. Phải có “gió se” thì mới có hương thơm
nồng đậm thế. Làn gió heo may trong mát với thoáng chớm lạnh đầu mùa như biết
thanh lọc, chắt chiu để có được mùi hương ấy. Gió đưa làn hương đi theo khắp nẻo,
như để “thơng báo” với đất trời, với hồn người một tín hiệu vui: mùa thu đang tới!
Chỉ bằng vài nét vẽ, nhà thơ đã nắm bắt, tái hiện được vẻ đẹp mơ hồ, tinh tế của
khoảnh khắc giao mùa.”
Mơ hình đoạn văn:
- Câu đầu (tổng): Nêu lên nhận định khái quát về khổ đầu bài “Sang thu” của
Hữu Thỉnh mang đến cho người đọc những tín hiệu riêng của mùa thu.
- Năm câu tiếp (phân): Phân tích để chứng minh những tín hiệu riêng đó.
- Câu cuối (hợp): Khẳng định, nâng cao: chỉ bằng vài nét vẽ, nhà thơ đã nắm
bắt, tái hiện được vẻ đẹp mơ hồ, tinh tế của khoảnh khắc giao mùa.
c. Viết Phần kết bài:


9

- Kết bài là phần đánh giá chung tác phẩm (nội dung, nghệ thuật) và rút ra bài
học (hoặc mở rộng). Một kết bài thường có các yếu tố sau:
1. Tác giả, tác phẩm
2. Nội dung , nghệ thuật
Rút ra bài học (Tình cảm, Hành động…)

VD: Tiếng hát và ánh sang tràn ngập trong bài thơ chính là những sang tạo nghệ
thuật góp phần biểu đạt trọng vẹn tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm “Đoàn thuyền
đánh cá”.
* Ngoài ra, chúng ta có thể nâng cao phần kết bài bằng biện pháp so sánh, tương
phản, câu hỏi tu từ…
Bước 8: Kiểm tra, đánh giá:
- Kiểm tra thường xuyên (sau mỗi buổi học) để củng cố kiến thức đồng thời ra đề
cụ thể để HS luyện tập, vận dụng kiến thức đã học vào bài viết, rèn kĩ năng viết
văn.
- GV nhận xét cụ thể, rõ ràng, khách quan những ưu điểm, khuyết điểm của từng
bài viết.
- Nêu ra hướng khắc phục, sửa chữa phù hợp cho từng khuyết điểm trong bài làm
của HS.
- Biểu dương, khuyến khích, động viên kịp thời để các em phát huy ưu điểm của
bản thân.
- Có thái độ nghiêm khắc và yêu cầu cao đối với bài làm của HS, rèn luyện cho các
em ý thức tự giác, chủ động học tập, rèn luyện, phấn đấu khơng ngừng để ngày
càng hồn thiện.
Qua những biện pháp này HS đã có ý thức tự khắc phục những khó khăn,
nhược điểm và có hướng phấn đấu vươn lên thể hiện rõ qua các bài kiểm tra.
III.ĐÁNH GIÁ VỀ TÍNH MỚI, TÍNH HIỆU QUẢ VÀ KHẢ THI, PHẠM VI
ÁP DỤNG
1.Tính mới
Qua q trình rèn năng lực cảm thụ tác phẩm nhằm cung cấp cho học sinh
quan niệm thẩm mĩ, tư tưởng xã hội, hoặc những quy luật tâm lý, những đạo lí
truyền thồng. Ngồi ra cịn giúp các em có nền tảng kiến thức đặc trưng của từng
thời kì văn học. Đây là yếu tố then chốt để làm bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ.


10


Mỗi giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn phải luôn luôn chú ý đến rèn luyện năng
lực cảm thụ tác phẩm cho học sinh. Vì xét cho cùng, dạy văn học là dạy và học cái
hay, cái đẹp của tác phẩm văn chương và kỹ năng trình bày hiểu biết của mình
thành bài văn. Tức là cảm thụ tác phẩm và trình bày chính kiến của mình về tác
phẩm bằng cách bàn, đánh giá về tác phẩm đó. Từ đó, tình cảm của HS đối với con
người, q hương, đất nước được bồi đắp, vốn sống, vốn kiến thức được bổ sung
và nâng lên.
2. Tính hiệu quả và khả thi:
- Giúp học sinh nắm vững được kiểu bài nghị về đoạn thơ, bài thơ và bước đầu hạn
chế được số lượng học sinh yếu, tỉ lệ học sinh khá giỏi từ đó nâng lên.
+ Giữa kì II:
HS khá, giỏi: 49,5%
HS trung bình - yếu: 50,5%
+ Bài khảo sát sau kiểm tra giữa kì II:
HS khá, giỏi: 68,4%
HS trung bình -yếu: 31,6%
- Trước đây hầu như các em khá, giỏi khi làm văn đều chọn cách mở bài trực tiếp.
Khi được giáo viên hướng dẫn cách viết phần mở bài gián tiếp thì các em vận dụng
khá tốt vào bài viết của mình.
+ Giữa kì II: Phần lớn các em đều viết mở bài theo kiểu trực tiếp chiếm 80%.
+ Sau kiểm tra giữa HKII: Khi được hướng dẫn cách viết mở bài gián tiếp các em
vận dụng khá tốt vào bài viết của mình chiếm tỉ lệ trên 70%.
-Khi được giáo viên hướng dẫn cách viết mở bài các em khơng cịn thấy gặp khó
khăn trong việc viết mở bài như trước đây.
+ Sauk hi kiểm tra giữa HKII tỉ lệ học sinh yếu viết đoạn mở bài đạt yêu cầu chiếm
tỉ lệ trên 90%.
- Mặc dù các em đã được hướng dẫn cách viết phần thân bài, tuy nhiên hầu hết các
em học sinh trung bình, yếu đều chưa biết cách xây dựng luận điểm thành đoạn
văn như thế nào. Do đó khi làm bài các em suy diễn lung tung hoặc giải nghĩa câu

chữ mà chưa biết cách phân tích lấy dẫn chứng từ đâu.
-Khi được giáo viên hướng dẫn cách triển khai luận điểm thành đoạn văn ,phần lớn
các em nắm được cách trình bày đoạn văn theo đúng hướng.
- Đối với học sinh khá, giỏi các em từng bước vận dụng các kiểu viết đoạn văn một
cách linh hoạt trong bài văn của mình (trước đây hầu hết các em viết đoạn văn theo


11

cách diễn dịch sau khi được hướng dẫn các em đã vận dụng viết đoạn tổng-phânhợp)
- Khi nắm vững cách làm bài, học sinh cảm thấy tự tin và hứng thú hơn đối với bộ
mơn, các em khơng cịn thấy sợ hay lúng túng khi làm bài viết nữa.
Giảỉ pháp được thực hiện bước đầu hạn chế tỉ lệ học sinh yếu trong năm học
này. Giúp các em tự tin và u thích bộ mơn Ngữ văn hơn.
3.Phạm vi áp dụng
Sáng kiến này cho áp dụng dạy cho học sinh lớp 9 và tiếp tục ở cấp THPT .
IV. KẾT LUẬN:
Dạy Văn vừa là khoa học Sư phạm vừa là là một nghệ thuật. Người giáo
viên khi đã chọn nghề dạy học là phải có tâm yêu nghề, say sưa với chun mơn,
miệt mài với học sinh dù là có thể chỉ là cơng việc “đãi cát tìm vàng”. Mục tiêu
hướng tới và là niềm hạnh phúc nhất trong cuộc đời của người thầy là đào tạo bồi
dưỡng được thật nhiều học trị giỏi. Đó là tâm nguyện của tơi cũng như bao nhiêu
đồng nghiệp khác. Tuy nhiên để có được thành quả tốt đẹp thì khơng chỉ dựa vào
khả năng vốn có của học sinh mà mỗi người giáo viên chúng ta phải ln tìm tịi,
sáng tạo, trăn trở và nỗ lực không ngừng với nhiều cách thức và phương pháp tối
ưu nhất theo mình để giảng dạy, bồi dưỡng cho các em.
Với mong muốn rèn kĩ năng viết bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ
lớp 9, tôi đã vận dụng kinh nghiệm bản thân, sự hỗ trợ của đồng nghiệp để thực
hiện quá trình luyện viết bài văn hồn chỉnh cho các lớp dạy của mình. Kết
quả tôi gặt hái được chưa cao, song được cải thiện dần, tôi thấy bước đầu khả

quan. Tôi nghĩ nếu chúng ta giành nhiều thời gian cho việc dạy học, quan tâm
hơn đến học sinh, thì sẽ có hiệu quả.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà bản thân tôi đã áp dụng qua những năm học để
tơi có được Đề tài thuộc kinh nghiệm với tên gọi: Biện pháp giúp học sinh lớp 9
làm tốt bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ.
Rất mong được sự đón nhận, sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp để đề
tài của tơi có thể ứng dụng được. Tơi có thêm kinh nghiệm, tự tin hơn trong
việc hướng dẫn học sinh viết bài nghị luận văn học đạt kết quả cao hơn.


12

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ TRỰC TIẾP

Người báo cáo


13


14


15


16



17



×