Nguyệt san
SỐ 115
THÁNG 06.20201
CHÁNH PHÁP
HOẰNG PHÁP — GIÁO DỤC — VĂN HỌC PHẬT GIÁO — TIN TỨC PHẬT SỰ
Địa chỉ tòa soạn: 4717 W. First Street, Santa Ana, CA 92703 – U.S.A. | Tel.: (714) 571-0473 | Email:
Website: chanhphap.us | chanhphap.org | chanhphap.net
Chủ nhiệm:
Thủ quỹ:
HT. Thích Nguyên Trí
Ni sư Thích Diệu Tánh
NỘI DUNG SỐ NÀY:
Vĩnh Hảo
Với sự cọng tác của chư tôn đức Tăng Ni và
văn thi hữu tán đồng chủ trương của Chánh
Pháp.
THƯ TÒA SOẠN, trang 2
TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI
Trình bày:
Hình bìa:
BIỆN TRUNG BIÊN LUẬN TỤNG
Chủ bút:
(Diệu Âm lược dịch), trang 4
PHẬT ĐẢN TÂN SỬU 2565 - 2021
(thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 8
TỈNH THỨC VỚI TÂM KHÔNG BIẾT
(Nguyên Giác), trang 47
MỜI NHAU (thơ Thy An), tr. 50
GIỚI THIỆU “TỪ HUYỀN THOẠI
THÍCH, t.t. (HT. Thích Thắng Hoan),
TỚI TÂM KINH” CỦA CS. NGUYÊN
GIÁC (Tâm Diệu), tr. 51
LỊCH SỬ VIÊN ASPIRIN (Bs. Nguyễn
LIÊN LẠC:
THÔNG BẠCH PHẬT ĐẢN PL. 2565
Bài vở:
Quảng cáo / Phát hành:
HÁT VỚI CHIỀN CHIỆN (thơ Trần
THÔNG ĐIỆP ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN
TỘI XEM THƯỜNG (TK. Vĩnh Hữu),
(Thích Phước Hạnh dịch), trang 14
CĨ NIẾT BÀN KHƠNG? (thơ TM Ngơ
THIỆN
TỊCH
NẤM KIM CHÂM XÀO THẬP CẨM
SỐNG TRONG ĐẠI DƯƠNG PHẬT
HẠNH PHÚC VÀ KHỔ ĐAU (Tịnh
THƠNG TƯ V/V ĐÌNH HỖN LỄ
TỚI CÕI NÀY (thơ Diệu Viên), trang
Tâm Quang
Tăng xá PHV Hải Đức
(714) 638-0989
(714) 266-4171
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật
vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi
hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải
thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và
thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là
thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì
chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di
Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần
chót bằng những lời cảm động như sau:
“Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh
Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ
còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng
một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập,
đừng để đời mình trơi qua một cách vơ ích,
và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.”
Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới
thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong
pháp mầu của Phật sẽ được lưu chuyển qua
những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy
theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận
hương vị.
Nguyệt san Chánh Pháp là báo biếu, không
trả nhuận bút cho bài vở gửi đăng. Quý văn
thi hữu nào muốn có nhuận bút xin ghi rõ
“có nhuận bút” và địa chỉ liên lạc để tòa
soạn quyết định. Bài gửi đăng xin đánh máy
sẵn và gửi bằng electronic file qua email:
Trân trọng cảm ơn.
Chi phiếu ủng hộ xin ghi:
CHANH PHAP
11502 Daniel Ave.
Garden Grove, CA 92840
trang 9
- 2021 (Hội Đồng Giáo Phẩm), tr. 13
VESAK LIÊN HIỆP QUỐC 2021
ĐIỆN THƯ PHÂN ƯU TLHT THÍCH
HẠNH
VIÊN
(GHPGVNTNHK), trang 16
TÁNH (Nguyễn Thế Đăng) tr. 17
PHẬT ĐẢN & AN CƯ… (Hội Đồng
Điều Hành GHPGVNTNHK), trang 21
Ý Đức), trang 52
Hoàng Vy), trang 53
trang 54
Tằng Giao), trang 56
CHAY (G. Phượng) trang 57
Khả), trang 58
60
(Nguyên Siêu), trang 22
ĐỖ HOA (Hoang Phong), tr. 61
CHỖ NÀO CŨNG NẮNG (Nguyễn
Hiền), trang 23
TÌNH YÊU THIÊN NHIÊN (thơ Thục
HẠT MẦM VƯƠN LÊN TỪ ĐẤT
THIỀN TĂNG VỊNH (thơ Thích Chúc
HỊA NHẬP TRONG TỪ ÁI CỨU
KÍNH (Tuệ Uyển dịch), trang 24
BÁT CHÁNH ĐẠO – CON ĐƯỜNG
ĐƯA ĐẾN CHẤM DỨT ĐAU KHỔ
(Bhikkhu Bodhi - Thích Tâm Hạnh &
Cs. Tâm Cảnh dịch), trang 28
TAM HỢP (thơ Hiền Nguyễn), trang
32
CON ĐƯỜNG THỐNG NHẤT, t.t.,
VNPG Sử Luận, Chương 35 (Nguyễn
Lang), trang 33
PHẬT DẠY CHỌN BẠN MÀ CHƠI
(Quảng Tánh), trang 36
HÃY TỰ HỎI, TỰ HỎI… (thơ Huệ
Trân), trang 37
Ngọc Tư), trang 62
Uyên), trang 63
TRUYỆN CỰC NGẮN (Steven N.),
trang 64
THE STORY OF AN OLD BRAHMIN
(Daw Tin), trang 66
TÁC PHẨM ĐỂ ĐỜI (Tiểu Lục Thần
Phong), trang 67
HƯƠNG THIỀN (thơ Nguyễn An
Bình), trang 70
VƯỜN THIỀN (thơ Lương Mành, nhạc
Phan Bá Kiệt), trang 71
GIỚI THIỆU THƯ VIỆN PHẬT VIỆT
(Bạch Xuân Phẻ), trang 72
VUA ƯU ĐIỀN VỚI PHÁP LY DỤC
(Truyện cổ Phật giáo), trang 73
TU SỬA NĂM CĂN – Câu Chuyện
KANSHI 31 (thơ Ikkyu Sojan – Pháp
ĐANG RƠI (thơ Lý Thừa Nghiệp),
NGÕ THOÁT – chương 7 (truyện dài
Cuối Tuần (Nhóm Áo Lam), tr. 38
trang 39
LỄ PHẬT ĐẢN MÙA DỊCH (Đồng
Hoan dịch), trang 75
Vĩnh Hảo), trang 81
Thiện), trang 40
Báo Chánh Pháp số 115, tháng 06.2021, do Chùa Phật Tổ (Long Beach, CA) và
Brodard Chateau, Brodard Restaurant & Bamboo Bistro ủng hộ ấn phí. Kính
CHÁNH
115,
THÁNG
1
nguyện quý tự và chư
phật-tửPHÁP
được SỐ
hưng
long,
an lạc 06.2021
để hoằng truyền
và hộ
trì Phật Pháp.
Thư Tòa Soạn
BƯỚC QUA LỊCH SỬ
Cơn đại dịch qt qua địa cầu gây điêu
đứng và làm xáo trộn cả đời sống của nhân
loại. Nó tước đi những sinh mệnh, làm đảo
lộn nếp sống của từng cá nhân, gia đình, xã
hội, quốc gia và quốc tế. Nó khơng phân biệt,
nể trọng hay nhường nhịn ai; khơng kỳ thị trí
thức hay bình dân, giàu hay nghèo, già hay
trẻ, nam hay nữ, khỏe mạnh hay yếu đuối.
Nó ly cách từng cá nhân, chia lìa những gia
đình, khoanh vùng từng xã hội; và như lưỡi
hái khổng lồ của tử thần, nó phạt ngang, san
bằng tất cả những gì nằm trên lối đi thần tốc
của nó.
Hơn ba triệu người nằm xuống (1) dưới
lưỡi hái này kể từ khi dịch bắt đầu lây lan; và
số nhân mạng tử vong vẫn còn tăng lên từng
ngày ở quốc gia này, quốc gia kia, dù các
khoa học gia đã bào chế và sản xuất được
thuốc chủng ngừa từ cuối năm trước.
Hãy thử nhìn những con số của dịch cúm
năm 1918: khoảng 500 triệu người bị lây
nhiễm, và khoảng ít nhất là 50 triệu người tử
vong trên toàn thế giới (2). Số người chết
năm xưa so với ngày nay thật quá khủng
khiếp. Nhưng ngày nay đọc lại từ sử liệu, chỉ
thấy tử vong trên những con số. Hình ảnh
chết chóc sẽ được gợi lên bằng phép toán so
sánh thật nhanh: năm ấy và năm nay, con số
và người chết. Mức độ xúc cảm sẽ khơng
nhiều, nếu khơng muốn nói là vô cảm.
Thống kê về tử vong trong chiến tranh,
thiên tai, ôn dịch… ở khắp nơi trên thế giới
với cấp số nghìn, mn, ức, triệu khơng thể
nào chính xác, để rồi con số cuối cùng lưu
vào sử chỉ là ước tính. Những con số trên
trang sử, dù chuẩn xác hay chỉ ước tính, cũng
đã lược bỏ đi danh tánh, tuổi tác, giới tính,
chức nghiệp… của từng phận người. Và, sử đã
khơng ghi được nỗi thống khổ cùng tận của
những con người bằng xương bằng thịt, có ý
thức, xúc cảm và tình thương, phải đau đớn
quằn quại khi mất đi một phần cơ thể, hoặc
mất đi người thân yêu trong gia đình. Sử
không ghi được máu đổ nơi chiến trường hay
hậu phương, không ghi được nước mắt lăn
dài trên những gương mặt sầu đau khổ nạn.
Sử cũng không mô tả được nỗi âu lo, niềm hy
vọng, thất vọng và từng giây phút căng
thẳng của những người ở tuyến đầu lửa đạn
hay đại dịch: người lính ở trận tiền, y sĩ y tá
2
CHÁNH PHÁP SỐ 115, THÁNG 06.2021
nơi phòng cấp cứu bệnh viện, trực tiếp chứng
kiến, cảm nhận và chia sẻ nỗi đớn đau và cái
chết với đồng đội, với bệnh nhân.
Có những cơn đau làm oằn cả thân, rồi mau
chóng mang đi một đời người. Có những cơn
đau vật vã kéo dài như hành hạ xác thân trong
nhiều kiếp. Có những cuộc chia ly vội vàng
khơng kịp nói lời từ giã, và những cuộc từ biệt
đã biết từ nhiều ngày trước. Có những lời trăng
trối đứt quãng theo hơi thở phập phều, và
những lời nhắn nhủ ngắn gọn chỉ được gửi qua
vị y sĩ. Có những cái chạm tay qua mặt kiếng,
hay vẫy tay từ một khoảng cách xa thẳm như
từ hai thế giới cách biệt. Những lời nghẹn ngào.
Những tiếng khóc lặng câm, đau buốt ở tận tim
gan. Sự đau đớn và khiếp hãi của bệnh nhân
khi đối diện với cái chết là không cùng tận;
niềm đau mất mát của người thân ở lại cũng
không cùng tận.
Cái khổ của sinh, già, bệnh, chết đã được
nói nhiều trong kinh điển các tơn giáo, trong sử
sách, văn chương, báo chí, lời truyền giảng…
Nhưng nếu không trực tiếp ở ngay tuyến đầu
của chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh, người ta
khó có thể khởi lên niềm trắc ẩn, xót xa hay
phát lịng từ bi ảnh hưởng lên hành động cứu
giúp, vỗ về. Khi khổ nạn chưa đến với bản
thân, người ta hãy còn thờ ơ, khơng quan tâm
gì lắm; cho đến khi dịch bệnh lan đến bạn bè,
hàng xóm, người thân, mới để ý và tin rằng nó
có thật. Và rồi khi khổ nạn ấy đến với chính tự
thân, lời trăng trối cũng khơng kịp cất lên,
niềm hối hận cũng muộn màng không thể chân
thành biểu lộ. Tin tức từ các phương tiện
truyền thông đại chúng đến lúc này mới được
ghi nhận là có thật, mà căn bệnh nguy hiểm
đang hành hạ xác thân, hăm he tước đi mạng
sống của mình cịn thật hơn.
Cho nên, sống trên cuộc đời khổ đau này,
cần phải học và phát triển lòng thương. Thiếu
lòng thương, người ta sẽ mất đi sự nhạy cảm,
đồng cảm với khổ nạn của kẻ khác. Thiếu lịng
thương, người ta chỉ biết có mình, niềm đau
của mình, mà khơng hề biết rằng có những
người khác cũng đau khổ, có khi cịn trăm lần
hơn. Lịng thương là chất liệu có sẵn trong mỗi
con người, là sức mạnh vơ song có thể vực dậy
được những gì đã ngã đổ của tự thân và gia
đình; xa hơn, có thể làm vơi đi những khổ đau
bệnh hoạn của xã hội, cứu vớt an ủi những số
phận hẩm hiu nghèo đói.
Hạt mầm thương yêu có sẵn, nhưng
khơng tạo mơi trường tốt đẹp và thích hợp thì
mầm ấy cũng không thể nứt lên cây, cho ra
hoa trái. Bởi vậy tình thương, hay lịng từ bi,
cần phải trau luyện và ni lớn. Lịng từ bi
nên được ứng dụng vào tất cả mọi sinh hoạt
của con người, từ cá nhân đến gia đình và xã
hội, từ giáo dục đến y tế, kinh tế. Động lực và
chức năng của lòng từ bi là nâng dậy. Từ sự
nâng dậy ấy, nhân gian sẽ an vui hơn, cuộc
đời sẽ hạnh phúc hơn.
Hãy nghe lời nguyện tha thiết phát khởi
từ lòng yêu thương con người và cuộc đời,
được tụng đọc mỗi sáng trong chốn thiền
môn: “Vào những lúc tật dịch tràn lan, con sẽ
hóa hiện thành thuốc men (dược thảo), cứu
chữa cả những bệnh trầm kha; gặp khi nạn
đói hồnh hành, con sẽ hóa hiện thành lương
thực để cứu người đói lạnh cơ khổ. Bất cứ
điều lợi ích (thiết thực) nào, con nguyện sẽ
khơng từ nan” (3).
Với lịng từ bi được trau luyện và nuôi
dưỡng ấy, chúng ta đối diện và đối kháng với
thảm họa dịch bệnh hôm nay bằng trái tim và
bàn tay nhân ái. Bất cứ điều gì có thể góp
phần vào việc phòng ngừa và chống lại dịch
bệnh, chúng ta sẽ tận lực thực thi, vì điều
này sẽ cứu mạng rất nhiều người, trong đó có
cả bản thân và gia đình chúng ta. Chúng ta
khơng qn tri ân những nhà khoa học suốt
mấy chục năm qua đã vùi mình vào các
chương trình nghiên cứu về vi trùng để kịp
bào chế thuốc chủng ngừa cho dịch bệnh
ngày nay. Chúng ta biết trân quý, biết ơn và
hết sức ca ngợi lòng hy sinh, ý thức trách
nhiệm và lòng nhân ái của những y sĩ, y tá, y
công ở tuyến đầu đại dịch.
Trăm năm sau, hình ảnh cao đẹp và bi
tráng của các nhà khoa học và những người ở
tuyến đầu dịch bệnh sẽ được nhắc qua loa
trong sách sử; và người đời sau cũng sẽ nhìn
thấy những con số lây nhiễm, tử vong, ở
nước này nước kia với một thoáng bi thương,
hoặc hồn tồn vơ tâm vơ tình. Người viết sử
chỉ khách quan ghi nhận các sự kiện đã xảy
ra trong quá khứ cho nên sách sử là những
trang giấy khô chết, chứa đựng dữ liệu, sự
kiện. Người đọc sử có trách nhiệm nghiên cứu
và rút tỉa những bài học từ lịch sử khô chết
ấy để tránh tái diễn những thảm họa khó thể
lường trước ở tương lai.
Đã khắc ghi bài học lịch sử ấy rồi thì tiếp
đến, cần nhớ rằng bài học vỡ lòng của tiến bộ
là hãy quên đi quá khứ. Bám víu vào những
sai lầm lịch sử sẽ ngăn cản bước đi của người
trí tuệ hiện tại, ảnh hưởng tiêu cực đến các
thế hệ mai sau.
Nơi trạm xe buýt cuối ngày, chuyến xe
cuối cùng chuẩn bị lăn bánh. Những người
đến trễ và những người muốn ngủ lại nơi
băng ghế chờ đợi, sẽ bị bỏ lại. Cơ hội tái
diễn cho một chuyến xe khác, có thể là
ngày hơm sau. Nhưng hơm sau, nào ai
đốn được chuyện gì sẽ xảy ra. Người ta
cần phải bước qua, bỏ lại lịch sử phía sau,
bằng không sẽ bị bỏ lại bên lề lịch sử.
______________
1) Theo số liệu thống kê từ Worldometer,
o/
coronavirus/ tính đến ngày 23/5/2021,
trên thế giới đã có 167,362,130 ca lây
nhiễm, 148,377,916 trường hợp được hồi
phục, và 3,475,053 trường hợp tử vong vì
COVID-19.
2) Theo CDC (Centers for Disease Control
and Prevention – Trung tâm Kiểm sốt và
Phịng ngừa Dịch bệnh), đại dịch cúm năm
1918 là đại dịch nghiêm trọng nhất trong
lịch sử gần đây. Nó được gây ra bởi một
loại vi-rút H1N1 với gen có nguồn gốc từ
gia cầm. Mặc dù khơng có sự đồng thuận
về nguồn gốc của virus, nhưng nó đã lây
lan trên toàn thế giới trong giai đoạn 1918
-1919. Tại Hoa Kỳ, nó lần đầu tiên được
xác định ở các quân nhân vào mùa xuân
năm 1918. Người ta ước tính rằng khoảng
500 triệu người hoặc một phần ba dân số
thế giới đã bị nhiễm vi-rút này. Số người
chết ước tính lên tới ít nhất 50 triệu người
trên tồn thế giới với khoảng 675.000
người xảy ra ở Hoa Kỳ. (Nguồn: https://
www.cdc.gov/flu/pandemicresources/1918-pandemic-h1n1.html )
Theo Wikipedia, đại dịch năm 1918 được
ghi vào sử với tên gọi là Spanish Flu (cúm
Tây Ban Nha). Nhưng kể từ năm 2015, Tổ
chức Y tế Thế giới (WHO – World Health
Organization) đã yêu cầu các nhà khoa
học nên tránh dùng địa danh hay tên gọi
cá biệt của một chủng loại nào đó để đặt
cho một loại virus hay đại dịch nhằm tránh
sự kỳ thị chủng tộc cũng như tác hại về
kinh tế đối với địa phương ấy.
3) “Tật dịch thế nhi hiện vi dược thảo, cứu
liệu trầm kha; cơ cẩn thời nhi hóa tác đạo
lương, tế chư bần nổi. Đản hữu lợi ích, vơ
bất hưng sùng.” Đoạn này trích từ bài
“Phát Nguyện Văn” (mà thiền môn Việt
Nam gọi nôm na là Sám Qui Mạng) của
Thiền sư Di Sơn, đời Đường bên Trung
Hoa. Để tỏ lịng tơn kính, mơn đồ lấy tên
ngọn núi (Di Sơn) để gọi thay vì gọi thẳng
tên là Thiền sư Kiểu Nhiên. Bài Phát
Nguyện Văn này được đưa vào nghi thức
tụng niệm để tụng đọc vào mỗi thời công
phu sáng tại các chùa miền Trung và Nam
Việt Nam.
CHÁNH PHÁP SỐ 115, THÁNG 06.2021
3
TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI
DIỆU ÂM lược dịch
HOA KỲ: Phật tử Mỹ gốc Á
tổ chức lễ tưởng niệm
Phật giáo toàn quốc
Los Angeles, CA - Các nhà
lãnh đạo Phật giáo người Mỹ
gốc Á - bao gồm Duncan
Ryuken Williams, Funie Hsu
và Chenxing Han - đã tổ
chức lễ tưởng niệm Phật giáo
quốc gia đầu tiên để phản
ứng bạo lực chống lại người
châu Á.
Theo trang web của họ, sự
kiện có tựa đề “Chúng ta Có
thể Họp mặt: Lễ tưởng niệm
Phật giáo Quốc gia dành cho
Tổ tiên người Mỹ gốc Á” này
mời gọi các Phật tử người Mỹ
gốc Á và các đồng minh đến
với nhau để “thương tiếc,
hàn gắn và đổi mới”.
Dựa trên nghi thức để
tang 49 ngày sau khi chết
của Phật giáo, “Chúng ta Có
thể Họp mặt” diễn ra vào
ngày 4-5-2021, 49 ngày sau
vụ xả súng ở Atlanta - nơi
một tay súng đã sát hại 8
người, trong số đó có 6 người
gốc Á.
Xuyên suốt sự kiện kéo
dài 90 phút này, 49 nhà lãnh
đạo Phật giáo người Mỹ gốc
Á sẽ chủ trì các bài tụng và
suy niệm để vinh danh
những sinh mạng đã mất vì
các hành động bạo lực chống
lại người gốc Á tại Hoa Kỳ.
Buổi lễ được truyền trực
tiếp
từ
Chùa
Higashi
Honganji ở Los Angeles vào
thứ Ba, ngày 4-5 lúc 4 giờ
chiều PT (7 giờ tối ET).
(Big News Network - May
3, 2021)
CỘNG HÒA KALMYKIA
(Liên bang Nga): Hội
thảo quốc tế tại Kalmykia
hợp nhất các học giả Phật
giáo hàng đầu
Hội thảo khoa học quốc
tế đầu tiên mang tên “Giáo
dục Phật giáo: Vấn đề và
Quan điểm của Phát triển,”
đã được tổ chức tại Cộng
hòa Kalmykia từ ngày 28
đến 30-4-2021, với sự tham
dự của các chuyên gia hàng
đầu của Nga và nước ngoài
trong lĩnh vực giáo dục Phật
giáo.
Được tổ chức trực tiếp
tại Trung tâm Khoa học Kalmyk của Viện Hàn lâm Khoa
học Nga và trực tuyến thông
qua diễn đàn Zoom, hội nghị
đã đánh dấu kỷ niệm 15
năm thành lập tu viện trung
tâm của Kalmyka, và kỷ
niệm 25 năm thành lập tu
viện
Geden
Sheddup
Choikhorling - tu viện Phật
giáo đầu tiên được thành lập
sau khi tất cả các ngôi chùa
và tu viện Phật giáo bị phá
hủy trong thời kỳ tập thể
hóa của Liên Xơ và cuộc Đại
thanh trừng của những năm
1930.
Diễn đàn được tổ chức
bởi Tổ chức Giải cứu Tây
Tạng (Moscow), Hiệp hội
Phật giáo Kalmyk, tu viện
trung tâm của Kalmykia,
Trung tâm Khoa học Kalmyk
và Đại học Nhà nước Kalmyk
– B.B. Gorodovikov.
(Buddhistdoor Global –
May 3, 2021)
Poster lễ tưởng niệm Phật
giáo tồn quốc “Chúng ta Có
thể Họp mặt: Lễ tưởng niệm
Phật giáo Quốc gia dành cho
Tổ tiên người Mỹ gốc Á”
Minh họa: Rob Sato
4
CHÁNH PHÁP SỐ 115, THÁNG 06.2021
Hội thảo khoa học quốc tế đầu
tiên mang tên “Giáo dục Phật
giáo: Vấn đề và Quan điểm
của Phát triển” tổ chức tại
Cộng hịa Kalmykia
Photo: facebook.com
NHẬT BẢN: Ngơi chùa ở
Kyoto thành lập ủy ban để
mở chi nhánh trong không
gian
Với sự hợp tác của một
công ty phát triển vệ tinh,
chùa Daigo-ji ở Kyoto đã
thành lập một ủy ban để mở
một chi nhánh trong không
gian bằng cách lắp đặt các vật
thể Phật giáo trên một vệ tinh
dự kiến được phóng lên vào
năm 2023.
Chùa Daigo-jji cho biết ý
tưởng này được đưa ra sau khi
các thành viên của chùa bày
tỏ nhu cầu cầu nguyện cho
nền hịa bình và sự an tồn
vượt qua ranh giới khu vực và
quốc gia.
Chùa đã đặt tên cho ngôi
chùa trong không gian là
"Jotenin Gouun-ji"- kết hợp
các thuật ngữ Phật giáo "go"
và "un" có nghĩa là dịng chảy
của một thời kỳ vĩ đại và các
yếu tố hình thành sự tồn tại
của con người.
Vệ tinh sẽ mang các vật
tượng trưng cho Phật giáo chẳng hạn như tranh, tượng
Đức Phật - để phục vụ như
một trung tâm tâm linh cho
những người cầu nguyện trên
Trái đất.
Chùa Daigo-ji cho biết đã
tiến hành một nghi lễ Phật
giáo để cầu nguyện cho hịa
bình và an tồn trong vũ trụ
lần đầu tiên vào tháng 2, và
có kế hoạch tổ chức các dịch
vụ như vậy theo định kỳ.
“Sau khi phóng, chúng tơi
muốn truyền bá thế giới cầu
nguyện qua vệ tinh, chẳng
hạn như bằng cách tổ chức
các buổi lễ Phật giáo trong
khi xem các hình ảnh được
gửi từ khơng gian”, một vị
chức sắc của chùa cho biết.
(Big News Network - May
3, 2021)
Xem xét cách các tài liệu
bưu chính học khác nhau
tường thuật câu chuyện của
Đức Phật Thích Ca, cuốn
sách này bao gồm tem bưu
chính tiêu chuẩn, tem khối,
tem 3D, tem lụa, tem kết
hợp, bìa tem ra ngày đầu
tiên, tờ thu nhỏ, tờ lưu
niệm, thẻ châm ngơn, bưu
thiếp, bìa, tập sách nhỏ, bản
lỗi, bản kiểm chứng - và hơn
thế nữa, từ khắp nơi trên
thế giới.
“Phật giáo trên tem” bao
gồm 22 chương, trong số đó
có những câu chuyện về các
tiền thân của Đức Phật, cuộc
đời của Đức Phật, các biểu
tượng và vật dụng Phật
giáo, tu viện và thánh địa
Phật giáo, lễ hội Phật giáo
v.v.
(Buddhistdoor Global –
May 5, 2021)
Chùa Daigo-jji
Photo: The Kyoto Shimbun
ẤN ĐỘ: Sách mới cung
cấp cái nhìn bưu chính
học về câu chuyện của
Đức Phật
Được xuất bản gần đây,
cuốn sách của tác giả M.
Lokeswara Rao tìm cách
cung cấp cách kể lại độc đáo
về Phật giáo và câu chuyện
về Đức Phật thông qua tem
bưu chính và các tài liệu bưu
chính học (philatelic) khác.
Với tựa đề “Phật giáo trên
tem”, tập sách này được cho
là giữ kỷ lục về các tài liệu
bưu chính học nhiều nhất
được sử dụng để thuật lại
câu chuyện của Đức Phật
Thích Ca.
“Phật giáo trên tem” của tác
giả M. Lokeswara Rao
HÀN QUỐC: Ấn Độ và Hàn
Quốc củng cố mối quan hệ
với món quà tượng Phật
Hội đồng Quan hệ Văn
hóa Ấn Độ - một tổ chức tự
trị trực thuộc chính phủ Ấn
Độ - đã trao tặng một pho
tượng Phật bằng đồng cho
đại diện của Chùa Tongdo ở
thành phố Yangsan, Hàn
Quốc. Món quà này nhằm
tăng cường sự kết nối giữa
cộng đồng Phật giáo hai
nước.
Lễ bàn giao diễn ra tại
Trung tâm Văn hóa Swami
Vivekananda tại Đại sứ quán
Ấn Độ ở Seoul vào ngày 30-4
-2021, với sự hiện diện của
Đại sứ Ấn Độ Sripriya Ranganathan, và Yeo Han-gu, thư
ký của Tổng thống Hàn Quốc
Moon Jae-in, cùng với các
nhà sư từ Chùa Tongdo ở tỉnh
Gyeongsang Nam, và các vị
khách khác.
Sau lễ trao tặng, pho
tượng đã được chuyển vào
chùa. Các vị chức sắc tại
chùa đã lên kế hoạch cho
một buổi lễ vào ngày 16-5 để
chính thức tơn trí pho tượng
nói trên. Vào ngày 19-5, là
Ngày Phật Đản ở Hàn Quốc,
pho tượng sẽ được công bố
trước công chúng.
Công chúng cũng sẽ có
thể xem trực tuyến pho
tượng Phật này và các tác
phẩm nghệ thuật và hiện vật
khác - vốn ghi lại lịch sử của
mối quan hệ Phật giáo Ấn Độ
và Hàn Quốc - trong một
cuộc triển lãm có tiêu đề “Bồ
đề tâm: Truyền thống nghệ
thuật Phật giáo đan xen từ
Ấn Độ trên khắp châu Á”.
CHÁNH PHÁP SỐ 115, THÁNG 06.2021
5
Pho tượng Phật của Ấn Độ
tặng Hàn Quốc tại lễ bàn giao
ngày 17-5-1995, ba ngày
sau khi ngài được Đức Đạt
lai Lạt ma hiện tại, Tenzin
Gyatso, công nhận là Ban
thiền Lạt ma. Kể từ đó, ngài
đã bị giam giữ ở một địa
điểm không được tiết lộ.
Được xem là Lạt ma cấp
cao thứ hai trong Phật giáo
Tây Tạng theo truyền thống,
Ban thiền Lạt ma đóng một
vai trị quan trọng trong tơn
giáo này vì, ngồi những
việc khác, ngài được giao
nhiệm vụ cơng nhận sự tái
sinh của Đạt lai Lạt ma sau
khi vị đương nhiệm viên
tịch.
(NewsNow - May 8,
2021)
tượng của chùa Dhammakaya
đã phá kỷ lục thế giới - đánh
bại kỷ lục trước đó là 56,680.
Mặc dù ngôi chùa này đã
thành công trong mục tiêu của
mình, nhưng việc họ chọn đốt
quá nhiều nến vào Ngày Trái
đất - một sự kiện toàn cầu ủng
hộ bảo vệ môi trường - đã làm
dấy lên một số lo ngại về tác
hại của việc đốt sáp parafin.
Chuyên gia sức khỏe mơi
trường Thái Lan Suwimon Kanchanasuta nói rằng mặc dù
hiện vẫn chưa rõ loại nến nào
đã được sử dụng, nhưng một
số sản phẩm nhất định có thể
góp phần gây ơ nhiễm khơng
khí.
(Big News Network
May
10, 2021)
Đại sứ Ấn Độ tại Hàn Quốc
Photos: koreatimes.co.kr
Ban thiền Lạt ma, người vẫn
bị bắt làm con tin bởi Bắc
Kinh—Photo: AsiaNews
ẤN ĐỘ: Phật tử mừng sinh
nhật lần thứ 32 của Ban
thiền Lạt ma, người vẫn bị
bắt làm con tin bởi Bắc
Kinh
Phật tử ở Ladakh và tu
viện Tashi Lhunpo ở Bylakuppe (Karnataka) đã cùng
với người Tây Tạng trên khắp
thế giới kỷ niệm sinh nhật lần
thứ 32 của Ban thiền Lạt ma.
Các lễ kỷ niệm này được tổ
chức vào ngày 25-4, đi kèm
với những lời kêu gọi mới về
việc Trung Quốc trả tự do cho
ngài.
Đây là lần đầu tiên sinh
nhật của Ban thiền Lạt ma
được tổ chức ở Ladakh. Đối
với những người theo đạo
Phật, đây là một dấu hiệu của
sự quan tâm mới đến số phận
của ngài và của chính nghĩa
Tây Tạng.
Chính quyền Trung Quốc
đã bắt cóc Gedhun Choekyi
Nyima và gia đình ngài vào
THÁI LAN: Chùa
Dhammakaya lập kỷ lục
thế giới vào ngày Trái đất
Các nhà sư tại chùa
Dhammakaya ở ngoại ô
Bangkok đã thắp sáng
330,000 ngọn nến trong
Ngày Trái đất (22-4-2021)
nhằm phá vỡ Kỷ lục Guinness Thế giới (GWR) về hình
ảnh thắp sáng lớn nhất.
Các ngọn nến được sắp
xếp xung quanh điện thờ
trung tâm của ngơi chùa
theo hình ảnh bản đồ thế
giới và một hình tượng lớn
đang ngồi thiền, cùng với
khẩu hiệu của sự kiện:
“Thanh tẩy tâm trí, thanh
tẩy thế giới”. Hơn 400,000
người đã xem qua Zoom khi
các nhà sư thắp nến, tụng
kinh và dẫn đầu một nhóm
thiền định từ tâm.
Với tổng số chính thức là
256,477 ngọn nến thắp
sáng, màn trình diễn ấn
Chùa Dhammakaya đã thắp
sáng 330,000 ngọn nến trong
Ngày Trái đất (22-4-2021) –
lập Kỷ lục Guinness Thế giới
(GWR) về hình ảnh thắp sáng
lớn nhất —Photo: Reuters
Triển lãm do Bảo tàng Quốc
gia Ấn Độ quản lý và sẽ được
khởi động cùng lúc với lễ lắp
đặt bức tượng tại Chùa Tongdo vào ngày 16-5.
Buddhistdoor Global –
May 7, 2021)
6
CHÁNH PHÁP SỐ 115, THÁNG 06.2021
MIẾN ĐIỆN: Các Nhóm Phật
tử Tham gia Xã hội cứu trợ
y tế cho những người biểu
tình ủng hộ dân chủ
Trong bối cảnh quân đội
đàn áp ngày càng bạo lực, một
liên minh các tổ chức Phật giáo
chuyên tham gia xã hội và cứu
trợ nhân đạo đã bắt đầu cung
cấp viện trợ y tế cần thiết
khẩn cấp cho những người
biểu tình ủng hộ dân chủ ở
Miến Điện. Nhằm phản đối việc
quân đội đảo chính giành
chính quyền của chính phủ dân
cử diễn ra vào tháng 2- 2021,
những người biểu tình dân sự
đã dẫn đầu một phong trào
bất tuân dân sự (CDM) đang
diễn ra trên tồn quốc.
Sáng kiến nhân đạo nói
trên đang được lãnh đạo bởi
Mạng lưới Phật tử Dấn thân
Quốc tế (INEB) với sự hỗ trợ
tài chính từ tổ chức phi chính
phủ quốc tế Những người bạn
tốt. Các nỗ lực cứu trợ đang
được điều phối tại Miến Điện
bởi Phong trào Tinh thần
trong Giáo dục (SEM) có trụ
sở tại Bangkok, Thái Lan.
Tổ chức phi chính phủ
quốc tế Những người bạn tốt
cho đến nay đã cung cấp
44,500 đô la Mỹ tài trợ cho
sáng kiến cứu trợ y tế của
INEB ở Miến Điện, được sử
dụng để hỗ trợ y tế tại điểm
nóng cho thường dân bị
thương bởi các cuộc tấn công
do quân đội dẫn đầu - đặc
biệt là những người ở các
cộng đồng nghèo và dễ bị
tổn thương mà không được
tiếp cận điều trị y tế.
INEB và SEM cũng đã
cung cấp thức ăn và nước
uống cho những người tị nạn
tản cư đến khu vực biên giới
giữa Myanmar và Thái Lan.
(Buddhistdoor
Global –
May 12, 2021)
Các tổ chức Phật giáo INEB
và SEM cung cấp thức ăn và
nước uống cho những người
tị nạn tản cư đến khu vực
biên giới giữa Myanmar và
Thái Lan
Photos: INEB
MÔNG CỔ: Ngày lễ Phật
đản - ngày công lễ năm
nay rơi vào ngày 26
tháng 5
Vào ngày 5-6-2020, lần
đầu tiên Mông Cổ kỷ niệm
Ngày Phật đản (Buddha
Purnima) như một ngày lễ
chính thức.
Vào năm 2021, Ngày
Phật đản sẽ được cử hành
vào thứ Tư ngày 26- 5.
Ngày này, rơi vào ngày 15
của tháng đầu mùa hè hàng
năm, theo Phật lịch, được
dành để đánh dấu ba sự
kiện trọng đại trong cuộc
đời của Đức Phật - sự đản
sinh, giác ngộ và nhập diệt
của Ngài từ thế giới loài
người.
Quốc hội Mông Cổ đã
sửa đổi Luật Ngày Công lễ
vào tháng 12-2019, biến
Ngày lễ Phật đản trở thành
ngày lễ chung trên toàn
quốc, và một số thành viên
quốc hội chỉ ra rằng Ngày lễ
Phật nên được tổ chức như
một ngày để khuyến khích
lịng từ bi, sự đồng cảm và
lịng nhân ái cũng như thúc
đẩy tình yêu đối với mẹ
thiên nhiên, cha mẹ và gia
đình.
Vào ngày này năm
ngối, các buổi tụng kinh và
cầu nguyện, các nghi lễ và
buổi lễ Phật giáo, các sự
kiện trao giải, triển lãm và
cuộc thi được tổ chức tại
hầu hết các tự viện và cơ sở
Phật giáo.
(MONTSAME – May 12,
2021)
TRUNG QUỐC: Những bức
tượng La Hán 1,000 năm
tuổi được trùng tu ở tỉnh
Sơn Đông
Lần đầu tiên sau 39 năm,
12
pho tượng La Hán tại
chùa Lingyan - ở thủ phủ Tế
Nam của tỉnh Sơn Đơng - có
niên đại gần 1,000 năm đã
được phục chế.
Các pho tượng đất sét
màu nói trên được tạo tác
cách đây hơn 1,600 năm
trong triều đại Đông Tấn
(317-420).
Tại chùa Lingyan có 40
pho tượng La Hán được bảo
quản tốt, nổi tiếng trong và
ngoài nước, hầu hết được tạo
tác vào thời nhà Tống (9601279). Với nhiều màu sắc,
hình dạng khác nhau và với
các biểu cảm đa dạng, những
pho tượng Phật giáo này đã
được tu bổ nhiều lần trong
lịch sử, lần tu sửa cuối cùng
vào năm 1982.
Su Bomin, Phó Giám đốc
Học viện Nghiên cứu Đơn
Hồng cho biết: “Kết quả bảo
tồn và phục chế lần này vượt
ngồi mong đợi. Các cơng
nhân đã sử dụng các kỹ thuật
an toàn để phục chế, bao
gồm sửa chữa một số vết sơn
bị nứt và làm sạch bụi trên
các bức tượng,” ơng Su nói.
Ơng cho biết, phần lớn hư
hại là do sự thay đổi nhiệt độ
và độ ẩm trong thời gian dài.
(NewsNow – May 13,
2021)
Phật tử Mông Cổ chiêm bái
tượng Phật
Photo: MONTSAME
12 pho tượng La Hán tại
chùa Lingyan - ở Tế Nam,
Sơn Đơng - có niên đại gần
1,000 năm đã được phục chế
lần đầu tiên sau 39 năm,
Photo: Google
CHÁNH PHÁP SỐ 115, THÁNG 06.2021
7
PHẬT ĐẢN TÂN SỬU 2565 – 2021
Phật Đản năm nay (2021) lại đến rồi,
Đồng hương Phật tử chẳng mấy vui!
Một năm Cơ-Vít (Covid-19) ai như nấy,
Than thở thở than, đứng lại ngồi.
Đó là báo đáp ơn Phật Tổ,
Đó là đảnh lễ Phật đản sanh,
Đó là kỷ niệm rất tối thượng,
Đó là báo đáp đấng Cha lành…
Than thở thở than, đứng lại ngồi,
Ngồi buồn suy nghĩ của riêng tôi,
Tuổi già sức yếu, thân bì quyện, ...
Bái sám, tụng kinh muốn hụt hơi…
Phật Đản năm nay cịn Cơ-vít (Covid-19),
Nhất tâm cầu nguyện ở tự thân,
Nhất tâm Kết hạ An cư tốt,
Con Phật nhất tề nhớ đền ơn.
Sanh, già, bệnh chết là tứ khổ,
Phật dạy ngàn xưa rõ mười mươi,
Phật Đản năm nào đều thiết lễ,
Năm nào Phật Đản cũng nhớ Ngài...
Dâng lời tưởng niệm ngày Phật Đản,
Đảnh lễ chư Tôn đức thập phương,
Pháp giới chúng sanh đều hoan duyệt,…
Tiêu trừ nghiệp chướng, hướng Tây phương.
Thế nhưng nhớ thì cứ nhớ thơi,
Cịn chuyện tu theo ý nguyện Ngài,
Chí nguyện nhất tâm mới xứng ý,
Ngôn hành hợp nhất phải đi đôi...
Trọng hạ Tân sửu, May 10th, 2021
ĐIỀU NGỰ TỬ TÍN NGHĨA
8
CHÁNH PHÁP SỐ 115, THÁNG 06.2021
BIỆN TRUNG BIÊN LUẬN
TỤNG THÍCH
(Giải thích những bài Tụng của bộ luận Biện Minh Trung Đạo
và Nhị Biên, trích từ trong Thái Hư Tồn Thư)
Dịch Giả: THÍCH THẮNG HOAN
TƯ TƯỞNG PHẬT HỌC
(tiếp theo kỳ trước)
4)- Ngũ Căn Lực:
Bài Tụng:
“Đã thứ thuận giải thốt; khơi phục
tu năm tăng thượng, gọi là: Dục, Hành,
Không Quên, Không Tán Loạn, Tư Trạch
(Tư duy chọn lựa). Tức là tổn chướng tên
lực, nhân quả lập thứ đệ. Hai thuận
quyết trạch, hai, tại Ngũ Căn,
Ngũ Lực.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là giải thích Ngũ
Căn và Ngũ Lực. Câu Tụng thứ
nhất là trước hết văn giải thích
kết thúc, chính là chỗ tu Tứ Thần
Túc, v.v..., tu theo chỗ này đều là
tùy thuận nơi pháp thiện của giải
thoát phần. Nhờ đã tu tập các
pháp thiện đây, cho nên được gọi
là đã thứ thuận giải thoát (đã
theo thứ lớp của thuận giải
thốt). Tiếp theo sau chính là tu
tập nhằm khơi phục năm thứ tăng
thượng. Năm thứ tăng thượng
gồm có Ngũ Căn: Tín, Tấn, Niệm, Định và
Huệ. Nhờ năm thứ này có thể khiến cho Ngũ
Lực gia hạnh càng thêm tăng thượng. Ngũ
Lực tăng thượng gồm có năn thứ: Dục,
Thắng Giải, Niệm, Định và Huệ. Như tu Tín
thì phát khởi nguyện Dục, Tín tức là tăng
thượng của Dục. Cũng như đối với Di Đà Tịnh
Độ sở dĩ khơng phát sanh tín ngưỡng là do
bởi quan niệm cho rằng, cảnh giới Di Đà Tịnh
Độ là ảo tưởng không thể tin được, cho nên
không thể phát nguyện vãng sanh. Còn như
đối với ba Thừa của Phật Pháp nếu khơng
phát sanh tín tâm thì cũng khơng có thể
nguyện chứng Bồ Đề. Cho nên nguyện Dục
một khi phát sanh thì Định tất nhiên cần phải
có Tín để làm tăng thượng, ngun vì Tín có
thể khiến sanh ra Dục. Thứ hai là Tinh Tấn,
Tinh Tấn chính là yếu tố của người tu hành,
nguyên vì người tu hành tất nhiên cần phải
tinh tấn và nhờ có tinh tấn sự tu hành mới có
thể ni lớn pháp thiện, cho nên tinh tấn là
tăng thượng của tu hành. Thứ ba là Niệm,
Niệm chính là ghi rõ khơng qn, khơng luận
đối với năm pháp, chánh hạnh, chánh quả,
thảy đều không quên mất, là
không quên cảnh tăng thượng.
Thứ tư là Định, Định nghĩa là tâm
chun nhất vào tánh cảnh
khơng có tán loạn, đây có thể
làm tăng thượng khơng tán loạn.
Thứ năm là Huệ, Huệ nghĩa là đối
với tất cả pháp đều có thể tư duy
chọn lựa, đây là tăng thượng của
tư trạch (tư duy và chọn lựa).
Năm thứ Tín, v.v... đối với năm
thứ Dục, v.v... có cơng dụng tăng
thượng cho nên gọi là Căn. Nghĩa
là năm Căn đây hoàn toàn đã
được thành tựu thì có khả năng
phát khởi một thứ thế lực thù
thắng có thể chế phục được chướng và lần
lần tổm giảm lực lượng của chướng, cho nên
gọi là Tố Lực. Ở nơi năm Căn (Ngũ Căn)
theo thứ lớp gọi là năm Lực (Ngũ Lực), tức là
chỉ cho nhân quả thứ tự: như nhờ Tín Dục
cho nên phát khởi gia hạnh Tinh Tấn, nhờ
Tinh Tấn cho nên nơi Phật Pháp không quên,
nhờ ghi nhớ cho nên không bị tán loạn, nhờ
không bị tán loạn cho nên phát huệ để tư
trạch. Thứ tự của nhân quả là như thế. Lại
lần nữa trình bày phương diện của Căn Lực,
năm Căn chính là nhân và năm Lực chính là
quả, ở địa vị chưa tự tại thì gọi là nhân, cịn
ở địa vị đã tự tại thì gọi là Lực.
Như trước đã nói, Chỗ tu Tứ Niệm Xứ là
CHÁNH PHÁP SỐ 115, THÁNG 06.2021
9
hạnh xuất thế chân chánh. Hạnh đây chỗ nói
đơn giản là Tam Học: Giới, Định, Huệ, nói
rộng ra chính là Lục Ba La Mật, lại rộng hơn
chính là Ba Mươi Bảy Pháp Bồ Đề Phần. Pháp
Bồ Đề Phần đây lại phân ra gồm có: Tư
Lương, Gia hạnh, Kiến Đạo, Tu Đạo, Vơ Học
Đạo, năm ngơi vị này trước đã trình bày, đều
là ngôi vị thuộc Kiến Đạo cả.
chỉ chú trọng nơi Tu Huệ, Tứ Chánh Đoạn là
chỉ chú trọng nơi Trì Giới, Tứ Thần Túc là chỉ
chú trọng nơi Tu Định, Ngũ Căn đã thành tựu
thì có cơng dụng chính là Lực của tăng
thượng nhằm để chế phục phiền não. Người
tu Huệ nếu đem Ngũ Lực tổng hợp cùng với
Giới và Định thì sự tu tập dễ thành tựu viên
mãn. Bốn lãnh vực này khơng luận vị trí phân
định của Đại Thừa và Tiểu Thừa, cả hai đều
có phần vị của thuận giải thoát và phần vị
của thuận quyết trạch (chọn lựa), hoặc gọi là
Tư Lương Vị và Gia Hành Vị. Như Ngũ Đình
Tâm (Bất Tịnh, Từ Bi, Nhân Duyên, Giới Phân
Biệt, Sổ Tức), Tổng Tướng Niệm (niệm tướng
tổng hợp), Biệt Tướng Niệm (niệm riêng từng
tướng) của Tiểu Thừa chính là Tư Lương Vị
thuộc phần vị Thuận Giải Thốt; Nỗn, Đảnh,
Nhẫn, Thế Đệ Nhất là Gia Hạnh Vị thuộc
phần vị Thuận Quyết Trạch của Đại Thừa.
Nay trong vị trí Ngũ Đình Tâm đây, Tứ Niệm
Xứ, Tứ Chánh Đoạn, Tứ Như Ý Túc là ở nơi
phần vị Thuận Giải Thốt. Cịn Ngũ Căn, Ngũ
Lực thì thuộc phần vị Thuận Quyết Trạch.
Riêng Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế Đệ Nhất của
phần vị Thuận Quyết Trạch được nhận thức
như là: Noãn và Đảnh là thuộc về hai phần
đầu của Ngũ Căn; Nhẫn và Thế Đệ Nhất là
thuộc về hai phần sau của Ngũ Lực. Nghĩa là
nơi phần vị Noãn và Đảnh là thuộc về tu Căn;
nơi phần vị Nhẫn và Thế Đệ Nhất là thuộc về
tu Lực. Cho đến giáo thuyết của Đại Thừa thì
nói rằng, tu đến Niệm Trụ là có thể phát tâm
Bồ Đề Đại Thừa, tức là vào được ngôi vị Sơ
Trụ của Thập Tín. Tu Tứ Chánh Cần, Tứ Như
Ý Túc tức là vào được ngôi vị của Thập Trụ,
Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng. Cịn Tu Ngũ
Căn, Ngũ Lực thì cũng cịn ở trong ngơi vị Tứ
Gia Hạnh. Chẳng qua so sánh nơi Đại Thừa
thì rộng lớn hơn, như chỗ tu Lục Độ và Tứ
Nhiếp Pháp, v.v... thật ra trong đây thì cũng
có thể bao qt Tứ Gia Hạnh. Bồ Tát đã đến
Gia Hạnh Vị thì thường ở trong Định Vị, chỗ
tu Gia Hạnh của họ cũng tương tục không
gián đoạn, cho nên trong đó chỗ nói đích
thực đều là phương pháp để tu hành của
10
CHÁNH PHÁP SỐ 115, THÁNG 06.2021
5)- Thất Giác Chi:
Bài Tụng:
“Giác Chi lược có năm: chỗ gọi là Sở
Y, Tự Tánh, Xuất Ly, gồm Lợi Ích, và ba
Vô Nhiễm Chi. Do Nhân Duyên, Sở Y, Tự
Tánh nghĩa sai biệt cho nên Khinh An,
Định, Xả gọi là Vô Nhiễm Chi.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là giải thích Thất Giác Chi.
Thất Giác Chi là bảy chi giác ngộ. Thất Giác
Chi gồm có: 1- Niệm, 2- Trạch Pháp, 3- Tinh
Tấn, 4- Hỷ, 5- Khinh An, 6- Định, 7- Xả. Nay
ở trong Luận này trước hết là đem bảy Giác
Chi hợp lại thành năm Giác Chi để trình bày,
nhân vì ba Giác Chi sau kỳ thật lại giống
nhau cho nên ghép lại làm một Chi thứ năm
gọi là Vô Nhiễn Chi. Xưa nay Ba Mươi Bảy Bồ
Đề Phần đều là Giác Chi cả. Thất Giác Chi
đây đúng ra chính là trình bày Kiến Đạo Chân
Lý làm tự thể cho nên biệt danh là Giác Chi
và khi trở thành Giác Bất Giác là do quan hệ
thứ nhất của Thánh Giả và Phàm Phu. Nghĩa
là Thất Giác Chi đã viên mãn thì đặng Thánh
Quả; Thất Giác Chi chưa viên mãn chính là
Phàm Phu. Thất Giác Chi này lẽ tất nhiên là
chỗ tu của Tam Thừa.
1, Sở Y Giác Chi, trong Tụng nói Sở Y
chính là chỉ cho Niệm Giác Chi. Niệm Giác Chi
nghĩa là nương nơi nghe chánh Pháp ghi nhớ
được thuần thục, chánh niệm thời khắc nào
cũng hiện tiền rõ ràng, cho nên gọi là Niệm.
Niệm đây là một trong năm Biệt Cảnh Tâm
Sở, nghĩa là nơi cảnh đã từng tu tập liền ghi
nhớ rõ ràng không hề quên làm tánh. Niệm
đây tức là Chánh Huệ và Nghiệp dụng là chỗ
nương tựa của Niệm. Hơn nữa Niệm là sở y
của Huệ, cho nên nương nơi Niệm thì Huệ
liền được an trụ ngay.
2, Tự Tánh Giác Chi chính là Trạch Pháp
Giác Chi. Trạch Pháp nghĩa là đối với sự lý
của tất cả pháp tiến hành chọn lựa một cách
tinh tường. Những thứ là có là không, là chân
là vọng, là nhiễm là tịnh, là thiện là ác đều
do công dụng của Huệ giải phẫu một cách
tinh tường. Cho nên Trạch Pháp là tự tánh
của Huệ, như hiện thấy Khổ là tánh bức
bách, hiện thấy Tập là nghĩa nhân duyên,
hiện thấy Diệt là tánh vắng lặng, hiện thấy
Đạo là nghĩa Chánh Hạnh, v.v..., tất cả đều
cơng dụng của Trí Huệ soi sáng.
3, Giác Xuất Ly Chi chính là Tinh Tấn
Giác Chi, nghĩa là ở nơi trí huệ sau khi chọn
lựa, muốn lìa khỏi từ trong pháp nhiễm ngăn
che chỉ có tinh tấn là trên hết.
4, Giác Lợi Ích Chi chính là Hỷ Giác Chi.
Hỷ ở nơi Đại Thừa là thuộc về Hoan Hỷ Địa
ban đầu và Địa đây có khả năng đoạn hoặc
chứng chân, có khả năng chứng đặng chân lý
Hướng Vị Chứng Đắc (Hướng nơi chỗ chưa
chứng đắc). Như cầu chứng Phật Pháp, như
muốn hiểu rõ tánh chân như của Sanh Không
và Pháp Không, người tu tập cần phải lắng
nghe chánh pháp, rồi sau đó nương nơi chỗ
nghe phát tâm tu tập chỉ quán và sau đó giác
ngộ được chân như, cho nên gọi là Đại Hoan
Hỷ. Nhân của Sơ Địa gọi là Hoan Hỷ Địa. Còn
Giác Lợi Ích Chi đây chính là trình bày thơng
cả ba Thừa (Thinh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát).
Riêng hai Thừa (Thinh Văn và Dun Giác)
thì chứng đặng Sanh Khơng Chân Như và
cũng gọi là Tố Lợi Ích Chi, ngun vì hai
Thừa này đã lìa khỏi tất cả chướng và đã
được phát sanh Đại Hoan Hỷ.
5, Và Ba Vô Nhiễm Chi, nghĩa là ba thứ
Khinh An, Định và Xả từ trong pháp nhiễm ra
khỏi mà thành thanh tịnh; tự tánh của ba thứ
này cũng là Huệ, cho nên gọi là Giác Chi.
Tụng nói rằng, do nhân duyên đây chính là
giải thích Khinh An Vơ Nhiễm Chi, nghĩa là
phàm được Khinh An thì hồn tồn tương
phản với pháp hữu lậu thơ trọng, cho nên
Khinh An chính là nhân dun của pháp lìa
tạp nhiễm. Sở Y tức là chỉ cho Định Vô Nhiễm
Chi. Chữ Định, tiếng Phạn gọi là Tam Ma Địa,
dịch là Đẳng Trì, nghĩa là giữ gìn bình đẳng
các pháp thanh tịnh, khơng cho chìm mất.
Nghĩa Tự Tánh tức là giải thích Xả Vô Nhiễm
Chi, nghĩa là nhờ nương nơi Định trên, tâm
cảnh khơng bị chấp trước trói buộc, bình
đẳng tự tại mặc tình vận hành khơng gặp trở
ngại, hiện tượng đây chính là xả, cho nên
được xác nhận Định chính là chỗ Sở Y (chỗ
nương tựa) và tự tánh của vô nhiễm chính là
Xả. Chẳng qua Xả đây là thuộc về Hành Xả
và khác biệt với Xả trong Xả Thọ. Hành Xả
là Xả của mười một Tâm Sở Thiện; còn Thọ
Xả tức là Xả Thọ của năm Thọ: Khổ, Lạc,
v.v..., nhưng Xả Chi đây chính là chỉ cho
Hành Xả. Như Kinh Kim Cang nói rằng: “Ưng
vơ sở trụ, nhi sanh kỳ tâm.” Vô Sở Trụ xuất
sắc sanh khởi thiện tâm tức là sanh khởi
Hành Xả. Vô Sở Trụ xuất sắc cũng là Xả cùng
với Khơng Huệ bình đẳng tương ưng, giống
như thật hành hạnh bố thí đã ở trong trạng
thái khơng tỏ thái độ năng thí, khơng tỏ thái
độ sở thí và cũng khơng tỏ thái độ vật thí để
được thành tựu Đại Thí Vơ Tướng của Tam
Luận Thể Khơng, cơng dụng đây chính là
cơng dụng của Xả. Lại nữa như Tổ Sư của Cổ
Lai Thiền Tơng nói rằng: “Dụng Tâm cần
khơng lạc vào khn sáo cũ.” Nhân vì dụng
tâm bình thường đại đa số đều có chỗ thiên
trọng, đã thiên trọng tức là lạc vào khuôn
sáo cũ, lẽ tất nhiên là có chấp trước, nếu như
đã có chấp trước trong tâm thì nhất định có
bốn bên: nhân, ngã, bỉ, thử, muốn trừ khử
thứ tai vạ lỗi lầm này phải nhờ đến Xả ra tay.
Như Thất Giác Chi là pháp làm chỗ tương
ưng của ba Thừa khi ba Thừa chứng được
Thánh Quả, nguyên do không luận địa vị
Thánh Quả nào, Thiện Tâm Sở của họ là chỗ
tương ưng nhưng chỉ có hai mươi mốt thứ.
Trong hai mươi mốt thứ đây, Thất Giác Chi
chính là cơng án cần yếu của chỗ đề xuất,
như Niệm Giác Chi, Trạch Pháp Giác Chi,
Định Giác Chi là thuộc nơi Biệt Cảnh Tâm Sở.
Tinh Tấn, Khinh An, Xả, ba Giác Chi này là
thuộc nơi Thiện Tâm Sở. Hỷ Giác Chi là thuộc
nơi Thọ trong Biến Hành Tâm Sở. Thất Giác
Chi có thể khẳng định là chỗ của hai mươi
mốt Vô Lậu Thiện thâu nhiếp.
6)- Bát Chánh Đạo:
Bài Tụng:
“Phân biệt và khuyên bảo; khiến họ
tin có ba; đối trị chướng cũng ba; cho
nên Đạo Chi (Bát Chánh Đạo) thành tám.
Biểu Kiến, Giới, Viễn Ly; khiến họ thâm
tín thọ; đối trị gốc, tùy hoặc; và tự tại
chướng.”
Giải Nghĩa:
Bài Tụng đây là giải thích Bát Chánh Đạo.
Bát Chánh Đạo gồm có tám thứ: Chánh Kiến,
Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp,
Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm,
Chánh Định. Tám thứ đây lại gọi là Bát
Chánh Hạnh, tức là từ nơi Kiến Đạo trở về
sau nương nơi chân lý chỗ thấy đây, luôn
luôn lúc nào cũng tu tập tám thứ Chánh
Hạnh. Nơi trong bổn Luận này, Bát Chánh
Đạo được phân làm bốn loại để giải thích:
1, Phân Biệt, chính là Chánh Kiến, nghĩa
là ở nơi trí vơ phân biệt sau khi chứng được
chân như sâu kín, liền phát khởi trí Hậu Đắc
và lập tức phân biệt thánh phàm, thiện ác,
nhiễm tịnh, nhân quả; sự phân biệt đây
chính là sự phân biệt của trong Tụng đã đề
CHÁNH PHÁP SỐ 115, THÁNG 06.2021
11
cập, nó được dẫn khởi bởi Trí Căn Bản. Như
người nghiên cứu địa lý xưa nay đối với địa
đồ rất quan hệ thấu triệt, một khi thân họ
ngăn cách bối cảnh của họ thì ngay lúc đó sự
thật bối cảnh lập tức vẫn hiện rõ trước mắt
và họ vẫn nhớ rất rành mạch. Như thế Trí
Hậu Đắc của chánh kiến, liền đem cảnh giới
chỗ chứng được của Trí Căn Bản ôn lại rất
chính xác sáng trong.
2, Khuyên Bảo, chính là nương nơi Chánh
Kiến chỗ thấy được mà phát khởi Chánh Tư
Duy và nương nơi Chánh Ngữ mà đi giáo hoá
chúng sanh, khuyên bảo người khác tu tập,
chỗ gọi là tự ngộ ngộ tha, đây là một phần
của Chánh Tư Duy và Chánh Ngữ sanh hoạt.
3, Khiến Họ Tin, nghĩa là dùng Phật Pháp
khai thị cho người khác, khiến họ thâm tín
tiếp nhận, đây cũng là hạnh của Bồ Tát Đại
Thừa, nguyên do chỗ chủ yếu của Bồ Tát là
nương nơi Pháp làm lợi ích cho mọi người,
khiến họ đối với Phật Pháp sanh tín tâm và
phát nguyện tu hành; vấn đề này bao gồm
có ba thứ: Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp và
Chánh Mạng. Chánh Ngữ, nghĩa là chỗ thuyết
minh phải là thắng nghĩa của Phật Pháp,
chính xác phi thường, lìa khỏi ỷ ngữ trong
các ngơn ngữ, lìa khỏi lỗi lầm của vọng ngữ,
v.v... có thể khiến người nghe sanh tín tâm.
Chánh Nghiệp, nghĩa là nghiệp gồm cả ba
thứ, chính là ba nghiệp thân, miệng và ý, ba
nghiệp đây phải thanh tịnh và nhờ đó mới có
thể khiến người sanh tín tâm. Chánh Mạng,
nghĩa là phương thức sanh hoạt phải chân
chánh, nhờ đó có thể khiến sanh mạng tương
tục duy trì, lẽ tất nhiên cần phải có đầy đủ y
thực của tự thân, mà những thứ y thực đây
nhất định phải chân chánh. Như khi Phật còn
tại thế, người xuất gia cần phải khất thực;
hoặc nương tựa chức nghiệp phải chân
chánh, sanh hoạt phải chân chánh, đây đều
là Chánh Mạng. Ba thứ chân chánh này có
thể giáo hố người khác sanh tín tâm,
nguyên do người tu đạo nếu như tu hành
thành thục ba thứ chân chánh này thì có thể
khiến người khác đối với Phật Pháp sanh tín
tâm, khiến hạt giống Phật Pháp không bị đứt
đoạn. Nhờ Chánh Ngữ biểu thị thấy thanh
tịnh, có thể khiến người khác tự biết đã có
huệ thù thắng; nhờ Chánh Nghiệp có thể
khiến người khác tự biết đã có giới thanh
tịnh; nhờ Chánh Mạng có thể khiến người
khác tự biết đã được viễn ly. Tuy nhiên trong
đây chỗ giải thích Giới thanh tịnh chính là chỉ
cho Giới Biệt Giải Thoát, cũng gọi là Đạo
Cộng Giới, nghĩa là Giới cùng Định sau khi
được phối hợp. Thiền Định chưa phát khởi gọi
là Giới Biệt Giải Thoát; Thiền Định đã sanh
khởi thì tự nhiên khơng phạm giới đó chính là
Định Cộng Giới; người tu cùng với trí vơ lậu
đồng thời hiện tiền đó chính là Đạo Cộng
Giới.
12
CHÁNH PHÁP SỐ 115, THÁNG 06.2021
4, Đối Trị Chướng đây bao gồm cũng có
ba: gọi là Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm,
Chánh Định. Tụng nói rằng đối trị Hoặc căn
bản chính là tu chỗ đoạn Câu Sanh Hoặc;
nhờ ở trong địa vị tu đạo này phiền não đã
khơng cịn phân biệt thì mặc dù tham, v.v...
câu sanh vẫn cịn. Đối Trị Tùy Hoặc chính là
chỉ cho Hôn Trầm, v.v... thuộc Đại Tùy Phiền
Não, do Đại Tùy có mặt khắp tất cả tâm
nhiễm ơ, hễ phiền não phát khởi thì chúng
nhất định cùng phát khởi theo. Đối Trị Tự Tại
Chướng nghĩa là công đức tự tại của năng lực
chướng ngại thù thắng có thể đối trị những
thứ Câu Sanh Căn Bản Phiền Não này; muốn
có cơng đức tự tại thù thắng nói trên, cần
phải tiến hành ba thứ Chánh Tinh Tấn. Như
nhờ Chánh Tinh Tấn cho nên Định và Huệ có
năng lực thù thắng và năng lực thù thắng
đây có thể đối trị câu sanh căn bản phiền
não. Mặc dù Niệm, v.v... cũng có thể đối trị,
nhưng khi đối trị thì tất nhiên cũng phải phát
khởi tinh tấn. Kế đến nhờ Chánh Niệm thì
mới có khả năng trói buộc Niệm an trụ trong
Chỉ Đẳng Tướng (đình chỉ tất cả tướng), có
thể đối trị Hơm Trầm, v.v... của Đại Tùy
Phiền Não. Hơn nữa nhờ Chánh Định thì mới
có khả năng đối trị Định Chướng khơng tự
tại, như Định chẳng thâm sâu thì khơng thể
hướng dẫn các thứ cơng đức, cho nên chỉ bậc
La Hán thì mới có Huệ Giải Thốt. Mặc dù có
trí huệ đoạn trừ phiền não, nhưng Thiền Định
chưa từng viên mãn thì các thứ pháp định
khơng thể tự tại, nhưng vì Huệ Giải Thốt
của người ở trong Định Tự Tại cịn bị chướng
ngại. Tất cả Bát Chánh Hạnh đây nếu như tu
được viên mãn hồn tồn thì có thể chứng
đắc quả vị vơ học.
(còn tiếp)
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT HOA KỲ
VIETNAMESE AMERICAN UNITED BUDDHIST CONGREGATION
HỘI ĐỒNG GIÁO PHẨM
CHÁNH VĂN PHÒNG
704 East “E” Street., Ontario, CA 91764 – U.S.A. | Tel. & Fax: (909) 986-2433
------------------------------
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2565 - 2021
Nam Mơ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Kính bạch chư Tơn Thiền đức Tăng Ni
Kính thưa q Cư Sỹ, Thiện nam Tín nữ, Gia đình Phật tử các cấp và Đồng hương
Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ xin nhất tâm đảnh lễ tri ân tất cả chư Tôn Thiền
đức Tăng Ni đã nỗ lực để gìn giữ Phật pháp và làm nơi nương tựa lớn lao cho các cộng đồng Phật tử ở
đất nước Hoa Kỳ trong mùa đại dịch hơn một năm qua. Giáo hội xin tán thán tinh thần hộ đạo và tu đạo
của q Thiện nam Tín nữ trong hồn cảnh tai ương đầy kinh hãi hiện nay. Tất cả năng lực và công đức
lớn lao này của người đệ tử, chúng con xin dâng lên cúng dường đức Thế Tôn trong ngày Đản sinh. Hàng
trăm ngàn trái tim, hàng vạn ngàn bàn tay siết chặt giữa những thương đau tràn ngập của nhân loại, chúng
con nguyện quán chiếu thật sâu sự khổ nạn hiện nay để kiên nhẫn mà vượt qua.
Có nghịch cảnh nào không là những bài pháp vô ngôn mầu nhiệm. Có giọt nước mắt nào mà khơng
ẩn chứa vị ngọt của nước cam lồ. Đức Phật Thích Ca Đản sanh, Xuất gia, Thành đạo để khai thị cho
chúng con thấy và cảm nhận ra điều đó. Nếu khơng suy nghiệm được vậy, chúng con sẽ khổ đau nhiều
hơn, trách móc và thù hận cũng nhiều hơn. Tâm trạng bức xúc, lòng căm phẫn, sự chia rẽ là những đau
thương lớn trong đời sống nhân sinh và cũng đang xảy ra trên đất nước này. Hỡi những người con Phật,
hãy xây dựng những hải đảo tự thân để chúng ta trụ vững trước đại nạn hiện nay. Dẫu cho khơng may,
nếu phải ra đi vì bịnh dịch thì lịng này xin được thống nhẹ như mây trơi. Những tháng ngày qua sự sợ
hãi đã phủ kín đời sống chúng ta. Hiểu biết, bình tĩnh và lịng kiên nhẫn là liệu pháp giúp chúng ta giảm
bớt khiếp sợ trước một dịch hạn.
Chưa bao giờ chúng ta thấy năng lực của sự tu tập vơ cùng q giá như hiện nay. Giáo pháp Phật đà
là để sống chứ không phải để quảng diễn suông. Đã bao lần ta lập đi lập lại câu “đời là vô thường”,
nhưng thực sự điều ấy có thể hiện một cách trầm hùng trong ta hay không khi phải đối diện với đại dịch
đầy sợ hãi như thế này. Đất nước Hoa Kỳ có cùng chung đại nạn của nhân loại nhưng chúng ta vẫn còn
may mắn so với nhiều quốc gia khác. Điều ấy cũng khẳng định phước báo của người dân nước này.
Phước báo này cần được vun bồi từ mỗi người trong đó có người đệ tử Phật. Mỗi ngày chúng ta sống
trong thiện ý, lòng bao dung và trách nhiệm với quê hương này sẽ là phước lợi cho hôm nay và mai sau
của chúng ta.
Phật đản năm nay sẽ khơng có nhiều hình thức uy nghiêm, người con Phật quy tụ không đông đảo
như những năm trước, ngược lại chúng ta sẽ dành nhiều thì giờ hơn để tưởng nhớ về ngày ra đời của Phật
bằng cách cùng thầm nghĩ: Bản nguyện của Ngài là gì khi hóa thân đến trần gian? Chúng ta đã đáp lại
phần nào ước vọng này? Có nhiều cách cử hành lễ Phật Đản, thầm lặng và tư duy cũng là một cách được
trân trọng. Mỗi chùa viện, mỗi gia đình tổ chức ngày Phật đản theo điều kiện địa phương của mình. Đại
dịch cịn có mặt. Luật pháp còn ràng buộc. Hãy như một con nước nhỏ và hãy tùy thuận mà chảy về biển.
Xin nhất tâm cung thỉnh tất cả chúng ta dồn hết định lực ngày Phật đản năm nay hướng về bịnh dịch,
thảm họa và mong được chuyển hóa.
Chúng ta khơng thù ghét trước một tình thế khơng may. Chúng ta khơng nản lịng vì mọi việc khơng
như ý. Năm 2020 và 2021 là hai năm nhiều tang thương của đất nước Hoa Kỳ. Mọi sinh hoạt của Giáo
hội cũng chung cùng. Nhưng mùa Đơng sẽ đi qua, chỉ cịn thời gian và sự kiên nhẫn. Giáo Hội luôn luôn
đặt trọn niềm tin vào quí vị. Một niềm tin của hiểu biết và trọn lành.
Phật lịch 2565, California ngày 01 tháng 05 năm 2021
TM. Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTNHK
Chánh Văn Phịng
Sa mơn Thích Thắng Hoan
CHÁNH PHÁP SỐ 115, THÁNG 06.2021
13
THƠNG ĐIỆP
ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN VESAK LIÊN HIỆP QUỐC 2021
Thơng điệp mn thuở về hịa hợp và phụng sự tha nhân thì quan trọng hơn bao
giờ hết. Thơng điệp có khả năng nói rằng chúng ta sẽ chấm dứt sự lây lan dịch bệnh
con vi rút Corona và bình phục khỏi bệnh.
Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc (LHQ) António Guterres
“Vesak”, ngày trăng tròn vào tháng năm, là ngày thiêng liêng nhất đối với hàng
triệu người Phật tử trên khắp thế giới. Ngày Đại lễ Vesak cách đây hai thiên niên kỷ
rưỡi (2500 năm), vào năm 623 trước công nguyên, Đức Phật đản sinh. Ngày Đại lễ
Vesak cũng là ngày Đức Phật thành đạo, và là ngày vào năm tám mươi tuổi Đức Phật
nhập Niết bàn.
Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, bằng nghị quyết số 54/115 năm 1999, đã công nhận
ngày Đại lễ Vesak quốc tế để tỏ lòng biết ơn sự đóng góp mà Đạo Phật, một trong
những tơn giáo lâu đời nhất trên thế giới, đã đồng hành hơn hai thiên niên kỷ rưỡi và
tiếp tục thích hợp cho tinh thần nhân loại. Ngày Đại lễ này được tổ chức tưởng niệm
hằng năm tại trụ sở chính LHQ (New York) và các trụ sở LHQ khác trên thế giới, được
tham khảo ý kiến với các trụ sở LHQ các nơi có liên quan và với sứ mệnh thường
xuyên cũng muốn được tham khảo.
Bối Cảnh Sự Kiện Vesak
Giáo lý của Đức Phật, và thơng điệp từ bi, hịa bình, và thiện chí của ngài đã cảm
hóa hàng triệu người. Hàng triệu người trên khắp thế giới đang tu tập theo giáo lý của
Đức Phật và vào ngày Đại lễ Vesak tổ chức tưởng niệm Đản sinh, Thành đạo và Niết
bàn của Đức Phật.
Bức thông điệp của cựu tổng thư ký LHQ, Javier Perez de Cuellar, gửi đến quý
Phật tử vào ngày Đại lễ Vesak tháng năm, 1986 nói rằng:
“Đối với người Phật tử khắp nơi, ngày Đại lễ Vesak quả thực là một cơ hội hạnh
phúc, tưởng niệm ngày Đản sinh, Thành đạo, và Niết bàn của Đức Phật Cồ Đàm, là để
tôn vinh bức thông điệp từ bi và hiến dâng phụng sự nhân loại. Bức thông điệp này có
lẽ ngày nay thích đáng hơn bao giờ hết trước đây.”
Hịa bình, hiểu biết và tầm nhìn về nhân loại thay thế các sự dị biệt giữa các quốc
gia và quốc tế thì cần thiết nếu chúng ta đang đương đầu với các phức tạp của thời kỳ
hạt nhân.
Triết lý này nằm ở ngay trung tâm bản hiến chương của LHQ và là nét nổi bật
trong suy nghĩ của tất cả chúng ta, đặc biệt trong Năm Hịa Bình quốc tế này”, Javier
Perez de Cuellar.
THÔNG ĐIỆP CỦA TỔNG THƯ KÝ LIÊN HIỆP QUỐC
Tôi xin gửi lời chúc tốt đẹp nồng nàn đến tất cả quý Phật tử đang cử hành ngày
Đại lễ Vesak, một sự kiện thiêng liêng đối với hàng triệu người Phật tử trên thế giới.
Khi chúng ta tơn kính ngày Đản sinh, Thành đạo, và Niết bàn của Đức Thế Tơn, thì
giáo lý của ngài có thể truyền cảm hứng cho tất cả chúng ta.
Và khi từng gia đình con người chịu khổ đau do ảnh hưởng cơn đại dịch COVID-19,
thì bài kinh Phật nhắc nhở chúng ta rằng: “Vì mn lồi chúng sinh bị bệnh, nên ta
cũng bệnh.”
Bức thơng điệp mn thuở này về hịa hợp và phụng sự tha nhân thì quan trọng
hơn bao giờ hết. Thơng điệp chỉ có khả năng nói rằng chúng ta sẽ chấm dứt việc lây
lan dịch bệnh con vi rút Corona và bình phục khỏi bệnh.
Vào ngày Đại lễ Vesak, chúng ta hãy tơn vinh trí tuệ Đức Thế Tơn bằng hành động
vì tha nhân với lịng từ bi và đoàn kết, và làm mới lời cam kết của chúng ta để xây
dựng một thế giới bình an.
António Guterres
(Thích Phước Hạnh chuyển dịch, M ay 16, 2021)
14
CHÁNH PHÁP SỐ 115, THÁNG 06.2021
UNITED NATIONS VESAK DAY
26 May 2021
This timeless message of unity and service to others is more
important than ever. It is only together that we will stop the
spread of the coronavirus and recover.
UN Secretary-General António Guterres
"Vesak", the Day of the Full Moon in the month of May, is
the most sacred day to millions of Buddhists around the world. It
was on the Day of Vesak two and a half millennia ago, in the year
623 B.C., that the Buddha was born. It was also on the Day of
Vesak that the Buddha attained enlightenment, and it was on the Day of Vesak that the
Buddha in his eightieth year passed away.
The General Assembly, by its resolution 54/115 of 1999, recognized internationally
the Day of Vesak to acknowledge the contribution that Buddhism, one of the oldest
religions in the world, has made for over two and a half millennia and continues to make
to the spirituality of humanity. This day is commemorated annually at the UN
Headquarters and other UN offices, in consultation with the relevant UN offices and with
permanent missions, which also wish to be consulted.
Background
The teachings of the Buddha, and his message of compassion and peace and
goodwill have moved millions. Millions around the world follow the teachings of the
Buddha and on the Day of Vesak commemorate the birth, the attainment of
enlightenment and the passing away of the Buddha.
A Message from the former Secretary-General, Javier Perez de Cuellar, to Buddhists
on the Day of Vesak in May 1986 reads:
"For Buddhists everywhere it is indeed a felicitous opportunity, while commemorating
the birth, enlightenment and passing away of Guatama Buddha, to celebrate his message
of compassion and devotion to the service of humanity. This message is today perhaps
more relevant than ever before."
Peace, understanding and a vision of humanity that supersedes national and other
international differences are essential if we are to cope with the complexities of the
nuclear age.
This philosophy lies at the heart of the Charter of the United Nations and should be
prominent in all our thinking, especially during this International Year of Peace"--Javier
Perez de Cuellar.
Message of the UN Secretary-General
I send warm wishes to all celebrating the Day of Vesak, a sacred occasion to millions
of Buddhists around the world.
As we honour the birth, enlightenment and passing of Lord Buddha, we can all be
inspired by his teachings.
And as the human family suffers the impacts of the COVID-19 pandemic, we are
reminded of the sutra: “Because all living beings are subject to illness, I am ill as well.”
This timeless message of unity and service to others is more important than ever. It
is only together that we will stop the spread of the coronavirus and recover.
On the Day of Vesak, let us celebrate Lord Buddha’s wisdom by taking action for
others with compassion and solidarity, and by renewing our commitment to build a
peaceful world.
António Guterres
(Source: www.un.org)
CHÁNH PHÁP SỐ 115, THÁNG 06.2021
15
HT. THÍCH THIỆN HẠNH
(1931—2021)
TỔ ĐÌNH BÁO QUỐC—HUẾ
16
CHÁNH PHÁP SỐ 115, THÁNG 06.2021
SỐNG TRONG
ĐẠI DƯƠNG PHẬT TÁNH
Nguyễn Thế Đăng
TƯ TƯỞNG PHẬT HỌC
Kinh Đại Bát Niết Bàn thí dụ Phật
tánh như biển lớn, như đại dương:
“Tám là chẳng tăng chẳng giảm, vì khơng
có biên giới, vì khơng thủy khơng chung, vì
chẳng phải sắc, vì chẳng do tạo tác, vì
là thường trụ, vì chẳng sanh diệt, vì đều bình
đẳng với tất cả chúng sanh, vì tất cả đồng
một Phật tánh. Đây gọi là chẳng tăng chẳng
giảm” (phẩm Bồ tát Sư Tử Hống).
Đại
dương Phật
tánh “chẳng tăng chẳng giảm,
khơng có biên giới, khơng
thủy khơng chung” nên trùm
khắp,
vượt
ngồi thời
gian và khơng gian, và dung
chứa tất cả chúng sanh cho
đến chư
Phật.
Tất
cả
mọi chúng sanh, tất cả mọi
sự vật, cây cối, đất đai đều ở
trong cái chẳng tăng chẳng
giảm, không biên bờ này. Hơn
nữa Phật tánh ấy đều bình
đẳng với tất cả chúng sanh,
tất cả đồng một Phật tánh.
Tất cả mọi hiện hữu đều ở
trong Phật
tánh và
chính
là Phật tánh. Đây là đức tin căn bản để từ đó
khai triển thiền định và trí huệ tánh
Khơng, mở rộng tâm từ bi và các hạnh Bồ
tát.
Nhờ thiền định, thiền quán và các hạnh
mà chúng ta có thể thấy ra sự thật này. Đó
gọi là thấy Phật tánh.
“Ba là đồng một vị: Tất cả chúng
sanh đồng có Phật tánh, đều đồng Nhất thừa,
đồng một giải thoát, một nhân một quả,
đồng một cam lồ, tất cả đều sẽ đắc thường
lạc ngã tịnh. Đây gọi là đồng một vị”.
Thấy được một vị đồng nhất này của trời
đất, núi sông, con người, chư thiên và các
bậc giải thoát giác ngộ tức là thấy tất cả
đồng một vị Phật tánh. Như những hình bóng
trong tấm gương thấy như có khác nhau
nhưng đều là tấm gương, đồng một vị là tấm
gương. Như tất cả các món đồ làm bằng
vàng, hình tướng có khác nhau nhưng đồng
một vị là chất vàng.
Thấy tất cả đều đồng một vị, một nhân
một quả, thì khơng cịn có khơng gian và thời
gian, tất cả đều là Phật tánh. Tất cả tướng
đều là tánh, tất cả sanh tử đều là Niết bàn,
đây là sự đồng một vị Thường Lạc Ngã
Tịnh của Phật tánh Đại Niết bàn vậy.
Đại dương Phật tánh này đầy
đủ tất cả các công đức, các
đức tánh mà con người luôn
luôn mơ ước:
“Thiện
nam tử! Như
Lai thường
trụ thì
gọi
là
ngã. Pháp thân Như Lai là vô
biên, vô ngại, là không sanh
không diệt, đủ tám đức tự tại,
đó
gọi
là
ngã. Chúng
sanh quả thật khơng có cái
ngã như vậy và những đức
của ngã như vậy, chỉ vì quyết
định sẽ được rốt ráo đệ nhất
nghĩa Không, nên gọi là Phật
tánh.
Đại từ đại bi gọi là Phật
tánh, Phật tánh gọi là Như Lai. Đại hỷ đại
xả chính là Phật tánh, Phật tánh chính là Như
Lai. Đại tín tâm chính là Phật tánh, Phật
tánh chính là Như Lai.
Phật tánh gọi là Nhất tử địa. Vì do nhất tử
địa nên Bồ tát được tâm bình đẳng với tất
cả chúng sanh. Tất cả chúng sanh quyết
định sẽ được Nhất tử địa, cho nên nói tất
cả chúng sanh đều có Phật tánh. Nhất tử
địa chính
là Phật
tánh, Phật
tánh chính
là Như Lai”.
Tin và thấy mình đang sống trong đại
dương Phật tánh vốn có sẳn này tức là
đang tu hành Phật tánh. Sống trong đại
dương Phật tánh là chúng ta đang tương ưng,
kết thông với những đức của Phật tánh. Sống
trong đại dương Phật tánh là chúng ta đang
sống những đức của Phật tánh.
CHÁNH PHÁP SỐ 115, THÁNG 06.2021
17
Như nhất tử địa, địa vị xem tất cả chúng
sanh như con một. Nếu chúng ta sống
trong đại dương Phật tánh, chúng ta có thể
tiếp thơng với tâm từ bi xem tất cả chúng
sanh như con một. Ngược lại, nếu chúng
ta tiếp thông với tâm từ bi xem tất cả chúng
sanh như con một tức là chúng ta đang sống
trong đại dương Phật tánh.
Như thế, tu tập một đức tính của Phật
tánh tức là đang sống trong Phật tánh,
đang tu Phật tánh.
Cũng trong phẩm Bồ tát Sư Tử Hống này,
kinh nói về tương quan giữa sắc, thọ, tưởng,
hành, thức, ngã và Phật tánh qua thí dụ sáu
người mù sờ voi. Mỗi người đều diễn tả kinh
nghiệm về con voi của mình, sau đó đức
Phật kết luận:
“Thiện nam tử! Như những người mù kia,
mỗi người đều nói về con voi, tuy chẳng được
đúng thật, nhưng chẳng phải khơng nói về
con voi.
Những người nói về Phật tánh cũng như
vậy, Phật tánh chẳng phải tức là sáu pháp
(sắc, thọ, tưởng, hành, thức, ngã), nhưng
cũng khơng lìa ngồi sáu pháp ấy. Thế nên ta
nói Phật tánh của chúng sanh chẳng phải
sắc, chẳng lìa sắc, cho đến chẳng phải ngã,
chẳng lìa ngã”.
Sau đây chúng ta xem những người
mù vô minh kinh nghiệm sáu pháp sắc, thọ,
tưởng, hành, thức, ngã như thế nào, để biết
“tuy chẳng được đúng thật, nhưng khơng
phải khơng nói về con voi”, nghĩa là có phần
đúng, nhưng chưa hồn tồn đúng thật, như
cái thấy của Phật, “chẳng phải sắc, chẳng
phải lìa sắc”.
“Thiện nam tử! Như những người mù kia
chẳng nói được (đầy đủ) hình thể con voi,
nhưng cũng chẳng phải là khơng nói được.
Các hình tướng ấy chẳng phải hồn tồn là
voi, nhưng lìa ngồi chúng thì khơng có riêng
con voi nào nữa.
Thiện nam tử! Vua ví như Như Lai chánh
biến tri. Đại thần ví như kinh Phương
đẳng Đại Niết Bàn. Voi ví như Phật tánh. Các
người mù ví như tất cả chúng sanh vô minh.
Những chúng sanh này sau khi nghe Phật
nói, có người nói rằng: ‘Sắc là Phật tánh. Vì
sao thế? Vì sắc này tuy diệt, nhưng vẫn tuần
tự tương tục, thế nên mới đạt được ba mươi
hai tướng tốt vơ thượng của Như Lai.
Sắc Như Lai là thường vì sắc Như Lai thường
hằng chẳng dứt, cho nên nói sắc là Phật
tánh. Thí như vàng thật, tuy hình tướng dù
thay đổi nhưng màu sắc vàng vẫn thường
như vậy chẳng đổi khác; hoặc làm vòng đeo
tay, làm lược, làm mâm… nhưng màu sắc
vàng của chúng vẫn không đổi khác. Phật
tánh chúng
sanh cũng
như
vậy, hình
tướng tuy vơ thường nhưng sắc là thường. Vì
thế nên nói: Sắc là Phật tánh’.”
18
CHÁNH PHÁP SỐ 115, THÁNG 06.2021
Câu nói của Đức Phật: “Các hình tướng ấy
chẳng phải hồn tồn là voi, nhưng lìa ngồi
chúng thì khơng có con voi nào khác nữa”.
Cho nên muốn tìm voi, thấy voi thì phải tìm
nơi cảm nhận có phần mù mờ của những
người mù, tức là của các chúng sanh vô
minh.
Suy luận của chúng sanh vô minh là: sắc
là thường, là tương tục, có như thế thì sắc
của chúng sanh mới sẽ trở thành sắc thường
của Phật được. Nhưng suy luận ấy là sai
lầm vì căn cứ trên hình tướng của sắc; sắc
phải diệt, phải thay đổi, cho nên sắc
không thể thường được. Vậy thì cái gì nơi sắc
là thường? Chính là bản tánh của sắc
vậy. Bản tánh của sắc “chẳng phải sắc,
nhưng chẳng phải lìa sắc”.
Cũng như vàng, những đồ vật làm bằng
vàng thì khơng thường, khơng tương tục,
nghĩa là vô thường, nhưng bản tánh của
vàng không thay đổi dù các hình tướng của
các đồ vật làm bằng vàng khác nhau đến
mấy đi nữa. Đoạn kinh ở trên nói, “tất cả
đồng
một Phật
tánh”
nghĩa
là Phật
tánh hay bản
tánh của
vàng thấm
nhuần khắp, có mặt khắp tất cả những sự
vật làm bằng vàng.
Người tu
hành muốn
nhìn
thấy bản
tánh của sắc thì khơng phải tìm ngồi sắc,
mà
chính
là
khéo
léo
bằng thiền
định và thiền quán nhìn thấy bản tánh của
sắc ở ngay nơi sắc. Nghĩa là Phật tánh thấm
nhuần khắp, có mặt khắp tất cả mọi không
gian và thời gian, thế nên muốn thấy Phật
tánh thì phải tìm nơi khơng gian và thời gian,
vì Phật
tánh là bản
tánh của khơng
gian và thời gian vậy.
“Lại có người nói rằng: ‘Thọ là Phật tánh.
Vì sao thế? Vì thọ làm nhân duyên mà được
lạc chân thật của Như Lai. Thọ của Như Lai là
thọ rốt ráo, là thọ đệ nhất nghĩa. Tánh thọ
của chúng sanh dù vẫn là vô thường,
nhưng tuần tự tương tục chẳng dứt, nên
được thọ chân thường của Như Lai. Ví như có
người, họ là Kiều Thi Ca, người tuy vô
thường nhưng họ là thường, trải qua ngàn
vạn đời không thay đổi. Phật tánh chúng
sanh cũng lại như vậy, do đó nên nói: Thọ là
Phật tánh’.”
Thọ thì vơ thường, khi có khi khơng,
nhưng tánh của thọ thì thường vì là tánh
Khơng, “chẳng sanh chẳng diệt, chẳng tăng
chẳng giảm”. Biết như thế thì khi thọ khởi,
nghĩa là có cảm thọ, bèn biết ngay nền
tảng, bản tánh của thọ. Thọ sanh, trụ, dị,
diệt từ và trong bản tánh của thọ là tánh
Khơng.
“Hoặc có người nói: ‘Tưởng là Phật tánh.
Vì sao thế? Vì tưởng làm nhân duyên mà
được tưởng chân thật của Như Lai. Tưởng
của Như Lai gọi là cái tưởng khơng có tưởng
(tưởng vơ tưởng). Cái tưởng khơng có tưởng
ấy chẳng phải tưởng chúng sanh, chẳng phải
tưởng nam nữ, cũng chẳng phải tưởng về
sắc, thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải cái
tưởng đoạn dứt tưởng. Tưởng của chúng
sanh tuy
là vô
thường,
nhưng do
tuần tự tương tục chẳng đoạn, cho nên được
cái tưởng thường hằng của Như Lai. Ví
như mười
hai
nhân
duyên của chúng
sanh, chúng
sanh tuy diệt nhưng mười hai
nhân duyên vẫn thường. Phật
tánh của chúng
sanh cũng
như vậy, do đó nên nói:
Tưởng là Phật tánh’.”
Tưởng của Như Lai là
cái
tưởng
khơng
có
tưởng.
Tưởng
là tri
giác, nhận thức, là một
hoạt dụng của tâm để
sống
ở thế
gian này.
“Khơng có tưởng” là tánh
Khơng của tưởng. Cái
tưởng khơng có tưởng
của
Phật
là
cái
tưởng hồn
tồn là tánh
Khơng, như Bát nhã Tâm
kinh nói, “Tưởng tức là
Khơng, Khơng tức là tưởng”.
Như sóng khởi lên từ đại
dương nhưng sóng vẫn cùng
một tánh nước của đại dương,
sóng vẫn là đại dương.
Suy
luận của
người
mù, tượng
trưng cho chúng sanh vô minh, sai lầm ở chỗ
cái tưởng vô thường ấy “mà do tuần tự tương
tục chẳng đoạn” thì thành cái tưởng thường
hằng của Như
Lai.
Cái sanh
diệt không
thể trở thành cái không sanh diệt được. Cái
tưởng thường
hằng này
chính
là tánh
Khơng thường hằng của các tưởng. Các
tưởng thì vơ thường, sanh diệt, chúng
chỉ được
giải
thốt khi nhận
biết bản
tánh của chúng là tánh Không mà từ đó
chúng xuất hiện và tiêu tan vào. Kinh nói,
“lìa ngồi các hình tướng ấy thì khơng có
riêng con voi nào nữa”, lìa ngồi các tưởng
thì khơng thể tìm thấy “cái khơng có tưởng”
nào cả. Ngay nơi tưởng là “cái khơng có
tưởng”, và tưởng là hình tướng xuất hiện của
“cái khơng có tưởng”.
Cho nên tu hành là tu “cái tưởng khơng
có tưởng”, đưa các tưởng trở lại bản
tánh Không của chúng để chúng tuy có xuất
hiện nhưng
vẫn giải
thốt.
Trong ý
nghĩa “tưởng khơng có tưởng”, “tưởng tức là
Khơng, Khơng tức là tưởng”, thì nói “tưởng
là Phật tánh” là đúng thật.
“Hoặc có người nói: ‘Hành là Phật tánh. Vì
sao thế? Hành gọi là thọ mạng. Vì thọ
mạng làm nhân
duyên mà
được thọ
mạng thường
trụ của Như
Lai. Thọ
mạng chúng
sanh tuy
là vô
thường nhưng tuần tự tương tục không dứt,
nên
được thọ
mạng chân
thật thường
trụ của Như Lai. Ví như mười hai bộ kinh,
người nói người nghe tuy là vơ thường,
nhưng kinh
điển này
thường
tồn bất
biến. Phật tánh chúng sanh cũng lại
như vậy, do đó nên nói: Hành là
Phật tánh’.”
Hành là hình thành, tạo tác. Sự
tạo thành lớn là một thọ
mạng, cho đến sự tạo thành
nhỏ là một ý tưởng là hành.
Dầu có tổng cọng tất cả
hành
của
một con
người cũng không thể tạo
thành
cái thọ
mạng thường
trụ của Như
Lai,
bởi
vì thọ
mạng thường
trụ của Như Lai là “đại
dương Phật tánh, chẳng
tăng chẳng giảm, khơng
thủy khơng chung, vì tất
cả đồng một Phật tánh”.
Cho nên phải đưa cái
hành thọ
mạng vô
thường này về bản tánh của
chúng,
tức
là
cái thọ
mạng thường
trụ của Như
Lai chẳng tăng chẳng giảm,
khơng thủy khơng chung thì những
cái hành này mới không trở thành nghiệp
mà tan vào bản tánh trống không của chúng.
Người tu hành là thường an trụ trong bản
tánh của
mọi
hành,
tức
là thực
tại không sanh
không diệt, vô
thủy
vô
chung này để các hành đều sanh ra từ nó
và tiêu tan giải thốt vào nó.
“Hoặc có người nói: ‘Thức là Phật tánh. Vì
sao thế? Do thức làm nhân duyên mà
được tâm
bình đẳng
của Như
Lai. Ý
thức của chúng sanh tuy là vô thường, nhưng
thức tuần tự tương tục chẳng đoạn, nên
được tâm chân thật thường trụ của Như Lai.
Như lửa tánh nóng, ngọn lửa tuy vơ
thường nhưng tánh nóng chẳng phải vơ
thường. Phật tánh chúng sanh cũng lại như
vậy, do đó nên nói: Thức là Phật tánh’.”
Ý
thức của chúng
sanh là vô
thường nhưng suy nghĩ kỹ, sở dĩ những ý
tưởng vô thường ấy vẫn khởi liên tục chẳng
khi nào đoạn dứt hẳn, bởi vì những ý
tưởng ấy khởi và diệt trên một nền tảng luôn
luôn hiện diện suốt ba đời quá khứ, hiện
tại, vị lai. Nền tảng đó là bản tánh thường
hằng của tâm, hay là tâm bình đẳng chân
thật thường trụ của Phật.
Vậy thì làm sao để ý thức khỏi lạc lõng
mà gây thêm nghiệp? Hãy đưa nó về nhà của
CHÁNH PHÁP SỐ 115, THÁNG 06.2021
19
nó, về bản tánh của nó, và nhà hay bản
tánh của nó nằm ngay dưới nó, làm nền tảng
cho nó. Tu tập cho đến lúc thuần thục thì
sẽ nhận ra “thức tức là trí” “thức là Phật
tâm, Phật tánh”. Khi ấy tuy thức có sanh
nhưng khơng gây nghiệp, vì sanh mà thật
là vơ sanh. Thức vơ nghiệp vì thức là Phật
tâm, Phật tánh; vì thức là vơ sanh.
Qua cả năm cái sắc, thọ, tưởng, hành,
thức, chúng ta thấy để cho chúng được giải
thốt, được chân thật thường trụ như Phật
thì phải đưa về bản tánh của chúng. Bản
tánh ấy là “đồng nhất một Phật tánh”. Khi ấy
sắc, thọ, tưởng, hành, thức chỉ là sự biểu
lộ của trí, của bản tánh của tâm, của Phật
tánh. Như tất cả các món đồ làm bằng vàng,
tất cả là sự biểu lộ của tánh vàng.
Khi tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức,
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp… là sự biểu
lộ của Phật tánh thì tất cả thế giới chúng
sanh, thân tâm chúng ta là sự biểu độ
của Phật tánh. Tất cả là Phật, như kinh nói,
“Phật tánh là cảnh giới của chư Phật”.
Chúng ta đọc lại đoạn kinh trên nói Phật
tánh như đại dương:
“Chẳng tăng chẳng giảm, vì khơng
có biên giới, vì khơng thủy khơng chung, vì
chẳng phải sắc, vì chẳng do tạo tác, vì
là thường trụ, vì chẳng sanh diệt, vì đều bình
đẳng với tất cả chúng sanh, vì tất cả đồng
một Phật tánh.
Tất cả chúng sanh đồng có Phật tánh, đều
đồng Nhất thừa, đồng một giải thoát, một
nhân một quả, đồng một cam lồ, tất cả đều
sẽ đắc thường lạc ngã tịnh. Đây là đồng một
vị”.
Phật tánh thì bình đẳng với tất cả chúng
sanh, tất cả đồng một Phật tánh, đồng Nhất
thừa, đồng một giải thoát, đồng một nhân
một quả. Đồng một nhân một quả, nhưng tất
cả đồng một Phật tánh, nên một nhân là Phật
tánh và một quả cũng là Phật tánh. Như thế
suốt nhân là quả, nhân tức là quả, tất cả
nhân đều là quả.
“Ta lại nói chúng sanh chính là Phật tánh,
vì nếu rời chúng sanh thì chẳng được Vô
thượng Bồ đề”.
“Chúng
sanh tức
là Phật
tánh, Phật
tánh tức là chúng sanh” (phẩm Bồ tát Ca
Diếp).
Bởi vì Phật tánh là tánh Khơng, ánh sáng
và năng lực hóa hiện như huyễn, cho nên
đồng một Phật tánh là đồng một tánh Không,
đồng một ánh sáng, đồng một năng lực hóa
hiện như huyễn. Thấy tất cả thế giới, chúng
sanh đồng một tánh Không, đồng một ánh
sáng, đồng một năng lực hóa hiện như
huyễn, đó là thấy “pháp giới của chư Phật”.
Tu Phật tánh là tu cái “tất cả đồng
20
CHÁNH PHÁP SỐ 115, THÁNG 06.2021
một Phật tánh, một nhân một quả, chẳng
sanh chẳng diệt, chẳng tăng chẳng
giảm, bình đẳng một vị” này. Phật tánh ấy
khơng chỉ tất cả chúng sanh đều có mà cịn
tất cả chúng sanh đều là, đang là.
Tu Phật tánh là đưa sắc, thọ, tưởng,
hành, thức, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp
hòa vào đại dương Phật tánh, đưa thân
tâm, thế giới, chúng sanh hòa tan vào Phật
tánh để tất cả trở thành một vị Phật tánh.
Tu Phật tánh như vậy là tu trên Quả Phật
tánh vốn đã viên thành. Tu trên Quả gọi là
Quả thừa (Phalayana) khác với Nhân
thừa (Hetuyana), tu trên Nhân để đi đến
Quả. Tu trên Quả nghĩa là tất cả các pháp tu
không phải là nhân để đạt đến quả, mà tất
cả các pháp mơn chính là sự khai triển, sự
biểu hiện của Quả Phật tánh nơi thế giới hình
tướng. Nói cách khác các pháp mơn chính là
các Hóa thân của Pháp thân Phật tánh bất
sanh bất diệt, bất tăng bất giảm, bất cấu bất
tịnh nơi thế giới hình tướng.
Khi “chúng sanh tức là Phật tánh, Phật
tánh tức là chúng sanh” thì tất cả thế
giới hiện
tượng mà chúng
sanh kinh
nghiệm qua sáu giác quan cũng là sự biểu
lộ của Phật tánh.
Những hiện tượng chúng sanh thấy, nghe,
hiểu, nghĩ… là sự biểu lộ của Pháp thân
Phật tánh: tất cả thế giới, con người, sự vật
là Hóa thân của Pháp thân Phật tánh.
Hạt mầm vươn lên từ đất
NGUYÊN SIÊU
ĐOẢN VĂN / TÙY BÚT
Đất ướt. Đất khô. Đất mềm. Đất cứng,
tất cả đều là chất liệu nuôi dưỡng trưởng
thành hết thẩy mọi sự vật.
Con người, sống là nhờ đất và chết cũng
là nhờ đất. Giá trị sống có từ đất như là bác
nơng phu, quần săn bó gối, mầu da sạm
nắng, chiếc nón rách vành, dắt trâu ra đồng
cày lên những mảnh
ruộng mầu mỡ, đẫm
ướt như bùn để chuẩn
bị cho mùa lúa mới.
Từng hàng người bán
mặt cho đất, bán lưng
cho trời, cong mình thật
thấp, cũng những chiếc
quần bó gối, chiếc nón
cời nhuộm mầu mưa
nắng, tay cầm bó mạ,
tay cấy những nhúm mạ
xanh xuống thửa ruộng
ngập nước. Họ lần lượt
lui dần, lui dần, đụng bờ
sau lưng, thửa ruộng đã được cấy xong. Từ
đó, đất ni mạ lớn thành ruộng lúa xanh
tươi. Lúa trổ địng địng. Lúa đơm bơng. Thân
lúa nặng trĩu, nghiêng mình cảm tạ đất trời.
Đất nuôi lúa, đủ ngày đủ tháng cho người
nông dân gặt hái giã thành những hạt gạo
nuôi người. Người sống như hơm nay. Đó là
triết lý Dun Sinh. Trùng trùng vô tận của
sự vật trong thế giới ba ngàn. Rồi những lồi
vật khác, chim mng, cầm thú, súc vật… cỏ
cây, hoa lá, vàng, ngọc, kim cương… hàng
muôn ngàn các loại khác cũng được ni
dưỡng từ đất mà có. Cái triết lý này làm sao
nghĩ tưởng. Làm sao giải thích để người nghe
thấu hiểu mà khơng thắc mắc. Khơng dài
dịng. Khơng mất thời gian. Được gọi là triết
lý về Đất.
Khi xưa là những thửa ruộng bùn nước,
nhưng vì nắng hạn lâu ngày mà thành nứt
nẻ, tạo thành mọi hình dạng, những hình
tam giác, lục giác, bát giác, những đường
cong ngoằn ngèo, chằng chịt. Dầu vậy, vẫn
có những hạt mầm ẩn tàng trong đất, nhờ
sương lạnh của đêm. Nhờ ánh nắng của
ngày, nhờ khí trời hít thở mà hạt mầm chui
qua khe đất, từ từ bung lên. Thân mầm trắng
nõn. Lá mầm xanh nhạt, biểu tỏ một sức
sống lớn mạnh, bất kể đất khơ nứt nẻ. Từ đó
một triết lý sống luôn hiện hữu trong đất,
luôn được bảo tồn từ đất, luôn được nuôi
dưỡng từ nơi đất cho đến ngày hạt mầm
vươn lên, đơm bông kết trái. Một triết lý
sống có từ nơi đây. Tiềm tàng trong sự vật.
Dinh dưỡng từ đất sâu. Bao nhiêu núi đồi.
Biển cả. Núi cao. Biển rộng. Đồi xanh. Nước
biếc. Đất dung chứa.
Đất che chở. Đất dang
đơi tay. Đất ơm vào
lịng đất như đất ơm hạt
mầm. Đất ni lúa mạ.
Tất cả khơng vật gì xa
lìa lịng đất.
Ngồi đây, tựa lưng vào
gốc thơng trên đồi Pháp
Vương, thả tầm nhìn xa
quang cảnh lơ nhơ cây
lá xinh tươi ẩn hiện dưới
ánh trăng mười hai,
mười ba. Trăng chưa
tròn như trăng 16.
Nhưng chừng ấy ánh trăng cũng đủ để thấy
từng con ốc sên bị trên phiến lá, để lại phía
sau một đường bọt trắng. Thấy năm Mẹ con
chồn đất dẫn nhau đi trước sân nhà, nghe
tiếng động, chồn Mẹ ngẩng đầu nhìn quanh
như tỏ ý bảo vệ đàn con. Một sức sống hiện
hữu trên mặt đất. Hạt mầm hiện hữu trong
lòng đất. Tất cả mang sức sống của sự vật.
Lớn có sức sống lớn. Nhỏ có sức sống nhỏ.
Cịn triết lý sống ở đây là tôn trọng sự sống.
Sự sống của hạt mầm giống như sự sống
của ốc sên. Sức sống của biển xanh giống
như sức sống của đỉnh cao rừng núi. Mọi vật
đều im lìm, bất động, phơi mình dưới ánh
trăng huyền hoặc. Lúc ẩn, lúc hiện. Lúc mờ,
lúc tỏ. Làm người đối cảnh càng thêm mông
lung.
Tôi mơ ánh trăng 16
Rọi trên đồng lúa thơm
Quê hương Việt Nam còn
Trái tim nồng dân tộc
Lạc Hồng Văn Hiến
Con cháu Rồng Tiên
Mẹ hiền Quán Âm
Hộ dân, hộ nước
Thanh bình yên vui.
Chiếc lá ngọc lan rụng về cội. Nằm yên
gác đầu trên phiến đá. Nắng về trưa đốt
CHÁNH PHÁP SỐ 115, THÁNG 06.2021
21
cháy ngọc lan, khơ dịn như bao chiếc lá
trên rừng, mang sắc thắm ban mai,
chiều trở thành héo úa. Như sự vận
chuyển của thời gian đến đi vô tận. Nuôi
sự sống. Đốt cháy sự sống. Một triết lý
sống và chết, thiên thu bất tận.
Đỉnh núi rừng sâu vách đá
Mây trời phủ kín sương mai
Bụi mờ đường dài lữ thứ
Nhọc nhằn một kiếp trần ai!
Bó gối ngồi ơn chuyện cũ
Năm xưa từ thuở lên mười
Mịn chân hình hài in dấu
Khe sâu vực thẳm đôi mươi
Ấy là hạt mầm vươn lên từ đất. Như
đàn mối đùn lên từ đất. Như dế mèn đội
lên từ đất. Triết lý đội đất. Vun đất.
Nhóm đất của loài vật sống trong đất.
Triết lý đội cát. Vun cát. Nhóm cát của
lồi vật sống nơi biển. Cua cịng. Cá
thóc. Cá nhảy. Nếu có ai đó suy tư trên
dịng tâm thức chuyển biến nhấp nhơ
như hàng trăm nghìn con sóng lượn,
đứng trên bờ cát mà nhắn nhủ lồi tơm
cua xin hãy thương nhau.
Con sâu rọm bò trên phiến lá
Giọt sương mai còn đọng trên cành
Tử sinh rụng lòng vòng đâu đó
Vệt thời gian nắng rọi lều tranh
Chim vẫn hót gió ngàn vẫn thổi
Mây cứ bay giăng kín tơ mành
Thoảng phút chốc thấy mình như đã
Viết lời thơ trên ánh trăng thanh
Dịng suối lạnh in hình bóng hạc
Gối đầu Tây giấc mộng đồi Đông
Du tử cuồng rêu phong rục rã
Bụi đường mù phủ kín mênh mơng
Ráng trời nọ pha mầu hủy thể
Đốt sương khuya lạnh buốt tơ chùng
Cúi xuống nữa nhìn sâu phút chốc
Đống xương tàn mộ nọ ai vun.
Ánh trăng đã khuất bên kia đồi cỏ.
Chỉ còn vẳng nghe tiếng chim đêm tìm
ăn lẻ loi đâu đó. Nhưng khơng, ấy là
dáng dấp của tạo hóa, bằng đơi tay khéo
léo, thô phù để nuôi dưỡng sự sống và
giết chết sự sống.
Con chim nhỏ hót bên trời
Gởi lời từ biệt gãy đôi cánh hồng
Triết lý và thi ca như hai cung bậc
để tạo dựng cái có, cái khơng, cái thực
cái hư ẩn tàng trên vách đá của núi cao.
Và chìm sâu dưới lịng hố thẳm.
(trích từ Triết Lý và Thi Ca, Nguyên Siêu,
xuất bản tháng 5.2021)
22
CHÁNH PHÁP SỐ 115, THÁNG 06.2021
ĐỜI TU SĨ
Thảnh thơi một gánh quảy an nhiên,
Phủi sạch trần ai bao chướng dun,
Thay áo tình u chồng áo đạo,
Tẩy tâm ô trược hiện tâm thiền.
Đắp xây chánh niệm qua bờ giác,
Hóa độ quần mê thốt nẻo phiền.
Soi sáng phù du sanh tử kiếp,
Triển khai Diệu Pháp hướng chân nguyên.
HT. THÍCH THẮNG HOAN
HOẠ:
THIỀN TĂNG VỊNH
Kính họa y vận bài: “ĐỜI TU SĨ” của
HT.Thích Thắng Hoan
Kính dâng các bậc Thiền Tăng Cao Đức
Thiền Tăng trí sáng ý như nhiên
Phật đạo hoằng truyền hoá chúng duyên
Mở cửa Từ Bi khơi suối đạo
Thắp đèn Trí Tuệ dựng cơ thiền
Dìu người lỡ bước lên thuyền giác
Dắt kẻ lầm đường thoát cảnh phiền
Tự tại ung dung du trược kiếp
Tiêu dao nhật nguyệt hướng tâm nguyên...!
Hậu Học
THÍCH CHÚC HIỀN
(kính họa)
California, 22-02-2021
HỊA NHẬP TRONG TỪ ÁI CỨU KÍNH
Ngun bản: Absorbing Yourself in Ultimate Love
Tác giả: ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
PHÁP LUẬN
Giáo thuyết vĩ đại là không đủ,
Con người phải có một thái độ rộng rãi.
- CHÂM NGƠN TÂY TẠNG
Bây giờ chúng ta đến trình độ thậm
thâm nhất của từ ái và bi mẫn, trình độ này
là có thể bởi kiến thức về tính
khơng của sự tồn tại cố hữu.
Nguyệt Xứng nêu ra trong
cách này:
“Tơi dâng cúng lịng cung
kính để yêu thương quan tâm
xem những chúng sanh luân
hồi như tánh không của sự tồn
tại cố hữu mặc dù chúng hiện
hữu như tồn tại một cách cố
hữu, giống như việc quán
chiếu ánh trăng trong nước.”
Sự quán chiếu ánh trăng
trong nước trong suốt, tĩnh
lặng xuất hiện là một ánh
trăng với mọi khía cạnh nhưng
khơng phải là ánh trăng trong
bất cứ sự quan tâm nào với
ánh trăng thật sự trên bầu
trời. Sự tưởng tượng này biểu
tượng sự xuất hiện của cái "tôi" và tất cả
những hiện tượng khác giống như chúng tồn
tại một cách cố hữu: dù cho sự xuất hiện để
tồn tại trong trong chính chúng, nhưng
chúng là trống rỗng vậy, chúng là những sản
phẩm nào của đó. Giống như người nào đó
hiểu sai sự phản chiếu của ánh trăng với mặt
trăng, chúng ta hiểu sai sự xuất hiện của cái
''tôi'' và những hiện tượng khác với những
thứ tồn tại trong chính chúng.
Q vị có thể dùng ẩn dụ này như một
cách để phát triển tuệ giác vào trong vấn đề
chúng ta không nhất thiết phải bị cuốn vào
trong những khổ đau bằng việc chấp nhận
những hiện tướng sai lạc, do thế biến thành
nạn nhân của tham dục và thù hận và tất cả
những hành vi xuất phát từ chúng, tích lũy
nghiệp chướng, và bị sanh mãi trong vòng
đau khổ. Tuệ giác này sẽ kích thích lịng từ ái
và bi mẫn thậm thâm bởi vì quý vị sẽ thấy
một cách sinh động vấn đề tất cả những thứ
này không cần thiết như thế nào.
Ở đây, chúng sanh được thấy không chỉ
đau khổ trong sáu cõi luân hồi giống như một
chiếc thùng trong cái giếng, và
bị nhào nặn trong vơ thường
nhấp nhống như sự phản
chiếu lung linh, nhưng cũng
như đối tượng đối với vô minh
si ám đi cùng với hiện tướng
sai lầm của sự tồn tại cố hữu.
Với tuệ giác này sáng sủa
trong tâm thức quý vị, đại từ
và đại bi sinh khởi trong bạn
cho tất cả chúng sanh; bạn
cảm thấy gần gũi với họ bởi vì
họ muốn hạnh phúc và khơng
muốn khổ đau giống như bạn,
và bạn cảm thấy tác động với
việc họ đã từng là những người
bạn thân thiết nhất của quý vị
trải qua vô lượng kiếp sống,
nuôi dưỡng quý vị với lịng ân
cần tử tế của họ.
Để có được lối vào cho chiều sâu này của
từ ái và bi mẫn, trước nhất cần thấu hiểu
rằng tự chính quý vị và những chúng sanh
khác đều là trống rỗng sự tồn tại cố hữu. Do
thế, chúng ta hãy ôn lại những bước cho việc
nhận ra bản chất tối hậu của cái "tôi".
Thiền tập quán chiếu
Như quý vị đã làm trước đây, đem mục
tiêu lý luận của quý vị, cái "tôi" tồn tại cố
hữu, được nhắc nhở bằng việc nhớ lại hay
tưởng tượng một thí dụ khi quý vị tin tưởng
một cách mạnh mẽ vào trong ấy.
Chú ý sự si mê đã thêm vào (hay chồng
thêm vào) sự tồn tại cố hữu, và nhận diện
nó.
Đặt sự nhấn mạnh vào việc quán chiếu
CHÁNH PHÁP SỐ 115, THÁNG 06.2021
23
sự kiện rằng nếu có sự
tồn tại được thiết lập một
cách cố hữu như vậy, thì
cái "tơi" và phức hợp
thân-tâm sẽ phải hoặc là
giống nhau hoặc khác
nhau.
Sau đó sự quán
chiếu mạnh mẽ tính phi
lý về sự xác định của tự
ngã và thân-tâm như
hoặc là giống nhau hay
khác nhau, thấy và cảm
nhận sự khơng thể có
những xác định như vậy.
DUY NHẤT
"Tơi" và thân-tâm
phải là một, một cách
hoàn toàn và trong
mọi cách.
Trong trường hợp ấy, việc thừa nhận một
cái "tôi" sẽ là vô nghĩa.
Sẽ không thể nghĩ về "thân tôi" hay "đầu
tôi" hay "tâm tôi".
Khi tâm và thân không tồn tại nữa, thì tự
ngã cũng sẽ khơng tồn tại.
Vì tâm và thân là số nhiều, những tự ngã
của một người cũng phải là số nhiều.
Vì "tơi" chỉ là một, tâm và thân cũng phải
là một.
Giống như tâm và thân sinh xuất và tàn
hoại, vì thế phải thừa nhận rằng cái "tơi"
cũng vốn được sinh xuất và tàn hoại.
Trong trường hợp này, những ảnh hưởng
hỉ lạc của những hành vi đạo đức cũng
như những tác động khổ đau của những
hành vi phi đạo đức sẽ không đơm bông
kết trái cho chúng ta, hay chúng ta sẽ
trải nghiệm những ảnh hưởng của những
hành vi mà chính chúng ta đã khơng từng
làm.
DỊ BIỆT
"Tơi" và thân-tâm sẽ phải là hồn tồn
riêng biệt.
Trong trường hợp ấy, "tơi" phải có thể tìm
thấy được sau khi dẹp hết thân và tâm.
"Tơi" sẽ khơng có những tính chất sinh
xuất, vĩnh cửu, và suy tàn, và như vậy là
ngớ ngẩn.
"Tôi" phải là ngớ ngẩn để chỉ là hư ảo của
sự tưởng tượng hay thường cịn.
Một cách ngớ ngẩn, "tơi" sẽ khơng có bất
cứ tính chất vật chất hay tinh thần nào.
Khơng thể tìm thấy một cái "tơi" như vậy,
hãy quyết định một cách kiên quyết,
"Không tôi cũng như không bất cứ người
nào được thiết lập một cách cố hữu."
24
CHÁNH PHÁP SỐ 115, THÁNG 06.2021
Kết quả: từ những
chiều sâu của tim tơi, tơi
nên tìm cách để vượt khỏi
vịng đau khổ này đã bị
đem đến cho chính tơi
qua việc nhận thức sai
lầm những gì khơng tồn
tại một cách cố hữu như
tồn tại một cách cố hữu.
MỞ RỘNG ĐIỀU NÀY ĐẾN
NHỮNG NGƯỜI KHÁC
Những thái độ tàn phá
(bất thiện) là những kẻ
thù nội tại của chúng ta,
căn bản của mọi rắc rối.
Chúng sản sinh như thế
nào? Từ tham dục và thù
hận, mà gốc rễ của
chúng là si mê. Vì những
cảm xúc phiền não này chỉ tạo ra tổn hại và
khơng bao giờ có lợi, nên chúng phải được
vượt thắng. Nhằm để làm như vậy chúng ta
phải đối diện với những nguyên nhân của
chúng.
Tất cả những cảm xúc rắc rối xuất phát
từ cảm xúc căn bản tiêu cực tàn phá, một
thứ si mê không biết cả con người và mọi thứ
thật sự là thế nào và hiểu sai bản chất của
chúng một cách cực đoan quá đáng. Chúng
ta nên xem những cảm xúc tiêu cực như các
kẻ thù, trước nhất xác định chúng và rồi thì
bắt tay vào trong những kỹ năng để tiêu hủy
chúng.
Bị lèo lái bởi những cảm xúc phiền não,
chúng ta lao vào những hành vi thiết lập
những khuynh hướng phiền não chướng ngại
ẩn tàng trong tâm thức. Những hành vi tiêu
cực kết quả trong tái sinh vào những kiếp
sống khổ đau và những hành vi tích cực kết
quả tái sinh trong những kiếp sống hạnh
phúc. Tuy thế, cả hai đều xuất phát từ sự vô
minh mênh mang. Qua việc nhận ra một
cách trực tiếp lẽ thật - tính khơng của sự tồn
tại cố hữu, vơ tự tính - và trở thành quen
thuộc với nó trong thiền quán, quý vị sẽ
chấm dứt việc tích lũy nghiệp báo đã đưa quý
vị tái sinh trong vòng luân hồi; tái sinh sẽ
đến dưới năng lực của chính q vị chi phối
nó nhằm để hỗ trợ người khác một cách hiệu
quả hơn.
Vì vịng ln hồi có gốc rễ trong sự hiểu
biết sai lầm về sự tồn tại cố hữu, cho nên
cách duy nhất để thoát khỏi vòng luân hồi là
việc nhận ra sự lừa dối này là gì. Mặc dù có
nhiều nhân tố sản sinh ra vịng ln hồi, duy
chỉ tại gốc rễ của nó - si mê - nó mới có thể
đáp ứng được, bởi vì đây là nguồn gốc của
tất cả mọi nguyên nhân khác. Qua những sự
thiền tập quán chiếu trong quyển sách này,
quý vị đã học vấn đề trau dồi những phương
pháp đối trị đến những nguyên nhân ấy
nhằm để đặt dấu chấm hết mọi khổ đau và
nguyên nhân của đau khổ. Khi quý vị tiếp
thu tiến trình này, thì quý vị sẽ phát sinh
một mục tiêu để đạt đến giải thoát hơn chỉ là
chữ nghĩa.
Qua thực hành, mục tiêu của quý vị sẽ
chuyển hóa, quý vị phát sinh một xu hướng
chân thành để xa lìa vịng khổ đau, ở điểm
ấy quý vị trở thành một hành giả tâm linh
với năng lực tăng trưởng. Như hành giả du
già Tây Tạng, Tông Khách Ba nói trong “Ba
Điểm Chính Yếu của Con Đường Giác
Ngộ” rằng, ở chỗ ấy quý vị sẽ tập trung ngày
đêm cho việc đạt đến giải thốt. Q vị nhiệt
tình trong việc cứu tế. Từ chiều sâu của tâm
thức, quý vị quyết định rằng nếu quý vị
không đạt được giải thốt khỏi tồn bộ tiến
trình ln hồi sinh tử, thì giá trị kiếp sống
con người của quý vị sẽ không được trọn
vẹn.
Là một con người là căn bản thuận lợi
nhất cho việc đạt đến sự giải thốt khỏi vịng
ln hồi cho việc sử dụng ba sự thực tập
giới, định, tuệ. Sự thực tập đạo đức (giới)
liên hệ đến việc kiềm chế khỏi thái độ tệ hại
quá mức của thân thể, lời nói, và tâm ý.
Những thái độ tiêu cực vi tế hơn được
chuyển hóa qua thiền nhất tâm (định). Việc
loại bỏ cuối cùng những hành vi tiêu cực
được thành tựu qua việc tu tập về tuệ quán
chiếu vào trong tính không của sự tồn tại cố
hữu.
Khởi đầu, quý vị tu tập đạo đức (giới)
bởi vì khi quý vị biểu hiện chức năng dưới sự
ảnh hưởng của những cảm xúc phiền não
thơ, thái độ của thân thể và lời nói trở hành
thơ tháo, tự tổn hại chính mình và người
khác. Hành động đạo đức liên hệ đến kiểm
soát và điều khiển những hành vi thơ thiển
này vì thế chúng khơng thể biểu hiện: tuy
nhiên, sự thực tập đạo đức không thể tẩy
xóa những cảm xúc phiền não. Và chỉ khi
những cảm xúc loại bỏ hồn tồn thì q vị
mới có thể đạt đến giải thốt.
Đây là tiến trình mà q vị phải chịu
đựng một khi quý vị thấu hiểu cảnh ngộ của
quý vị trong vòng luân hồi.
1. Thứ nhất, rèn luyện trong việc nhận ra
quy mô của khổ đau trong kiếp sống này.
2. Sau đó, hãy phát sinh sự chán ghét vòng
khổ đau luẩn quẩn từ kiếp này đến kiếp
khác, gọi là "vòng luân hồi", và rèn luyện
trong đạo đức (giới), thiền định (định),
và tuệ.
3. Cuối cùng, qua việc hoàn thành những
thực hành này, quý vị có thể thành tựu
cảnh giới giải thốt khỏi vịng ln hồi
mà trong ấy khổ đau đã được hồn tồn
tận diệt.
Trong cách này, q vị có thể đạt đến
giải thoát, nhưng ngay cả như vậy mục tiêu
của quý vị sẽ không đạt được trọn vẹn. Quý
vị chưa vượt thắng chướng ngại chính để
hồn thành năng lực cứu hộ người khác là:
xu hướng sót lại trong tâm thức bởi si mê về
tính bản nhiên thật sự của con người và mọi
thứ (sở tri chướng). Mặc dù chính tự si mê đã
được vượt thắng, nhưng xu hướng phiền não
tiềm tàng trong tâm thức, hạn chế nó biết tất
cả mọi thứ có thể biết.
Trong khi quý vị ở trong trạng thái này,
ngay cả nếu quý vị cố gắng để hỗ trợ người
khác, khơng gì hơn là một chút lợi ích có thể
được hồn tất. Mặc dù khơng nghi ngờ gì lợi
lạc để đạt đến giải thốt khỏi vịng ln hồi,
trong dạng thức phẩm chất của tâm, nhưng
quan điểm của quý vị vẫn liên hệ một cách
chính yếu với lợi ích của riêng bản thân quý
vị. Trong hình thức tiến trình của chính q
vị, tiến trình vượt thắng những chướng ngại
và thực chứng những cảnh giới cao cấp vẫn
chưa được hồn thành: q vị vẫn đang ở
trong một hình thức của một sự hịa bình cơ
tịch.
Thật quan trọng để khơng trở thành có
khuynh hướng đối với sự hịa bình cơ tịch - vì
qua đơn thuần với xu hướng giải thốt vì lợi
ích cho riêng q vị - thì q vị sẽ kéo dài
tiến trình của việc đạt đến sự Giác Ngộ vị tha
hướng đến lợi ích của người khác - mục tiêu
cứu kính. Bằng việc chăm sóc chính yếu cho
chính mình, q vị ni dưỡng một thái độ vị
kỷ, và thái độ này là rất khó để chiến thắng
sau này, khi quý vị tu tập trong đại từ và đại
bi. Do thế, thật rất quan trọng là ngay từ lúc
đầu khơng hồn tồn đầu tư sức mạnh của
tâm thức trong lợi ích của riêng mình.
Bằng việc thấu hiểu tính khơng, quý vị
nhận ra rằng thật có thể phá vỡ và thốt
khỏi cái bẫy của chính q vị trong vịng ln
hồi, chính là điều làm vững chắc quyết tâm
xa lìa vịng sinh tử: khi quý vị thấu hiểu rằng
khổ đau của người khác cũng bị gây ra bởi si
mê, thì quý vị nhận ra rằng họ thật có thể tự
thốt khỏi tất cả mọi khổ đau, điều này làm
tăng cường quyết tâm của quý vị để giúp đỡ
người khác. Trong cách này, tuệ giác làm cho
từ ái và bi mẫn thành những biểu hiện thực
tiễn của sự thông hiểu thậm thâm. Như Đức
Phật nói, "Lịng từ bi của Đức Phật vì chúng
sinh được phát sinh qua quán chiếu, 'Trong
khi tất cả mọi hiện tượng là trống rỗng,
nhưng chúng sinh lại bám lấy những quan
điểm tồn tại cố hữu.'"
Thấu hiểu rằng tất cả chúng sinh là
trống rỗng sự tồn tại cố hữu, q vị sẽ phát
triển thậm chí lịng từ ái và bi mẫn thậm
thâm hơn bằng việc thấy mối quan hệ hữu cơ
giữa các thành phần và tổng thể một cách
toàn diện, vấn đề chúng sinh tự đem đến khổ
đau cho chính họ như thế nào qua si mê
CHÁNH PHÁP SỐ 115, THÁNG 06.2021
25