Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Phân tích các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế. Liên hệ thực tiễn Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.96 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG - XÃ HỘI
KHOA LUẬT

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Lớp tín chỉ: D15LK02
HỌC KỲ …I…. NĂM HỌC…2021-2022……

Đề tài:
Phân tích các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế.
Liên hệ thực tiễn Việt Nam

Họ và tên sinh viên: Phạm Bảo Chi
Mã SV:
Ngày/tháng/năm sinh:
Lớp niên chế:
Họ và tên giảng viên:

HÀ NỘI – 2021


DANH MỤC VIẾT TẮT
-

DN : Doanh Nghiệp
PVTM : Phòng vệ thương mại
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
CEPT : Hiệp định về chương trình thuế quan ưu đãi


MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I.Khái quát chung về các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế
1. Khái niệm và ý nghĩa của các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế
1.1. Khái niệm
1.2. Ý nghĩa của các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế
2. Các biện pháp tự vệ theo hiệp định đa biên của WTO
2.1. Biện pháp thuế quan
2.2. Biện pháp phi thuế quan
3. Nguyên tắc và thủ tục áp dụng các biện pháp tự vệ
3.1. Điều kiện để áp dụng các biện pháp tự vệ
3.2. Thủ tục áp dụng các biện pháp tự vệ
II.Thực tiễn sử dụng các biện pháp tự vệ ở một số nước và khu vực trên thế giới
III.Thực tiễn về biện pháp tự vệ thương mại ở Việt Nam
1. Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam trong những năm gần đây
2. Giải pháp
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


LỜI MỞ ĐẦU
Tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, tự do hóa thương mại là xu thế nổi bật của
kinh tế thế giới hiện nay. Quá trình này đang diễn ra mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội của hầu hết các quốc gia trên thế giới trong một sân chơi tự do
cạnh tranh, cơng bằng. Hịa mình trong xu thế đó, từ khi tiến hành đổi mới và
chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường, Việt Nam đã tích cực tham gia vào
các tổ chức của khu vực và thế giới như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN), Diễn đàn hợp tác Á-Âu (ASEM), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á-Thái
Bình Dương (APEC), tham gia vào CEPT và khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA) và gần đây nhất là tổ chức thương mại thế giới WTO (7/11/2006). Đây là

cột mốc quan trọng đánh dấu tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Bên
cạnh đó, việc ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương cũng như đa
phương đã tạo ra cơ hội mở rộng quan hệ kinh tế, giao lưu với nhiều nước trên thế
giới, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức đối với Việt Nam trong tiến trình hội
nhập kinh tế thế giới. Nhất là trong bối cảnh tự do thương mại, hàng hóa từ các
quốc gia khác nhau có thể xâm nhập thị trường nội địa một cách tự do, bình đẳng
và khơng bị hạn chế nhằm tìm kiếm cơ hội kinh doanh, thu lợi nhuận. Từ đó đã nảy
sinh ra những tiêu cực do cạnh tranh gây ra, nhiều doanh nghiệp sản xuất đứng
trước nguy cơ phá sản, đổ vỡ do sự xâm nhập ồ ạt của hàng hóa nhập khẩu vào thị
trường trong nước khi năng lực cạnh tranh của nhiều ngành sản xuất nội địa còn
yếu kém. Đây khơng chỉ là khó khăn đối với Việt Nam mà còn là thách thức đối
với nhiều nước đang phát triển. Do đó, bên cạnh xây dựng thương hiệu thì tự vệ
thương mại được xem là giải pháp hữu hiệu để bảo hộ sản xuất trong nước.
Thực tiễn thương mại của Việt Nam trong những năm qua đã chứng minh nhu cầu
áp dụng biện pháp tự vệ trong trường hợp cần thiết trước sự nhập siêu ồ ạt tràn lan
của nhiều mặt hàng ngoại vào thị trường nội địa. Gần đây, Việt Nam đã chính thức
áp thuế tự vệ đối với mặt hàng dầu ăn nhập khẩu, đây là lần đầu tiên Việt Nam
chính thức áp dụng biện pháp tự vệ kể từ khi có pháp lệnh tự vệ trong nhập khẩu
hàng hóa nước ngồi vào Việt Nam được ban hành năm 2002. Đây được xem là tín
hiệu đáng mừng cho các doanh nghiệp trong nước để bảo vệ nền sản xuất nội địa
trước xu hướng mở cửa hoàn toàn theo lộ trình cam kết khi gia nhập vảo WTO.
Xuất phát từ thực tiễn trên với mong muốn nghiên cứu, tìm hiểu sâu hơn vấn đề
bảo hộ nền sản xuất trong nước, cụ thể là biện pháp tự vệ trong thương mại trước
xu hướng mở cửa thị trường ngày càng sâu rộng, từ đó có thể đóng góp một số ý
kiến nhằm góp phần hồn thiện pháp luật về tự vệ thương mại của các doanh


nghiệp trong nước nên em quyết định chọn đề tài “ Phân tích các biện pháp tự vệ
trong thương mại quốc tế và Liên hệ thực tiễn Việt Nam” làm đề tài tiểu luận của
mình.

Với lượng kiến thức hạn chế, bài làm cịn nhiều thiếu sót mong thầy cơ góp ý để
kiến thức của em được hoàn thiện hơn.


NỘI DUNG
I.Khái quát chung về các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế
1.Khái niệm và ý nghĩa của các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế
1.1.Khái niệm
Biện pháp tự vệ là việc tạm thời hạn chế nhập khẩu đối với một hoặc một số loại
hàng hoá khi việc nhập khẩu chúng tăng nhanh gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại
nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước. Biện pháp tự vệ chỉ được áp dụng
đối với hàng hố, khơng áp dụng đối với dịch vụ, đầu tư hay sở hữu trí tuệ.
Mỗi nước nhập khẩu là thành viên WTO đều có quyền áp dụng biện pháp tự vệ,
nhưng khi áp dụng thì họ phải bảo đảm tuân theo các quy định của WTO (về điều
kiện, thủ tục, cách thức áp dụng biện pháp tự vệ). Doanh nghiệp cần chú ý đến
công cụ này để có thể u cầu Chính phủ sử dụng nhằm bảo vệ lợi ích của mình
trước hàng hố nhập khẩu nước ngoài khi cần thiết.
Các biện pháp tự vệ là các biện pháp mà căn cứ vào các điều khoản tự vệ hay miễn
trách, cho phép một bên trong hiệp định thương mại tạm ngừng thực hiện nghĩa vụ
đã được quy định trong hiệp định nhằm chống lại những diễn biến bất ngờ có hại
cho nền kinh tế nước mình hoặc cho một ngành kinh tế và có những nguyên nhân
góc rễ nêu trong hiệp định. Trong hầu hết các trường hợp, những diễn biến xấu này
là sự gia tăng hàng nhập do các biện pháp mở cửa hoặc tự do hóa theo hiệp định,
với số lượng tới mức mà ngành hàng tương ứng trong nước bị để dọa thiệt hại
nghiêm trọng. Các biện pháp tự vệ này có thể bao gồm việc tái áp dụng thuế quan
hay các biện pháp hạn chế nhập khẩu khác.
1.2.Ý nghĩa của các biện pháp tự vệ
Biện pháp tự vệ thường được áp dụng một cách khắt khe hơn và phức tạp hơn biện
pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp, vì để áp dụng biện pháp này, cơ quan
điều tra phải chứng minh được tình trạng thiệt hại nghiêm trọng mà ngành sản xuất

hàng hoá tương tự hoặc hàng hoá cạnh tranh trực tiếp trong nước phải chịu do sự
gia tăng (về quy mơ, số lượng) của hàng hố nhập khẩu. Biện pháp tự vệ là việc
tạm thời hạn chế nhập khẩu đối với một hoặc một số loại hàng hoá khi việc nhập
khẩu những hàng hố đó tăng nhanh gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm
trọng cho ngành sản xuất trong nước.
Ý nghĩa của biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế là hướng tới khắc phục sự
chênh lệch trình độ của các nền kinh tế khi tham gia vào sân chơi thương mại quốc


tế, giúp cho các nền kinh tế tự điều chỉnh cơ cấu, các ngành sản xuất dần được
thích nghi với nền kinh tế trong khu vực, từ đó tạo điều kiện tốt hơn để các nước
tham gia vào quá trình phân cơng lao động quốc tế, góp phần đảm bảo lợi ích cho
tất cả các quốc gia khi hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Các biện pháp
tự vệ thương mại nhằm đảm bảo tính cơng bằng theo chiều dọc, tức là các ngành
sản xuất có trình độ khác nhau thì cần phải được đối xử khác nhau, đảm bảo lợi ích
được phân chia một cách hợp lí giữa các nền kinh tế.
2.Các biện pháp tự vệ theo hiệp định đa biên của WTO
2.1.Biện pháp thuế quan
a) Khái niệm : Thuế quan là thuế do hải quan của một nước thu đối với hàng hóa
xuất khẩu hoặc nhập khẩu khi vận chuyển qua cửa khẩu của nước đó.
b) Phân loại thuế quan :
– Theo đối tượng đánh thuế, thuế quan bao gồm: thuế quan xuất khẩu, thuế quan
nhập khẩu và thuế quan quá cảnh.
– Theo phương pháp tính thuế, thuế quan bao gồm: thuế quan tính theo giá trị, thuế
quan tính theo số lượng, thuế quan kết hợp.
– Theo mức thuế, có thuế quan tối đa, thuế quan tối thiểu, thuế quan ưu đãi.
– Theo mục đích, có thuế quan tài chính, thuế quan bảo hộ.
c) Đối tượng chịu thuế quan: Theo Điều 2 Luật thuế Xuất khẩu, thuế nhập khẩu,
Điều 1 Nghị định 87: Đối tượng chịu thuế xuất khẩu, nhập khẩu gồm:
+ Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam.

+ Hàng hóa được đưa từ thị trường trong nước vào khu phi thuế quan và từ khu
phi thuế quan vào thị trường trong nước.
+ Hàng hóa mua bán, trao đổi khác được coi là hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
d) Đối tượng nộp thuế quan : Là các tổ chức, cá nhân có hành vi xuất khẩu, nhập
khẩu hàng hóa thuộc diện chịu thuế. Để một tổ chức, cá nhân trở thành đối tượng
nộp thuế phải thỏa mãn những dấu hiệu pháp lý sau:
- Tổ chức, cá nhân phải là người trực tiếp đưa hàng hóa qua biên giới Việt Nam
(là chủ hàng) gồm:
+Chủ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.


+Tổ chức nhận ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu.
+Cá nhân có hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu khi xuất cảnh, nhập cảnh; gửi hoặc
nhận hàng hóa qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam.
+Tổ chức cá nhân có hành vi xuất khẩu, nhập khẩu phải là hành vi xuất khẩu,
nhập khẩu hồn tất.
e) Vai trị của thuế quan
– Thuế quan trước hết là nhằm Điều tiết hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu. Lượng
hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu phụ thuộc vào sự tiêu thụ hàng hóa, yếu tố này
lại phụ thuộc vào giá cả. Giá cả lên xuống làm giảm hoặc tăng sức cạnh tranh của
hàng hóa. Một bộ phận quan trọng tác động đến sự lên xuống của giá cả hàng hóa
ngoại thương đó là thuế quan. Thuế quan đánh thấp hay đánh cao ảnh hưởng đến
sức cạnh tranh của hàng hóa, do đó thơng qua mức thuế quan đánh vào hàng hóa
xuất nhập khẩu người ta gián tiếp Điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa.
– Thuế quan có tác dụng bảo hộ thị trường nội địa vì đánh thuế cao vào những
hàng hóa nhập khẩu, giúp các nhà sản xuất trong nước bằng giá rẻ có thể cạnh
tranh với hàng hóa nhập khẩu. Đặc biệt thuế quan giúp các xí nghiệp sản xuất non
trẻ ở trong nước có thời gian để phát triển và sinh lời nhằm có thể cạnh tranh với
hàng nhập khẩu trong tương lai. Vì những xí nghiệp non trẻ thường phải chi phí
ban đầu cao, chưa có thị trường rộng lớn nên những xí nghiệp này có thể bị bóp

chết trong trường hợp thương mại tự do khi bị hàng nhập khẩu cạnh tranh.
– Thuế quan có tác dụng tăng thu cho ngân sách quốc gia với chi phí rẻ hơn so với
nhiều loại thuế tiêu dùng, vì điểm thu thuế nhập khẩu ít hơn nhiều so với các điểm
của loại thuế tiêu dùng.
– Thuế nhập khẩu có tác dụng giảm bớt nạn thất nghiệp vì sản phẩm thay thế hàng
nhập khẩu là do việc đánh thuế cao gây nên sẽ địi hỏi mở thêm sản xuất tạo thêm
cơng ăn việc làm giải quyết bớt nạn thất nghiệp trong nội địa.
– Thuế quan là công cụ phân biệt đối xử trong quan hệ thương mại và gây áp lực
đối với các bạn hàng phải nhượng bộ trong đàm phán.
f) Mục đích của thuế quan :
Thuế nhập khẩu có thể được dùng như công cụ bảo hộ mậu dịch:
– Giảm nhập khẩu bằng cách làm cho chúng trở nên đắt hơn so với các mặt hàng
thay thế có trong nước và Điều này làm giảm thâm hụt trong cán cân thương mại.


– Chống lại các hành vi phá giá bằng cách tăng giá hàng nhập khẩu của mặt hàng
phá giá lên tới mức giá chung của thị trường.
– Trả đũa trước các hành vi dựng hàng rào thuế quan do quốc gia khác đánh thuế
đối với hàng hóa xuất khẩu của mình, nhất là trong các cuộc chiến tranh thương
mại.
– Bảo hộ cho các lĩnh vực sản xuất then chốt, chẳng hạn nơng nghiệp giống như
các chính sách về thuế quan của Liên minh châu Âu đã thực hiện trong Chính sách
nông nghiệp chung của họ.
– Bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ cho đến khi chúng đủ vững mạnh để có
thể cạnh tranh sịng phẳng trên thị trường quốc tế.
Thuế xuất khẩu có thể được dùng để:
– Giảm xuất khẩu do nhà nước khơng khuyến khích xuất khẩu các mặt hàng sử
dụng các nguồn tài nguyên khan hiếm đang bị cạn kiệt hay các mặt hàng mà tính
chất quan trọng của nó đối với sự an tồn lương thực hay an ninh quốc gia được
đặt lên trên hết.

– Thuế xuất nhập khẩu có thể được dùng để tăng thu ngân sách cho nhà nước.
Tùy từng nhu cầu mà một hay vài mục đích nói trên được đề cao. Khi bị xác định
là có mục đích bảo hộ mậu dịch, thuế nhập khẩu có thể trở thành đối tượng bị nước
ngồi địi cắt giảm.
g) Tác động của thuế quan đến đất nước
Nhìn trên tổng thể, thuế quan có cả tác động tích cực lẫn tiêu cực cho từng nhóm
lợi ích. Cụ thể:
– Thuế quan có thể bảo vệ các nhà sản xuất trong nước khỏi sự cạnh tranh từ nước
ngoài. Bằng cách làm tăng giá bán của hàng nhập khẩu.
– Mang lại nguồn thu nhập lớn cho nhà nước, chính phủ.
– Thuế quan cũng đồng thời làm tăng giá của các mặt hàng nhập khẩu trong nước.
Điều này ảnh hưởng đến khả năng mua sắm hàng nhập khẩu của người dân tại
Quốc gia đó. Giá xe ơ tơ nhập khẩu quá đắt như Việt nam hiện nay chính là một
biểu hiện rõ nhất.


– Việc áp dụng thuế quan cũng làm giảm hiệu quả tổng thể của tồn bộ nền kinh tế.
Bởi vì khoản thuế này sẽ khuyến khích các cơng ty nội địa sản xuất những sản
phẩm. Mà theo lý thuyết có thể được sản xuất một cách hiệu quả hơn ở nước ngoài.
2.2.Biện pháp phi thuế quan
a) Khái niệm hàng rào phi thuế quan
Khi hàng hoá được nhập khẩu vào các nước khác, cịn phải thơng qua những hàng
rào phi thuế quan. Đó là cách để gây trở ngại cho các mặt hàng nhập khẩu, phương
thức này sẽ không đánh thuế nhập khẩu. Nhưng sẽ ngăn chặn được phần nào đó,
khơng dựa trên bất kỳ cơ sở pháp lý nào cả.
Như vậy, có thể hiểu hàng rào phi thuế quan là khái niệm chỉ các rào cản đối với
thương mại không phải về thuế quan do chính phủ áp đặt đối với hàng nhập khẩu
của mình, để bảo vệ các doanh nghiệp trong nước, hạn chế nhập khẩu.
b) Tác động của rào cản phi thuế quan tới xuất khẩu ở Việt Nam
Thứ nhất, việc bảo hộ thương mại khiến xuất khẩu của Việt Nam bị giảm sút hoặc

không gia tăng như kỳ vọng.
Việt Nam chưa có nhiều kinh nghiệm để đối phó với các vụ tranh chấp thương mại,
đặc biệt các tranh chấp thương mại hiện nay đòi hỏi các bên liên quan phải có sự
am hiểu về luật thương mại, các nguyên tắc thương mại, các án lệ; khả năng kiểm
định, giám định sản phẩm còn hạn chế và giá thành kiểm định, giám định cao khiến
cho sản phẩm của các DN Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong việc vượt qua các
rào cản kỹ thuật. Thêm vào đó, DN Việt Nam chưa nắm rõ thông tin về các biện
pháp bảo hộ thương mại của các quốc gia nhập khẩu với những quy định khắt khe,
tinh vi và luôn được thay đổi, bổ sung; trong khi điều kiện thực hiện đáp ứng các
rào cản thương mại của Việt Nam còn rất kém, bảo hộ thương mại thực sự là thách
thức lớn với xuất khẩu của Việt Nam. Mặc dù Việt Nam có nguồn lao động dồi dào
nhưng số lượng lao động có tay nghề cao lại rất ít và hiện nay, đang có sự chuyển
dịch lao động lớn, do mức tiền lương công nhân quá thấp (chẳng hạn như ngành
dệt may, da giày). Về trang thiết bị công nghệ, cho dù các DN Việt Nam trong thời
gian gần đây đã chú trọng đầu tư trang thiết bị, máy móc hiện đại, song nhìn chung
so với một số nước khác cùng khu vực, trình độ cơng nghệ của DN nước ta cịn
chưa cao. Bên cạnh đó, phần lớn ngun liệu đều phải nhập khẩu, phụ thuộc vào
thị trường nước ngoài dẫn đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh - xuất khẩu của Việt
Nam chưa cao. Đối với hàng dệt may, nguyên liệu chủ yếu nhập từ Trung Quốc
(khoảng 24%), Hàn Quốc (chiếm 23%) và Nhật Bản (chiếm 8,89%)...


Mặc dù số lượng các vụ điều tra liên quan đến phòng vệ thương mại (PVTM) trên
thế giới ngày càng giảm, song đối với hàng hóa Việt Nam lại có xu hướng gia tăng.
Thuế PVTM là thuế nhập khẩu bổ sung. Do đó, việc bị áp thuế sẽ dẫn tới giá xuất
khẩu hàng hóa bị áp thuế từ Việt Nam tăng lên đáng kể, làm giảm sức cạnh tranh
của hàng nhập khẩu từ Việt Nam so với hàng hóa nhập khẩu từ các thị trường
không bị áp thuế khác. Hệ quả là các nhà nhập khẩu ở nước áp thuế có thể sẽ
chuyển hướng nhập khẩu từ các nước khơng bị áp thuế khác, dẫn tới kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam bị giảm sút, thị phần bị thu hẹp và DN xuất khẩu Việt

Nam đối mặt với rủi ro có thể mất thị trường xuất khẩu.
Thứ hai, việc tham gia giải quyết các vụ kiện bảo hộ thương mại làm tăng chi phí
xuất khẩu của doanh nghiệp.
Các sản phẩm của Việt Nam bị điều tra PVTM khá đa dạng, tập trung nhiều ở các
sản phẩm kim loại (thép, nhôm); nông, thủy sản (tôm, cá tra) và sợi. Về thị trường
khởi xướng điều tra, áp dụng biện pháp PVTM với hàng hóa xuất khẩu của Việt
Nam, đứng đầu là Mỹ với 27 vụ, việc; tiếp theo là Thổ Nhĩ Kỳ với 20 vụ, việc; Ấn
Độ: 17 vụ, việc; EU: 14 vụ, việc; Ca-na-đa: 11 vụ, việc; Ô-xtrây-li-a: 9 vụ, việc;
đặc biệt Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã điều tra chúng ta 24 vụ,
việc, còn lại là một số thị trường khác.
Một số biện pháp PVTM kéo dài hàng chục năm, kéo theo chi phí theo đuổi vụ
việc tốn kém. Với thời gian kéo dài, thực tiễn các vụ kiện PVTM cho thấy, DN
chịu nhiều chi phí và thiệt hại về thời gian.
Thông thường một vụ, việc điều tra thương mại thường kéo dài trung bình 12 tháng
và có thể gia hạn tới 18 tháng, sau đó DN cịn phải đối phó với nhiều lần rà sốt
thuế và thời gian áp thuế trừng phạt có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, thậm chí đến 20
năm. Như vậy, chi phí và nguồn lực mà DN phải bỏ ra để theo đuổi vụ việc, như
Chi phí dịch thuật tài liệu, Chi phí thuê luật sư tư vấn, Các chi phí định tính, chi
phí đánh đổi của DN,..
Thứ ba, sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam có khả năng bị kiện ồ ạt theo hiệu ứng
dây chuyền.
Hiện nay, số lượng các biện pháp bảo hộ thương mại thực hiện trên toàn cầu đã
tăng gấp 2,5 lần so với năm 2010. Một dự báo khác đáng chú ý là các vụ kiện
thương mại đối với Việt Nam tại các thị trường có truyền thống ưa chuộng sử dụng
biện pháp PVTM, như EU, Mỹ có chiều hướng giảm đi hoặc giữ nguyên trong khi
các tranh chấp thương mại như vậy có xu hướng gia tăng tại các nước đang phát


triển, như Bra-xin, Ma-lai-xi-a, Thái Lan, Ấn Độ, Ai Cập,... do xuất khẩu của Việt
Nam có tốc độ tăng trưởng khá cao (khoảng 20%/năm), xếp hạng 39/260 nước

xuất khẩu nhiều nhất thế giới; có tính tập trung cao về thị trường.
Các chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu đang ngày càng được mở rộng và liên kết nhiều
quốc gia với nhau tác động đến các biện pháp PVTM. Vì thế, các vụ kiện về
PVTM phát sinh những xu hướng mới như kiện chùm, kiện chống lẩn tránh thuế,
kiện kép,... làm gia tăng số lượng các vụ kiện về PVTM.
Lý do khiến các vụ kiện PVTM đối với Việt Nam có thể tiếp tục gia tăng trong thời
gian tới là phần lớn các đối tác thương mại vẫn xem Việt Nam là nền kinh tế phi thị
trường (NME). Điều này thường dẫn đến kết quả là biên độ phá giá cao hơn, các
bên tham gia quá trình điều tra phải bỏ thêm nhiều cơng sức và chi phí. Gần đây,
một số nước, đặc biệt là các nước phát triển đang cố gắng tạo ra những rào cản mới
gắn với môi trường và tiêu chuẩn lao động để hạn chế nhập khẩu.
Tóm lại, thách thức với xuất khẩu của Việt Nam còn rất lớn khi mà Việt Nam chưa
giành được thế chủ động trong xuất khẩu hàng hóa cả về thị trường, sản phẩm,
công nghệ sản xuất...
3.Nguyên tắc và thủ tục áp dụng các biện pháp tự vệ
3.1.Điều kiện để áp dụng các biện pháp tự vệ
Theo Điều 2 Hiệp định về các Biện pháp tự vệ thì:
a.Một Thành viên có thể áp dụng một biện pháp tự vệ cho một sản phẩm chỉ khi
Thành viên đó đã xác định được, phù hợp với những quy định dưới đây, là sản
phẩm đó được nhập vào lãnh thổ của mình khi có sự gia tăng nhập khẩu, tương đối
hay tuyệt đối so với sản xuất nội địa, và theo đó có thể gây ra hoặc đe dọa gây ra
tổn hại nghiêm trọng cho ngành công nghiệp nội địa sản xuất ra các sản phẩm
tương tự hoặc các sản phẩm cạnh tranh trực tiếp.
b. Các biện pháp tự vệ sẽ được áp dụng đối với một sản phẩm nhập khẩu bất kể từ
nguồn nào.
Như vậy, Một nước nhập khẩu chỉ có thể áp dụng biện pháp tự vệ sau khi đã tiến
hành điều tra và chứng minh được sự tồn tại đồng thời của các điều kiện sau:
- Hàng hoá liên quan được nhập khẩu tăng đột biến về số lượng;



- Ngành sản xuất sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp với hàng hố đó bị
thiệt hại hoặc đe dọa thiệt hại nghiêm trọng; và
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hiện tượng nhập khẩu tăng đột biến và thiệt hại
hoặc đe doạ thiệt hại nói trên.
Điều kiện chung: Việc tăng đột biến lượng nhập khẩu gây thiệt hại nói trên phải là
hiện tượng mà nước nhập khẩu không thể lường trước được khi đưa ra cam kết
trong khuôn khổ WTO.
Song song với các điều kiện chung này, một số nước khi gia nhập WTO phải đưa
ra những cam kết riêng liên quan đến biện pháp tự vệ. Trường hợp của Việt Nam,
khơng có ràng buộc hay bảo lưu nào lớn về các biện pháp tự vệ này, do đó việc áp
dụng biện pháp tự vệ ở Việt Nam đối với hàng hóa nước ngồi, nếu có, sẽ tuân thủ
đầy đủ các quy định của WTO về vấn đề này.
3.2.Thủ tục áp dụng biện pháp tự vệ
Khác với trường hợp các vụ kiện chống bán phá giá hay chống trợ cấp, WTO
khơng có nhiều quy định chi tiết về trình tự, thủ tục kiện áp dụng biện pháp tự vệ.
Tuy nhiên, Hiệp định về Biện pháp tự vệ của WTO có đưa ra một số các nguyên
tắc cơ bản mà tất cả các thành viên phải tuân thủ, ví dụ:
– Đảm bảo tính minh bạch (Quyết định khởi xướng vụ Điều tra tự vệ phải được
thông báo công khai; Báo cáo kết luận Điều tra phải được công khai vào cuối cuộc
Điều tra…)
– Đảm bảo quyền tố tụng của các bên (các bên liên quan phải được đảm bảo cơ hội
trình bày các chứng cứ, lập luận của mình và trả lời các chứng cứ, lập luận của đối
phương);
– Đảm bảo bí mật thơng tin (đối với thơng tin có bản chất là mật hoặc được các
bên trình với tính chất là thơng tin mật khơng thể được cơng khai nếu khơng có sự
đồng ý của bên đã trình thơng tin);
– Các Điều kiện về biện pháp tạm thời (phải là biện pháp tăng thuế, và nếu kết luận
cuối cùng của vụ việc là phủ định thì khoản chênh lệch do tăng thuế phải được
hoàn trả lại cho bên đã nộp; không được kéo dài quá 200 ngày…)
Ở Việt Nam, việc áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời do Bộ trưởng Bộ Công Thương

quyết định căn cứ vào kết luận sơ bộ của Cơ quan Điều tra trước khi kết thúc Điều
tra, nếu xét thấy việc chậm thi hành biện pháp tự vệ gây ra thiệt hại nghiêm trọng
hoặc đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng của ngành sản xuất trong nước và thiệt


hại đó khó có thể khắc phục về sau. Thời hạn áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời là
không quá 200 ngày kể từ ngày quyết định áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời có
hiệu lực.
Việc áp dụng biện pháp tự vệ chính thức được thực hiện như sau:
– Sau khi kết thúc Điều tra, Cơ quan Điều tra công bố kết luận cuối cùng về các
nội dung liên quan đến quá trình Điều tra qui định. Kết luận cuối cùng và các căn
cứ chính để ban hành kết luận cuối cùng phải được thông báo bằng phương thức
thích hợp cho các bên liên quan đến q trình Điều tra;
– Căn cứ vào kết luận cuối cùng của Cơ quan Điều tra, Bộ trưởng Bộ Công
Thương ra quyết định áp dụng hay không áp dụng biện pháp tự vệ chính thức;
– Thời hạn áp dụng biện pháp tự vệ, bao gồm cả thời gian áp dụng biện pháp tự vệ
tạm thời là không quá 04 năm, trừ trường hợp được gia hạn theo qui định;
– Tổng thời gian áp dụng biện pháp tự vệ, bao gồm cả thời gian áp dụng biện pháp
tự vệ tạm thời, biện pháp tự vệ chính thức và thời gian gia hạn là khơng q 10
năm. (Theo Luật Quản lí Ngoại thương năm 2017).
II.Thực tiễn sử dụng các biện pháp tự vệ ở một số nước và khu vực trên thế
giới .
Là một trong những thành viên sáng lập của WTO, Liên minh châu Âu (EU) đã
tham gia vào quá trình đàm phán các Hiệp định WTO liên quan đến phòng vệ
thương mại.
Các quy tắc của WTO được phản ánh trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
của EU về các nội dung trên. Luật Chống bán phá giá và Chống trợ cấp của EU
được ban hành lần đầu tiên vào năm 1968, đến nay đã qua nhiều lần sửa đổi.
Các quy định hiện hành, là cơ sở pháp lý cho các cuộc điều tra chống bán phá giá
và chống trợ cấp của EU, có hiệu lực lần lượt vào tháng 3/996 và tháng 10/1997 và

được hệ thống hóa vào năm 2016, bao gồm:
- Quy định số 2016/1036 của Nghị viện châu Âu và Hội đồng châu Âu về phòng
vệ thương mại trước hàng hóa nhập khẩu bị bán phá giá từ các quốc gia không phải
là thành viên của Liên minh châu Âu.
- Quy định số 2016/1036 của Nghị viện châu Âu và Hội đồng châu Âu về phòng vệ
thương mại trước hàng hóa nhập khẩu được trợ cấp từ các nước không phải là
thành viên của Liên minh châu Âu.


Các quy định trên được xem như là Quy định cơ sở về chống bán phá giá và chống
trợ cấp. Gần đây, các quy định này đã được sửa đổi bởi Quy định số 2017/2321
ngày 12/122017 và Quy định số 2018/825 ngày 30/52018.
Về biện pháp tự vệ, trên cơ sở các nguyên tắc của WTO, các quy định hiện hành
của EU về tự vệ bao gồm:
- Quy định 2015/478 của Nghị viện châu Âu và Hội đồng châu Âu ngày 11/3/2015
về các quy tắc chung đối với hàng nhập khẩu.
- Quy định 2015/755 của Nghị viện châu Âu và Hội đồng châu Âu ngày 29/4/2015
về các quy tắc chung đối với hàng nhập khẩu từ một số nước thứ ba.
- Quy định 2019/287 của Nghị viện châu Âu và Hội đồng châu Âu ngày 13/2/2019
về thực thi điều khoản tự vệ song phương và các cơ chế khác cho phép rút lại tạm
thời các ưu đãi trong các hiệp định thương mại được ký kết giữa EU và các nước
thứ ba.
Hai quy định đầu tiên được xem như Quy định cơ sở về tự vệ.
Số liệu thống kê của WTO cho thấy EU là một trong ba thành viên WTO đứng đầu
về số vụ điều tra chống bán phá giá (sau Ấn Độ và Hoa Kỳ), đứng thứ hai về số vụ
điều tra chống trợ cấp (sau Hoa Kỳ và trước Canada), tuy nhiên lại là thành viên ít
khởi xướng các cuộc điều tra tự vệ (từ năm 1995 đến nay chỉ có 6 cuộc điều tra tự
vệ trong khi nước khởi xướng nhiều nhất là Ấn độ với 46 vụ).
Xét riêng trong giai đoạn từ 2015 đến 2020, EU đã tiến hành 81 cuộc điều tra mới
liên quan đến chống bán phá giá, chống trợ cấp và điều tra tự vệ đối với hàng hóa

nhập khẩu từ 22 quốc gia.
Các mặt hàng bị điều tra nhiều nhất là: sắt và thép: 37 cuộc điều tra; Hóa chất và
sản phẩm liên quan: 20 cuộc điều tra.
III.Thực tiễn về biện pháp tự vệ thương mại ở Việt Nam trong thời gian qua
1.Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam trong những năm gần đây :
Theo số liệu vừa được Tổng cục Thống kê cơng bố, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu
tháng 6 ước tính đạt 17,8 tỷ USD, giảm 0,7% so với tháng trước, tăng 20,9% so với
cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu
ước tính đạt 97,8 tỷ USD, tăng 18,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó khu vực
kinh tế trong nước đạt 27 tỷ USD, tăng 13,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngồi


(kể cả dầu thô) đạt 70,8 tỷ USD, tăng 21%. Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng
hóa xuất khẩu 6 tháng tăng 12,9% so với cùng kỳ năm 2016.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 6 ước tính đạt 18 tỷ USD, giảm 2,5% so với
tháng trước và tăng 21,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm,
kim ngạch hàng hoá nhập khẩu đạt 100,5 tỷ USD, tăng 24,1% so với cùng kỳ năm
trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 39,9 tỷ USD, tăng 18,2%; khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài đạt 60,6 tỷ USD, tăng 28,3%. Nếu loại trừ yếu tố giá,
kim ngạch hàng hóa nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2017 tăng 17,3% so với cùng kỳ
năm trước.Cán cân thương mại hàng hóa tháng 6 ước tính nhập siêu 200 triệu
USD. Tính chung 6 tháng năm 2017, nhập siêu 2,70 tỷ USD, trong đó khu vực
kinh tế trong nước nhập siêu 12,92 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngồi (kể
cả dầu thơ) xuất siêu 10,22 tỷ USD.Về xuất nhập khẩu dịch vụ, kim ngạch xuất
khẩu dịch vụ 6 tháng đầu năm 2017 ước tính đạt 6,4 tỷ USD, tăng 7,1% so với
cùng kỳ năm trước. Trong đó, dịch vụ du lịch đạt 4,3 tỷ USD, chiếm 67,7% tổng
kim ngạch xuất khẩu và tăng 6,4%; dịch vụ vận tải đạt 1,2 tỷ USD, chiếm 19,5%
và tăng 8,8%.6 Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ ước tính đạt 8,2 tỷ USD, tăng 3,5%
so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, dịch vụ vận tải đạt 3,9 tỷ USD, chiếm 47,6%
tổng kim ngạch nhập khẩu và giảm 1,8%; dịch vụ du lịch đạt 2,4 tỷ USD, chiếm

29,1% và tăng 15,6%. Nhập siêu dịch vụ 6 tháng đầu năm 2017 ước tính đạt 1,8 tỷ
USD, bằng 27,3% kim ngạch xuất khẩu dịch vụ.
2. Giải pháp :
Trong trường hợp doanh nghiệp xuất khẩu gặp phải sự đối phó của phía nước ngồi
bằng biện pháp tự vệ thì các doanh nghiệp cần phải:
-Thứ nhất, cần phải có hiểu biết chung về biện pháp tự vệ là gì. Cần phải nhận biết
về sự tồn tại của nguy cơ bị kiện tại các thị trường xuất khẩu và cơ chế vận hành
của chúng, nhóm thị trường và mặt hàng thường bị kiện.
-Thứ hai, cần phải xây dựng chiến lược trong kinh doanh một cách cụ thể và bài
bản. Cần phải tính đến khả năng bị kiện khi xây dựng chiến lược xuất khẩu hàng
hoá của mình để có kế hoạch chủ động phịng ngừa và xử lý khi khơng phịng ngừa
được, ví dụ đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, tránh phát triển quá nóng một thị
trường, tăng cường cạnh tranh bằng chất lượng, tiến tới giảm dần cạnh tranh bằng
giá rẻ…
-Thứ ba, tích cực hợp tác khi vụ kiện xảy ra. Phối hợp, liên kết với các doanh
nghiệp có cùng mặt hàng xuất khẩu để có chương trình, kế hoạch đối phó chung


đối với các vụ kiện có thể xảy ra; sử dụng các chuyên gia tư vấn và luật sư trong
những tình huống cần thiết và thích hợp; giữ liên hệ với cơ quan quản lý nhà nước
về thương mại để các cơ quan này có tiếng nói bảo vệ quyền lợi tốt hơn cho doanh
nghiệp, kể cả việc đàm phán các hiệp định có cam kết khơng áp dụng hoặc hạn chế
áp dụng biện pháp tự vệ đối với hàng hoá của nhau, bày tỏ quan điểm đối với các
nước áp dụng biện pháp tự vệ đối với hàng hoá của Việt Nam, yêu cầu có bồi
thường quyền lợi thương mại khi có việc nước khác áp dụng biện pháp tự vệ.

KẾT LUẬN
Các biện pháp tự vệ thương mại là công cụ bảo hộ được thừa nhận rộng rãi và đang
ngày càng được sử dụng một cách phổ biến trong hoạt động thực tiễn thương mại
các nước. Ở Việt Nam tuy vấn đề tự vệ thương mại còn khá mới mẻ và còn nhiều

bất cập trong việc vận dụng cơ chế tự vệ nhưng bước đầu chúng ta đã làm được
một số vấn đề quan trọng. Chúng ta đã từng bước xây dựng cho mình khn khổ


pháp lí , có những sự chuẩn bị cần thiết xét trên khía cạnh quản lý nhà nước cũng
như nỗ lực nâng cao nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp về tự vệ thương mại.
Trong thời gian tới chúng ta cần tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được nhằm
tăng cường áp dụng các biện pháp này. Tuy nhiên bản thân các biệnpháp tự vệ
thương mại cũng có những hạn chế nhất là khi chúng ta áp dụng khơng phù hợp
với hồn cảnh , tình huống , thời gian , phạm vi mức độ. Do vậy , trong quá trình
áp dụng cần giới hạn những tác động tiêu cực không mong muốn để tư vấn thương
mại trở thành cơng cụ hữu ích để Việt Nam hộp nhập sau hơn rộng hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình luật thương mại quốc tế
2.Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2016
3.



×