Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

môn quan hệ quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.25 KB, 15 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC II

BÀI THU HOẠCH
LỚP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
HỆ KHƠNG TẬP TRUNG
C17 BÌNH PHƯỚC 2020

TÊN MƠN HỌC:
GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
TÊN BÀI THU HOẠCH:
VỀ XU HƯỚNG QUAN HỆ QUỐC TẾ HIỆN NAY, DỰ BÁO TRONG MƯỜI NĂM TỚI

ĐIỂM TRUNG BÌNH CHUNG
Bằng số

Bằng chữ

BÌNH PHƯỚC, NĂM 2022


1

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................................................2
DẪN NHẬP......................................................................................................................................... 3
PHẦN A. XU HƯỚNG QUAN HỆ QUỐC TẾ HIỆN NAY...............................................................4
I. Cạnh tranh quyền lực giữa hai siêu cường Mỹ-Trung ngày càng căng thẳng.................................. 4
II. Sự “trỗi dậy” của các quốc gia trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương- tiêu điểm quan tâm của
các cường quốc hiện nay......................................................................................................................7
1. Châu Á - Thái Bình Dương - tiêu điểm quan tâm của các cường quốc...........................................7


1.1. Mỹ........................................................................................................................................8
1.2. Nga.......................................................................................................................................8
2. Sự “trỗi dậy” của các quốc gia trong khu vực Châu Á- Thái Bình Dương......................................9
2.1. Trung Quốc.......................................................................................................................... 9
2.2. Ấn Độ.................................................................................................................................10
PHẦN B. DỰ BÁO QUAN HỆ QUỐC TẾ TRONG THỜI GIAN TỚI...........................................13
I. Xu thế hịa bình-hợp tác và phát triển.............................................................................................13
II. An ninh ở các “khu vực nóng” và mối quan hệ giữa các nước lớn............................................... 13
III. Cơ hội và thách thức cho Việt Nam............................................................................................. 15
1. Cơ hội.............................................................................................................................................15
2. Thách thức......................................................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................................16


2

PHẦN MỞ ĐẦU
Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, quan hệ quốc tế diễn ra khá phức tạp, quan hệ
giữa các nước trên trường quốc tế đã có những thay đổi rõ ràng: từ xu thế hai cực sang
xu thế đa cực, hình thành nên một “trật tự thế giới mới”. Trong “trật tự thế giới mới”
đó, những tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật làm cho mọi lĩnh vực của đời sống
luôn trong trạng thái thay đổi nhanh chóng, nhân tố mới xuất hiện ngày càng nhanh và
nhiều khiến cho rất nhiều quan niệm cũ bị phá vỡ hoặc cần phải xem xét lại, nhiều
quan niệm về địa lí - kinh tế, chính trị truyền thống,... trở nên lỗi thời và được thay thế
bằng những quan niệm mới. Tất cả những điều đó địi hỏi các quốc gia phải nhận diện
đúng xu thế và các nhân tố mới đang quyết định tiến trình phát triển của thế giới
đương đại, thay đổi nhận thức về các giá trị và lợi ích cho phù hợp với trật tự thế giới
mới. Nền kinh tế cũng như các lĩnh vực khác của các quốc gia ngày càng bị tác động
và chi phối mạnh mẽ bởi q trình tồn cầu hóa. Sự phát triển mạnh mẽ của tồn cầu
hóa làm cho tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày một tăng lên, và thế giới

dường như thu hẹp lại trước những vấn đề tồn cầu như: biến đổi khí hậu, bùng nổ dân
số, dịch bệnh hay khủng hoảng. Cơ hội và thách thức của quá trình này khiến các quốc
gia phải có những sự điều chỉnh mang tính chiến lược nhằm đảm bảo lợi ích quốc gia
trên cơ sở vẫn theo kịp xu hướng của thế giới hiện nay. Sự cân bằng giữa bảo hộ mậu
dịch và hội nhập được cho là một trong những sự điều chỉnh cần thiết của các quốc gia
đặc biệt là Mỹ. Ở một khía cạnh khác, trong suốt nhiều năm qua, Châu Á- Thái Bình
Dương đang trở thành một mối quan tâm chung của thế giới, nơi diễn ra sự cạnh tranh
và chạy đua khốc liệt của các nước lớn cùng với sự trỗi dậy của các quốc gia trong một
thế giới đa cực hiện nay. Trong bối cảnh trên, Châu Á- Thái Bình Dương đang đối mặt
với những cơ hội và thách thức to lớn và đặc biệt ảnh hưởng đến xu hướng quan hệ
quốc tế hiện tại và trong những năm tới. Thêm vào đó, quan hệ Mỹ- Trung- quan hệ
của những “tay chơi” chủ chốt của trật tự thế giới mới đang có những bước thay đổi
đáng kể và nó sẽ tác động khơng nhỏ đối với tình hình chính trị quốc tế của thế kỷ
XXI. Một mặt, Mỹ và Trung Quốc đã và đang có những bước phát triển cả về chiều
rộng lẫn chiều sâu trên nhiều lĩnh vực, đáng nhắc đến là lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên
ở một khía cạnh khác, khi bàn về lợi ích chiến lược giữa hai nước và việc thực hiện ý
đồ tranh giành ảnh hưởng, tập hợp lực lượng trong khu vực và trên thế giới để kiềm
chế lẫn nhau luôn là nguy cơ châm ngòi nổ cho sự căng thẳng trong quan hệ MỹTrung, điển hình là sự tương tác phức tạp của hai nước lớn trong khu vực Châu ÁThái Bình Dương. Có thể nhận thấy mọi sự biến đổi dù lớn hay nhỏ của cục diện thế
giới đều tác động trực tiếp đến các mối quan hệ quốc tế, từ đó làm thay đổi tư duy phát
triển và dẫn đến việc điều chỉnh chính sách của các quốc gia. Vì vậy cục diện thế giới,
cục diện khu vực và sự vận động của nó hiện nay cũng như trong thời gian tới cần
được nhận định và đánh giá kịp thời và nhanh chóng để gợi mở những suy nghĩ trong
việc nghiên cứu và hoạch định chiến lược đối ngoại cũng như chiến lược phát triển của
các quốc gia.



PHẦN A. XU HƯỚNG QUAN HỆ QUỐC TẾ HIỆN NAY
I. Cạnh tranh quyền lực giữa hai siêu cường Mỹ-Trung ngày càng căng thẳng
Quan hệ Mỹ- Trung trong thời gian gần đây diễn biến rất phức tạp, quan hệ giữa hai nước vẫn

luôn đan cài các mặt hợp tác-kiềm chế và phối hợp-cạnh tranh. Tuy nhiên, là dù cho ở bất kỳ hồn
cảnh nào thì quan hệ Mỹ-Trung vẫn tránh dẫn tới sự đối đầu và đổ vỡ quan hệ, tổn hại trực tiếp đến
chính bản thân của hai nước. Ngồi ra hiện nay cũng như trong tương lai lâu dài, nhân loại đang
phải đối phó với hàng loạt vấn đề nghiêm trọng như thiên tai, bệnh dịch, ô nhiễm môi trường, khủng
bố quốc tế hay phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, vấn đề an ninh phi truyền thống,... mà Mỹ và
Trung Quốc là hai siêu cường có lợi ích lớn trong các vấn đề này nên việc hai nước thúc đẩy quan
hệ hợp tác giữ vị trí vơ cùng quan trọng để giải quyết các thách thức trên.
Trong quan hệ kinh tế thương mại và đầu tư giữa hai nước Mỹ-Trung, tâm điểm hiện nay trong
lĩnh vực đầu tư là cuộc thương lượng giữa hai nước về Hiệp định Đầu tư song phương(BIT)- gắn với
ý tưởng về mô hình ‘mối quan hệ nước lớn kiểu mới” của Mỹ-Trung nhắm tới việc cải cách nền kinh
tế ở Trung Quốc phối hợp với việc Mỹ ưu tiên mở cửa thị trường dịch vụ cho đầu tư nước ngồi. Bên
cạnh đó là sự cạnh tranh liên quan đến các ý tưởng khác nhau về thương mại tự do bao gồm WTO,
Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện(RCEP), khu vực Mậu dịch tự do châu Á- Thái Bình
Dương(FTAAP) và TPP trong bối cảnh màu sắc của chủ nghĩa thương mại bảo hộ đang ngày càng
đậm nét ở Mỹ. Trung Quốc nghi ngờ Mỹ sử dụng TPP như một cơng cụ chính sách để kìm hãm
Trung Quốc và để đối trọng lại thì Trung Quốc cũng đẩy mạnh các sáng kiến như RCEP và FTAAP.
Trong thời gian gần đây chúng ta dễ nhận thấy một cuộc chiến tranh thương mại giữa Hoa Kỳ và
Trung Quốc đang dần được hình thành và có xu hướng nóng dần lên. Cuộc xung đột căng thẳng này
khởi nguồn từ sự không công bằng trong thực tiễn thương mại của Trung Quốc với xu hướng bảo hộ
thương mại mà Donald Trump đang áp lên nước Mỹ.


5

Trong quan hệ chính trị song phương, cả Mỹ và Trung Quốc đều chú trọng tăng cường quan hệ hợp
tác và hữu nghị giữa hai nước. Tính đến nay Mỹ-Trung đã thiết lập được trên 90 cơ chế hợp tác, trao đổi
thông tin và xử lý bất đồng nên về cơ bản hai bên đã tránh được đổ vỡ quan hệ, nổi bật nhất là cơ chế Đối
thoại Chiến lược và Kinh tế Mỹ-Trung(S&ED). Theo thống kê, đã có 196 nội dung được hai nước Mỹ và
Trung Quốc đưa ra trao đổi sau bảy vòng họp S&ED từ năm 2009-2015 gồm bảy nhóm vấn đề chính như
là xây dựng lịng tin, các vấn đề tồn cầu, tình hình khu vực, an ninh, an toàn hàng hải, hợp tác kinh tế,

4
nhân quyền, và hợp tác quân sự song phương. Cựu ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã từng phát biểu
"quan hệ Mỹ-Trung không phải là mối quan hệ phân rõ trắng đen, bạn thù mà hai bên cùng nhau xây
dựng hình mẫu, cố gắng tìm được sự cân bằng ổn định giữa hợp tác và cạnh tranh mà hai bên đều có thể
5
chấp nhận được, tuy đây là điều chưa có tiền lệ”. Khơng gian hợp tác trong các vấn đề tồn cầu từ lĩnh
vực an ninh năng lượng,biến đổi khí hậu đến chống lại khủng bố hay an ninh mạng và không gian mạng
giữa Mỹ và Trung Quốc rất rộng lớn. Đài Loan vẫn tiếp tục là một điểm phức tạp trong quan hệ MỹTrung. Hiện nay với mong muốn khẳng định vị trí cường quốc và tiến tới là siêu cường thì Trung Quốc
buộc phải giải quyết ổn thỏa vấn đề Đài Loan. Theo chính sách “Một Trung Quốc” của mình thì Bắc
Kinh coi Đài Loan là một phần khơng thể tách rời, đang chờ thống nhất và kể cả việc phải dùng đến vũ
lực để thống nhất khu vực nếu cần thiết. Về phía Mỹ, để “xoay trục” sang Châu Á thành cơng, Mỹ cũng
khơng thể bỏ vị trí địa chiến lược quan trọng của Đài Loan. Quan hệ Trung-Mỹ vốn được củng cố thông
qua ba thông cáo báo chí chung( được nhất trí vào các năm 1972, 1979 và 1982), theo đó thì Mỹ đã “thừa
nhận” nhưng khơng công khai chấp nhận lập trường của Trung Quốc rằng chỉ có “Một Trung Quốc” và
Đài Loan là một phần của Trung Quốc. Mỹ sẽ vẫn duy trì mối quan hệ “khơng chính thức”với Đài Loan,
cả với “người dân Đài Loan” và những người trong chính quyền Đài Loan, điển hình là sự thơng qua một
thực thể giống như sứ quán- Học viện Mỹ ở Đài Loan nhờ việc đưa ra “Đạo luật quan hệ” với khu vực
này từ năm 1979. Đạo luật đưa ra tuyên bố là quan hệ giữa Washington và Bắc Kinh được thiết lập dựa
trên mong đợi rằng tương lai của Đài Loan sẽ được định rõ bằng các biện pháp hịa bình. Để thúc đẩy
nguyện vọng đó, Mỹ sẽ bán vũ khí mang tính phịng thủ cho Đài Loan và duy trì khả năng quân sự để
6
chống lại sự ép buộc của Trung Quốc. Một mặt thì Mỹ vẫn xoa dịu trong mối quan hệ với Trung Quốc
tuy nhiên mặt khác Mỹ vẫn cam kết sẽ bảo vệ Đài Loan và tiếp tục bán các gói vũ khí cho đất nước này
như việc Washington bán công nghệ tàu ngầm cho Đài Loan gần đây, dù Mỹ khơng ủng hộ Đài Loan độc
lập vì quan ngại điều này sẽ gây ra tình trạng căng thẳng hai bờ và dễ dàng đẩy Mỹ vào thế tiến thoái
lưỡng nan. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy một khả năng rất thực tế là Mỹ có thể sẽ lợi dụng lá bài
Đài Loan theo cách có nguy cơ gây ra xung đột quân sự với Trung Quốc. Trong cuộc điện đàm với người
đồng nhiệm là Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình vào hơm 9/2/2017, tổng thống Mỹ Donald Trump đã
đồng ý tơn trọng chính sách “Một Trung Quốc”( Chỉ có một Trung Quốc trên thế giới và Đài Loan là một
phần của Trung Quốc). Đây được coi là nền tảng chính trị nhằm gia tăng sự ấm nồng và phát triển trong

quan hệ Mỹ-Trung. Tuy nhiên chỉ với động thái là nhà lãnh đạo Đài Loan Thái Anh Văn vào ngày
14/8/2018 có bài phát biểu lần đầu tại Los Angeles sau 15 năm được cho là đã khiến cho Trung Quốc rất
tức giận và ngay sau đó Mỹ đã phải khẳng định là vẫn khơng có bất kỳ thay đổi nào trong việc bày tỏ sự
tôn trọng đối với chính sách “Một Trung

3


Quốc”. Một động thái khác được ghi nhận là vào ngày 16/3/2018 vừa qua, tổng thống Donald Trump
vừa ký ban hành “Đạo luật đi lại Đài Loan”, đạo luật này được đánh giá là sẽ làm thay đổi đáng kể
chính sách của Mỹ với lớp vỏ bọc chính trị bên ngoài, thắt chặt hơn mối quan hệ Mỹ-Đài Loan và
đương nhiên cách làm này sẽ khiến cho Trung Quốc vô vùng tức giận.
Trong bối cảnh diễn biến phức tạp ở Trung Đông và cuộc khủng hoảng Ucraina, đã dẫn đến
những xung đột căng thẳng trong quan hệ Mỹ- Nga thì đã khuyến khích Mỹ cân nhắc đến ý tưởng
7
mơ hình này và hạn chế căng thẳng với Trung Quốc . Gần đây Trung Quốc đưa ra một loạt sáng kiến
để thực hiện Chiến lược “cường quốc biển” thông qua các động thái trên biển Đông và biển Hoa
Đông và cả việc hiện thực hóa “Giấc mộng Trung Hoa” như Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng Châu
Á(AIIB) hay Con đường tơ lụa trên biển(“Một vành đai, Một con đường”) đã khiến Mỹ tỏ ra vô cùng
lo ngại trước ý đồ của Trung Quốc là muốn xây dựng một trật tự thế giới mới với vai trò là trung tâm
tương xứng với thế và lực của bản thân về lâu dài và đây như là lời thách thức nhằm đảo lộn trật tự
hiện hành. Triều Tiên có vai trị quan trọng trong quan hệ Mỹ-Trung. Đối với Mỹ, vấn đề ở bán đảo
Triều Tiên liên quan đến các trụ cột của trật tự khu vực bao gồm không phổ biến vũ khí hủy diệt hàng
loạt, bảo vệ đồng minh Hàn Quốc và Nhật Bản, duy trì sự ổn định và phát triển kinh tế khu vực Đơng
Bắc Á. Về phía Trung Quốc thì từ trước đến nay vẫn giữ vai trị là “người hỗ trợ chính” cho Triều
Tiên cả về đối nội và đối ngoại để xây dựng “cơ chế hịa bình lâu dài và bền vững” của Cộng hịa dân
chủ nhân dân Triều Tiên, nhất là vấn đề giải trừ hạt nhân ở Triều Tiên theo cơ chế phá hủy hồn tồn,
có thể kiểm chứng và khơng thể đảo ngược (gọi tắt là CVID) và vấn đề “thống nhất hai miền” trên
bán đảo Triều Tiên. Trong vấn đề Biển Đông và biển Hoa Đông, cả Mỹ và Trung Quốc đều đang cố
gắng quản lý để tránh tình trạng leo thang căng thẳng ngồi tầm kiểm sốt trong mối quan hệ và dẫn

đến xung đột quân sự. Mỹ với chính sách “Tái cân bằng” đang nỗ lực tăng cường sự hiện diện qn
sự ở khu vực này, tích cực thơng qua các diễn đàn khu vực, hợp tác với các nước đồng minh và liên
kết với các đối tác để ngăn chặn tham vọng của Trung Quốc trên Biển Đông. Về phía Trung Quốc,
Bắc Kinh vẫn sẽ triển khai mạnh mẽ chiến lược “cường quốc biển”, kiên quyết đưa ra các biện pháp
cứng rắng để bảo vệ lợi ích cốt lõi của mình và loại trừ sự can thiệp của Mỹ ở biển Đông. Trung
Quốc chọn Biển Đông làm hướng đột phá trong quá trình “trỗi dậy” mạnh mẽ của mình và tăng
cường các hoạt động đơn phương ở Biển Hoa Đông, nổi trội là các hành động như đưa giàn khoan
HD-981 vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam(5/2014) , thực hiện tiến trình cải tạo
đảo/đá quy mô lớn, phá vỡ nguyên trạng của biển Đông(2014). Mỹ nâng cao mức độ chỉ trích Trung
Quốc, tăng cường phối hợp với các nước Đông Á để tập hợp lực lượng phản đối các hành vi của
Trung Quốc trong các diễn đàn đa phương, đồng thời cũng tăng cường hợp tác quân sự với các nước
đồng minh và các nước trong khu vực để chống lại các hành động đơn phương của Trung Quốc làm
phức tạp tình hình và cưỡng ép các nước láng giềng,...Mỹ có những động thái can dự nhiều hơn, trực
tiếp hơn, triển khai một số biện pháp quân sự với hàm ý răn đe như cho tàu khu trục USS Fort Worth
và máy bay trinh sát P8-A tiến sát tới khu vực các đảo mà Trung Quốc tơn tạo. Khu vực Châu ÁThái Bình Dương ngày càng trở thành tâm điểm cạnh tranh trong chiến lược của Mỹ-Trung: đối với
Mỹ thì đây là bộ phận cấu thành quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ và kể từ sau Chiến
tranh thế giới thứ hai đến nay Mỹ vẫn giữ vai trò chủ đạo trong khu vực, cịn đối với Trung Quốc thì
khu vực này nằm trong tầm


7
8

“ảnh hưởng” và thuộc một trong các trụ cột chính sách chủ yếu của Trung Quốc. Việc “trỗi dậy” của
Trung Quốc cũng đang đánh dấu sự giảm sút vị trí và ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực này. Mỹ đẩy
mạnh xây dựng thái độ tích cực bằng cách tham gia vào các cơ chế khu vực để nâng tầm và duy trì
ảnh hưởng ở Châu Á-Thái Bình Dương như tham gia vào Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác Đông
9
Nam Á(2009) , Hội nghị Cấp Cao Đông Á EAS,..Mục tiêu chiến lược của Trung Quốc đã được xác
định rõ là coi Châu Á là khu vực ảnh hưởng trực tiếp, là cơ sở quyền lực để Trung Quốc mở rộng ảnh

hưởng ra các khu vực khác “vững chân ở Châu Á, vươn ra thế giới”. Thứ nhất là xét về khu vực
Đơng Bắc Á thì Mỹ có những lợi ích chiến lược quan trọng ở khu vực này và có hai đồng minh quan
trọng là Nhật Bản và Hàn Quốc, trong thời gian gần đây với sự “trỗi dậy”mạnh mẽ của Trung Quốc
đã vượt mặt Nhật Bản và trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới đã có tác động sâu sắc tới cục diện
khu vực. Chính vì lẽ đó Hàn Quốc và Nhật Bản đã có những điều chỉnh quan trọng trong đối sách
của mình: một mặt là sẽ vẫn duy trì quan hệ Mỹ-Hàn, Mỹ-Nhật tuy nhiên mặt khác cũng sẽ đẩy
mạnh ý tưởng thành lập cộng đồng Đông Á gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc để tránh tình
trạng hai nước bị kẹt giữa Mỹ và Trung Quốc. Đối với việc giải quyết các điểm nóng, tranh chấp hiện
tại như tranh chấp lãnh thổ Nhật-Trung, vấn đề hạt nhân Triều Tiên và vấn đề Đài Loan cũng sẽ ảnh
hưởng nhất định đến không chỉ sự tương tác trong quan hệ Mỹ-Trung và còn ảnh hưởng đến cả hịa
bình và ổn định của khu vực. Thứ hai là xét về khu vực Đông Nam Á, đây là khu vực có thể nói là
chịu tác động rõ rệt nhất của cặp quan hệ Mỹ-Trung. Các nhà hoạch định chiến lược của Trung Quốc
coi khu vực này là “sân sau”của mình, khu vực ảnh hưởng truyền thống và là một ưu tiên trong chính
sách ngoại giao của Trung Quốc. Thông qua nhiều biện pháp tổng hợp về chính trị, kinh tế, đầu tư,
viện trợ, Trung Quốc đã thúc đẩy quan hệ với các nước ASEAN toàn diện và thực chất hơn như xây
dựng cơ chế đối thoại và hiệp thương định kỳ nhiều cấp( ASEAN+1, ASEAN+3,Uỷ ban hợp tác liên
hợp, ký Tuyên bố chung về ứng xử Biển Đơng(DOC). Trung Quốc cịn dần hình thành và nâng cấp
quan hệ đối tác chiến lược với các nước khu vực Đơng Nam Á ở các hình thức khác nhau và Trung
Quốc được xem là đầu tàu thúc đẩy kinh tế khu vực phát triển, duy trì sự ổn định tài chính-tiền tệ
trong bối cảnh biến động phức tạp của kinh tế thế giới. Về phía Mỹ thì Mỹ sẽ ưu tiên đưa việc nâng
tầm quan hệ với các nước ở khu vực Đơng Nam Á vào chính sách đối ngoại của mình, thể chế hóa từ
nay đến năm 2020. Tuy nhiên ở khu vực Đông Nam Á cũng sẽ “nóng hơn” với sự va chạm lợi ích và
căng thẳng Mỹ-Trung trong các vấn đề ở biển Đông, vấn đề quan hệ đối tác xuyên Thái Bình DươngTPP hay là việc Mỹ tham gia vào EAS(Cộng đồng Đơng Á),...Nói tóm lại với khu vực phát triển
năng động nhất thế giới Châu Á-Thái Bình Dương thì va chạm lợi ích và sự cạnh tranh ảnh hưởng
giữa hai cường quốc Mỹ-Trung là hết sức gay gắt thế nhưng cả hai nước đều sẽ nỗ lực xây dựng một
khuôn khổ hợp tác an ninh để giảm thiểu các tác động tiêu cực và cân bằng kiềm chế lẫn nhau.

II.Sự “trỗi dậy” của các quốc gia trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương- tiêu điểm
quan tâm của các cường quốc hiện nay
1. Châu Á - Thái Bình Dương - tiêu điểm quan tâm của các cường quốc

10

Châu Á - Thái Bình Dương bao gồm một khu vực rộng lớn với khoảng gần 40 nước và lãnh thổ ,
chiếm 44% dân số thế giới. Cả năm nước lớn Mỹ, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc, Ấn Độ đều nằm ở khu


8

vực và lợi ích của họ đan xen nhau rất phức tạp. Mối quan hệ giữa các nước lớn này có ảnh hưởng
rất lớn đến tình hình an ninh, chính trị và kinh tế ở Châu Á-Thái Bình Dương. Hiện nay, khu vực
Châu Á-Thái Bình Dương tiếp tục là điểm sáng trong xu hướng phục hồi kinh tế toàn cầu cũng như
dẫn dắt tiến trình liên kết, hội nhập kinh tế khu vực. Các điểm nóng khu vực như biển Đơng, biển
Hoa Đơng có chiều hướng diễn biến phức tạp hơn do có sự can dự ngày càng sâu sắc của các nước
lớn. Tình hình trên cho thấy sự mất cân đối giữa một bên là xu thế hợp tác, liên kết kinh tế khu vực
với một bên là cạnh tranh về an ninh-chiến lược ở Châu Á- Thái Bình Dương, có thể gây những tác
động trái chiều đối với khu vực nói chung

1.1. Đối với Mỹ
Chính sách “ xoay trục” sang Châu Á nhiều khả năng sẽ là một di sản được nhiều người nhắc tới
trong số những thành tựu chính sách đối ngoại của tổng thống Obama. Chính sách này đã đem đến
cho các nước Châu Á một đối trọng với ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực.
Thế nhưng tương lai của chính sách này lại vô cùng bấp bênh. Ngày 8/11/2016, Donald Trump đã
đắc cử và trở thành tổng thống thứ 45 của Mỹ, ngay sau đó ơng đã đảo ngược nền móng của một số
chính sách của chính quyền tiền nhiệm trong đó có cả vấn đề về Châu Á- Thái Bình Dương, tuy
nhiên các động thái của Trump cho thấy ông vẫn tiếp tục duy trì chính sách “xoay trục” sang Châu Á,
thế nhưng ông đã đề cập đến một thuật ngữ mới “Ấn Độ- Thái Bình Dương”(Indo-Pacific). “Ấn Độ Thái Bình Dương” bắt đầu được chú ý đặc biệt khi Donald J. Trump mở đầu bài phát biểu của mình
tại Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) Đà Nẵng tháng 11/2017 bằng việc
bày tỏ sự vinh hạnh được “hiện diện tại Việt Nam - trái tim của khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình
Dương.” Trong suốt chuyến cơng du Châu Á dài gần hai tuần của mình, Tổng thống Trump đã liên
tục sử dụng thuật ngữ này như có hàm ý về chiến lược mới của Mỹ ở khu vực vốn thường được biết

đến là Châu Á - Thái Bình Dương (Asia - Pacific). Thuật ngữ “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương” đã
ra đời như là một tầm nhìn chiến lược mới trong khu vực.

1.2. Đối với Nga
“Nga là cường quốc quan trọng ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Sau khi Chiến tranh
Lạnh kết thúc, các nhà phân tích phương Tây có khuynh hướng đánh giá khơng đúng tầm quan trọng
của Nga đối với hịa bình và an ninh khu vực này. Chiến lược “Xoay trục sang châu Á” của Moskva
không kém phần quan trọng hơn so với của Mỹ, nhất là khi mối quan hệ Nga-Trung đang được cải
1
thiện nhanh chóng.”
Nước Nga đi theo đường lối kiên quyết tăng cường vị thế của mình ở khu vực châu Á- Thái
Bình Dương, thúc đẩy hội nhập với đời sống kinh tế, chính trị khu vực. Ngoại trưởng Nga Lavrov
nêu rõ: “Chúng tôi đặc biệt coi trọng phát triển quan hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc và Ấn Độ,
tăng cường hợp tác đa phương với Nhật Bản, Hàn Quốc, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) và các quốc gia Châu Á – Thái Bình Dương khác”. Nga trước hết là sử dụng tiềm năng
khu vực để nâng cao phát triển vùng Siberia và Viễn Đông, tăng cường hợp tác khu vực trong vấn đề
chống khủng bố và bảo vệ an ninh quốc gia. Chiến lược thúc đẩy chính sách đối ngoại thơng qua hợp
tác quốc phịng tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương hiện nay là một bước ngoặt của Nga, nước
trước đây vốn chỉ quan tâm tới châu Âu và Trung Đông. Động lực tạo nên bước ngoặt này là việc thị
trường vũ khí châu Á đang phát triển mạnh, trong khi nhu cầu từ các thị trường khác giảm sút. Chính


9

sách ngoại giao Nga xoay trục sang châu Á còn do các biện pháp trừng phạt của phương Tây sau
khi nước này sáp nhập bán đảo Crimea và can thiệp quân sự vào Syria.
Nga khẳng định là sẽ “hành động nhiều hơn nữa” cho dù Nga đã có “những lập trường đủ vững
vàng” trong các tổ chức khác nhau của Châu Á - Thái Bình Dương. Minh chứng là Nga hiện đang
tham gia hợp tác với một số tổ chức thuộc khu vực châu Á - Thái Bình Dương với những hình thức
và mục đích khác nhau. Giới phân tích quốc tế cho rằng, đây là thời điểm thích hợp nhất để Nga thể

hiện vị thế và vai trò của mình trong khu vực phát triển năng động nhất của thế giới trong thế kỷ
12
XXI. Hiện nay trong tình hình căng thẳng giữa Nga và các nước phương Tây thì việc tăng cường
và phát triển quan hệ của Nga với các nước ở châu Á- Thái Bình Dương được xem là một trong
những bước đi cần thiết và quan trọng cho Nga để cân bằng lực lượng trong cuộc đối đầu căng thẳng
này. "Nga không muốn Trung Quốc hoặc Mỹ thống trị khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Thay vào
đó, họ muốn một mơi trường an ninh đa cực, đề phòng khả năng Trung Quốc đẩy họ khỏi khu vực
khi trở nên quá mạnh ", chuyên gia Bobo Lo, cựu giám đốc chương trình Nga và Trung Quốc ở Viện
Chatham của Anh nhận định. Lợi ích của Nga có vẻ phù hợp với mục tiêu của nhiều nước trong khu
vực, cũng như với đối tác lâu đời là Ấn Độ. "Nga không ảo tưởng trở thành cường quốc quân sự lớn
ở Thái Bình Dương. Tuy nhiên, nếu muốn được coi là cường quốc toàn cầu thực sự, họ cần tăng
cường hiện diện ở châu Á trước tiên", chuyên gia Lo nhấn mạnh.

2. Sự “trỗi dậy” của các quốc gia trong khu vực Châu Á- Thái Bình Dương
Nếu thế kỷ XIX có thể được xem là “thế kỷ của nước Anh” và thế kỷ XX là “thế kỷ của
nước Mỹ” thì thế kỷ XXI có thể được xem là “thế kỷ của Châu Á”. Sự trỗi dậy mạnh mẽ của các
quốc gia châu Á đang ngày càng biến châu Á trở thành điểm sáng của thế giới và hứa hẹn một “trật
tự thế giới mới” đang được mầm mống hình thành
2.1. Đối với Trung Quốc
“Khơng cịn nghi ngờ gì nữa, sự trỗi dậy của Trung Quốc sẽ trở thành một trong những vở kịch
nổi bật của thế kỷ 21. Sự phát triển kinh tế phi thường và chính sách ngoại giao linh hoạt của Trung
Quốc đã tạo bước biến chuyển cho khu vực Đông Á, và những thập niên trong tương lai sẽ chứng
13
kiến quyền lực và ảnh hưởng của Trung Quốc gia tăng mạnh mẽ hơn.”
Trung Quốc đang thực hiện tốt mục tiêu trở thành cường quốc toàn cầu của mình. Xét về kích
thước, nền kinh tế Trung Quốc đã lớn lên gấp 4 lần tính từ thời điểm ban hành chính sách cải cách thị
trường những năm cuối thập niên 1970 và ước tính sẽ được nhân đôi vào thập niên tiếp theo. Năm
2017, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc cho biết “kho dự trữ ngoại hối lớn nhất thế giới” đạt mức
14
3,14 nghìn tỷ USD. Về chính trị và an ninh - quân sự, mặc dù Trung Quốc luôn trấn an dư luận

bằng việc đưa ra thơng điệp “sức mạnh mềm” và sự “trỗi dậy hịa bình”, sẽ khơng làm phương hại
đến tình hình an ninh của khu vực cũng như tồn cầu, nhưng cũng khơng thể phủ nhận được sự gia
tăng sức mạnh quân sự và chính trị của Trung Quốc trong những năm gần đây luôn là nỗi “ám ảnh”
của rất nhiều quốc gia. Bên cạnh đó, Trung Quốc là quốc gia sở hữu hạt nhân trên thế giới, tiềm lực
quân sự ngày càng vượt trội với chi phí ngân sách tăng cao trong những năm gần đây cũng khiến thế
giới trở nên lo ngại. Chính sách ngoại giao của Bắc Kinh có tác động khơng chỉ ở khu vực Châu ÁThái Bình Dương mà còn vươn ra cả khu vực châu Phi, Mỹ Latinh và Trung Đông. Trung Quốc ngày
càng tỏ ra quyết đốn hơn trong việc bảo vệ các lợi ích quốc gia của minh, ̀ đẩy mạnh triển khai chính
sách đối ngoại dựa trên hai trụ cột là “ngoại giao nước lớn” và “ngoại giao láng giềng”. Trung Quốc
đang tiếp tục tập trung vào việc xây dựng “Cộng đồng nhân loại cùng chung vận mệnh”, thúc


10

đẩy sáng kiến “Vành đai, con đường” và đặc biệt là khẳng định việc ủng hộ, thúc đẩy xu hướng tự do
hóa thương mại và xu thế tồn cầu hóa.

2.2. Đối với Ấn Độ
Là một nền văn minh có nguồn gốc lâu đời, những giá trị văn hóa Ấn Độ từ rất sớm đã thơng
qua q trình giao lưu, tiếp biến mà trở thành một bộ phận của Châu Á. Đáng chú ý là sự “trỗi dậy”
của Ấn Độ được đặt trong bối cảnh cạnh tranh về một cuộc chạy đua đường dài với Trung Quốc.
Trước một láng giềng giàu tiềm năng và tham vọng, Ấn Độ đã chú trọng đến kết quả thay vì quá
trình. Ấn Độ cũng thẳng thắn thừa nhận thực tế kết hợp với một tầm nhìn tương lai rằng “ Trung
16
Quốc đã thắng trong cuộc đua nước rút, còn chúng ta sẽ thắng trong cuộc chạy đường dài”.
Về chính trị, Ấn Độ gia tăng ảnh hưởng với tư cách là một “ cường quốc ôn hịa”, khẳng định
sự “trỗi dậy” của mình trên cơ sở những ý tưởng hịa bình và bền vững. “Chính sách hướng Đông”
và sau này là “ hành động hướng Đông” của Ấn Độ đang được cụ thể hóa cho sự tương tác mạnh mẽ
và đi vào thực chất của Ấn Độ với Châu Á.
Trong bối cảnh hợp tác và cạnh tranh luôn đan xen, sự “trỗi dậy” của Ấn Độ đã và đang mang
lại nhiều tác động đối với Châu Á nói riêng và thế giới nói chung. Với một ý nghĩa nhất định thì sự

trỗi dậy của Ấn Độ có thể được xem là một “hiện tượng” của Châu Á. Hòa cùng sự phát triển năng
động của khu vực Châu Á- Thái Bình Dương, sự trỗi dậy của Ấn Độ càng khiến Châu Á được chú ý
hơn trong nhãn quan của các cường quốc trong và ngoài khu vực.


13

PHẦN B. DỰ BÁO QUAN HỆ QUỐC TẾ TRONG THỜI GIAN TỚI
I. Xu thế hịa bình-hợp tác và phát triển.
Hịa bình được xem là điều kiện cho hợp tác và liên kết giữa các nước vì mục tiêu phát triển;
hợp tác là phương thức tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, duy trì hịa bình và thúc
đẩy phát triển của các quốc gia; phát triển, nhất là phát triển bền vững, là mục tiêu chung của tồn
thể cộng đồng quốc tế. Hịa bình- hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế vận động khách quan của
toàn thế giới. Xu hướng hội nhập liên kết và xây dựng cộng đồng bền vững cùng với quá trình tồn
cầu hóa sẽ vẫn là mối quan tâm chung của các nước trên tồn thế giới bởi nó khơng chỉ mang lại
nhiều cơ hội cho các quốc gia mà còn là những thách thức to lớn. Các nước sẽ ngày càng mở cửa và
hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới đồng thời chính các nước sẽ ngày càng bị phụ thuộc vào
nhau. Tuy nhiên, sắp tới trước xu hướng bảo hộ mậu dịch của Mỹ thì các nước xem xét lại các khả
năng liên kết và hội nhập của mình trong xu thế tồn cầu hóa. Chủ nghĩa bảo hộ sẽ nổi lên, chi phối
một bộ phận của thế giới tuy nhiên đây chắc chắn sẽ không phải là nhân tố chủ đạo và lâu dài. Chính
vì thế các nước cần phải cân đo đong đếm để đưa ra các chiến lược hợp lý để vừa tự bảo vệ chính
mình vừa theo kịp xu thế chung. Bên cạnh đó, những vấn đề như phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt,
ơ nhiễm mơi trường, khủng bố, tội ác có tổ chức, ma túy, dịch bệnh, v.v...cũng địi hỏi cần có sự hợp
tác của cộng đồng thế giới trong việc hợp tác, nghiên cứu và đánh giá tác động, xây dựng biện pháp
phòng ngừa và nghiên cứu công nghệ, năng lượng mới.

II. An ninh ở các “khu vực nóng” và mối quan hệ giữa các nước lớn.
Sắp tới các nước lớn sẽ tiếp tục thay đổi các chính sách và chiến lược quốc gia của mình và lẽ
đương nhiên nó sẽ có tác động to lớn đến tình hình an ninh-chính trị và kinh tế của các khu vực. Dựa
trên tình hình quan hệ quốc tế hiện tại, những dự đoán cho an ninh ở các “khu vực nóng” như Trung

Đơng, Triều Tiên,... có lẽ sẽ tiếp tục thay đổi phức tạp, tuy nhiên hứa hẹn là sẽ có những dấu hiệu
tích cực và mối quan hệ giữa các nước lớn về lâu dài hoặc sẽ có xu hướng cạnh tranh nhau để phát
triển hoặc là chìm trong một cuộc Chiến tranh lạnh kiểu mới
Ở bán đảo Triều Tiên, trong thời gian tới Các nước Mỹ, Hàn Quốc, Trung Quốc và thậm chí là
Triều Tiên sẽ tiếp tục ngồi lại với nhau để đàm phán giải quyết những vấn đề tồn đọng trên bán đảo
này, khả năng nối lại “đàm phán 6 bên” là có thể nghĩ tới.


14

Trung Đơng vốn là điểm nóng về an ninh, tiềm ẩn nhiều xung đột: Chiến tranh tại Syria và Yemen,
mâu thuẫn Ảrập - Israel, cuộc đấu tranh với các phe nhóm Hồi giáo cực đoan, xung đột giữa các gia tộc
Ảrập vùng Vịnh, căng thẳng chính trị tại Ai Cập, Iran, Iraq, Lybia, Thổ Nhĩ Kỳ, Saudi Arabia,...Các
cường quốc như Mỹ và Nga luôn đặt khu vực này trong mối quan tâm đặc biệt của mình. Syria sau nhiều
năm nội chiến nhiều khả năng là vẫn chưa thể đi đến được hiện trạng chấm dứt thậm chí là có thể xấu hơn
hiện tại bởi quan hệ Nga- Mỹ chưa có dấu hiệu tan băng và hai quốc gia này ngày càng lún sâu vào tình
hình khu vực. Quan hệ Mỹ-Iran trước mắt khó có thể mà cải thiện bởi những trừng phạt mà Mỹ áp đặt lên
Iran xoay quanh vấn đề hạt nhân của nước này. Iran mong muốn hòa bình, hợp tác tuy nhiên cũng cần
nhớ rằng Iran cũng là một quốc gia đã quá quen thuộc với trừng phạt và cấm vận.

Quan hệ Nga- Mỹ vẫn còn rất nhiều dấu bỏ ngõ. Đặc biệt vấn đề Trung Đông đang có xu
hướng trở nên phức tạp hay những bất đồng tại các “điểm nóng”, điều này càng gây khó khăn cho
việc bình thường hóa quan hệ Nga-Mỹ.
Quan hệ Mỹ-Trung về cơ bản vẫn tiếp tục xu hướng vừa hợp tác vừa đấu tranh. Hai nền kinh tế
Mỹ và Trung Quốc đã gắn chặt với nhau trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế thế giới “trong anh có
tơi, trong tơi có anh”. Cuộc chiến tranh thương mại giữa hai nước khi nào sẽ đi đến hồi kết? Ngoại
trưởng Mỹ Mike Pompeo đã trấn an người dân Mỹ rằng những bất tiện mà họ đang đối mặt sẽ chỉ là
tạm thời và cuộc chiến tranh thương mại giữa hai nền kinh tế hàng đầu thế giới sẽ kéo dài cho tới khi
người dân Mỹ nhận được những gì họ xứng đáng được hưởng



15

III. Cơ hội và thách thức cho Việt Nam
Môi trường đối ngoại của Việt Nam trong thời gian tới có thể sẽ tương đối thuận lợi ở cả ba
cấp độ: toàn cầu, khu vực và trong một số quan hệ song phương chủ chốt. Tất cả các nước lớn đều
có nhu cầu cải thiện và thúc đẩy quan hệ với Việt Nam, tạo ra nhiều cơ hội cho Việt Nam phát triển
toàn diện trên tất cả các lĩnh vực và tăng cường sức mạnh của mình trên trường quốc tế. Tuy nhiên
với những diễn biến khó lường của tình hình quan hệ quốc tế thì trong thời gian tới chắc chắn là Việt
Nam sẽ không tránh khỏi nhũng thách thức to lớn

1. Cơ hội
Một là, Việt Nam đang bước vào chu kỳ tăng trưởng mới với nhiều yếu tố thuận lợi, tranh thủ
thị trường thế giới cũng như các nguồn lực khác tham gia vào chuỗi giá trị, chuỗi sản xuất và phân
phối, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, trong bối cảnh các nước lớn cạnh tranh quyết liệt và ráo riết tập hợp lực lượng ở khu
vực Châu Á- Thái Bình Dương, các nước lớn đều cần tới một Việt Nam hịa bình, ổn định, phát triển
năng động và có thiện chí hợp tác. Chính sách thêm bạn bớt thù theo phương châm đối tượng/ đối tác
vì lợi ích dân tộc sẽ tiếp tục giúp Việt Nam tranh thủ được sự hợp tác của tất cả các bên.
Ba là, sự phát triển của các thiết chế khu vực và tồn cầu, điển hình là Liên Hợp Quốc, các tổ
chức, diễn đàn đa phương khu vực và quốc tế khác mà Việt Nam là thành viên, có tác dụng nhất định
trong việc thúc đẩy đối thoại, xây dựng lòng tin, phổ biến các chuẩn mực trong quan hệ, và khuyến
khích sự hợp tác giữa các bên, hỗ trợ kiềm chế xung đột và giúp giảm căng thẳng giữa các bên liên
quan.

2. Thách thức
Thứ nhất, Việt Nam nằm ở khu vực địa-chính trị nhạy cảm, giao thoa lợi ích giữa nhiều nước
lớn, do đấy rất dễ ảnh hưởng tới độc lập và chủ quyền của ta.
Thứ hai, trong thế giới tồn cầu hóa, sự phát triển của Việt Nam gắn chặt vào nền kinh tế thế
giới có đặc điểm là ln biến chuyển nhanh chóng, liên tục về xu hướng và cơ cấu. Nếu không nhận

thấy được sự chuyển đổi đó hoặc thích ứng khơng kịp, Việt Nam sẽ lập tức bị loại khỏi cuộc chơi
chung và sẽ tiếp tục bị tụt hậu.
Thứ ba, mặt trái của q trình tồn cầu hóa sẽ tiếp tục tạo ra các thách thức lớn và lâu dài đối
với sự phát triển của Việt Nam trong thời gian tới, các biểu hiện chủ yếu là các vấn đề cạn kiệt năng
lượng, biến đổi khí hậu, hủy hoại mơi trường, cạn kiệt tài nguyên, v.v... ngày càng trở nên cấp bách
trong khi nguồn lực để đối phó của ta cũng có hạn. Bên cạnh đó, các thách thức an ninh phi truyền
thống ngày càng phát triển phức tạp. Thách thức liên quan tới các vấn đề tội phạm xuyên quốc gia,
khủng bố, dịch bệnh, di cư trái phép,v.v... phát triển nhanh và thường xuyên. Khi đất nước hội nhập
sâu rộng và toàn diện hơn, nền kinh tế trở nên “mở” hơn sẽ làm tăng khả năng bị tổn thương.


16

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TTXVN: “ Donald Trump và tương lai nước Mỹ”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, 11/2016
2. PGS. TS. Đồng Xuân Thọ: Sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn đối với khu vực châu Á Thái Bình Dương, Tạp chí Cộng sản, 19/10/2016
3. Lê Thế Mẫu: Thế giới: Một góc nhìn, Nxb. Chính trị quốc gia, 1/2010
4. Lê Sơn: Sự trỗi dậy đồng thời của Trung Quốc, Ấn Độ và Quan hệ Trung- Ấn, Tạp chí “Thế giới
đương đại”-Trung Quốc, 23/4/2013
5.Thanh Tú: Triều Tiên thể hiện thiện chí trước cuộc gặp thượng đỉnh Mỹ- Triều, Tạp chí Cộng sản,
15/5/2018
6. Phương Nam: Hoa Kỳ theo chủ nghĩa biệt lập, SGGP Thứ Năm, 11/1/2018
7. TS. Lê Khương Thùy: Quan hệ Mỹ-Trung Quốc thập niên đầu thế kỷ XXI, Nxb. Khoa học xã hội,
6/2012
8. Kevin Rudd: Vai trò của Nga trong cấu trúc Châu Á- Thái Bình Dương, Tạp chí “ Nước Nga trong
chính sách tồn cầu”, 17/06/2016
9. Lê Hải Bình: Những chuyển động mới trong cục diện khu vực, thế giới và tác động đến Việt Nam,
Tạp chí Cộng sản, 9/5/2018
10. GS.TS. Nguyễn Thái Yên Hương: Quan hệ Mỹ-Trung hợp tác và cạnh tranh luận giải dưới góc
độ cân bằng quyền lực, Nxb. Chính trị quốc gia, 11/2011

11. PGS.TS. Nguyễn Vũ Tùng- TS. Đặng Cẩm Tú: Quan hệ Mỹ- Trung trong nửa đầu thế kỷ XXI:
Mối quan hệ nước lớn kiểu mới?, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, 1/2017
12. Fareed Zakaria: Thế giới hậu Mỹ, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2009
13. Phạm Bình Minh(Chủ biên): Cục diện thế giới đến 2020, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2010
14. Báo mới: Căng thẳng thương mại Mỹ-Trung: Đe dọa triển vọng kinh tế toàn cầu, 4/4/2018
15. Linh Tú, Dương Đăng: “Tìm hiểu về khn khổ quan hệ nước lớn kiểu mới Trung-Mỹ”, Tạp chí
Nghiên cứu quốc tế, số 1(96), 2014.
16. Văn Cường: Lá bài Đài Loan trong quan hệ Mỹ-Trung, Nghiên cứu biển Đông, 3/4/2018
17. GS.TS. Nguyễn Thái Yên Hương: “Nhìn nhận ‘Đối thoại kinh tế và chiến lược Mỹ-Trung’ từ
phân tích định lượng”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 3(102), 2015
18. G. John Ikenberry(2008), “The Rise of China and the Future of the West: Can the Liberal System
Survive?”, Foreign Affairs, Vol.87, No.1(Jan.-Feb.)



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×