Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

TIỂU LUẬN chuyên ngành logistics và quản lí chuỗi cung ứng đề tài cơ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG WTO (DSU)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.5 KB, 19 trang )

TRƯỜ NG ĐẠ I HỌ C THƯƠNG MẠ I

KHOA MARKETING
---------***--------

BÀI TIỂU LUẬN
Chuyên ngành: Logistics và quản lí chuỗi cung ứng
Học Phần: Luật thương mại quốc tế

ĐỀ TÀI: CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

TRONG WTO (DSU)

Giáo viên hướng dẫn

:Phùng Bích Ngọc

Nhóm thực hiện

: 03

Lớp HP

: 2215PLAW3111

Hà Nội, Ngày 28 tháng 02 năm 2022

1

download by :



MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 3
1. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết..................................................................... 4
2. Cơ chế ra quyết định........................................................................................... 6
2.1. Cơ chế ra quyết định: Nguyên tắc đồng phủ định........................................... 6
2.2. Tính tối ưu hố của ngun tắc đồng phủ định............................................... 6
3. Các loại tranh chấp (Các loại khiếu kiện)......................................................... 7
3.1. Khiếu kiện có vi phạm.................................................................................... 7
3.2. Khiếu kiện khơng vi phạm.............................................................................. 7
3.3. Khiếu kiện dựa trên “sự tồn tại một tình huống khác”...................................8
4. Trình tự giải quyết tranh chấp trong WTO (DSU)........................................... 8
4.1. Tham vấn (Consultation)................................................................................ 8
4.2. Môi giới, Trung gian, Hoà giải....................................................................... 9
4.3. Thành lập Ban hội thẩm (Panel Establishment)............................................. 9
4.4. Hoạt động của Ban hội thẩm (Panel Procedures)........................................10
4.5. Thông qua Báo cáo của Ban hội thẩm (Adoption of Panel Report)..............11
4.6. Trình tự Phúc thẩm (Appellate Review)........................................................ 11
4.7. Khuyến nghị các giải pháp (Recommended Remedies)................................12
4.8. Thi hành (Implementation)........................................................................... 12
4.9. Bồi thường và trả đũa................................................................................... 12
4.10. Trọng tài..................................................................................................... 13
5. Những ưu tiên dành cho các quốc gia đang phát triển...................................13
5.1 Đối xử đặc biệt và khác biệt trong giai đoạn tham vấn................................. 14
5.2 Đối xử đặc biệt và khác biệt trong giai đoạn xét xử......................................14
5.3 Đối xử đặc biệt và khác biệt trong giai đoạn thực thi phán quyết.................14
5.4 Đối xử đặc biệt đối với các Thành viên kém phát triển nhất.........................15
5.5 Trợ giúp pháp lý............................................................................................ 15
6. Ví dụ về giải quyết tranh chấp trong WTO..................................................... 16
6.1. Nguyên nhân xảy ra tranh chấp................................................................... 16

6.2. Tiến trình tranh chấp.................................................................................... 16
6.3. Tài liệu chi tiết về vụ kiện trên Website của WTO....................................... 18
KẾT LUẬN............................................................................................................ 18

2

download by :


LỜI MỞ ĐẦU

Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO) chính thức ra đời kể từ ngày 1/1/1995 là kết
quả của Vòng đàm phán Urugoay (1986- 1995) với tiền thân là Hiệp định chung về thuế
quan và thương mại (GATT 1947). WTO được coi như một thành công đặc biệt trong sự
phát triển thương mại và pháp lý cuỗi thế kỷ XX với một hệ thống đồ sộ các hiệp định,
thoả thuận, danh mục nhượng bộ thuế quan điều chỉnh các quyền và nghĩa vụ thương mại
của các quốc gia thành viên.
Với các mục tiêu đầy tham vọng là thúc đẩy tiến trình tự do hố thương mại trên
tồn cầu, nâng cao mức sống của người dân các nước thành viên và giải quyết các bất
đồng về lợi ích giữa các quốc gia trong khuôn khổ hệ thống thương mại đa biên, sự vận
hành của WTO đã và sẽ có tác động to lớn đối với tương lai lâu dài của kinh tế thế giới
cũng như kinh tế của từng quốc gia. Theo tính tốn, có tới trên 95% hoạt động thương mại
trên thế giới hiện nay được điều chỉnh bởi các Hiệp định của Tổ chức này.
Để đảm bảo việc thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các qui định trong Hiệp định, ngăn
chặn các biện pháp thương mại vi phạm các Hiệp định, góp phần vào việc thực hiện các
mục tiêu to lớn của WTO, một cơ chế giải quyết các tranh chấp trong khuôn khổ tổ chức
này đã được thiết lập. Cơ chế này là sự hiện thực hoá xu thế pháp lý hố q trình giải
quyết tranh chấp thương mại quốc tế ngày nay, dần dần thay thế các phương thức giải
quyết tranh chấp mang tính chính trị, ngoại giao trong lĩnh vực này.
Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đang được các nước đang phát triển sử dụng

như một cơng cụ có hiệu quả để giải quyết tranh chấp thương mại với các nước phát triển.
Xét về tồn cục thì Cơ chế này là một bước phát triển tiến bộ theo hướng công bằng hơn
trong quan hệ thương mại quốc tế.

3

download by :


1. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết
Trong khn khổ của Tổ chức Thương mại thế giới WTO, tranh chấp giữa các thành
viên sẽ được giải quyết bởi Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO (Dispute Settlement
Body, viết tắt là DSB). DSB được thành lập trên cơ sở của thỏa thuận về các Quy tắc và
Thủ tục về việc giải quyết tranh chấp (Dispute Settlement Understanding, viết tắt là DSU).
Thỏa thuận này là kết quả quan trọng của Vòng đàm phán Uruguay và là một trụ cột quan
trọng của WTO. Về cơ bản, đây là cơ chế chung giải quyết tranh chấp giữa các thành viên
của WTO liên quan đến các quy định của WTO.

Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) nằm dưới quyền kiểm soát của Đại hội đồng
của WTO. Thực chất, cơ quan này cũng bao gồm tất cả các thành viên của Đại hội đồng.
Điểm khác biệt so với Đại hội đồng là DSB có Chủ tịch và quy tắc hoạt động riêng.
DSB có thẩm quyền thành lập Ban hội thẩm và thông qua các báo cáo của Ban hội
thẩm và Cơ quan Phúc thẩm, duy trì sự giám sát việc thực hiện các phán quyết và khuyến
nghị trong giải quyết tranh chấp, cho phép tạm hoãn việc thi hành những nhượng bộ và
nghĩa vụ theo các hiệp định có liên quan. Đây là cơ quan điều hành, ra quyết định và thông
qua Báo cáo của các cơ quan chuyên trách

4

download by :



Cụ thể:
- Ban hội thẩm:
+ Là cơ quan trực tiếp giải quyết tranh chấp.
+ Do DSB thành lập, gồm 3- 5 hành viên có nhiệm vụ xem xét vụ việc và đưa ra các
khuyến nghị trên cơ sở các quy định của WTO.
+ Các thành viên này được lựa chọn trong số các quan chức của chính phủ và/hoặc các
chuyên gia phi chính phủ. Điều kiện: Khơng thuộc quốc tịch của các bên tranh chấp và
không được là quốc gia cùng thành viên trong một liên minh thuế quan hoặc trong một thị
trường chung với một trong các bên tranh chấp.
+ Tổ chức theo quy chế không thường trực, được thành lập trên cơ sở có vụ việc phát sinh
và được yêu cầu giải quyết tại DSB. Ban hội thẩm hoạt động độc lập. Kết quả của công
việc của Ban hội thẩm là một bản báo cáo. Bản báo cáo này được trình lên DSB để DSB
thơng quan
- Cơ quan phúc thẩm AB
+ Do DSB thành lập. Được coi là cấp xét xử thứ hai trong khuôn khổ giải quyết tranh chấp
của WTO.
+ Là cơ quan có quy chế thường trực, bao gồm 7 thành viên có nhiệm kỳ 4 năm (có thể
được bầu lại 1 lần). Là những chuyên gia, có kinh nghiệm chun mơn đã được chứng
minh trong các lĩnh vực pháp luật, thương mại quốc tế và trong những vấn đề thuộc phạm
vi điều chỉnh của các hiệp định có liên quan.
+ Trong số 7 thành viên, chỉ có 3 thành viên (lựa chọn luân phiên) được xét xử trong các
vụ việc cụ thể (thành lập nhóm làm việc - Working groups).
+ Nhiệm vụ của AB là chỉ xem xét những vấn đề về mặt pháp lý và giải thích pháp luật
trong Báo cáo của Ban hội thẩm, chứ không giải quyết lại nội dung vụ việc. Điều đó cũng
có nghĩa là khi có Báo cáo của Ban hội thẩm, các bên tranh chấp chỉ được quyền kháng
cáo lên AB khi thấy rằng Báo cáo này có những vấn đề về mặt pháp lý chưa đúng, hoặc
chưa giải thích đúng các quy định của các hiệp định có liên quan của Ban hội thẩm. Kết
quả của cơng việc này là một Báo cáo. Báo cáo này có thể giữ nguyên, sửa đổi hoặc làm

thay đổi các khuyến nghị ở trong Báo cáo của Ban hội thẩm.

5

download by :


2. Cơ chế ra quyết định
2.1. Cơ chế ra quyết định: Nguyên tắc đồng phủ định
Quyết định của DSB được thông qua theo nguyên tắc đồng thuận phủ định (Điều
2.4: Khi những quy tắc và thủ tục của Thỏa thuận này quy định DSB phải ra quyết định,
thì DSB phải ra quyết định này trên cơ sở đồng thuận. ;và ghi chú 1 DSU). Cơ quan giải
quyết tranh chấp (DSB) tự động thành lập Ban hội thẩm và thông qua báo cáo của Ban hội
thẩm và Cơ quan Phúc thẩm, trừ khi có sự đồng thuận khơng nhất trí làm như vậy. Đây
được gọi là quy tắc “đồng thuận nghịch” hay “đồng thuận phủ định”. Quy tắc này giúp cho
các báo cáo của Ban hội thẩm hay của Cơ quan phúc thẩm sẽ ln được thơng qua trừ
trường hợp có sự đồng thuận phản đối Báo cáo. Điều đó có nghĩa là khi một Báo cáo được
trình lên DSB để xem xét, báo cáo này sẽ luôn được coi là đã được DSB quyết định đồng
thuận thông qua, nếu không có Thành viên nào tại cuộc họp của DSB chính thức phản đối
quyết định đã được đề xuất.
Trong Hiệp định về Quy tắc và Thủ tục giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO
(DSU), quyền của các bên, nhất là bên có biện pháp bị kiện, trong việc ngăn cản việc
thành lập Ban hội thẩm hoặc thông qua báo cáo đã bị loại bỏ.
Cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO này là bắt buộc đối với tất cả các quốc gia
thành viên theo đó mỗi thành viên có khiếu nại, tranh chấp với thành viên khác buộc phải
đưa tranh chấp ra giải quyết bằng cơ chế này. Quốc gia thành viên bị khiếu nại khơng có
cơ hội lựa chọn nào khác là chấp nhận tham gia giải quyết tranh chấp theo các thủ tục của
cơ chế này => Đây chính là điểm tạo nên sự khác biệt cũng như hiệu quả hoạt động của cơ
chế giải quyết tranh chấp trong WTO so với các cơ chế giải quyết các tranh chấp quốc tế
đang tồn tại (thẩm quyền giải quyết của các cơ chế truyền thống khơng có tính bắt buộc

mà phụ thuộc vào sự chấp thuận của các quốc gia liên quan).
2.2. Tính tối ưu hố của ngun tắc đồng phủ định
Với nguyên tắc đồng thuận phủ định này, DSB đã khắc phục được hạn chế của cơ
chế giải quyết tranh chấp trước đó của GATT 1947.
Trước đây, các quyết định của cơ quan giải quyết tranh chấp trong khn khổ GATT
1947 ln có nguy cơ khơng được thơng qua do cơ chế thông qua quyết định được thực
hiện trên cơ sở nguyên tắc đồng thuận khẳng định. Theo đó, việc thành lập Ban hội thẩm
hay thơng qua các báo cáo của Ban hội thẩm chỉ có thể được thơng qua khi khơng có sự
phản đối chính thức từ bất kỳ bên tham gia nào của GATT 1947.
Đây chính là điểm yếu của cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT 1947. Do các
quyết định thành lập Ban hội thẩm hay thơng qua báo cáo đều có thể bị bên bị khiếu kiện
cản trở. Dù trong thực tiễn giải quyết tranh chấp của GATT 1947 khơng ln trong tình
trạng như vậy. Các bên ký kết là bị đơn thường không ngăn cản các quyết định đồng thuận
và cho phép tiến hành giải quyết các tranh chấp với sự tham gia của họ, ngay cả khi quyết
định đó sẽ có hại cho họ. Họ làm như vậy vì những lợi ích lâu dài của mình vì biết rằng
việc sử dụng thái quá quyền phủ quyết sẽ bị các bên khác trả đũa lại tương tự. Vì vậy, các
Ban hội thẩm cũng đã được thành lập và các báo cáo của họ thường được thơng qua mặc
dù cũng bị trì hỗn.
Tuy nhiên, cơ chế thông qua quyết định này của GATT 1947 đã làm cản trở các bên
đưa tranh chấp ra giải quyết. Thực tế cho thấy có rất nhiều tranh chấp chưa từng được đưa

6

download by :


ra trước GATT vì bên khiếu kiện lo ngại rằng bên bị khiếu kiện sẽ dùng quyền phủ quyết.
Nguy cơ của việc dùng quyền phủ quyết cũng đã làm suy yếu hệ thống giải quyết tranh
chấp của GATT. Ngoài ra, việc sử dụng quyền phủ quyết đã diễn ra trong thực tiễn, đặc
biệt là trong những lĩnh vực nhạy cảm về chính trị hoặc quan trọng về kinh tế, như chống

bán phá giá. Hệ quả là vào những năm 1980, hệ thống giải quyết tranh chấp của GATT đã
suy yếu dần, do các bên ký kết, đặc biệt là Cộng đồng châu Âu, Mỹ, thường cản trở việc
hành lập Ban hội thẩm và việc thông qua các báo cáo của Ban hội thẩm.
Việc các báo cáo của Ban hội thẩm có nguy cơ bị cản trở, khơng thơng qua cũng làm
ảnh hưởng tới nội dung các phán quyết của Ban hội thẩm. Ban hội thẩm biết trước rằng
báo cáo của họ cũng phải được bên thua kiện chấp thuận thì mới được thơng qua. Vì vậy,
động cơ đưa ra phán quyết không chỉ dựa trên cơ sở giá trị pháp lý của vụ kiện, mà cịn
phải tính đến một giải pháp mang “tính ngoại giao” bằng việc đưa ra một thỏa hiệp mà cả
hai bên (bên khiếu nại và bên bị khiếu nại) đều có thể chấp nhận được.
=> Những yếu kém về mặt cơ cấu của hệ thống giải quyết tranh chấp của GATT là
rất đáng kể, dù cuối cùng nhiều tranh chấp cũng đã được giải quyết. Trước thực trạng
trên , WTO đã thay đổi lại cơ chế thông qua quyết định giải quyết tranh chấp của DSB.
3. Các loại tranh chấp (Các loại khiếu kiện)
Các khiếu kiện có thể được giải quyết theo cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO
được qui định tại Điều XXIII.1 GATT 1994 bao gồm:
3.1. Khiếu kiện có vi phạm (violation complaint)
Là khiếu kiện phát sinh khi một quốc gia thành viên khơng thực hiện các nghĩa vụ
của mình theo qui định tại Hiệp định (trong trường hợp này thiệt hại được suy đoán là
đương nhiên) . Cụ thể là theo Điều XXIII:1(a) GATT 1994 (được kết hợp bởi Điều 64
Hiệp định TRIPS), khiếu kiện vi phạm xảy ra khi có sự triệt tiêu hoặc làm suy giảm lợi
ích” của một thành viên do một thành viên khác “không thực hiện nghĩa vụ” của mình.
Việc “khơng thực hiện nghĩa vụ này” là đề cập đến sự khơng phù hợp của chính sách, pháp
luật nước thành viên WTO với Hiệp định đã ký kết (trong trường hợp cụ thể là Hiệp định
TRIPS và các điều ước quốc tế về bảo hộ quyền SHTT như điều khoản kết hợp của Hiệp
định TRIPS).
Ví dụ: Vụ kiện của Mỹ đối với Mexico về các biện pháp chống bán phá giá về gạo và
thịt bò (DS 295). Mỹ đệ đơn ra DSB kiện Mehico đã vi phạm các điều khoản của các hiệp
định: Trợ cấp và biện pháp đối kháng; Chống bán phá giá; Điều VI của GATT 1994 đối
với mặt hàng gạo và thịt bò.
3.2. Khiếu kiện không vi phạm (non-violation complaint)

Là khiếu kiện phát sinh khi một quốc gia thành viên ban hành một biện pháp gây
thiệt hại (làm mất hay phương hại đến) các lợi ích mà quốc gia khiếu kiện có được từ Hiệp
định hoặc cản trở việc thực hiện một trong các mục tiêu của Hiệp định – không phụ thuộc
vào việc biện pháp đó có vi phạm Hiệp định hay khơng. Nói cách khác, theo Điều
XXIII:1(b) của GATT 1994, khiếu kiện không vi phạm xảy ra trong trường hợp biện pháp
mà một thành viên áp dụng không vi phạm quy định của Hiệp định có liên quan, nhưng
biện pháp đó dẫn tới “sự triệt tiêu hoặc suy giảm lợi ích” của một thành viên khác.

7

download by :


Khác với khiếu kiện vi phạm, khiếu kiện không vi phạm khơng cho phép áp dụng giả
định hay suy đốn về sự suy giảm hay triệt tiêu lợi ích của nguyên đơn. Để chứng minh
yêu cầu khởi kiện, khoản 1 Điều 26 của Thỏa thuận DSU yêu cầu nguyên đơn phải chứng
minh đủ 3 điều kiện: (1) thành viên WTO là bị đơn áp dụng một biện pháp; (2) biện pháp
đó có liên quan đến mục tiêu điều chỉnh của Hiệp định có liên quan; và (3) việc áp dụng
biện pháp đó làm triệt tiêu hoặc suy giảm lợi ích của thành viên là nguyên đơn.
Trên thực tế đã có một số vụ việc khiếu kiện không vi phạm giữa các thành viên
WTO đã được giải quyết liên quan đến thương mại hàng hóa. Tuy nhiên chưa có vụ khiếu
kiện không vi phạm nào liên quan đến việc bảo hộ quyền SHTT giữa các thành viên WTO
được thụ lý, xét xử.
Ví dụ: DS311 do Canada khởi kiện về việc Mỹ tiến hành rà soát thuế đối kháng áp
đặt lên gỗ xẻ mềm nhập khẩu từ Canada.
3.3. Khiếu kiện dựa trên “sự tồn tại một tình huống khác” (“situation” complaint) Là
khiếu kiện dựa trên sự tồn tại một tình huống khác”. Theo quy định tại Điều XXIII:1(c)
GATT 1994, khiếu kiện tình huống có khả năng xảy ra khi: (1) tình huống khiếu kiện
không thuộc dạng khiếu kiện vi phạm hoặc khiếu kiện khơng vi phạm; và (2) có sự triệt
tiêu hoặc suy giảm lợi ích (hoặc cản trở việc đạt được mục tiêu của Hiệp định có liên

quan). Lịch sử đàm phán Điều XXIII:1(c) GATT1994 cho thấy “khiếu kiện tình huống” có
mục đích để giải quyết các tình huống khẩn cấp về kinh tế vĩ mô. Điều 26.2 DSU cũng yêu
cầu nguyên đơn phải đưa ra bản giải trình chi tiết” hỗ trợ cho đơn yêu cầu thuộc dạng này.
Trong thực tế giải quyết tranh chấp giữa các thành viên WTO nói chung, tranh chấp về bảo
hộ quyền SHTT nói riêng, chưa có khiếu kiện nào được giải quyết dựa trên điều XXIII:
1(c) của GATT 1994 và do vậy, quy định về khiếu kiện tình huống này
vẫn chưa đi vào thực tế.
Như vậy, tranh chấp trong khuôn khổ WTO không nhất thiết phát sinh từ một hành vi
vi phạm các qui định tại các Hiệp định của tổ chức này của một hoặc nhiều quốc gia thành
viên (thông qua việc ban hành/thực thi một biện pháp thương mại vi phạm nghĩa vụ của
quốc gia đó theo WTO). Tranh chấp có thể phát sinh từ một “tình huống” khác hoặc khi
một biện pháp thương mại do một quốc gia thành viên ban hành tuy không vi phạm qui
định của WTO nhưng gây thiệt hại cho một hoặc nhiều quốc gia thành viên khác. Qui định
này thực chất là sự kế thừa qui định trước đây của GATT 1947 về phạm vi áp dụng của cơ
chế giải quyết tranh chấp: một qui định phản ánh sự mềm dẻo trong các qui định về quyền
và nghĩa vụ của các thành viên WTO theo đó một bên có thể phải nhượng bộ trong một
vấn đề cụ thể (mà mình có quyền hoặc chí ít là không bị cấm) để tránh gây thiệt hại cho
bên (các bên) khác hoặc nhằm đạt được một mục tiêu nhất định của Hiệp định liên quan.
4. Trình tự giải quyết tranh chấp trong WTO (DSU)

4.1. Tham vấn (Consultation)
Bên có khiếu nại trước hết phải đưa ra yêu cầu tham vấn Bên kia (Điều 4 DSU). Việc
tham vấn được tiến hành bí mật (khơng cơng khai) và khơng gây thiệt hại cho các quyền tiếp
theo của các Bên. Bên được tham vấn phải trả lời trong thời hạn 10 ngày và phải tiến hành
tham vấn trong vòng 30 ngày kể từ khi nhận được yêu cầu (trường hợp khẩn cấp – ví

8

download by :



dụ hàng hố liên quan có nguy cơ hư hỏng, các thời hạn này lần lượt là 10 ngày và 20
ngày). Bên được tham vấn có nghĩa vụ "đảm bảo việc xem xét một cách cảm thông và tạo
cơ hội thỏa đáng" cho Bên yêu cầu tham vấn.
Thủ tục tham vấn chỉ là thủ tục được tiến hành giữa các Bên với nhau. DSB được
thông báo về thủ tục này và có trách nhiệm thơng báo cho các quốc gia thành viên về yêu
cầu tham vấn nhưng cơ quan này không trực tiếp tham gia vào thủ tục tham vấn. Các quốc
gia khác có thể xin tham gia vào việc tham vấn này nếu Bên bị tham vấn thừa nhận rằng
các quốc gia này có “quyền lợi thương mại thực chất” trong việc tham vấn này.
Thông thường các quốc gia đều có gắng giải quyết các bất đồng ở giai đoạn tham
vấn nhằm hạn chế đến mức tối đa các thiệt hại về lợi ích cho tất cả các bên đồng thời đảm
bảo tính bí mật của các thơng tin liên quan đến tranh chấp.
Tuy nhiên, các quy định về tham vấn trong WTO cũng bộc lộ một số hạn chế nhất
định như: làm thế nào để định lượng hoặc kiểm nghiệm được việc thực hiện nghĩa vụ
“tham vấn một cách thông cảm” của Bên được yêu cầu tham vấn; trường hợp tham vấn đạt
được một thỏa thuận thì thơng báo về kết quả tham vấn cần phải chi tiết đến mức nào để
các Thành viên khác của WTO và cơ quan có thẩm quyền kiểm tra được tính hợp pháp của
thoả thuận tham vấn (tránh hiện tượng thoả thuận đạt được đơn thuần chỉ là sự thỏa hiệp
về lợi ích giữa các bên mà không dựa trên các quy định của WTO và thực tế vi phạm vẫn
tồn tại…)
4.2. Mơi giới, Trung gian, Hồ giải
Bên cạnh thủ tục tham vấn, DSU cịn qui định các hình thức giải quyết tranh chấp
mang tính “chính trị” khác như mơi giới, trung gian, hồ giải. Các hình thức này được tiến
hành trên cơ sở tự nguyện, bí mật giữa các Bên tại bất kỳ thời điểm nào sau khi phát sinh
tranh chấp (ngay cả khi Ban hội thẩm đã được thành lập và đã tiến hành hoạt động). Tương
tự như vậy, các thủ tục này cũng có thể chấm dứt vào bất kỳ lúc nào. DSU không xác định
bên nào (nguyên đơn hay bị đơn) có quyền yêu cầu chấm dứt nên có thể hiểu là tất cả các
bên tranh chấp đều có quyền yêu cầu chấm dứt các thủ tục này.
Tổng Giám đốc WTO có thể, trên cương vị cơng tác chính thức của mình, đưa ra
sáng kiến về việc làm người mơi giới, hịa giải hoặc trung gian, nhằm giúp các thành viên

giải quyết tranh chấp (khoản 6 Điều 5 DSU).
Với các ưu thế nhất định như tiết kiệm được về thời gian, tiền bạc, quan hệ hữu hảo giữa
các bên tranh chấp… các phương thức chủ yếu dựa trên đàm phán ngoại giao này được
DSU đặc biệt khuyến khích sử dụng (Điều 3.7 DSU), và việc tìm ra được một giải pháp
hợp lý thỏa mãn tất cả các bên tranh chấp có lẽ cịn được coi trọng hơn cả việc đạt được
một giải pháp phù hợp với các quy tắc thương mại trong Hiệp định.
4.3. Thành lập Ban hội thẩm (Panel Establishment)
Yêu cầu thành lập Ban hội thẩm phải được lập thành văn bản sau khi Bên được tham
vấn từ chối tham vấn hoặc tham vấn không đạt kết quả trong vịng 60 ngày kể từ khi có
u cầu tham vấn (Điều 6 DSU). Tuy nhiên, như trên đã đề cập, yêu cầu thành lập Ban hội
thẩm có thể đưa ra trước thời hạn này nếu các bên tranh chấp đều thống nhất rằng các thủ
tục tham vấn, hoà giải khơng dẫn đến kết quả gì. Văn bản u cầu thành lập Ban hội thẩm
phải nêu rõ quá trình tham vấn, xác định chính xác biện pháp thương mại bị khiếu kiện và

9

download by :


tóm tắt các căn cứ pháp lý cho khiếu kiện.
Yêu cầu này được gửi tới DSB để cơ quan này ra quyết định thành lập Ban hội thẩm.
Nhờ có nguyên tắc đồng thuận phủ quyết nên hầu như quyền được giải quyết tranh chấp
bằng hoạt động của Ban hội thẩm của nguyên đơn được đảm bảo.
Thành viên Ban hội thẩm, nếu không được các bên thống nhất chỉ định trong vịng
20 ngày kể từ khi có quyết định thành lập sẽ do Tổng Giám đốc WTO chỉ định trong số
các quan chức chính phủ hoặc các chun gia có uy tín trong lĩnh vực luật, chính sách
thương mại quốc tế.
Trong trường hợp có nhiều nước cùng yêu cầu thành lập Ban hội thẩm để xem xét
cùng một vấn đề (ví dụ: một biện pháp thương mại của một quốc gia thành viên bị nhiều
quốc gia khác phản đối) thì DSB có thể xem xét thành lập một Ban hội thẩm duy nhất.

Nếu vẫn phải thành lập các Ban hội thẩm riêng rẽ trong trường hợp này thì các Ban hội
thẩm này có thể có chung các thành viên và thời gian biểu sẽ được xác định một cách hài
hoà để các thành viên này hoạt động một cách hiệu quả nhất.
Bất kỳ quốc gia thành viên nào có quyền lợi thực chất trong vấn đề tranh chấp đều
có thể thơng báo cho DSB về ý định tham gia vụ việc với tư cách là Bên thứ ba. Các Bên
thứ ba này được tạo điều kiện để trình bày ý kiến bằng văn bản trước Ban hội thẩm.
4.4. Hoạt động của Ban hội thẩm (Panel Procedures)
Ban hội thẩm có chức năng xem xét vấn đề tranh chấp trên cơ sở các qui định trong
các Hiệp định của WTO mà Bên nguyên đơn viện dẫn như là căn cứ cho đơn kiện của
mình để giúp DSB đưa ra khuyến nghị/quyết nghị thích hợp cho các bên tranh chấp.
Về nghĩa vụ chứng minh của các bên: Theo tập quán hình thành từ GATT 1947,
trường hợp khiếu kiện có vi phạm thì Bên bị đơn có nghĩa vụ chứng minh hành vi vi phạm
của Bên đó khơng gây thiệt hại cho Bên ngun đơn; trường hợp khiếu kiện khơng có vi
phạm thì Bên ngun đơn có nghĩa vụ chứng minh hành vi khơng vi phạm của Bên bị đơn
gây ra thiệt hại về lợi ích mà Bên đó đáng lẽ phải được hưởng theo quy định của Hiệp định
hoặc chứng minh sự cản trở đối với việc thực hiện một mục tiêu nhất định của Hiệp định.
Đối với việc chứng minh các vấn đề khác, mặc dù DSU khơng có quy định cụ thể về việc
này, một tập quán chung (vốn được áp dụng tại Tòa án Quốc tế) đã được thừa nhận khá
rộng rãi trong khuôn khổ cơ chế này là bên tranh chấp đã đưa ra một chi tiết/thực tế có
nghĩa vụ cung cấp các chứng cứ chứng minh cho chi tiết/thực tế đó khơng phụ thuộc vào
việc bên đó là ngun đơn hay bị đơn trong tranh chấp.
Thủ tục hoạt động của Ban hội thẩm được quy định tại Điều 12 DSU. Ban hội thẩm,
sau khi tham khảo ý kiến của các Bên liên quan sẽ ấn định một thời gian biểu cụ thể cho
phiên xét xử đầu tiên (các Bên trình bày các văn bản giải trình tình tiết vụ việc và các lập
luận liên quan), phiên xét xử thứ hai (đại diện và luật sư của các Bên lần lượt trình bày ý
kiến và trả lời các câu hỏi của Ban hội thẩm – oral hearings). Sau phiên xét xử thứ hai,
Ban hội thẩm soạn thảo và chuyển đến các bên phần Tóm tắt nội dung tranh chấp của báo
cáo để họ cho ý kiến trong một thời hạn nhất định. Trên cơ sở các ý kiến này, Ban hội
thẩm đưa ra Báo cáo tạm thời (mô tả vụ việc, các lập luận, kết luận của Ban hội thẩm). Các
Bên cho ý kiến về Báo cáo này. Nếu có yêu cầu, Ban hội thẩm có thể tổ chức thêm một

phiên họp bổ sung để xem xét lại tổng thể các vấn đề liên quan. Sau đó Ban hội thẩm soạn
thảo Báo cáo chính thức để gửi đến tất cả các thành viên WTO và chuyển cho DSB thông
qua.

10

download by :


Trong quá trình xem xét vụ việc, Ban hội thẩm có thể tìm kiếm thơng tin từ nhiều
nguồn khác nhau hoặc thành lập nhóm chuyên gia để tư vấn cho Ban về các vấn đề kỹ
thuật hoặc môi trường.
Các phiên họp thảo luận và tài liệu lưu hành trong quá trình hoạt động của Ban hội
thẩm phải được giữ bí mật nhằm đảm bảo tính khách quan, độc lập của Ban. Tuy nhiên
một Bên tranh chấp có quyền cơng khai các tài liệu mà mình đã cung cấp cho Ban hội
thẩm.
Khác với cơ chế giải quyết tranh chấp trong GATT, DSU có quy định hết sức chặt
chẽ về các thời hạn cho hoạt động của Ban hội thẩm nhằm mục tiêu giải quyết nhanh
chóng tranh chấp, tránh để quá lâu làm ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của hàng hố dịch
vụ cũng như ý nghĩa của khuyến nghị giải quyết tranh chấp. Điều 12 DSU quy định:
- Ban hội thẩm phải bắt đầu công việc giải quyết tranh chấp chậm nhất là 1 tuần sau khi
được thành lập
- Báo cáo chính thức phải được hồn thành chậm nhất là 6 tháng kể từ khi thành lập Ban
hội thẩm (nếu là trường hợp hàng hóa liên quan dễ bị hư hỏng thì thời hạn này là 3 tháng).
Thời hạn này cũng có thể được DSB kéo dài thêm trên cơ sở yêu cầu của Ban hội thẩm với
lý do giải thích rõ ràng nhưng trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được gia hạn thêm
quá 3 tháng.
- Các thời hạn trên có thể được điều chỉnh trong trường hợp tranh chấp có liên quan đến
một nước đang phát triển
4.5. Thơng qua Báo cáo của Ban hội thẩm (Adoption of Panel Report)

Báo cáo của Ban hội thẩm được chuyển cho tất cả các thành viên WTO và được
DSB thông qua trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày Báo cáo được chuyển cho các thành
viên trừ khi một Bên tranh chấp quyết định kháng cáo hoặc DSB đồng thuận phủ quyết
Báo cáo (các Bên tranh chấp và các thành viên WTO khác có quyền đưa ra ý phản đối có
kèm theo lý do bằng văn bản đối với Báo cáo của Ban hội thẩm chậm nhất là 10 ngày
trước khi DSB họp để thông qua Báo cáo).
Báo cáo của Ban hội thẩm được lập thành văn bản trong đó phải có các nội dung sau:
trình bày các tình tiết thực tế của vụ việc, tường trình về việc áp dụng các qui định của
WTO trong các vấn đề liên quan, kết luận và các khuyến nghị cùng với các căn cứ dẫn tới
kết luận, khuyến nghị đó.
4.6. Trình tự Phúc thẩm (Appellate Review)
Các bên tranh chấp có thể kháng cáo các vấn đề pháp lý trong Báo cáo của Ban hội
thẩm (yêu cầu phúc thẩm) trên cơ sở yêu cầu chính thức bằng văn bản. Khi có yêu cầu này
thủ tục phúc thẩm sẽ được bắt đầu.
Trong quá trình làm việc của SAB, các Bên tranh chấp và các Bên thứ ba có quyền
đệ trình ý kiến bằng văn bản hoặc trình bày miệng tại phiên họp của cơ quan này. Hoạt
động của SAB được giữ bí mật. Việc xem xét và đưa ra Báo cáo phải được thực hiện với
sự tham gia của các Bên tranh chấp.
Cơ quan Phúc thẩm ra Báo cáo trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày kháng cáo (trường
hợp có u cầu gia hạn thì có thể kéo dài thêm 30 ngày nữa nhưng phải thơng báo lý do
cho DSB biết). Báo cáo này có thể giữ nguyên, sửa đổi hoặc loại bỏ các vấn đề và kết luận
pháp lý của Ban hội thẩm. Các Bên khơng có quyền phản đối Báo cáo này. DSB thông qua

11

download by :


Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm trong thời hạn 30 ngày kể từ khi Báo cáo của SAB được
chuyển đến tất cả các thành viên trừ khi DSB đồng thuận phủ quyết.

4.7. Khuyến nghị các giải pháp (Recommended Remedies)
Khi Báo cáo được thông qua xác định một biện pháp của một Bên là vi phạm qui
định của WTO, cơ quan ra Báo cáo phải đưa ra khuyến nghị nhằm buộc Bên có biện pháp
vi phạm phải tuân thủ quy định của WTO (yêu cầu bị đơn rút lại hoặc sửa đổi biện pháp
liên quan) và có thể đưa ra các gợi ý (không bắt buộc) về cách thức thực hiện khuyến nghị
đó.
Trường hợp khiếu kiện khơng vi phạm, Bên thua kiện khơng phải rút lại biện pháp
liên quan (vì khơng có vi phạm) nhưng Báo cáo có thể khuyến nghị Bên thua thực hiện các
dàn xếp nhất định để thoả mãn các Bên liên quan (Báo cáo có thể đưa ra những gợi ý về
biện pháp dàn xếp thoả đáng, ví dụ: bồi thường)
4.8. Thi hành (Implementation)
Bên thua phải thông báo ý định về việc thi hành khuyến nghị tại buổi họp của DSB
triệu tập trong vòng 30 ngày kể từ ngày thông qua Báo cáo. Nếu không thực hiện được
ngay, Bên đó có thể được gia hạn thực hiện trong một khoảng thời gian hợp lý (thời hạn
này do DSB quyết định trên cơ sở đề nghị của các Bên; hoặc do các Bên tranh chấp thỏa
thuận trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày thông qua khuyến nghị; hoặc theo phán quyết
trọng tài tiến hành trong vòng 90 ngày kể từ ngày thông qua khuyến nghị).
DSB cũng là cơ quan giám sát việc thực thi khuyến nghị của các Bên liên quan.
Trong thời gian qui định cho việc thực hiện khuyến nghị, bất kỳ thành viên nào cũng có
thể đưa vấn đề thực hiện khuyến nghị này vào chương trình nghị sự của DSB; mỗi khi có
đề nghị như vậy thì Bên phải thực hiện khuyến nghị có nghĩa vụ giải trình bằng văn bản về
việc thực hiện khuyến nghị của mình gửi cho DSB chậm nhất là 10 ngày trước khi tiến
hành phiên họp của DSB.
4.9. Bồi thường và trả đũa
Bồi thường và trả đũa là các biện pháp giải quyết tạm thời được sử dụng nhằm đảm
bảo lợi ích của Bên thắng kiện trong thời gian Bên thua kiện không thể thực hiện được
khuyến nghị của Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (DSB) (giai đoạn trong khi chờ đợi Bên
thua kiện thực hiện khuyến nghị). Các biện pháp này không làm chấm dứt nghĩa vụ thực
hiện khuyến nghị của Bên vi phạm.
Cụ thể, nếu Bên thua kiện tạm thời không thể thực hiện được khuyến nghị của Cơ

quan Giải quyết Tranh chấp, các Bên tranh chấp có thể thỏa thuận về khoản bồi thường.
Việc bồi thường phải được thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện và phù hợp với hiệp định
có liên quan.
Nếu các Bên không đạt được thỏa thuận về việc bồi thường trong vòng 20 ngày kể từ
khi hết hạn thực hiện khuyến nghị, Bên thắng kiện có thể yêu cầu Cơ quan Giải quyết
Tranh chấp cho phép áp dụng các biện pháp trả đũa song song hoặc trả đũa chéo. Cần lưu
ý là Quy tắc Giải quyết tranh chấp trong WTO (DSU) nghiêm cấm việc trả đũa đơn
phương mà khơng có sự chấp thuận của cơ quan này (qui định này thực chất nhằm chấm
dứt hiện tượng trả đũa đơn phương khá phổ biến trong thực tiễn giải quyết tranh chấp của
GATT 1947). Mức độ và thời hạn trả đũa do Cơ quan Giải quyết tranh chấp (DSB) quyết
định căn cứ trên thủ tục qui định về vấn đề này trong Quy tắc Giải quyết tranh chấp trong

12

download by :


khuôn khổ WTO (DSU).
Trả đũa song song thực chất là việc Bên thắng kiện không phải thực hiện các nhân
nhượng thuế quan đối với hàng hoá của Bên thua kiện trong cùng lĩnh vực mà Bên thắng
kiện bị thiệt hại.
Trả đũa chéo là hình thức trả đũa nhằm vào lĩnh vực khác lĩnh vực bị thiệt hại trong
trường hợp việc trả đũa song song khơng thể thực hiện được (có thể trả đũa chéo lĩnh vực
– khác lĩnh vực nhưng trong cùng phạm vi điều chỉnh của một hiệp định; hoặc trả đũa
chéo hiệp định – trả đũa trong một lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của một hiệp định
khác nếu việc trả đũa song song và trả đũa chéo lĩnh vực đều không thể thực hiện được)
4.10. Trọng tài
Thủ tục trọng tài có thể được các Bên tranh chấp thoả thuận sử dụng trong các
trường hợp sau đây:
Trong khuôn khổ cơ chế giải quyết tranh chấp DSU: trọng tài có thể được sử dụng trong

các thủ tục sau:
- Xác định thời hạn thực hiện khuyến nghị trong trường hợp Bên thua không thể thực hiện
ngay khuyến nghị;
- Xác định mức độ trả đũa trong trường hợp Bên thua có kiến nghị về vấn đề này
Trong trường hợp này thủ tục trọng tài sẽ do các thành viên Ban hội thẩm ban đầu làm
trọng tài viên. Nếu các thành viên Ban hội thẩm khơng có điều kiện làm trọng tài viên thì
trọng tài viên (là một cá nhân hoặc một tổ chức) sẽ do Tổng Thư ký WTO chỉ định.
Trường hợp tranh cãi về mức độ trả đũa, trọng tài không đánh giá về bản chất biện pháp
trả đũa mà chỉ xem xét xem mức độ Bên thắng kiện đình chỉ các nhân nhượng/nghĩa vụ có
tương đương với mức độ thiệt hại mà Bên thắng kiện đã phải chịu khơng.
Ngồi khn khổ cơ chế giải quyết tranh chấp DSU:
Các Bên tranh chấp có thể thỏa thuận lựa chọn cơ chế trọng tài độc lập để giải quyết
tranh chấp của mình mà khơng cần sử dụng đến cơ chế của DSU (cơ chế sử dụng Ban hội
thẩm, Cơ quan Phúc thẩm…). DSU chỉ cho phép sử dụng trọng tài để giải quyết các tranh
chấp trong đó vấn đề tranh chấp (the issues in conflict) đã được các bên xác định một cách
rõ ràng và thống nhất.
Trong trường hợp này, quyết định lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài độc
lập phải được các Bên tranh chấp thông báo đến tất cả các thành viên WTO trước khi thủ
tục tố tụng được bắt đầu. Các thành viên WTO chỉ có thể tham gia thủ tục tố tụng nếu
được các Bên tranh chấp đồng ý.
Quyết định giải quyết của trọng tài phải được các Bên tuân thủ nghiêm túc. Các Bên
có nghĩa vụ thông báo về quyết định này cho các thành viên WTO, cho Hội đồng hoặc cho
Uỷ ban của Hiệp định có liên quan. Quy tắc giải quyết tranh chấp trong WTO (DSU) qui
định quyết định này của trọng tài phải phù hợp với các hiệp định có liên quan và không
được gây thiệt hại cho bất kỳ thành viên nào khác của WTO. Bất kỳ thành viên nào cũng
có quyền đưa ra câu hỏi liên quan đến quyết định này.
5. Những ưu tiên dành cho các quốc gia đang phát triển
Nguyên tắc đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các nước đang phát triển (SDT) là

13


download by :


một trong những nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài (GQTC) của WTO.
Nguyên tắc này được hình thành từ thời GATT 1947, được bổ sung qua các vòng đàm
phán, đặc biệt từ vòng đàm phán Uruguay và sau đó được ghi nhận tại Thủ tục giải quyết
tranh chấp của WTO (DSU).
Về cơ bản, nguyên tắc SDT bao gồm hai nội dung. Thứ nhất, các nước đang phát
triển (ĐPT) có thể chọn thủ tục nhanh hơn, yêu cầu có khung thời hạn dài hơn hay yêu cầu
trợ giúp pháp lý. Thứ hai, các Thành viên WTO cũng được khuyến khích dành sự quan
tâm đặc biệt đối với tình hình của các nước Thành viên ĐPT.
Hai nội dung trên của nguyên tắc SDT được quy định tại rất nhiều điều khoản của
DSU trong các giai đoạn khác nhau của thủ tục GQTC, cụ thể là tại giai đoạn tham vấn
(khoản 10 Điều 4, khoản 10 Điều 12), giai đoạn xét xử (khoản 10 Điều 8, khoản 10 và 11
Điều 12), giai đoạn thực thi phán quyết (khoản 2,7 và 8 Điều 21); các quy định về hỗ trợ
pháp lý và các quy định đặc biệt áp dụng trong trường hợp có quốc gia Thành viên ĐPT
tham gia vào tranh chấp (khoản 2 Điều 3 và Điều 24).
5.1 Đối xử đặc biệt và khác biệt trong giai đoạn tham vấn
Theo quy định của khoản 10 Điều 4 DSU, trong giai đoạn tiến hành thủ tục tham
vấn, các Thành viên WTO phải đặc biệt chú ý đến những vấn đề cụ thể và quyền lợi của
các Thành viên là các nước ĐPT. Mặc dù vậy, đây không phải là quy định mang tính chất
bắt buộc cũng khơng phải là nghĩa vụ thi hành mà chủ yếu thể hiện việc khuyến khích sự
quan tâm của các nước PT dành cho các nước ĐPT. Nếu đối tượng tham vấn là một biện
pháp do một Thành viên ĐPT tiến hành, các bên có thể thỏa thuận kéo dài thời gian được
quy định trong khoản 7 và 8 của Điều 46. Cụ thể, nếu vào thời điểm cuối giai đoạn tham
vấn, nếu các bên không đồng ý rằng việc tham vấn đã kết thúc thì Chủ tịch Cơ quan giải
quyết tranh chấp của WTO (DSB) có thể kéo dài thời hạn tham vấn (khoản 10 Điều 12).
5.2 Đối xử đặc biệt và khác biệt trong giai đoạn xét xử
Khi một tranh chấp xảy ra giữa một Thành viên PT và một Thành viên ĐPT, nếu có

yêu cầu của Thành viên ĐPT, thì bạn hội thẩm phải có ít nhất một hội thẩm từ một Thành
viên ĐPT (khoản 10 Điều 8). Hội thẩm này chỉ cần là công dân của một nước ĐPT bất kỳ
chứ không nhất thiết phải chính nước đang liên quan đến vụ kiện. Trường hợp một Thành
viên ĐPT là bị đơn, khi xem xét đơn kiện ban hội thẩm phải tạo đủ thời gian cho Thành
viên này để chuẩn bị và trình bày lập luận của mình, và sẽ khơng bị ràng buộc bởi các quy
định về thời hạn tại khoản 1 Điều 20 và khoản 4 Điều 21.
Ngoài ra, khoản 11 Điều 12 còn ghi nhận khi một hoặc nhiều bên là Thành viên
ĐPT, báo cáo của ban hội thẩm phải chỉ rõ ra các điều khoản có liên quan đến chế độ đãi
ngộ đặc biệt và khác biệt hơn đối với Thành viên là các nước ĐPT khi các điều khoản này
là một phần của những hiệp định có liên quan trong quá trình tiến hành các thủ tục GQTC
được các nước ĐPT nêu ra.
5.3 Đối xử đặc biệt và khác biệt trong giai đoạn thực thi phán quyết
Trong giai đoạn này, Thành viên là các nước ĐPT được đặc biệt chú ý đến các vấn
đề lợi ích liên quan đến các biện pháp là đối tượng của vụ tranh chấp (khoản 21 Điều 2).
Đây cũng là một điều khoản không có hiệu lực ràng buộc mà sẽ tùy thuộc vào sự cân nhắc
của cơ quan tài phán dành cho các nước đó. Quy định này đã được áp dụng lặp đi lặp lại
bởi các cơ quan có thẩm quyền theo khoản 3 Điều 21 của DSU về thời hạn hợp lý cho việc

14

download by :


thực thi[9]. Trong Quyết định của Trọng tài thực thi báo cáo của DSB (theo khoản 6 Điều
21 DSU) ngày 07/12/1998 về vụ kiện “Indonesia - một số biện pháp ảnh hưởng đến ngành
công nghiệp ô tô” (DS146), Trọng tài đã dựa vào khoản 2 Điều 21 của DSU để cho thêm
một thời gian sáu tháng để thực hiện trong hồn cảnh cụ thể của vụ kiện.
Bên cạnh đó, trong khuôn khổ giám sát việc thực hiện, Cơ quan giải quyết tranh
chấp (DSB) phải xem xét những hành động phù hợp và bổ sung các tình tiết thích hợp vào
trong báo cáo tình trạng giám sát, nếu Thành viên ĐPT đưa ra yêu cầu (khoản 7 Điều 21).

Trường hợp tranh chấp do Thành viên ĐPT đưa ra, thì DSB phải cân nhắc biện pháp thích
hợp có thể được áp dụng, khơng chỉ ở khía cạnh thương mại của các biện pháp bị khiếu
nại, mà còn cả những ảnh hưởng của chúng tới nền kinh tế của các Thành viên ĐPT có
liên quan (Điều 21 khoản 8).
5.4 Đối xử đặc biệt đối với các Thành viên kém phát triển nhất
Hiện nay, WTO có 30 Thành viên kém phát triển nhất, trong đó có 24 quốc gia ở
Châu Phi, 5 quốc gia ở Châu Á và 1 quốc gia ở Châu Mỹ (Latin). Tất cả các quy tắc về đối
xử đặc biệt đối với nhóm nước ĐPT được áp dụng đối với Thành viên là nước kém phát
triển.
Ngồi ra, DSU cịn quy định một số quy tắc cụ thể đặc biệt chỉ áp dụng riêng cho
Thành viên kém phát triển. Cụ thể, khi xác định nguyên nhân của vụ tranh chấp và xác
định thủ tục GQTC có liên quan đến Thành viên kém phát triển, các Thành viên và DSB
cần có lưu ý đặc biệt đến tình hình đặc biệt của các Thành viên kém phát triển. Theo tinh
thần đó, các Thành viên cần kiềm chế một cách thích hợp việc khởi kiện về các vấn đề có
liên quan đến các Thành viên thuộc nhóm nước kém phát triển. Nếu có thiệt hại bắt nguồn
từ biện pháp do Thành viên kém phát triển thực hiện thì các bên nguyên đơn cần phải kiềm
chế một cách thích hợp trong việc yêu cầu bồi thường hoặc xin phép tạm hoãn thi hành các
nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác (Điều 24 khoản 1). Trong q trình tham vấn, nếu
khơng đạt được một giải pháp thỏa đáng và có Thành viên kém phát triển, Tổng Giám đốc
WTO hoặc Chủ tịch DSB phải đưa ra sáng kiến làm mơi giới, trung gian và hịa giải để
giúp các bên GQTC trước khi có yêu cầu thành lập ban hội thẩm. Tổng Giám đốc WTO
hoặc Chủ tịch DSB khi thực hiện việc hỗ trợ đó có thể tham khảo từ bất cứ nguồn nào
được cho là thích hợp (khoản 2 Điều 24).
5.5 Trợ giúp pháp lý
Khi giúp các Thành viên trong quá trình GQTC, Ban Thư ký WTO cần cung cấp
thêm tư vấn pháp lý và hỗ trợ cho Thành viên là các nước ĐPT; cụ thể là cung ấp chuyên
gia pháp lý có năng lực từ các cơ quan dịch vụ hợp tác kỹ thuật của WTO cho bất cứ
Thành viên nào là các nước ĐPT nếu có yêu cầu. Chuyên gia này phải giúp các nước này
theo hướng nhằm đảm bảo tính khách quan của Ban Thư ký (khoản 2 Điều 27 của DSU).
Ban Thư ký phải tổ chức những khóa đào tạo đặc biệt cho các Thành viên có quan tâm về

những thủ tục và thực tế GQTC nhằm tạo điều kiện cho các chuyên gia của các Thành viên
được cung cấp thông tin tốt hơn về lĩnh vực này (khoản 3 Điều 27 của DSU).
=> Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO được các nước đang phát triển sử dụng như một
công cụ có hiệu quả để giải quyết tranh chấp thương mại với các nước phát triển. Và xét về
tồn cục thì Cơ chế này là một bước phát triển tiến bộ theo hướng công bằng hơn trong

15

download by :


quan hệ thương mại quốc tế.
6. Ví dụ về giải quyết tranh chấp trong WTO
Đây là vụ tranh chấp thương mại đầu tiên của Việt Nam tại WTO, xoay quanh việc
Việt Nam phản đối Mỹ áp đặt lệnh chống bán phá giá với sản phẩm tôm của nước ta.
6.1. Nguyên nhân xảy ra tranh chấp
Vào những năm đầu 2000, khi đó, Việt Nam thực thi chính sách mở cửa và hội nhập
mạnh mẽ, các doanh nghiệp tôm của ta đã thâm nhập và dần khẳng định vị thế của mình
trên thị trường Mỹ.
Nhờ chất lượng và giá thành hợp lý, sản phẩm tơm đơng lạnh của Việt Nam đã
nhanh chóng giành được thị phần lớn tại thị trường Mỹ và đã có lúc doanh nghiệp tơm của
Việt Nam như Minh Phú đã vươn lên trở thành nhà nhập khẩu tôm đơng lạnh nước ngồi
lớn nhất tại Mỹ.
Đứng trước thách thức cạnh tranh đến từ hàng nhập khẩu, các nhà sản xuất tôm nội
địa nước Mỹ - Liên minh Tôm miền Nam (Southern Shrimp Alliance “SSA”), đã lên tiếng
và gửi đơn khiếu nại đến Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) và Ủy Ban Thương mại quốc tế
Hoa Kỳ (ITC) để yêu cầu khởi xướng vụ việc điều tra và áp thuế chống bán phá giá
(CBPG) đối với sản phẩm tôm nhập khẩu nước ngồi đến từ 6 nước.
Tháng 2/2005, DOC chính thức ban hành lệnh áp thuế CBPG với tôm Việt Nam,
cùng với 5 quốc gia khác là Thái Lan, Ấn Độ, Trung Quốc, Brazil và Ecuador.

Ngay sau đó, Thái Lan và Ecuador, với vị thế là thành viên của WTO, đã gửi Đơn
yêu cầu giải quyết tranh chấp vụ việc điều tra và áp thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ
lên DSB và đã thành cơng. Cịn Việt Nam, lúc đó chưa thể kiện Mỹ vì chưa là thành viên
của WTO. Nhưng ngay từ thời điểm này, ta đã nghiên cứu và có cơng tác chuẩn bị để sẵn
sàng kiện Mỹ ngay khi có thể.
6.2. Tiến trình tranh chấp
* Giai đoạn 1: Tham vấn
Ngày 01/02/2010, Chính phủ Việt Nam đã gửi yêu cầu tham vấn tới Chính phủ Hoa
Kỳ liên quan tới các biện pháp CBPG mà Hoa Kỳ đã áp dụng đối với sản phẩm tôm nước
ấm đông lạnh của Việt Nam.
Cụ thể, Việt Nam khiếu nại các biện pháp sau đây của DOC là vi phạm WTO:
- Sử dụng phương pháp “Quy về 0 – Zeroing” trong tính tốn biên độ phá giá;
- Giới hạn số lượng bị đơn được lựa chọn điều tra trong điều tra ban đầu và rà sốt hành
chính;
- Phương thức xác định thuế suất áp dụng đối với các bị đơn tự nguyện khơng được lựa
chọn trong điều tra rà sốt hành chính lần 2 và 3;
- Phương pháp xác định mức thuế suất tồn quốc dựa trên thơng tin sẵn có bất lợi đối với
những doanh nghiệp Việt Nam không chứng minh được sự độc lập trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của họ với Nhà nước.
Việt Nam cho rằng những phương pháp này của Hoa Kỳ vi phạm các Điều I, II, VI:1
và VI:2 Hiệp định GATT 1994; một số Điều của Hiệp định về Chống bán phá giá (CBPG);
Điều XVI:4 Hiệp định Thành lập WTO và Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam.
Trong đó, phương pháp Zeroing là nội dung trọng tâm.

16

download by :


Tuy nhiên, tham vấn giữa hai bên nhằm giải quyết ổn thỏa, nhanh chóng vụ việc đã

khơng thành cơng.
(Đơi nét về phương pháp tính biên độ phá giá Zeroing:
Điều 2.4.2 của Đạo luật chống bán phá giá quy định cơ quan điều tra phải “so sánh giữa
giá trị bình quân gia quyền thơng thường với giá bình qn gia quyền của tất cả các giao dịch
xuất khẩu có thể so sánh được hoặc thông qua so sánh giữa giá trị thông thường với giá xuất
khẩu trên cơ sở từng giao dịch”. Ở đây, việc so sánh phải được thực hiện trên tất cả các giao
dịch xuất khẩu mới bảo đảm sự cơng bằng, vì trong các giao dịch đó có giao dịch có biên độ
phá giá dương nhưng cũng có các giao dịch có biên độ phá giá âm và giữa chúng khi bù trừ
cho nhau sẽ phản ánh một cách chính xác nhất về việc có bán phá giá hay không và mức độ
bán phá giá tác động lên thị trường nước nhập khẩu như thế nào. Khi sử dụng phương pháp
Zeroing với việc quy về 0 tất cả các giao dịch có biên đơ phá giá âm là
vi phạm vào nguyên tắc “so sánh công bằng” mà Điều 2.4.2 Hiệp định ADA đã quy định).
Và cách tính này khiến biên độ phá giá bị đẩy lên cao không phản ánh đúng thực tế)
* Giai đoạn 2: Hội thẩm
Ngày 7/4/2010 Việt Nam chính thức đề nghị WTO thành lập Ban Hội thẩm giải
quyết tranh chấp này theo Cơ chế giải quyết trong khuôn khổ WTO (DSU). Vụ kiện do
Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) và một số doanh nghiệp xuất
khẩu tôm của ta phối hợp triển khai.
Nội dung tranh chấp của vụ việc này của Việt Nam thu hút sự quan tâm của nhiều
bên. Có tới 7 nước đăng ký tham gia với tư cách bên thứ ba vào vụ kiện này (bao gồm:
Liên minh Châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mexico, Thái Lan, Trung Quốc và Ấn Độ). Đa
số các nước này trong quá trình xem xét của Ban Hội thẩm đều có ý kiến ủng hộ quan
điểm của Việt Nam (trừ trong một số hãn hữu vấn đề mà họ không có cùng mối quan tâm
như Việt Nam – ví dụ về phương pháp sử dụng đối với nước có nền kinh tế phi thị trường).
* Giai đoạn 3: Giải quyết tranh chấp tại Ban hội thẩm lần 1 (mã vụ kiện DS404)

Ngày 11/07/2011, Ban Hội thẩm ban hành báo cáo tới các bên liên quan. Báo cáo
được xây dựng trên cơ sở phân tích các vấn đề khiếu kiện, các lập luận và phản biện của
các bên tham gia. Cụ thể, Báo cáo nêu rõ một số vấn đề chính sau đây:
- Về phương pháp Zeroing: Việt Nam thắng: Do Ban Hội thẩm cho rằng việc sử dụng

phương pháp “Quy về 0” trong bất kỳ rà sốt hành chính nào của Hoa Kỳ là vi phạm Điều
9.3 của Hiệp định về Chống bán phá giá và Điều VI:2 GATT 1994.
- Về việc hạn chế số lượng bị đơn bắt buộc: Việt Nam thua: Do trên thực tế, khơng có
doanh nghiệp nào của Việt Nam không được lựa chọn điều tra nhưng cung cấp “bản trả lời
tự nguyện”.
- Về mức thuế suất áp dụng cho các bị đơn tự nguyện: Việt Nam thắng: Vì DOC sử dụng
phương pháp Zeroing (đã bị tuyên là vi phạm) trong vụ điều tra gốc để tính tốn thuế suất
cho bị đơn tự nguyện nên việc DOC bê y nguyên mức thuế suất này các bị đơn tự nguyện
trong POR2 và POR3 được Ban Hội thẩm xác định là vi phạm WTO.
- Về xác định mức thuế suất tồn quốc: Việt Nam thắng: Vì theo Điều 9.4 của ADA, thuế
suất loại “all others” được áp dụng khơng kèm theo điều kiện gì, việc DOC đặt thêm điều
kiện “doanh nghiệp phải chứng minh được mình độc lập khỏi sự kiểm soát của Nhà nước”
là vi phạm WTO.

17

download by :


=> Thắng 3 trên 4 khía cạnh, Việt Nam chính thức thắng vụ kiện: Ngày 2/9/2011,
Báo cáo của Ban Hội thẩm đã ra phán quyết yêu cầu Mỹ dỡ bỏ thuế CBPG với tôm Việt
Nam. Hoa Kỳ không phản đối các phán quyết nêu trên của Ban Hội thẩm và đồng ý sẽ
thực thi phán quyết trong khoảng thời gian là 10 tháng, tức là không muộn hơn ngày
2/7/2012. Tuy nhiên, phía Mỹ liên tục trì hỗn, khơng thực thi phán quyết.
* Giai đoạn 4: Giải quyết tranh chấp tại Ban hội thẩm lần 2 (mã vụ kiện DS429)

Cùng với việc đấu tranh trên diễn đàn ngoại giao đa phương, ta tiếp tục gây sức ép
về pháp lý với Hoa Kỳ. Sau thời hạn chót tháng 7/2012 Mỹ khơng thực thi phán quyết của
DSB, đến ngày 17/01/2013, ta đề nghị thành lập Ban hội thẩm trong khuôn khổ DSB (vụ
kiện DS429) để yêu cầu Mỹ thực thi phán quyết.

Đến ngày 22/4/2015, DSB đã thông qua phán quyết yêu cầu Hoa Kỳ phải: Dỡ bỏ
lệnh áp thuế CBPG riêng rẽ cho một số doanh nghiệp xuất khẩu tôm của Việt Nam, trong
đó có Minh Phú; Sửa đổi kết luận của cuộc Rà soát cuối cùng lần thứ nhất năm 2010 để từ
đó dỡ bỏ lệnh áp thuế CBPG tơm cho các doanh nghiệp Việt Nam; Huy bỏ quy đinh về
thuế suất toàn quốc trong các vụ điều tra CBPG liên quan đến các nước có nền kinh tế phi
thị trường như Việt Nam và Trung Quốc.
* Kết thúc vụ kiện:
17 giờ ngày 18/7/2016, cơ quan đại diện của ta ở Geneva đã nhận được thơng tin
chính thức rằng "tại Washington, Việt Nam và Hoa Kỳ đã ký thỏa thuận giải quyết vụ
tranh chấp theo hướng có lợi cho Việt Nam”.
Sự kiện đã chấm dứt 8 năm khởi động và theo đuổi vụ tranh chấp thương mại đầu
tiên của Việt Nam tại WTO.
6.3. Tài liệu chi tiết về vụ kiện trên Website của WTO
- Vụ kiện DS404: />- Vụ kiện DS429: />
18

download by :


KẾT LUẬN
Qua hơn một thập kỷ thực hiện, cơ chế giải quyết tranh chấp này đã tỏ rõ ưu thế của
mình trong việc giải quyết có hiệu quả các tranh chấp giữa các quốc gia trong khuôn khổ
WTO. Hiệu quả này đạt được chủ yếu dựa trên các qui định hết sức chặt chẽ về thủ tục
được nêu tại các văn bản (nguồn) khác nhau, cơ chế thông qua quyết định mới (cơ chế
đồng thuận phủ quyết), các cơ quan chuyên môn độc lập với các thời hạn cụ thể. Không
phải ngẫu nhiên mà cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO được coi là một trong những
thành công cơ bản của Vòng đàm phán Urugoay.

19


download by :



×