1
CHƯƠNG 1
CÁC HOẠT ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA NHTM
1.1 Khái niệm:
NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ tín dụng có vị trí quan trọng nhất
trong nền kinh tế thị trường ở các nước. Có nhiều khái niệm khác nhau về
NHTM:
Ở Mỹ, NHTM là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ
tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
Ở Pháp, NHTM là những doanh nghiệp mà hoạt động thường xuyên là
nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền để
dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.
Ở Ấn Độ, NHTM là cơ sở nhận các khoản ký thác để cho vay hay tài
trợ đầu tư.
Theo Pháp lệnh ngân hàng Việt Nam, NHTM là tổ chức kinh doanh tiền
tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với
trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ
chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Ở Việt Nam, theo Luật các Tổ chức tín dụng đã sửa đổi: “… Ngân hàng
là tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và hoạt động
kinh doanh khác có liên quan…Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh
tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gởi, sử
dụng số tiền này để cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán…”
Như vậy, chúng ta có thể đưa ra khái niệm chung nhất về NHTM:
2
NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt chuyên kinh doanh về tiền tệ với
hoạt động thường xuyên là huy động vốn, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cung
cấp các dịch vụ tài chính và các hoạt động khác có liên quan.
1.2 Các hoạt động chủ yếu của NHTM:
1.2.1 Huy động vốn :
Nghiệp vụ huy động vốn là hoạt động tiền đề có ý nghĩa đối với bản
thân ngân hàng cũng như đối với xã hội. Trong nghiệp vụ này, NHTM được
sử dụng những biện pháp và công cụ cần thiết mà luật pháp cho phép để huy
động các nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội, làm nguồn vốn tín dụng để cho vay
đối với nền kinh tế. Kết qủa của nghiệp vụ này là tạo ra nguồn vốn đáp ứng
các nhu cầu của nền kinh tế.
Trong tổng nguồn vốn, vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu của NHTM,
thực chất là tài sản bằng tiền của các sở hữu chủ mà ngân hàng tạm thời quản
lý và sử dụng nhưng với nghĩa vụ hoàn trả kịp thời, đầy đủ khi khách hàng
yêu cầu. Nguồn vốn huy động gồm có:
- Tiền gửi không kỳ hạn của đơn vị, cá nhân.
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
- Tiền phát hành kỳ phiếu, trái phiếu.
- Các khoản tiền gửi khác.
1.2.2 Cấp tín dụng và đầu tư :
Nghiệp vụ cho vay và đầu tư là nghiệp vụ sử dụng vốn quan trọng nhất,
quyết định đến khả năng tồn tại và hoạt động của NHTM. Đây là các nghiệp
vụ cấu thành bộ phận chủ yếu và quan trọng của tài sản có của ngân hàng.
3
- Cấp tín dụng: là việc TCTD thoả thuận để khách hàng sử dụng một
khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu,
cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.
+ Cho vay (Trực tiếp): là loại hình tín dụng nghiệp vụ của NHTM trong
đó ngân hàng sẽ cho người đi vay một số vốn để sản xuất kinh doanh, đầu tư
hoặc tiêu dùng. Khi đến hạn người đi vay phải hoàn trả vốn và tiền lãi. Ngân
hàng kiểm soát người đi vay, kiểm soát được qúa trình sử dụng vốn. Người đi
vay có ý thức quan tâm đến việc trả nợ cho nên bắt buộc họ phải quan tâm đến
việc sử dụng sao cho có hiệu qủa để hoàn trả nợ. Trong cho vay mức độ rủi ro
rất lớn, không thu hồi được vốn vay hoặc trả không hết hoặc trả không đúng
hạn… do chủ quan. Do đó, trong hoạt động cho vay, các ngân hàng sử dụng
các biện pháp đảm bảo: thế chấp, cầm cố…
Rủi ro tín dụng nói riêng và rủi ro trong cho vay nói chung vế phía ngân
hàng mang tính khách quan nhiều hơn. Do đó, một mặt các ngân hàng trích
lập quỹ dự phòng để bù đắp rủi ro, mặt khác bản thân các ngân hàng phải sử
dụng các biện pháp nghiệp vụ theo hướng không ngừng cải tiến và hoàn thiện
để có thể được nhiều rủi ro có thể xảy ra trong cho vay.
+ Chiết khấu: là nghiệp vụ cho vay (gián tiếp) mà ngân hàng sẽ cung
ứng vốn tín dụng cho một chủ thể và một chủ thể khác thực hiện việc trả nợ
cho ngân hàng. Các đối tượng trong nghiệp vụ này gồm hối phiếu, kỳ phiếu,
trái phiếu và các giấy tờ có giá khác.
+ Cho thuê tài chính: là loại hình tín dụng trung, dài hạn. Trong đó, các
công ty cho thuê tài chính dùng vốn của mình hay vốn do phát hành trái phiếu
để mua tài sản thiết bị theo yêu cầu của người đi thuê và cho thuê trong một
thời gian nhất định. Người đi thuê phải trả cho công ty cho thuê tài chính tiền
thuê mỗi quý hoặc mỗi tháng 1 lần. Khi kết thúc hợp đồng cho thuê tài chính
người đi thuê được quyền mua hoặc kéo dài thời hạn thuê, hoặc trả lại thiết bị
4
cho công ty cho thuê tài chính. Đây là loại hình tín dụng mới được triển khai ở
Việt Nam và có khả năng phát triển mạnh trong tương lai. Ngân hàng phải lập
công ty trực thuộc chuyên trách nghiệp vụ này.
+ Bảo lãnh ngân hàng: trong loại hình nghiệp vụ ngân hàng này, khách
hàng được ngân hàng cấp bảo lãnh cho khách hàng nhờ đó khách hàng sẽ
được vay vốn ngân hàng khác hoặc thực hiện hợp đồng kinh tế đã ký kết.
+ Bao thanh toán (Factoring): là hình thức tài trợ cho hoạt động mua
bán qua việc mua lại những khoản thanh toán chưa đến hạn từ các hoạt động
sản xuất kinh doanh, cung ứng hàng hoá và dịch vụ. Hoạt động mua nợ
thường do công ty trực thuộc chuyên trách đảm nhận.
+ Các hình thức khác.
- Đầu tư: Trong nghiệp vụ này, ngân hàng sẽ dùng nguồn vốn của mình
và nguồn vốn ổn định khác để đầu tư dưới các hình thức như :
• Hùn vốn, mua cổ phần của các công ty, xí nghiệp; việc hùn vốn
mua cổ phần chỉ được phép thực hiện bằng vốn tự có của ngân hàng.
• Mua trái phiếu Chính phủ, chính quyền điạ phương.
• Mua trái phiếu công ty…
Tất cả mọi hoạt động đầu tư vào chứng khoán đều nhằm đa dạng hóa
thu nhập nhưng mặc khác nhờ hoạt động đầu tư mà các rủi ro trong hoạt động
ngân hàng sẽ được phân tán. Ngoài ra, nếu đầu tư vào trái phiếu Chính phủ thì
mức độ rủi ro sẽ rất thấp. Vì vậy, các NHTM có xu hướng tập trung nguồn
vốn nhàn rỗi đầu tư vào trái phiếu chính phủ.
1.2.3 Các hoạt động kinh doanh dịch vụ ngân hàng:
Dịch vụ ngân hàng ngày càng phát triển vừa hỗ trợ đáng kể cho việc
khai thác nguồn vốn, mở rộng đầu tư, vừa tạo thêm thu nhập cho ngân hàng
5
qua các khoản hoa hồng, phí dịch vụ… có vị trí xứng đáng trong giai đoạn
phát triển hiện nay của NHTM. Các hoạt động này gồm:
- Các dịch vụ thanh toán, thu chi hộ cho khách hàng (chuyển tiền, thu
hộ séc, dịch vụ cung cấp thẻ tín dụng, thẻ thanh toán…).
- Nhận bảo quản các tài sản quý giá, các giấy tờ, chứng thư quan trọng
của dân chúng.
- Mua bán hộ: theo uỷ nhiệm của khách hàng, ngân hàng thông qua
Công ty chứng khoán trực thuộc đứng ra phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu
công ty hoặc trái phiếu nhà nước. Ngân hàng còn mua bán ngoại tệ, kim khí
quý, đá quý cho khách hàng qua các nghiệp vụ phái sinh.
- Kinh doanh mua bán ngoại tệ, vàng, bạc, đá quý.
- Tư vấn tài chính, tiền tệ như cung cấp thông tin, hướng dẫn chính sách
tài chính tiền tệ, thương mại, lập dự án đầu tư, uỷ thác đầu tư… cho khách
hàng.
1.3 Tín dụng ngân hàng:
1.3.1 Khái niệm:
TDNH là quan hệ vay trả nợ giữa các ngân hàng với các xí nghiệp, tổ
chức kinh tế, các tổ chức và cá nhân được thực hiện dưới hình thức ngân hàng
đứng ra huy động vốn bằng tiền và cho vay (cấp tín dụng) đối với các đối
tượng trên.
TDNH là hình thức tín dụng chủ yếu, chiếm vị trí đặc biệt quan trọng
trong nền kinh tế.
TDNH ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của hệ thống
ngân hàng; đây là hình thức tín dụng chuyên nghiệp, hoạt động của nó hết sức
đa dạng và phong phú.
1.3.2 Đặc điểm của TDNH:
6
- Chủ thể tham gia gồm một bên là ngân hàng và bên còn lại là các chủ
thể khác trong nền kinh tế như các doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân…
- Vốn tín dụng được cấp chủ yếu dưới hình thái tiền tệ hay thay thế cho
tiền (séc, thẻ…).
- Thời hạn tín dụng của ngân hàng rất linh hoạt, có thể là ngắn hạn,
trung hạn hay dài hạn.
- Công cụ của TDNH cũng rất linh hoạt, có thể là kỳ phiếu, trái phiếu
ngân hàng, các hợp đồng tín dụng,…
- Là hình thức tín dụng mang tính tập trung, trong đó ngân hàng là trung
gian tín dụng giữa những người tiết kiệm và những người cần vốn để sản xuất
kinh doanh hoặc tiêu dùng.
- Mục đích của TDNH là nhằm phục vụ sản xuất, kinh doanh hoặc tiêu
dùng qua đó thu được lợi nhuận.
1.3.3 Tác dụng của TDNH:
- TDNH có thể mở rộng cho mọi đối tượng trong xã hội; nó có thể xâm
nhập vào các ngành, với nhiều loại hình và qui mô hoạt động lớn, vừa và nhỏ,
vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh cũng như dịch vụ, đời sống.
- TDNH giúp đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế do TDNH
không bị giới hạn về qui mô, có thể cung ứng vốn cho nền kinh tế với số
lượng rất lớn, với nhiều thời hạn khác nhau, nhờ đó giúp các doanh nghiệp có
vốn để kinh doanh và mở rộng đầu tư, đổi mới thiết bị, nâng cao năng lực sản
xuất.
- TDNH tác động và ảnh hưởng lớn đối với lưu thông tiền tệ của quốc
gia. Nhờ hoạt động của TDNH mà vốn tiền tệ của xã hội được huy động và sử
dụng hiệu quả cho nhu cầu phát triển kinh tế; nó vừa có tác dụng đẩy nhanh
tốc độ chu chuyển vốn, vừa tập trung phần lớn các chu chuyển tiền tệ qua hệ
7
thống ngân hàng. Đó là những điều kiện quan trọng để ổn định lưu thông tiền
tệ, ổn định giá cả trong nền kinh tế…
1.3.4 Phân loại TDNH:
* Căn cứ vào thời hạn, có 2 loại:
- Cho vay ngắn hạn để phục vụ sản xuất kinh doanh cho các đơn vị kinh
tế.
- Cho vay trung, dài hạn giúp các đơn vị thực hiện các dự án đầu tư, đổi
mới thiết bị, đổi mới công nghệ…
* Căn cứ vào tính chất luân chuyển của vốn, có 2 loại:
- Cho vay vốn lưu động.
- Cho vay vốn cố định.
* Căn cứ vào tính chất đảm bảo, có 2 loại:
- Cho vay bằng tín chấp.
- Cho vay có đảm bảo đối vật (thế chấp, cầm cố) hay đối nhân (bảo
lãnh).
* Căn cứ vào mối quan hệ giữa các chủ thể, có 2 loại:
- Cho vay trực tiếp: người đi vay và người trả nợ là một chủ thể.
- Cho vay gián tiếp (chiết khấu): người đi vay là một chủ thể, còn người
trả nợ (người thanh toán) là một chủ thể khác.
* Căn cứ vào phương pháp cấp tiền vay và thu nợ:
- Cho vay luân chuyển.
- Cho vay từng lần.
* Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn:
- Cho vay sản xuất kinh doanh.
- Cho vay tiêu dùng.
8
Đối tượng nào được TDNH phục vụ? Tại Việt Nam hiện nay, DNVVN là
nhóm khách hàng chủ lực.
1.4 Doanh nghiệp vừa và nhỏ:
1.4.1 Khái niệm DNVVN:
Việc phân loại DNVVN cũng như các tiêu chí phân loại phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, phù hợp với trình độ phát triển, điều kiện và mục đích phân loại
của mỗi nước. Nhìn chung, khái niệm DNVVN được sử dụng khác nhau trên
bình diện quốc gia, dựa trên các tiêu chí phổ biến như giá trị tài sản có, số lao
động, doanh thu, tỷ lệ góp vốn của các doanh nghiệp khác… Thậm chí trong
cùng một quốc gia, khái niệm DNVVN còn được phân loại dựa trên đặc tính
ngành và tiểu ngành.
Ở Đài loan, DNVVN là doanh nghiệp :
- Trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng: có vốn góp dưới 40 triệu
đô la Đài Loan (khoảng 1,4 triệu đô la Mỹ), số lao động thường xuyên dưới
300 người.
- Trong khai khoáng: có vốn góp dưới 40 triệu đô la Đài Loan (khoảng
1,4 triệu đô la Mỹ), lao động thường xuyên dưới 500 người.
- Trong thương mại, vận tải và dịch vụ khác: có tổng doanh thu hàng
năm dưới 40 triệu đô la Đài Loan, lao động dưới 50 người.
Ở Philippin, trong sản xuất, doanh nghiệp được chia thành 4 loại :
- Doanh nghiệp cực nhỏ và hộ gia đình : có vốn dưới 1,5 triệu pesos
(khoản 72.000 đô la Mỹ).
- Doanh nghiệp nhỏ: có vốn từ 1,5 đến 15 triệu pesos (khoảng 72.000 –
720.000 đô la Mỹ).
- Doanh nghiệp lớn: có vốn trên 60 triệu pesos (khoảng 720.000- 2,9
triệu đô la Mỹ).
9
Ở Nhật Bản, DNVVN được phân loại theo khu vực:
- Khu vực sản xuất: doanh nghiệp có dưới 300 lao động và 1 triệu đô la
Mỹ vốn đầu tư.
- Thương mại và dịch vụ: doanh nghiệp có dưới 100 lao động (đối với
doanh nghiệp bán buôn) hay 50 lao động (đối với doanh nghiệp bán lẻ và dịch
vụ), vốn đầu tư dưới 300.000 đô la Mỹ (đối với doanh nghiệp bán buôn) hay
100.000 đô la Mỹ (đối với doanh nghiệp bán lẻ và dịch vụ).
Ở Cộng đồng châu Âu (kể từ 1/1/2005) : DNVVN là doanh nghiệp
Tiêu chí Vừa Nhỏ Vi mô
Số lượng lao động tối đa 249 49 9
Doanh số tối đa (và/ hoặc) 50 triệu euros 10 triệu euros
2 triệu euros
Tài sản tối đa 43 triệu euros 10 triệu euros
2 triệu euros
Tỷ lệ góp vốn tối đa từ 1
hoặc nhiều doanh nghiệp
khác
25% 25%
Ở Việt Nam, khái niệm DNVVN được biết đến từ những năm 1990.
Hiện nay, Điều 3 của
Nghị định số 90/2001/NÐ-CP của Chính phủ ngày 23
tháng 11 năm 2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, định nghĩa
“DNVVN là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo
pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động
trung bình hàng năm không quá 300 người”.
Theo định nghĩa này, DNVVN
bao gồm:
• Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp;
• Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà
nước;
10
• Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật Hợp tác xã; Các hộ
kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03
tháng 02 năm 2000 của Chính phủ về Đăng ký kinh doanh.
Căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội cụ thể của ngành, địa phương,
trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt
áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu
nói trên.
1.4.2 Đặc điểm của DNVVN ở Việt Nam:
Đặc điểm của các DNVVN xuất phát từ chính quy mô doanh nghiệp.
DNVVN Việt Nam cũng có những đặc điểm tương tự như tại các quốc gia
khác trên thế giới. Ngoài ra, do đặc trưng của nền kinh tế, các DNVVN Việt
Nam còn có những đặc điểm riêng. Những đặc điểm cơ bản của các DNVVN
thể hiện như sau:
- Các doanh nghiệp này có quy mô nhỏ nên rất cơ động, linh hoạt, dễ
chuyển hướng kinh doanh, dễ xin thành lập doanh nghiệp vì đòi hỏi ít vốn,
diện tích mặt bằng không nhiều, các điều kiện sản xuất đơn giản; nhạy với
những thay đổi của thị trường; sẵn sàng chuyển hướng đầu tư vào các lĩnh vực
mới; có thể sản xuất sản phẩm có chất lượng tốt ngay cả khi điều kiện sản xuất,
kinh doanh có nhiều hạn chế.
- Các DNVVN ở Việt Nam thuộc nhiều thành phần kinh tế với nhiều
hình thức tổ chức doanh nghiệp nên các DNVVN thuộc các thành phần khác
nhau không được đối xử bình đẳng trong thời gian dài. Điều đó ảnh hưởng đến
tâm lý, phong cách kinh doanh của các doanh nghiệp khi tạo ra những khác
biệt trong tiếp cận các nguồn lực như giao đất, trong vay vốn ngân hàng, quan
hệ với chính quyền địa phương….
11
- Là những doanh nghiệp có quy mô vốn nhỏ và sử dụng ít lao động,
đây thường là những doanh nghiệp khởi đầu thuộc khu vực kinh tế tư nhân.
Đặc điểm này đã làm cho các DNVVN gặp nhiều khó khăn trong quá trình
hoạt động của mình.
- Khả năng quản lý hạn chế: các chủ doanh nghiệp thường là những kỹ
sư hoặc kỹ thuật viên tự đứng ra thành lập và điều hành doanh nghiệp. Họ vừa
quản lý doanh nghiệp, vừa trực tiếp tham gia sản xuất nên trình độ chuyên
môn quản lý không cao. Đôi khi thiếu sự tách bạch rõ ràng giữa các bộ phận,
người quản lý các bộ phận cũng thường là người sản xuất kiêm nhiệm. Phần
lớn những chủ doanh nghiệp đều không được đào tạo chính quy về quản lý,
thậm chí chưa được đào tạo, chỉ dựa trên kinh nghiệm và cảm tính.
- Trình độ chuyên môn lao động thấp. Các DNVVN không đủ khả năng
tài chính để thuê lao động có tay nghề cao. Họ chủ yếu sử dụng các kỹ năng
gia truyền, ít muốn truyền bá ra bên ngoài. Người lao động ít được đào tạo,
kinh phí đào tạo lại hạn hẹp vì vậy trình độ thấp và kỹ năng thấp. Ngoài ra,
các định kiến và tính bảo thủ trong các doanh nghiệp này cũng khiến nhiều lao
động có kỹ năng không muốn làm việc cho khu vực này.
- Khả năng về công nghệ thấp do không đủ tài chính để đổi mới nên
nhiều DNVVN có những sáng kiến đáng giá nhưng không đủ tài chính cho
việc nghiên cứu ứng dụng nên không thể đổi mới công nghệ hoặc bị các doanh
nghiệp lớn lấn lướt. Tuy nhiên, DNVVN thường thành công trong việc tận
dụng các thiết bị lạc hậu bị nơi khác thải loại, phục chế cho phù hợp với quy
mô của mình theo phương châm “cũ người mới ta” và lấy công làm lời. Điều
này thể hiện tính linh hoạt, cuối cùng đổi mới được công nghệ theo lối riêng
với chi phí thấp, trong chừng mực nào đó tồn tại được trong thị trường cạnh
tranh.
12
- Do tồn tại của lịch sử, đất đai ở đô thị chưa được quản lý và sử dụng
hợp lý. Sau năm 1975, doanh nghiệp quốc doanh và hợp tác được cấp mặt
bằng sản xuất kinh doanh khá hào phóng. Khi cơ cấu kinh tế chuyển đổi,
nhiều đơn vị phải ngưng hoạt động nhưng mặt bằng không được trả lại cho
nhà nước trong khi quỹ đất đai eo hẹp. Các doanh nghiệp được thành lập sau
này rất khó tìm mặt bằng sản xuất kinh doanh. Các DNVVN Việt Nam thường
sử dụng chính những diện tích đất riêng của chủ doanh nghiệp và khó mở rộng
mặt bằng vì giá đất ngày nay rất cao.
- Khả năng tiếp cận thị trường kém, đặc biệt là thị trường nước ngoài.
Nguyên nhân chủ yếu là do chi phí sản xuất đã cao không kham nổi phí tổn
tiếp thị quảng cáo. Thêm vào đó, thị trường của họ thường bó hẹp trong phạm
vi điạ phương, sản phẩm không đủ sức cạnh tranh với bên ngoài.
1.4.3 Vai trò của DNVVN :
1.4.3.1 Đóng góp quan trọng vào GDP và tốc độ tăng trưởng kinh tế.
DNVVN ngày càng đóng góp nhiều hơn vào GDP do số lượng doanh nghiệp
ngày càng lớn và phân bố rộng khắp các ngành, các lĩnh vực. Hiện nay, Việt
Nam có gần 200.000 DNVVN, đóng góp khoảng 27% GDP. Ngoài ra, tốc độ
tăng trưởng sản xuất của khu vực DNVVN cũng thường cao hơn so với các
khu vực khác. Nếu tính theo doanh thu của các doanh nghiệp cả nước, tỷ trọng
doanh thu của khu vực DNVVN theo quy mô lao động (dưới 300 người) năm
2002-2004 là 81.5%-86.5%. Điều đó chứng tỏ các DNVVN có đóng góp lớn
vào việc gia tăng sản lượng và tăng trưởng kinh tế.
1.4.3.2 Góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Việc nhiều doanh nghiệp,
chủ yếu là các DNVVN được thành lập tại các vùng nông thôn, miền núi,
vùng sâu, vùng xa sẽ làm giảm tỷ trọng giá trị ngành nông nghiệp và tăng tỷ
trọng giá trị ngành công nghiệp và dịch vụ trong GDP. Điều này sẽ giúp
chuyển dịch cơ cấu của toàn nền kinh tế.
13
1.4.3.3 Làm tăng hiệu qủa và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Sự ra
đời của các DNVVN đã làm tăng tính cạnh tranh về kinh tế. Nhiều doanh
nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực sẽ làm giảm tính độc quyền
và buộc các doanh nghiệp phải năng động, liên tục đổi mới để tồn tại và phát
triển. Với tính linh hoạt của mình, các DNVVN cũng sẽ tạo sức ép cạnh tranh
với các công ty, các tập đoàn lớn. Đồng thời, các DNVVN còn đóng vai trò
làm vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, thúc đẩy quá trình chuyên môn hoá và
phân công lao động xã hội, làm tăng hiệu qủa của chính DNVVN cũng như
công ty hợp tác.
1.4.3.4 Đóng góp không nhỏ vào ngân sách nhà nước. Tỷ lệ đóng góp vào
ngân sách của khu vực DNVVN đã tăng đáng kể và đang có xu hướng tăng
nhanh trong các năm gần đây. Hiện nay, chiếm tới 67% vào nguồn thu ngân
sách từ thuế.
1.4.3.5 Đóng góp vào quá trình gia tốc đổi mới công nghệ. Với sự linh hoạt
của mình, các DNVVN thường đi tiên phong áp dụng công nghệ mới cũng
như các sáng kiến kỹ thuật. Dưới áp lực cạnh tranh, các DNVVN thường
xuyên cải tiến công nghệ, tạo sự khác biệt để có thể cạnh tranh thành công. Dù
không tạo ra những phát minh vĩ đại, sáng kiến của họ vẫn là tiền đề thay đổi
công nghệ.
1.4.3.6 Tăng thu hút vốn đầu tư. Sau khi Luật Doanh nghiệp được ban hành,
việc tạo lập mới và mở rộng hoạt động sản xuất - kinh doanh đối với DNVVN
ở nước ta đã khởi sắc rõ nét. Theo thống kê, từ năm 2000 đến hết năm 2005 đã
có gần 120.000 DNVVN đăng kí thành lập mới theo Luật Doanh nghiệp. So
với năm trước, năm 2002, có 21.535 doanh nghiệp, tăng 9%, năm 2003, tăng
29%, năm 2004 tăng 37% và năm 2005 tăng 41%. Nếu năm 2001, trung bình
cứ 694 người dân có một doanh nghiệp đăng kí kinh doanh thì năm 2005 con
số này là 500 người. Tổng vốn đăng kí của DNVVN giai đoạn 2000-2005 cao
14
gấp 7,9 lần so với 9 năm trước đây (1991-1999). Tỉ trọng đầu tư của doanh
nghiệp khu vực kinh tế tư nhân (chủ yếu là DNVVN) trong tổng đầu tư toàn
xã hội tăng từ 20% năm 2000 lên 23% năm 2001, 25% năm 2002, 27% năm
2003, 32% năm 2004 và 34% năm 2005.
1.4.3.7 Tạo ra nhiều việc làm mới, giảm bớt áp lực về việc làm và thất
nghiệp. Hiện nay, do tỷ lệ tăng dân số tự nhiên cao trong những năm trước,
mỗi năm Việt Nam có thêm khoảng 1,4 triệu lao động mới. Bên cạnh đó, khu
vực doanh nghiệp nhà nước hiện đang sắp xếp lại nên tuy có tuyển mới để trẻ
hóa đội ngũ nhưng cũng cho một số người nghỉ trước tuổi. Do đó, lực lượng
lao động này trông chờ vào khu vực nông thôn và DNVVN. Hiện nay
DNVVN tạo ra việc làm mới với tốc độ tăng trưởng cao, chiếm khoảng 26%
tổng số lao động cả nước.
1.4.3.8 Đóng góp không nhỏ vào xuất khẩu. Với đặc điểm nền kinh tế chưa
phát triển cao, các ngành nghề ở nông thôn chủ yếu là sản xuất nhỏ vốn là các
nghề truyền thống, khu vực ngành nghề có khả năng thâm canh lao động như
dệt may, chế biến thuỷ sản… cũng có rất nhiều DNVVN tham gia. Vì vậy, các
DNVVN là lực lượng quan trọng tham gia làm hàng xuất khẩu. Một số ngành
nghề, đặc biệt là các ngành nghề thủ công, ngành nghề truyền thống, làm hàng
xuất khẩu chủ yếu dành cho các DNVVN.
1.4.3.9 Là tiền đề tạo ra những doanh nghiệp lớn, đồng thời lành mạnh
hóa môi trường đầu tư và kinh doanh. Khi kinh doanh thành công, quy mô
của doanh nghiệp sẽ được mở rộng và dần dần trở thành doanh nghiệp lớn, rồi
đến tập đoàn kinh tế. Ngoài ra, nhiều DNVVN tham gia thị trường sẽ tạo ra
cạnh tranh để phát triển và luôn có doanh nghiệp mới tham gia thêm, đồng
thời cũng có doanh nghiệp bị giải thể do hoạt động không hiệu quả. Việc
doanh nghiệp nhỏ tan rã không gây tác hại lớn, nhưng đối với một doanh
nghiệp lớn hay một tập đoàn vấn đề sẽ phức tạp hơn về mặt kinh tế xã hội.
15
1.4.3.10 Là tiền đề để tạo ra một môi trường văn hoá kinh doanh mang
tính kinh tế thị trường, tạo ra những nhà kinh doanh giỏi Việt Nam trải
qua giai đoạn kinh tế kế hoạch hoá tập trung khá lâu nên môi trường văn hoá
kinh doanh mang tính thị trường gần như không tồn tại hoặc không có cơ hội
phát triển. Ta còn thiếu đội ngũ đông doanh nhân giỏi, có khả năng điều hành
doanh nghiệp trong điều kiện quốc tế hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy,
việc tạo ra một môi trường văn hoá kinh doanh mang tính thị trường cũng như
một đội ngũ đông doanh nhân giỏi là lối cần thiết để hội nhập thành công.
1.5 Sự cần thiết tăng cường tài trợ DNVVN:
1.5.1 Đối với ngân hàng :
1.5.1.1 DNVVN là thị trường tiềm năng đối với ngân hàng. Số liệu thống
kê những năm gần đây cho thấy các DNVVN đang là khu vực có nhiều tiềm
năng phát triển:
Số lượng DNVVN đang tăng lên rất nhanh: Sau 6 năm thực hiện Luật
Doanh nghiệp, đến cuối năm 2005 cả nước có trên 200.000 doanh nghiệp
ngoài quốc doanh (trong đó gần 97% là DNVVN), tăng gấp 4 lần so với năm
2000, tăng gấp 5 lần so với tổng số doanh nghiệp ngoài quốc doanh được
thành lập từ năm 1991 đến 1999 gộp lại. Số lượng doanh nghiệp đăng ký
thành lập trung bình hàng năm tăng gấp 3,75 lần số trung bình hàng năm ở
thời kỳ 1991-1999, đạt tốc độ tăng trưởng số lượng doanh nghiệp bình quân
khoảng 10%/năm. Ngoài ra, cả nước còn có gần 2,5 triệu hộ kinh doanh cá
thể phi nông nghiệp và 11 triệu hộ nông dân sản xuất hàng hoá (Nguồn số
liệu: Phát biểu của Thủ tướng Phan Văn Khải tại Hội nghị với các Doanh
nghiệp tại Hà Nội ngày 9/2/2006).
Các DNVVN được đánh giá là năng động, hoạt động có hiệu quả. Điều
này xuất phát từ lợi thế của quy mô nhỏ, gọn nên việc chuyển hướng kinh
16
doanh của các DNVVN dễ dàng hơn các doanh nghiệp lớn. Các DNVVN hoạt
động trên hầu hết mọi địa bàn, mọi ngành nghề kinh tế (trong đó tập trung lớn
hơn vào các ngành thương mại, dịch vụ và tiểu công nghiệp). Thêm vào đó,
phần lớn chủ DNVVN là lớp trẻ, rất năng động, nhạy bén với những thay đổi
trên thị trường; họ có nhiều ý tưởng mới lạ có thể phát triển thành các dự án
kinh doanh hiệu quả. Một số doanh nghiệp tại các làng nghề truyền thống
được kế thừa những kinh nghiệm, bí quyết gia truyền để tạo ra những sản
phẩm đặc thù, có sức cạnh tranh cao.
Mức đóng góp của DNVVN vào nền kinh tế ngày càng lớn: Không chỉ
tăng trưởng về mặt số lượng, các DNVVN đang trở thành bộ phận quan trọng
đóng góp đáng kể cho nền kinh tế. Số liệu thống kê cho thấy các doanh
nghiệp này đóng góp khoảng 39% GDP, 32% tổng vốn đầu tư toàn nền kinh
tế, trên 90% số lao động sử dụng có việc làm thường xuyên. Đây là bộ phận
giữ vai trò quan trọng trong sản xuất, lưu thông hàng hoá, cung ứng dịch vụ,
là các vệ tinh gắn kết, hỗ trợ và thúc đẩy các doanh nghiệp lớn phát triển.
Phát triển DNVVN đang là vấn đề được Đảng và Nhà nước rất chú
trọng, được xem là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược
phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Trong tương lai, môi trường hoạt động
của các doanh nghiệp này sẽ được cải thiện, các chính sách hỗ trợ sẽ được
thực thi tốt hơn, có hiệu quả hơn và do đó các DNVVN sẽ có điều kiện phát
triển mạnh mẽ hơn nữa.
1.5.1.2 Ưu thế của nhiều doanh nghiệp lớn đang giảm sút:
Việt Nam đang theo xu hướng xoá bỏ độc quyền, tạo lập môi trường
cạnh tranh bình đẳng. Trước sức ép của hội nhập, phạm vi của một số Tổng
Công ty độc quyền hiện nay sẽ thu hẹp, song song với việc cổ phần hoá từng
phần hoặc toàn bộ các Tổng công ty này thì các công ty mới, nhỏ hơn cùng
ngành ra đời.
17
Chính bản thân một số doanh nghiệp được coi là lớn hiện nay không có
tiềm lực kinh tế thực sự, điển hình là các Tổng Công ty khối Giao thông-Xây
dựng cơ bản.
Khu vực Nhà nước, nơi tập trung hầu hết các doanh nghiệp lớn hiện
nay, đã và đang bộc lộ sự kém hiệu quả.
1.5.1.3 Lợi ích từ việc tăng cường tài trợ DNVVN:
Các DNVVN từ trước đến nay vẫn bị đánh giá là nhóm khách hàng có
độ rủi ro cao và hạch toán kế toán chưa đáng tin cậy. Tuy nhiên nếu thực hiện
tốt công tác thẩm định và sàng lọc, ngân hàng có thể duy trì một danh mục
khách hàng tốt.
Việc ngân hàng tăng cường tài trợ DNVVN đem lại các lợi ích cơ bản
sau:
- Phân tán rủi ro: Do số lượng khách hàng DNVVN lớn, quy mô từng
khoản vay nhỏ, trải rộng trên hầu hết các ngành nghề, lĩnh vực nên việc cho
vay các đối tượng này sẽ giúp phân tán rủi ro tín dụng.
- Tạo điều kiện để tăng thu phí dịch vụ ngân hàng do tổng số lượng
giao dịch lớn, các DNVVN lại thường có xu hướng sử dụng dịch vụ trọn gói
tại một ngân hàng do đó tạo cơ hội để ngân hàng nâng cao và thay đổi dần cơ
cấu thu nhập.
- Ngân hàng dễ quản lý do DNVVN thường có quy mô nhỏ, gọn, địa
bàn hoạt động hẹp.
- Khai thác tối ưu mạng lưới chi nhánh ngân hàng rộng khắp cả nước:
Do các DNVVN có mặt trên cả nước nên ngân hàng có thể khai thác tối ưu
mạng lưới chi nhánh tại hầu hết các tỉnh, thành phố. Hơn nữa, thế mạnh của
NHCT là tài trợ cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp và thương
nghiệp. Đây cũng là lĩnh vực hoạt động chính của các DNVVN hiện nay.
18
1.5.2 Đối với DNVVN :
Đối với các doanh nghiệp, vốn kinh doanh được tài trợ bằng nhiều hình
thức như vốn của bản thân chủ doanh nghiệp, vốn góp dưới hình thức hợp
doanh, vay mượn của gia đình và bạn bè, vay từ những tư nhân, sử dụng tín
dụng thương mại, vay từ xã hội qua việc phát hành ra thị trường các công cụ
tài chính như cổ phiếu và trái phiếu, và vay từ các TCTD tiêu biểu là NHTM,
trong đó TDNH vẫn là kênh tài trợ quan trọng nhất đối với các DNVVN do
các các nguồn tài chính khác có những hạn chế :
- Vay vốn tư nhân: lợi thế của hình thức này là đáp ứng được nhu cầu
vốn cấp bách, không cần phải qua nhiều thủ tục phức tạp, phiền hà. Tuy
nhiên, lãi suất của các khoản vay này thường rất cao, các hành vi bạo lực có
thể xẩy ra trong trường hợp doanh nghiệp không trả nợ đúng hạn.
- Hình thức gọi vốn liên kết cũng gặp nhiều khó khăn do bất cân xứng
thông tin của người bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, điều này có thể
khiến cho tài sản của doanh nghiệp bị đánh giá thấp, và do đó làm giảm nhu
cầu gọi vốn liên kết của bản thân chủ doanh nghiệp (Myers và Majluf 1984).
- Doanh nghiệp có thể sử dụng tín dụng thương mại: loại hình tín dụng
này thường có thời hạn rất ngắn và thường có lãi suất ngầm ẩn cao hơn rất
nhiều so với lãi suất có kỳ hạn tương đương của vốn vay từ NHTM, lãi suất
ngầm ẩn thể hiện ở chênh lệch giữa giá cả được chiết khấu (nếu trả ngay) và
giá cả trả chậm.
- Khả năng các doanh nghiệp nhỏ của Việt Nam có thể phát hành cổ
phiếu và trái phiếu hầu như không thể đạt được, đây là đặc điểm chung cho cả
các nước công nghiệp phát triển. Vì sao? Để được công nhận đủ tư cách phát
hành giấy nợ, doanh nghiệp phải đáp ứng được các tiêu chuẩn khắt khe của
các cơ quan quản lý thị trường vốn, công tác kế toán, kiểm toán của các doanh
19
nghiệp nhỏ thường có chí phí cao vẫn chưa đủ độ tin cậy để vượt qua các yêu
cầu này.
Vì vậy, TDNH có vai trò quan trọng đối với DNVVN được thể hiện qua
việc:
• Đảm bảo cung ứng đủ vốn lưu động thường xuyên, cho phép doanh
nghiệp duy trì sự ổn định và phát triển có hiệu qủa hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình.
• Đáp ứng nhu cầu vốn trung dài hạn để doanh nghiệp đầu tư thêm
máy móc, thiết bị, đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh,
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp…
• Cung ứng nguồn vốn với lãi suất thấp, hợp lý góp phần tăng lợi
nhuận, từ đó đẩy mạnh tốc độ tích lũy vốn cho doanh nghiệp.
• Do khả năng quản lý có giới hạn của các chủ DNVVN nên trong
quá trình tài trợ DNVVN, ngân hàng có thể tư vấn cho các DNVVN về những
vấn đề tài chính cũng như cung cấp thêm cho doanh nghiệp những thông tin
quan trọng về thị trường… giúp các doanh nghiệp nâng cao hiệu qủa phương
án, dự án sản xuất kinh doanh.
1.6 Kinh nghiệm về tài trợ DNVVN ở một số nước và bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam:
1.6.1 Kinh nghiệm của Philippines:
Chính phủ Philippines đã đưa ra hàng loạt chính sách quy định các tổ
chức tài chính, đặc biệt ngân hàng phải dành một tỷ lệ nhất định trong tổng số
vốn đầu tư cho các DNVVN vay. Trọng tâm của các chính sách này là Luật
Magna Carta. Theo luật này, các ngân hàng phải dành 10% trong tổng số các
khoản cho vay cho DNVVN.
20
Bên cạnh đó, để tạo ra các nguồn vốn hỗ trợ DNVVN, Chính phủ đã
triển khai các chương trình tín dụng đặc biệt dành cho DNVVN. Nguồn vốn
để thực hiện các chương trình này được cấp từ ngân sách quốc gia hoặc các
nguồn vốn dư thừa của các tổ chức tài chính Nhà nước như Hệ thống an ninh
xã hội và Hệ thống bảo hiểm dịch vụ chính phủ và các nguồn vốn ODA.
Ngoài ra, để nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn của DNVVN, Chính
phủ cho phép các NHTM được thành lập các chi nhánh ngân hàng và tiết kiệm
ở bất cứ chổ nào họ muốn. Chính sách này đã khuyến khích các ngân hàng mở
chi nhánh ở các vùng nông thôn, nơi có lượng lớn khách hàng. Do đó, khả
năng tiếp cận với các nguồn vốn đã trở nên dễ dàng hơn cho các DNVVN do
sự cạnh tranh giữa các ngân hàng trong cùng điạ phương.
Phát triển các tổ chức tài chính phi ngân hàng để hỗ trợ cho các
DNVVN.
Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ như hỗ trợ phát triển thị trường, hỗ trợ phát
triển sản phẩm, đào tạo nâng cao tay nghề công nhân…nhằm làm cho các
DNVVN nâng cao được khả năng tín chấp của mình.
1.6.2 Kinh nghiệm của Đức:
Các DNVVN thường có một tỷ lệ vốn vay so với vốn cổ phần rất cao,
điều này hạn chế khả năng đầu tư của họ và việc thiếu tài sản thế chấp là một
trong những lý do chính khiến các DNVVN không có nhiều cơ hội vay tín
dụng. Do vậy các ngân hàng bảo đảm tín dụng cho DNVVN đã được thành lập
với các khoản tiền cho vay. Các tổ chức đảm bảo tín dụng của Đức đã và đang
hoạt động khá thành công. Việc bảo đảm có thể bù đắp một số bất lợi nhất
định của các DNVVN và giúp cho các tổ chức tài chính tránh được mức độ rủi
ro cao khi họ cho các DNVVN vay tiền. Trong trường hợp xảy ra sai phạm,
phần mất mát mà ngân hàng phải gánh chịu chỉ là một phần trong tổng số tiền
21
vay. Các Phòng Thương mại và Công nghiệp của Đức tư vấn cho các chương
trình bảo đảm món vay, xem xét và đánh giá các đơn xin vay tiền của các chủ
doanh nghiệp trước khi đưa ra khoản đảm bảo món vay.
1.6.3 Kinh nghiệm của Malaysia:
Malaysia xác định khu vực tư nhân phải đóng vai trò đầu tàu của sự
tăng trưởng kinh tế. Khu vực tư nhân không chỉ cần tăng cường đầu tư sẳn có,
mà còn phải mạnh dạn đi vào khai thác những cơ hội mới.
Trong bối cảnh
cạnh tranh toàn cầu và dòng vốn quốc tế suy giảm, chính sách của Mala
ysia
là phát triển các
DNVVN. Việc phát triển các DNVVN được xác định như là
một chất xúc tác của tăng trưởng quốc gia. Các DNVVN được chính phủ hỗ
trợ bằng cách cung cấp cho họ những phương thức dễ dàng và đầy đủ hơn để
tiếp cận những nguồn vốn đặc biệt là những điều kiện vay nợ, trong đó vẫn
đảm bảo những điều kiện thế chấp và chi phí vay nợ thấp, những khoản trả nợ
có hiệu lực và các kế hoạch hoàn trả linh hoạt. Chính phủ và những định chế
tài chính được yêu cầu là phải hỗ trợ cho sự phát triển của các DNVVN.
Những định chế tài chính phải tuân thủ những quy định của chính phủ
và phải cam kết trong việc phục vụ khách hàng. Ngân hàng Negara Malaysia
(BNM) có trách nhiệm kiểm tra và đảm bảo rằng các định chế tài chính sẽ
tuân theo những quy định về phục vụ khách hàng.
Một số biện pháp nhằm cung cấp cho các doanh nghiệp này những
nguồn vốn phù hợp với chi phí thấp: tăng cường hiệu quả và đẩy mạnh cách
hoạt động tín dụng nhỏ; làm tăng vốn có sẵn của các DNVVN, giảm bớt chi
phí tài chính và điều kiện cho vay tín chấp, giúp họ tránh tình trạng vay ở
những nơi bất hợp pháp. Việc này được thực hiện quy định các biện pháp vay
nợ nới lỏng trong chương trình tín dụng nhỏ.
22
Những biện pháp mà chính phủ Malaysia áp dụng là có thể thực hiện
được trong điều kiện Việt Nam hiện nay. Sự thành công của quốc gia này là
một dẫn chứng rất thuyết phục cho chúng ta
1
.
1.6.4
Kinh nghiệm của các ngân hàng Hàn Quốc:
Khó khăn trong tài trợ DNVVN với bất cứ NHTM nào là món vay có
giá trị thấp, khối lượng khách hàng nhiều, phân bổ rộng khắp, DNVVN luôn
trong tình trạng thiếu vốn, các kỹ năng quản lý tài chính và cung cấp thông tin
còn hạn chế…. Chính vì vậy, việc tài trợ cho DNVVN luôn phải đối mặt với 3
vấn đề lớn: Chi phí quản lý khoản vay cao, chi phí huy động vốn cao và rủi ro
lớn. Một số kinh nghiệm của các Ngân hàng Hàn quốc trong việc tài trợ thành
công DNVVN như sau:
Thứ nhất, để giảm chi phí huy động vốn, ngân hàng cần tăng cường đầu
tư cho hoạt động kinh doanh của các hộ gia đình, thiết lập các hoạt động liên
quan đến nhượng quyền thương mại, quản lý các khoản tiền thanh toán trong
quá trình kinh doanh của DNVVN.
Thứ hai, để giảm thiểu các chi phí quản lý, các ngân hàng cần tăng
cường đầu tư vào công nghệ thông tin, đặc biệt là việc tự phát triển hệ thống
công nghệ thông tin sẽ giúp tiết giảm chi phí và hiệu quả hơn; tăng quy mô tài
sản lên một mức độ nhất định vẫn duy trì được các chi phí theo tỷ lệ tương
ứng một cách tiết kiệm.
Thứ ba, để giảm thiểu các rủi ro tín dụng, cần phải có một hệ thống xếp
hạng tín dụng hiệu quả (bao gồm: cơ sở dữ liệu, các mô hình chấm điểm và
xếp hạng tín dụng theo quy mô, theo ngành, theo lịch sử phát triển của doanh
nghiệp…và công nghệ thông tin); phải duy trì đủ cán bộ tín dụng có năng lực,
việc thẩm định tín dụng phải độc lập và có hiệu quả; các khoản vay phải có tài
1
Văn Khánh-Văn Thủ; thời báo kinh tế Việt Nam số 199; bài”Đi lên từ một nước nông nghiệp”
23
1.6.5 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam :
Từ thực tế tài trợ DNVVN ở một số nước nêu trên, chúng tôi có thể rút
ra một số vấn đề về việc tài trợ DNVVN ở Việt Nam như sau:
- Chính phủ cần thiết lập các cơ chế chính sách, chương trình tài trợ
DNVVN như thành lập các ngân hàng chuyên cho vay các DNVVN, thành lập
Quỹ bảo lãnh tín dụng riêng cho DNVVN, các quỹ hỗ trợ DNVVN, các trung
tâm tư vấn DNVVN, sử dụng một tỷ lệ nhất định trong tổng số vốn đầu tư của
ngân hàng cho các DNVVN vay…
- Hệ thống ngân hàng và các tổ chức trung gian cần được phát triển
nhanh, mạnh để DNVVN dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn.
- Các DNVVN phải tự hoàn thiện và phát triển dựa trên các chính sách
hỗ trợ khác như hỗ trợ phát triển thị trường, hỗ trợ phát triển sản phẩm…để
đáp ứng được các yêu cầu của ngân hàng khi vay vốn.
Kết luận: Phát triển DNVVN là một thực tế khách quan đối với việc phát
triển nền kinh tế quốc gia. Để phát triển DNVVN cần có những nguồn vốn tài
trợ giải quyết những hạn chế của loại hình doanh nghiệp này. Trong các nguồn
vốn tài trợ chính thức, TDNH là nguồn quan trọng hơn cả. Hoạt động của
TDNH có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển DNVVN và cũng là hoạt động chủ
yếu của ngân hàng. Vì thế, tăng cường hoạt động tài trợ DNVVN là cần thiết
và quan trọng đối với cả ngân hàng lẫn DNVVN .
24
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG TÀI TRỢ DNVVN TẠI CHI NHÁNH NHCT
BÌNH TÂN
2.1 Tình hình kinh tế Quận Bình Tân - Thành phố Hồ Chí Minh:
Quận Bình Tân được thành lập theo Nghị định số 130/2003/NĐ-CP
ngày 05/11/2003 của Chính Phủ, gồm 3 xã: Tân Tạo, Bình Hưng Hoà, Bình
Trị Đông và thị trấn An Lạc thuộc huyện Bình Chánh cũ. Quận có 10 phường,
chia ra 92 khu phố với 1715 tổ dân phố. Diện tích tự nhiên 5.188,6 ha; Phía
đông giáp các quận
Tân Phú, quận 6 và quận 8. Phía tây giáp huyện Bình
Chánh mới. Phía nam giáp quận 8 và huyện Bình Chánh mới. Phía bắc giáp
quận 12 và huyện Hóc Môn; dân số đến đầu năm 2006 là 424.000 người, hơn
60% là dân nhập cư từ các tỉnh khác.
Cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch theo hướng “Thương mại, dịch vụ,
công nghiệp, nông nghiệp”. Tốc độ tăng trưởng tổng giá trị sản phẩm trên địa
bàn năm 2005 tăng 34,35% so với năm 2004; trong đó khu vực dịch vụ đạt
tốc độ tăng trưởng cao với tổng doanh thu 2.553,85 tỷ đồng (tương đương giá
trị sản phẩm đạt 518,585 tỷ) tăng 43,10% so với năm 2004, khu vực công
nghiệp – tiểu thủ công nghiệp đạt tổng giá trị sản xuất là 1.722,650 tỷ đồng,
tăng 32,6% so với năm 2004, khu vực nông nghiệp đat tổng giá trị sản phẩm
46,929 tỷ đồng, tăng 13,16% so với năm 2004. Xu hướng 5 năm tới tốc độ
tăng trưởng kinh tế bình quân là 30%.
Trong giai đoạn 2006- 2010 và những năm tiếp theo, Quận Bình Tân
tiếp tục đẩy mạnh Chương trình quy hoạch phát triển công nghiệp, thu hút và
phát triển các ngành công nghiệp sạch, ứng dụng công nghệ hiện đại, sản xuất
những sản phẩm có hàm lượng chất xám và giá trị gia tăng cao ; hoàn tất
chương trình di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm vào các khu công nghiệp,
25
cụm công nghiệp tập trung góp phần cùng Thành phố chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngày càng hiện đại.
Quận Bình Tân đã xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; công
khai hóa các thủ tục hành chính, thủ tục đăng ký kinh doanh, các quy hoạch
phát triển kinh tế- xã hội, các dự án mời gọi đầu tư; kịp thời thực hiện việc
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà ở và quyền sử dụng đất ở cho nhân
dân, giúp người dân có điều kiện thế chấp để vay vốn, đầu tư sản xuất kinh
doanh.
Quận Bình Tân đã hình thành website, thực hiện chương trình cung cấp
qua mạng cho nhà đầu tư, doanh nghiệp những thông tin về chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước, nhất là những thông tin liên quan đến phát triển sản
xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn. Nhằm kịp thời tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động sản xuất kinh doanh, hàng năm
quận tổ chức gặp gỡ, sinh hoạt định kỳ 2 lần giữa đại diện các ngành chức
năng chính quyền với doanh nghiệp, để trao đổi thông tin, lắng nghe ý kiến
của nhà đầu tư, nhằm tìm được tiếng nói chung giữa chính quyền và doanh
nghiệp. Hội doanh nghiệp quận Bình Tân cũng đã được hình thành và hoạt
động có hiệu quả hỗ trợ doanh nghiệp trên các lãnh vực quản trị doanh nghiệp,
cung cấp thông tin thị trường, xúc tiến thương mại và các hoạt động liên quan
đến sản xuất công nghiệp.
Quận Bình Tân hiện đang quản lý trên 7.000 cơ sở sản xuất công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp. Ngoài ra, quận còn có các khu công nghiệp,
cụm công nghiệp tập trung do Ban Quản lý các Khu chế xuất – Khu công
nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh (Hepza) quản lý: Khu công nghiệp Tân Tạo,
Khu công nghiệp Vĩnh Lộc, Khu công nghiệp giày da Pouyuen (100% vốn
nước ngoài), Khu công nghiệp Tân Tạo mở rộng và 4 cụm công nghiệp: Việt
Tài, Hai Thành, Thiên Tế và Hợp Thành Hưng. Các khu công nghiệp, cụm