Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Tài liệu TIỂU LUẬN: Quản lý TSLĐ và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ ở Công ty vật tư kỹ thuật xi măng docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (714.62 KB, 75 trang )











TIỂU LUẬN:
Quản lý TSLĐ và một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng TSLĐ ở Công ty vật tư kỹ
thuật xi măng




Lời nói đầu

Tài sản lưu động đóng vai trò tối quan trọng trong mọi quá trĩnh sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do đó, bất kỳ doanh nghiệp nào
muốn tồn tại và phát triển cũng phải quan tâm tới việc quản lý và sử dụng
tài sản lưu động (TSLĐ) sao cho có hiệu quả. Việc quản lý và sử dụng
TSLĐ trong doanh nghiệp có tác động rất lớn đến việc tăng hay giảm chi
phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm từ đó ảnh hưởng tới hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (lợi nhuận). Do đó vấn đề
quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản lưu động đang là vấn đề rất bức
xúc mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế .
Trước kia, trong cơ chế bao cấp, các doanh nghiệp Nhà nước được


Nhà nước bao cấp về đầu vào và đầu ra nên hầu như không được quan tâm
đến việc quản lý và sử dụng tài sản của mình sao cho có hiệu quả. Hiện
nay, trong bối cảnh tồn tại sự cạnh tranh gay gắt giữa các thành phần kinh
tế, các doanh nghiệp Nhà nước không thích ứng được đã lâm vào tình
trạng thua lỗ, một số doanh nghiệp do thực hiện tốt việc quản lý, sử dụng
các tài sản của mình nên đã đứng vững và tiếp tục phát triển
Trong bối cảnh khó khăn hiện nay Công ty vật tư kỹ thuật xi măng
đã có những chính sách, biện pháp đúng đắn trong kinh doanh và trong
công tác quản lý tài sản nói chung, TSLĐ nói riêng nên đã đứng vững, trở
thành một nhà phân phối xi măng lớn trên thị trường các tỉnh phía Bắc, ổn
định và không ngừng nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên.
Sau tời gian thực tập tại Công ty vật tư kỹ thuật xi măng, tôi đã
bước đầu làm quen với thực tiễn của Công ty và ngược lại, từ thực tiễn
giúp tôi hiểu rõ hơn những lý luận đã học. Qua quá trình thực tập, tôi đã
thấy rõ tầm quan trọng của việc quản lý và sử dụng tài sản lưu động ở
Công ty vật tư kỹ thuật xi măng và tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: Quản lý

TSLĐ và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ ở
Công ty vật tư kỹ thuật xi măng.
Kết cấu đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề chung về TSLĐ và quản lý TSLĐ.
Chương II: Thực trạng quản lý và sử dụng TSLĐ ở Công ty
vật tư kỹ thuật xi măng.
Chương III: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng TSLĐ ở Công ty vật tư kỹ thuật xi măng.



chương I
những vấn đề chung về tài sản lưu động và quản lý tài sản lưu động.

I. Tài sản lưu động và nội dung quản lý Tài sản lưu động
1. Tài sản lưu động.
1.1. Khái niệm vai trò TSLĐ và quản lý TSLĐ
Để tiến tới hành động sản xuất kinh doanh, mọi doanh nghiệp đều
cần phải có tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Trong đó
TSLĐ chủ yếu đóng góp vai trò đối tượng lao động, từ đó ta có thể thấy vai
trò quan trọng của TSLĐ đối với mọi quá trình sản xuất kinh doanh.
Tài sản lưu động của doanh nghiệp là những tài sản ngắn hạn và
thường xuyên luân chuyển, do đó nó giúp cho doanh nghiệp có thể quay
vòng vốn nhânh hơn, giảm chi phí sử dụng vốn, hạ giá thành sản phẩm.
Khác với TSCĐ, tài sản lưu động luôn thay đổi hình thái biểu hiện trong
quá trình tạo ra sản phẩm. Vì vậy giá trị của TSLĐ được dịch chuyển một
lần vào giá trị sản phẩm. Sau khi kết thúc quá trình tiêu thụ sản phẩm,
người ta lại dùng tiền để tái đầu tư những TSLĐ phục vụ quá trình sản
xuất kinh doanh tiếp theo. Do đó đặc điểm nổi bật của TSLĐ là thời gian
quay vòng ngắn nên có thể giảm chi phí vốn, nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh.
Tóm lại: Tài sản lưu động là một phần tài sản của doanh nghiệp bao
gồm tiền mặt, đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản phải thu, dự trữ tồn
kho và các tài sản có khả năng chuyển đổi thành tiền trong vòng một năm
trở lại đây mà không làm gián đoạn các hoạt động bình thường của doanh
nghiệp .
Quản lý tài sản lưu động là việc sử dụng tổng hợp các biện pháp
duy trì một khối lượng các tài sản lưu động với cơ cấu hợp lý để nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh.

Quản lý tài sản lưu động thực chất là việc trả lời câu hỏi: Doanh
nghiệp có nên dự trữ tiền mặt không và dự trữ bao nhiêu? Có nên bán chịu
hay không? Nếu bán chịu thì cần có những điều khoản nào? Có nên mua
chịu hay là đi vay để trả tiền ngay? nói chung có rất nhiều vấn đề đặt ra

cho công tác quản lý TSLĐ. Nếu công tác quản lý TSLĐ được làm tốt,
doanh nghiệp có cơ cấu TSLĐ hợp lý thì vốn của doanh nghiệp không bị ứ
đọng mà vẫn đáp ứng được các yêu cầu của sản xuất,s vẫn đảm bảo khả
năng thanh toán, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Ngược lại nếu
quản lý tài sản lưu động không tốt có thể dẫn tới vốn của doanh nghiệp bị
thất thoát, bị chiếm dụng, nếu dự trữ quá nhiều tiền mặt, hàng hoá,
nguyên vật liệu, sẽ đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp, đảm
bảo cho quá trình sản xuất được liên tục, tuy nhiên lượng tài sản đó
không sinh lời, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nói
cách khác chất lượng công tác quản lý tài sản lưu động là một trong
những nguyên nhân cơ bản quyết định sự thành công hay thất bại của
doanh nghiệp.
1.2. Kết cấu TSLĐ:
Để có thể thực hiện tốt công tác quản lý TSLĐ, trước tiên ta cần
hiểu rõ từng khoản mục của TSLĐ.
* Tiền mặt: tiền mặt hiện có của một doanh nghiệp bao gồm toàn bộ
lượng tiền trong két và các khoản tiền gửi ngắn hạn tại ngân hàng. Nó
được sử dụng để trả lương cho công nhân viên, trả tiền mua nguyên vật
liệu, dịch vụ, đặc điểm của tiền mặt là loại tài sản không sinh lời hoặc
sinh lời thấp, do đó mục tiêu quản lý đối với tiền mặt là giữ một lượng
tiền mặt vừa đủ để đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp bao
gồm:
- Có đủ tiền mặt đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ đến
hạn, góp phần nâng cao uy tín của doanh nghiệp.

- Có đủ tiền mặt có thể nắm bắt, tận dụng được các cơ hội trong
kinh doanh.
- Có tiền mặt chi trả, doanh nghiệp có thể được hưởng chiết khấu
thanh toán. Tiền mặt còn dùng trong các chiến dịch quảng cáo, marketing,
khuyến mại

Công việc của nhà quản lý tài chính là giải bài toán để trả lời câu
hỏi: doanh nghiệp nên giữ một lượng tiền mặt bao nhiêu là hợp lý, phù
hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh của từng thời kỳ?
* Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn.
Chính vì tiền mặt là loại tài sản không sinh lời nên các doanh
nghiệp muốn duy trì một lượng tài sản có tính lỏng cao thường đầu tư vào
các loại chứng khoán ngắn hạn. Chứng khoán ngắn hạn bao gồm tíns
phiếu kho bạc và thương phiếu ngắn hạn. Khác với tiền mặt việc đầu tư
vào các chứng khoán ngắn hạn vẫn đảm bảo tính lỏng của tài sản và còn
đem lại thu nhập cho doanh nghiệp. với sự phát triển của công nghệ thông
tin hiện nay, các nhà tài chính có thể dễ dàng chuyển đổi từ tiền mặt sang
các loại chứng khoán ngắn hạn và ngược lại. Khi số tiền mặt trong két cao
hơn mức cần thiết, các nhà tài chính có thể bán bớt chứng khoán ngắn
hạn thu tiền mặt, đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh .
* Các khoản phải thu:
Đây là một trong những bộ phận quan trọng của TSLĐ. Khi doanh
nghiệp bán hàng hoá của mình cho các doanh nghiệp khác, thông thường
người mua chưa trả tiền ngay lúc giao hàng. Các hoá đơn chưa được thanh
toán này thể hiện quan hệ tín dụng thương mại và chúng tạo nên khoản
mục "phải thu khách hàng". Hình thức tín dụng thương mại này đang được
sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế. Nó thể hiện sự tin tưởng lẫn nhau giữa
người mua và người bán, tạo cơ sở cho mối quan hệ làm ăn lâu dài. Qui
mô của các khoản phải thu không chỉ phụ thuộc vào qui mô của doanh
nghiệp mà nó còn phụ thuộc vào chính sách tín dụng của doanh nghiệp.

Thường thì các doanh nghiệp có tiềm lực tài chính sẽ dễ dàng bán chịu do
đó sẽ đẩy mạnh khối lượng sản phẩm tiêu thụ. Tuy nhiên yếu tố chính tác
động đến chính sác tín dụng thương mại của các doanh nghiệp là tình hình
cân bằng cung - cầu về loại sản phẩm của các doanh nghiệp đó trên thị
trường trong từng thời kỳ. Nếu trên thị trường cung lớn hơn cầu tức là dư

thừa hàng hoá thì bán hàng trả chậm cũng là một hình thức cạnh tranh rất
có hiệu quả, ngược lại nếu thị trường khan hiếm hàng hoá thì các nhà
cung cấp các nhà phân phối sẽ thắt chặt chính sách tín dụng thương mại
để tăng nhanh tốc độ quay vòng vốn.
Do vậy nhiệm vụ của các nhà tài chính là đưa ra quyết định có nên
bán chịu hay không? nên bán chịu cho những đối tượng nào? điều khoản
của việc bán chịu ra sao? Đây là những vấn đề hết sức khó khăn vì nếu chỉ
đưa ra một quyết định sai lầm sẽ có ảnh hưởng lớn tới tình hình tài chính
của doanh nghiệp, hình thành các khoản nợ dây dưa khó đòi. Theo một số
liệu thống kê của Bộ Tài Chính thì tổng số nợ khó đòi giữa các doanh
nghiệp Nhà nước kể từ 30/4/1991 trở về trước lên tới 13.500 tỷ đồng đã
được Nhà nước "khoanh lại" còn sỗ nợ khó đòi hình thành trong thời gian
từ năm 1991 trở lại đây đã lên tới gần 200.000 tỷ đồng. Hiện nay Nhà
nước đang xem xét việc thành lập "Công ty mua bán nợ" để giải quyết các
khoản nợ giữa các doanh nghiệp. Qua đó ta cũng thấy được tầm quan
trọng của công tác quản lý các khoản phải thu, nếu quản lý tốt, xác định
được chính sách tín dụng thương mại hợp lý sẽ giữ được khách hàng, tăng
số lượng sản phẩm tiêu thụ nhưng nếu quản lý không tốt sẽ dẫn đến tình
trạng thất thoát tài sản của doanh nghiệp.
Ngoài "phải thu khách hàng" doanh nghiệp còn có các khoản phải
thu khác như thu tiền trả trước cho người bán, thu nội bộ, nhưng chiếm
tỷ trọng nhỏ, không làm ảnh hưởng nhiều tới tình hình tài chính doanh
nghiệp.
* Dự trữ (tồn kho): là toàn bộ nguyên vật liệu chính, nguyên vật
liệu phụ, vật tư, sản phẩm dở dang, thành phẩm, hàng hoá tồn tại trong

các kho của doanh nghiệp. ở đây ta chỉ xem xét lượng dự trữ hợp lý, đảm
bảo cho quá trình hoạt động bình thường của doanh nghiệp chứ không
xem xét khía cạnh dự trữ bất đắc dĩ tức là sản phẩm hàng hoá bị ứ đọng,
không bán được, sản xuất bị ngưng trệ. Quản lý dự trữ là việc tính toán

duy trì một lượng nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, hàng hoá với cơ cấu
hợp lý, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục và có
hiệu quả. Như ta đã biết, chi phí cho dự trữ không chỉ bao gồm chi phí đặt
hàng, chi phí lưu kho, trông nom bảo quản mà còn có cả chi phí cơ hội
của vốn. Tuy nhiên việc dự trữ nhiều hàng hoá nhiều khi mang lại lợi ích
lớn hơn là đem tiền đầu tư chứng khoán ngắn hạn khi thị trường trở lên
khan hiếm loại hàng hoá mà doanh nghiệp đang dự trữ khi đó doanh
nghiệp sẽ không bị bỏ lỡ cơ hội trong kinh doanh mà còn củng cố uy tín
của doanh nghiệp trên thị trường.
* Tài sản lưu động khác.
Đây là những bộ phận tài sản lưu động của doanh nghiệp không
thuộc các nhóm trên như tạm ứng chi phí trả trước, chi phí chờ kết
chuyển, tài sản thiếu chờ xử lý, các khoản ký cược ký quĩ
1.3. Các chính sách tài trợ cho TSLĐ:
Các nguồn tài trợ do TSLĐ có thể là tất cả các khoản mục bên
"nguồn vốn" của bảng cân đối kế toán. ở đây ta có thể tạm chia thành các
nguồn tài trợ dài hạn và các nguồn tài trợ ngắn hạn.
* Các nguồn tài trợ dài hạn gồm có:
- Vốn chủ sở hữu: là nguồn vốn của các chủ sở hữu doanh nghiệp,
nó bao gồm vốn pháp định (liên doanh, cổ phần, vốn ngân sách) và vốn tự
bổ sung trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
- Vay dài hạn: các khoản vay ngân hàng hoặc phát hành trái phiếu
Tỷ trọng của các nguồn vốn trong chính sách tài trợ TSLĐ bằng các nguồn
tài trợ dài hạn gọi là cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Để sử dụng các nguồn

vốn này, chúng ta hãy xem xét chi phí sử dụng vốn của từng loại: khi sử
dụng vốn chủ sở hữu, các doanh nghiệp phải trả cổ tức cho cổ đông (đối
với công ty cổ phần), chia lợi nhuận cho các bên liên doanh (đối với công
ty liên doanh), trả các khoản thu sử dụng vốn (đối với các doanh nghiệp
Nhà nước). Còn nếu sử dụng vay dài hạn doanh nghiệp phải chi trả lãi vay

hay còn gọi là chi phí vốn vay, lãi tiền vay là một khoản chi phí trước
thuế.
- Ưu điểm: chính sách tài trợ dài hạn có đặc điểm là tính ổn định
cao, trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp không
phải chịu sức ép trả nợ ngay, tránh được việc phải bán rẻ sản phẩm hoặc
phải vay ngắn hạn để trả nợ.
- Nhược điểm: chi phí sử dụng vốn cao hơn các nguồn tài trợ ngắn
hạn.
Tuy nhiên trong thực tế quản lý tài chính hiếm khi các doanh
nghiệp sử dụng các nguồn tài trợ dài hạn để tài trợ cho TSLĐ. Chính sách
tài trợ này chỉ được các doanh nghiệp sử dụng nếu mới đi vào hoạt động
và chủ yếu đối với các doanh nghiệp kinh doanh thương mại (có TSLĐ
chiếm tỷ trọng lớn).
* Nguồn tài trợ ngắn hạn:
- Tín dụng thương mại: đây là khoản tín dụng được hầu hết các
doanh nghiệp tận dụng một cách triệt để, nó còn được gọi là tín dụng nhà
cung cấp. Các khoản tín dụng thương mại được hình thành một cách tự
nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua hàng trả chậm. Nguồn vốn tín
dụng thương mại có ảnh hưởng hết sức to lớn không chỉ với các doanh
nghiệp mà đối với toàn bộ nền kinh tế. ở nhiều doanh nghiệp, nguồn vốn
tín dụng thương mại dưới dạng các khoản nợ phải trả có thể chiếm tới 30-
40% tổng nguồn vốn của doanh nghiệp.
Tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ tiện lợi và linh hoạt
trong kinh doanh mặt khác nó còn tạo khả năng mở rộng quan hệ hợp tác

kinh doanh lâu bền. Thời hạn của tín dụng thương mại được qui định cụ
thể trong hợp đồng mua bán, do đó điều quan trọng nhất khi sử dụng tín
dụng thương mại là luôn phải đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ
đến hạn của doanh nghiệp tránh nhữgn rủi ro có thể xảy ra khi sử dụng tín
dụng thương mại được vượt quá khả năng thanh toán của doanh nghiệp.

Sử dụng nguồn vốn tín dụng thương mại không phải là không có chi
phí. Khi mua hàng trả chậm, thường thì người mua phải chấp nhận mức
giá cao hơn so với mua thanh toán ngay. Trong thực tế hiện nay, tín dụng
thương mại rất được ưa thích vì nó là một nguồn tài trợ ngắn hạn có chi
phí thấp, thủ tục đơn giản hơn nhiều so với vay ngân hàng. Đây là một
nguồn tài trợ phù hợp để tài trợ cho TSLĐ, tuy nhiên sử dụng tín dụng
thương mại tài trợ cho TSLĐ ở mức độ nào là nhiệm vụ của các nhà tài
chính, tuỳ theo tình hình tài chính của doanh nghiệp ở từng thời điểm.
- Tín dụng ngân hàng: một trong những nguồn tài trợ khá quan
trọng cho TSLĐ là vay ngắn hạn tại các Ngân hàng thương mại. Các ngân
hàng có thể đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp với các thời hạn đa
dạng từ vài tháng tới một năm, khối lượng cho vay phụ thuộc vào nhu cầu
và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Đối với TSLĐ là những tài sản
thường có thời gian quay vòng dưới một năm nên dùng vay ngắn hạn để
tài trợ cho TSLĐ là rất phù hợp. Tuy nhiên nó không được ưa thích bằng
"tín dụng thương mại" do chi phí cao hơn và thủ tục phức tạp hơn. Để vay
được tiền ở Ngân hàng thương mại, các doanh nghiệp phải lập bộ "hồ sơ
xin vay vốn" ít nhất gồm có đơn xin vay và phương án sản xuất kinh
doanh. Phương án trả nợ, sau khi các cán bộ ngân hàng thẩm định xong
hồ sơ thì doanh nghiệp mới có thể vay được vốn. Các thủ tục bắt buộc này
cộng với một số yếu tố khác gây chậm trễ, nhiều khi làm mất đi cơ hội
kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Nội dung quản lý tài sản lưu động:
2.1. Quản lý vốn bằng tiền và các khoản đầu tư tài chính ngắn
hạn:

Quản lý tiền ở đây đề cập tới tiền trong két của doanh nghiệp và
tiền gửi ngắn hạn tại các ngân hàng. Vì lượng tài sản này hầu như không
sinh lãi nên các doanh nghiệp đều muốn duy trì lượng tiền ở mức thấp
nhất có thể. Nhưng tiền mặt lại rất cần thiết cho các hoạt động hàng ngày

của doanh nghiệp như thanh toán cho nhà cung cấp, trả lượng, tạm ứng
do đó nhiệm vụ đặt ra cho các nhà quản lý tài chính là làm sao duy trì một
lượng tiền mặt hợp lý nhất vừa tránh lãng phí vốn vừa đảm bảo nhu cầu
tiền mặt của doanh nghiệp.
Quản lý tiền mặt có liên quan chặt chẽ đến quản lý các khoản đầu tư
tài chính ngắn hạn, đặc biệt là các loại chứng khoán có tính thanh khoản
cao. Các loại chứng khoán này có thể là tín phiếu kho bạc, thương phiếu
chúng có khả năng chuyển đổi ra tiền mặt một cách dễ dàng và ngược lại,
chi phí chuyển đổi nhỏ nên trong quản trị tài chính người ta sử dụng
chứng khoán có tính thanh toán cao để duy trì tiền mặt ở mức mong muốn.
Trong thực tế sản xuất kinh doanh dòng tiền vào ra tại doanh nghiệp hầu
như chẳng theo qui luật nào cả. Tuy nhiên, các nhà tài chính học đã đưa ra
công thức tính lượng tiền mặt tối ưu của doanh nghiệp trong năm như sau:
Q =Error!
Mô hình dự trữ tiền mặt này chỉ hoạt động tốt trong điều kiện doanh
nghiệp dự trữ tiền mặt một cách đều đặn. Nhưng điều này không thường
xảy ra trên thực tế. Có thể trong một vài tuần nào đó doanh nghiệp thu
được một số tiền từ các hoá đơn bán hàng và vì vậy nó có thêm một khoản
thu thuần tuý bằng tiền mặt, cũng có thể trong một vài tuần khác doanh
nghiệp phải trả cho người bán và lượng tiền mặt đột nhiên giảm đi.
Các nhà kinh tế và khoa học quản lý đã xây dựng các mô hình phù
hợp hơn với thực tế, tức là các mô hình này có tính đến cả những khả
năng tiền ra vào ngân quỹ.
Khoảng dao ;động tiền mặt
= 3 x Error!
Error!

Mô hình này chỉ ra rằng nếu doanh nghiệp luôn luôn duy trì được
mức cân đối tiền mặt theo như thiết kế ban đầu thì doanh nghiệp sẽ tối
thiểu hoá được chi phí giao dịch và chi phí do lãi suất gây ra.

Để sử dụng mô hình này cần tiến hành các bước.
Bước thứ nhất: doanh nghiệp cần phải xác định giới hạn dưới của
cân đối tiền mặt, giới hạn dưới có thể bằng 0 và có thể lớn hơn 0 để đảm
bảo mức an toàn tối thiểu.
Bước thứ hai: doanh nghiệp cần phải ước tính phương sai của thu
chi ngân quĩ. Chẳng hạn có thể dựa vào thu chi ngân quĩ của 100 ngày
trước đo để tính toán phương sai cho mẫu gồm 100 ngày này. Việc chọn
mẫu tuỳ theo loai hình doanh nghiệp mà xác định, nếu doanh nghiệp sản
xuất theo mùa thì cần phải chọn mẫu theo từng mùa đặc thù.
Bước thứ ba: quan sát lãi suất và chi phí giao dịch của mỗi lần mua
và bán chứng khoán.
Bước thứ tư: tính toán giới hạn trên và mức tiền mặt theo thiết kế
đồng thời đưa ra những thông tin để các nhân viên tài chính thực hiện
chiến lược kiểm soát tiền mặt theo mô hình Miller - Orr. Nếu lượng tiền
mặt ở mức thấp nhất (giới hạn dưới) thì doanh nghiệp phải bán chứng
khoán ngắn hạn để bổ sung vào tiền mặt cho đủ mức dự kiến ngược lại khi
tiền mặt bằng hoặc vượt giới hạn trên thì doanh nghiệp mua chứng khoán
ngắn hạn.
Khoảng dao động của mức cân đối tiền mặt phụ thuộc vào 3 yếu tố.
- Mức do động của thu chi ngân quĩ hàng ngày lớn hay nhỏ. Sự dao
động này thể hiện ở phương sai của thu chi ngân quĩ. Phương sai của thu
chi ngân quĩ là tổng các bình phương (độ chênh lệch) của thu chi ngân quĩ
thực tế và thu chi bình quân. Phương sai càng lớn thì thu chi ngân quĩ
thực tế càng có xu hướng khác biệt so với thu chi bình quân. Khi đó doanh
nghiệp cũng sẽ qui định khoảng dao động tiền mặt cao.

- Chi phí cố định của việc mua bán chứng khoán, khi chi phí này
lớn người ta muốn giữ tiền mặt nhiều hơn và khi đó khoảng dao động của
tiền mặt cũng lớn hơn.
- Lãi suất càng cao các doanh nghiệp sẽ giữ ít tiền mặt và do đó

khoảng dao động tiền mặt sẽ giảm xuống.
Tóm lại tiền mặt là tài sản sinh lời thấp, chứng khoán ngắn hạn có
tính thanh khoản cao nên lợi tức đem lại cũng nhỏ hơn so với các loại
chứng khoán dài hạn. Do đó tổng số tiền mặt và chứng khoán ngắn hạn chỉ
nên giữ một lượng vừa đủ đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
2.2. Quản lý dự trữ:
Đối với các doanh nghiệp sản xuất, tài sản dự trữ chiếm tỷ trọng
khá lớn khoảng 50 - 70% giá trị TSLĐ, do đó quản lý dự trữ có vai trò đặc
biệt quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động.
Khi doanh nghiệp dự trữ hàng hoá sẽ liên quan tới hàng loạt chi phí như
chi phí bốc xếp, chi phí đặt hàng, chi phí bảo hiểm, chi phí bảo quản,
những chi phí này được chia ra:
* Chi phí lưu kho (chi phí tồn trữ) đây là những chi phí liên quan
tới việc tồn trữ hàng hoá, chúng bao gồm:
- Chi phí hoạt động: chi phí bốc xếp hàng hoá, chi phí bảo hiểm
hàng hoá, chi phí do hao hụt mất mát, chi phí bảo quản,
- Chi phí tài chính: chi phí sử dụng vốn như trả lãi tiền vay, thuế,
khấu hao,
* Chi phí đặt hàng bao gồm chi phí quản lý giao dịch và vận chuyển
hàng hoá. Chi phí đặt hàng thường là chi phí cố định, không phụ thuộc
vào khối lượng mỗi lần đặt hàng. Do đó vấn đề đặt ra là khi nào thì bắt
đầu tiến hành đặt hàng và khối lượngcủa mỗi lần đặt hàng là bao nhiêu để
cho tổng chi phí dự trữ hàng hoá là thấp nhất.

Điểm đặt hàng: trong thực tiễn hoạt động, doanh nghiệp không khi
nào đợi hết nguyên vật liệu trong kho thì mới tiên hành đặt hàng, vì như
vậy sẽ làm cho sản xuất bị gián đoạn. Vậy thì khi nào bắt đầu đặt hàng là
thích hợp, tránh tình trạng ứ hàng trong kho gây lãng phí, tăng chi phí lưu
kho. Điểm đặt hàng ở đây chính là khối lượng nguyên vật liệu còn tồn kho
phải đủ để sử dụng cho tới khi lô hàng mới về.

Điểm đặt hàng =
Khối lượng NVL;sử dụng mỗi ngày
x
Độ dài thời gian;giao hàng

Lượng dự trữ an toàn: khối lượng nguyên vật liệu sử dụng, hàng hoá
tiêu thụ mỗi ngày không phải là con số cố định mà thay đổi hàng ngày,
thay đổi theo mùa vụ. Do đó để đảm bảo sự ổn định của quá trình sản xuất
kinh doanh, các doanh nghiệp phải duy trì một lượng hàng hoá tồn kho.
Khối lượng hàng hoá dự trữ an toàn phụ thuộc vào tình hình sản xuất cụ
thể của doanh nghiệp. Lượng dự trữ an toàn này được cộng thêm vào
"Điểm đặt hàng" để xác định thời điểm đặt hàng thực sự.
2.3 Quản lý các khoản phải thu.
Để sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, các doanh nghiệp đều
muốn tiêu thụ càng nhiều hàng hoá càng tốt. Để tăng lượng sản phẩm tiêu
thụ, ngoài các yếu tố như chất lượng sản phẩm, giá cả, quảng cáo, thì
điều kiện thanh toán cũng là một yếu tố có tính cạnh tranh cao trên thị
trường. Tất nhiên, trong kinh doanh thì bán hàng thu tiền ngay là điều mà
bất cứ chủ doanh nghiệp nào cũng mong muốn nhưng trong điều kiện thị
trường cạnh tranh quyết liệt như hiện nay thì việc phải cấp "Tín dụng
thương mại" cho khách hàng là điều không thể tránh khỏi nếu muốn bán
được hàng. Do đó mục tiêu của các doanh nghiệp là làm sao bán được
nhiều hàng nhất chứ không phải là bán hàng thu tiền ngay. Vấn đề đặt ra
là nên bán chịu cho những đối tượng nào và quản lý các khoản phải thu
này như thế nào.

Quản lý các khoản phải thu tốt tức là doanh nghiệp phải đưa ra
chính sách tín dụng thương mại hợp lý, các điều kiện ràng buộc giúp
doanh nghiệp có thể nhanh chóng thu hồi được tiền hàng, giảm số ngày
thu tiền bình quân, hạn chế lượng vốn bị khách hàng chiếm dụng, tạo điều

kiện mua sắm đầu tư cho chu kỳ sản xuất tiếp theo.
2.3.1 Nội dung chính sách tín dụng thương mại.
* Các điều khoản bán hàng: Để bán hàng hoá, doanh nghiệp cần
phải có những điều khoản bán hàng cụ thể trong đó thể hiện các yếu tố:
- Thời kỳ cấp tín dụng thương mại (còn gọi là thời kỳ tín dụng)
- Chiết khấu tiền mặt và thời kỳ chiết khấu
- Loại công cụ tín dụng thương mại
Thời kỳ tín dụng thương mại là khoảng thời gian mà doanh nghiệp
cho khách hàng chịu tiền. Thời hạn này dao động trong khoảng thời gian
từ 30 ngày đến 150 ngày. Nếu trong điều khoản bán hàng có đề nghị chiết
khấu tiền mặt thì thời kỳ tín dụng thương mại sẽ gồm hai phần: thời kỳ tín
dụng thương mại thuần tuý và thời kỳ chiết khấu tiền mặt.
Thời kỳ tín dụng thương mại thuần tuý là thời hạn tối đa cho khách
hàng nợ, hết thời gian này, khách hàng bắt buộc phải trả tiền. Thời kỳ này
bắt đầu kể từ khi doanh nghiệp viết hoá đơn bán hàng cho khách hàng.
Thời kỳ chiết khấu tiền mặt: là khoảng thời gian do người bán qui
định, nếu người mua thanh toán tiền hàng trong khoảng thời gian này thì
sẽ được hưởng một tỷ lệ % nhất định trên tổng giá trị thanh toán.
VD: 2/10 toàn bộ 30 có nghĩa là khách hàng được quyền nợ tối đa
30 ngày trong đó 10 ngày đầu là khoảng thời gian chiết khấu nếu khách
hàng thanh toán trong vòng 10 ngày sẽ được hưởng một khoản chiết khấu
2% trên tổng giá trị lô hàng.

Chiết khấu tiền mặt là một biện pháp quản lý "các khoản phải thu".
Mục đích của chiết khấu tiền mặt là để hỗ trợ cho chính sách tín dụng
thương mại của doanh nghiệp, trong khi vẫn cho khách hàng chịu tiền để
tiêu thụ được sản phẩm thì chiết khấu tiền mặt lại thúc ép khách hàng trả
tiền nhanh để được hưởng giá trị chiết khấu. Mức lãi suất chiếu khấu được
hưởng thoạt trông có vẻ là nhỏ nhưng lãi suất tương đương năm của nó lại
rất lớn, đủ cho mọi khách hàng phải quan tâm (trong ví dụ trên lãi suất

chiết khấu qui đổi ra lãi suất tương đương là 37%/năm).
Mặt khác thiết khấu tiền mặt còn giúp cho doanh nghiệp có thể định
giá cao hơn đối với những khách hàng muốn kéo dài thời gian trả tiền.
Các công cụ thường dùng trong chính sách tín dụng thương mại là
hoá đơn, thương phiếu trả ngay, thương phiếu có thời hạn, hợp đồng
* Tác động của chính sách tín dụng thương mại.
- Tác động tới doanh thu: nếu doanh nghiệp chấp nhận bán chịu thì
doanh nghiệp sẽ bị chậm trễ trong việc thu tiền, trong khi đó người mua
lại có lợi thế trong việc trả tiền chậm. Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng có
thể bán với giá cao hơn nếu doanh nghiệp đồng ý cấp tín dụng cho người
mua và điều này có thể làm tăng lượng hàng hoá bán được, do đó tổng
doanh thu tăng lên.
- Tác động của chi phí: cho dù doanh nghiệp có thể bị chậm trễ
trong việc thu tiền do việc doanh nghiệp cấp tín dụng thương mại cho
người mua thì ngay cả trong trường hợp bán hàng thu tiền ngay cũng có
những chi phí nhất định (doanh nghiệp phải bán với giá thấp hơn). Việc
chọn phương thức bán thu tiền ngay hay phương thức bán chịu là việc
doanh nghiệp cần cân nhắc, dù theo phương thức nào thì doanh nghiệp
cũng đều phải tốn chi phí cho nó.
- Chi phí của nợ nần: Khi doanh nghiệp cấp tín dụng thương mại
cho người mua thì doanh nghiệp cần phải sắp xếp những hoạt động tài
chính có liên quan đến các khoản phải thu. Nhờ vậy chi phí vay mượn

ngắn hạn của doanh nghiệp sẽ là một trong những yếu tố quyết định xem
doanh nghiệp có nên cấp tín dụng thương mại cho người mua hay không.
- Xác suất không trả tiền của người mua: Nếu doanh nghiệp cấp tín
dụng thương mại cho người mua thì cũng có một khả năng nhỏ là người
mua không trả tiền. Tất nhiên điều này sẽ không xảy ra trong trường hợp
doanh nghiệp bán hàng và thu tiền ngay.
- Chiết khấu tiền mặt: Khi doanh nghiệp áp dụng chiết khấu tiền

mặt như là một bộ phận trong các điều khoản tín dụng thương mại của
doanh nghiệp thì một số khách hàng sẽ chọn việc trả tiền sớm để giành
được lợi thế của chiết khấu.
2.3.2. Phân tích tín dụng thương mại
* Khi nào thì nên cấp tín dụng thương mại cho khách hàng mới
muốn mua sản phẩm theo phương thức bán chịu với giá P'/sản phẩm. Nếu
như doanh nghiệp từ chối việc bán chịu thì khách hàng này sẽ không mua.
Còn nếu doanh nghiệp đồng ý bán chịu cho khách hàng thì một tháng sau
khách hàng này có thể trả tiền và cũng có thể không trả tiền. Xác xuất
khách hàng không trả tiền là 
ở đây  có thể được coi là tỷ lệ phần trăm của những khách hàng mới sẽ
không trả tiền. Trong hoạt động kinh doanh, chúng ta giả định là khách
hàng chỉ mua hàng một lần. Cuối cùng doanh lợi đòi hỏi về các khoản
phải thu là R/tháng, chi phí của các khoản phải thu là V/sản phẩm .
Nếu như doanh nghiệp không bán chịu cho khách hàng thì tiền thu
tăng thêm vào ngân quĩ là bằng 0. Nếu doanh nghiệp bán chịu cho khách
hàng thì doanh nghiệp phải xuất một khoản chi phí biến đổi là V trong
tháng này và chờ để thu được (1-) P' trong tháng sau. Giá trị hiện tại
ròng của việc cấp tín dụng thương mại này là:
NPV = -V + Error! R: lãi suất ngắn hạn.

Doanh nghiệp sẽ cấp tín dụng thương mại cho khách hàng nếu NPV
> 0. Nếu NPV = 0 mà có triển vọng thắt chặt quan hệ hợp tác lâu dài thì
cũng có thể cấp tín dụng được.
* Doanh nghiệp nếu cấp tín dụng thương mại cho khách hàng nào?
Để cấp tín dụng thương mại cho khách hàng, đặc biệt là khách hàng mới
thì nhà quản lý tài chính phải tìm hiểu kỹ khả năng tài chính của khách
hàng. Đầu tiên doanh nghiệp phải xây dựng được một tiêu chuẩn tín dụng
hợp lý sau đó là việc xác định phẩm chất tín dụng của khách hàng. Nếu
khả năng tín dụng của khách hàng đáp ứng được các tiêu chuẩn tín dụng

của doanh nghiệp thì có thể quyết định cấp tín dụng thương mại. Tuy
nhiên việc xác định các tiêu chuẩn tín dụng không hề đơn giản, nếu tiêu
chuẩn đặt ra cao quá tức là sẽ có nhiều khách hàng không được cấp tín
dụng làm giảm doanh thu lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu đưa ra tiêu
chuẩn thấp quá, doanh nghiệp có thể rơi vào tình trạng bị chiếm dụng vốn
hoặc thất thoát vốn, ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình hình tài chính của doanh
nghiệp.
Các tài liệu sử dụng để phân tích khả năng tín dụng của khách hàng
là các báo cáo tài chính, thông tin từ ngân hàng, lịch sử thanh toán của
khách hàng với các doanh nghiệp khác,
* Đánh giá tín dụng: Không có công thức chung để đánh giá khả
năng khách hàng không trả tiền. Nhưng có một cách chung nhất để xem
xét dựa trên các yếu tố sau đây:
- Đặc điểm: Sự sẵn sàng của khách hàng trong việc thực hiện nghĩa
vụ của tín dụng thương mại.
- Năng lực: Khả năng của khách hàng để thực hiện nghĩa vụ tín
dụng thương mại.
- Vốn: Dự trữ tài chính của khách hàng.

- Tài sản thế chấp: Tài sản cam kết dùng để thế chấp trong trường
hợp vỡ nợ.
- Các điều kiện : Các điều kiện kinh tế nói chung trong hoạt động
sản xuất kinh doanh của khách hàng.
Cho điểm tín dụng: đây là hoạt động để đánh giá khách hàng một
cách cụ thể dựa trên những thông tin đã thu thập được nhằm đưa ra quyết
định là sẽ bán chịu cho khách hàng hay là từ chối việc bán chịu. Người ta
có thể cho điểm từ 1 đến 10, điểm 1 là rất tồi và điểm 10 là rất tốt. ở một
số nước các doanh nghiệp cho điểm theo từng yếu tố trong 5 yếu tố kể
trên. Điểm số để xem có cấp tín dụng thương mại hay không là tổng số
điểm đã cho đối với 5 yếu tố để xem xét việc cấp tín dụng thương mại.

Theo kinh nghiệm của một số nước, nếu khách hàng đạt 30 điểm trở lên
thì doanh nghiệp nên cấp tín dụng thương mại cho khách hàng.
II. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng TSLĐ:
Phân tích tình hình sử dụng TSLĐ là một phần nội dung của phân
tích tài chính. Phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích tài
chính là phương pháp tỷ lệ. Đây là phương pháp có tính hiệu lực cao với
các điều kiện áp dụng ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Bởi lẽ thứ
nhất: nguồn thông tin kế toán và tài chính được cải tiến và cung cấp đầy
đủ hơn, thứ hai: việc áp dụng công nghệ tin học cho phép tích luỹ dữ liệu
và đẩy nhanh quá trình tính toán hàng loạt các tỷ lệ, thứ ba: phương pháp
này giúp các nhà phân tích khai thác có hiệu quả những số liệu và phân
tích một cách hệ thống hàng loạt tỷ lệ theo chuỗi thời gian liên tục hoặc
theo từng giai đoạn. Về nguyên tắc với phương pháp tỷ lệ cần xác định
được các ngưỡng, các định mức để đánh giá tình hình tài chính của một
doanh nghiệp. .
Các tỷ lệ tài chính chủ yếu thường được phân tích thành 4 nhóm
chính.
1. Các tỷ lệ về khả năng thanh toán.

- Khả năng thanh toán hiện hành: là tỷ lệ được tính bằng cách chia
tài sản lưu động cho nợ ngắn hạn.
 Tài sản lưu động: Tiền, chứng khoán dễ chuyển nhượng (tương
đương tiền), các khoản phải thu và dự trữ (tồn kho)
 Nợ ngắn hạn, các khoản vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức
tín dụng, các khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải trả
khác
Cả TSLĐ và nợ ngắn hạn đều có thời hạn nhất định tới một năm. Tỷ
lệ khả năng thanh toán hiện hành là thước đo khả năng thanh toán ngắn
hạn của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ
ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong

một giai đoạn tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó.
Để đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn khi đến
hạn, các nhà phân tích còn quan tâm đến chỉ tiêu vốn lưu động ròng (Net
Working Capital) hay vốn lưu động thường xuyên của doanh nghiệp. Chỉ
tiêu này cũng là một yếu tố quan trọng và cần thiết cho việc đánh giá điều
kiện cân bằng về tài chính của một doanh nghiệp. Nó được xác định là
phần chênh lệch giữa tổng tài sản lưu động và tổng nợ ngắn hạn hoặc là
phần chênh lệch thường xuyên ổn định với bất động sản ròng. Khả năng
đáp ứng nghĩa vụ thanh toán, mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh và khả
năng nắm bắt thời cơ thuận lợi của doanh nghiệp phụ thuộc phần lớn vào
vốn lưu động nói cung và vốn lưu động ròng nói riêng. Do vậy sự phát
triển của một doanh nghiệp còn thể hiện ở sự tăng trưởng vốn lưu động
ròng.
- Khả năng thanh toán nhanh: Là tỷ lệ tính bằng cách chia các tài
sản quay vòng nhanh cho nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những
tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền bao gồm tiền, chứng
khoán ngắn hạn, các khoản phải thu. ở đây, người ta không tính đến tài
sản dự trữ vì đâylà loại tài sản khó chuyển thành tiền nhất trong các mục

của TSLĐ và dễ bị lỗ nhất nên được bán. Do vậy, tỷ lệ khả năng thanh
toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả không phụ thuộc vào việc bán các
tài sản dự trữ (tồn kho). Khả năng thanh toán nhanh được tính bằng cách
lấy tài sản quay vòng nhanh chia cho nợ ngắn hạn.
- Tỷ lệ khả năng thanh toán tức thời: là tỷ lệ cho biết khả năng hoàn
trả các khoản nợ ngắn hạn mà không dùng đến các khoản phải thu và tài
sản dự trữ. Tỷ lệ này được tính bằng cách lấy "tài sản bằng tiền" chia cho
"nợ ngắn hạn".
- Tỷ lệ dự trữ (tồn kho) trên vốn lưu động ròng: tỷ lệ này cho biết
phần thua lỗ mà doanh nghiệp có thể phải gánh chịu do giá trị hàng dự trữ
giảm. Nó được tính bằng cách chia dự trữ (tồn kho) cho vốn lưu động

ròng.
2. Tỷ lệ về khả năng cân đối vốn:
Tỷ lệ này được dùng để đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu
doanh nghiệp so với phần tài trợ của các chủ nợ đối với doanh nghiệp và
có ý nghĩa quan trọng trong phân tích tài chính. Bởi lẽ các chủ nợ nhìn
vào số vốn của chủ sở hữu công ty để thể hiện mức độ tin tưởng vào sự
đảm bảo an toàn cho các món nợ. Nếu chủ sở hữu doanh nghiệp chỉ đóng
góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng số vốn thì rủi ro trong sản xuất kinh doanh
chủ yếu do các chủ nợ gánh chịu. Mặt khác bằng cách tăng vốn thông qua
vay nợ, các chủ doanh nghiệp vẫn nắm quyền kiểm soát và điều hành
doanh nghiệp. Ngoài ra nếu doanh nghiệp thu được lợi nhuận từ tiền vay
lớn hơn số tiền lãi phải trả thì lợi nhuận dành cho các chủ doanh nghiệp sẽ
tăng đáng kể.
- Tỷ lệ nợ trên tổng tài sản (hệ số nợ): Tỷ lệ này được dùng để xác
định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối với các chủ nợ trog việc góp vốn
thông thường, các chủ nợ thích tỷ lệ vay vừa phải vì tỷ lệ này càng thấp
thì khoản nợ càng được đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp bị phá
sản. Trong khi đó, các chủ sở hữu doanh nghiệp ưa thích tỷ lệ nợ cao vì

họ muốn lợi nhuận gia tăng nhanh và muốn toàn quyền kiểm soát doanh
nghiệp. Song nếu tỷ lệ nợ quá cao, doanh nghiệp dẽ bị rơi vào tình trạng
mất khả năng thanh toán.
Tỷ lệ nợ = Error!
- Khả năng thanh toán lãi vay hoặc số lần có thể trả lãi: Tỷ lệ này
được tính bằng cách chia lợi nhuận trước thuế và lãi cho lãi tiền vay. Nó
cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo khả năng trả lãi hàng năm như thế
nào. Việc không trả được những khoản nợ này sẽ có thể làm cho doanh
nghiệp bị phá sản.
3. Các tỷ lệ về khả năng hoạt động:
Các tỷ lệ về khả năng hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả

sử dụng nguồn vốn của doanh nghiệp. Nguồn vốn của doanh nghiệp được
sử dụng để đầu tư cho các loại tài sản khác nhau như TSCĐ, TSLĐ. Do
đó, các nhà phân tích không chỉ quan tâm tới việc đo lường hiệu quả sử
dụng tổng số nguồn vốn mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng của từng
bộ phận cấu thành nguồn vốn của doanh nghiệp. Chỉ tiêu doanh thu tiêu
thụ được sử dụng chủ yếu trong các tỷ lệ này để xem xét khả năng hoạt
động của doanh nghiệp.
- Vòng quay tiền: Tỷ lệ này được tính bằng cách chia doanh thu tiêu
thụ trong năm cho tổng số tiền mặt và các loại tài sản tương đương tiền
bình quân (chứng khoán ngắn hạn đễ chuyển nhượng), nó cho biết số vòng
quay của tiền trong một năm.
- Vòng quay dự trữ (tồn kho) là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh
giá hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vòng quay dự trữ
được xác định bằng tỷ lệ giữa doanh thu tiêu thụ trong năm và giá trị tài
sản dự trữ (nguyên liệu, vật liệu phụ, sản phẩm dở dang, thành phẩm,
hàng hoá) bình quân.

- Kỳ thu tiền bình quân: trong phân tích tài chính, kỳ thu tiền được
sử dụng để đánh giá khả năng thu hồi vốn trong thanh toán trên cơ sở các
khoản phải thu và doanh thu tiêu thụ bình quân một ngày. Các khoản phải
thu lớn hay nhỏ phụ thuộc vào chính sách tín dụng của doanh nghiệp và
các khoản trả trước.
- Hiệu xuất sử dụng TSCĐ: Chỉ tiêu này cho biết một đồng TSCĐ
tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu trong một năm.
Tài sản cố định ở đây được xác định theo giá trị còn lại đến thời
điểm lập báo cáo.
- Hiệu suất sử dụng tổng tài sản: Chỉ tiêu này được gọi là vòng quay
toàn bộ vốn, nó được đo bằng tỷ số giữa doanh thu tiêu thụ và tổng tài
sản. Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh
thu.

4. Tỷ lệ về khả năng sinh lãi.
Nếu như các nhóm tỷ lệ trên đây phản ánh hiệu quả từng hoạt động
riêng biệt của doanh nghiệp thì tỷ lệ về khả năng sinh lãi phản ánh tổng
hợp nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu năng quản lý doanh
nghiệp.
- Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm: chỉ tiêu này được xác định bằng cách
chia lợi nhuận sau thuế cho doanh thu tiêu thụ. Nó phản ánh số lợi nhuận
sau thuế có trong một trăm đồng doanh thu.
Error!
- Doanh lợi vốn tự có: chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia lợi
nhuận sau thuế cho vốn tự có (Vốn chủ sở hữu). Nó phản ánh khả năng
sinh lợi của vốn tự có và được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ
quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Tăng mức doanh lợi vốn tự
có cũng là một trong số các mục tiêu của hoạt động quản lý tài chính
doanh nghiệp .

- Doanh lợi vốn: đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh
giá khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư. Chỉ tiêu này còn được gọi
là tỷ lệ hoàn vốn đầu tư (ROI: Return Ou Investment). Tuy thuộc vào tình
hình cụ thể của doanh nghiệp được phân tích và ơhạm vi so sánh mà
người ta lựa chọn "lợi nhuận trước thuế và lãi" hoặc "lợi nhuận sau thuế"
để so sánh với tổng tài sản có. Đối với doanh nghiệp có sử dụng nợ trong
kinh doanh người ta thường dùng chỉ tiêu doanh lợi vốn xác định bằng
cách chia "lợi nhuận trước thuế và lãi" cho "tổng tài sản".
Ngoài các tỷ lệ trên, các nhà phân tích cũng đặc biệt chú ý tới việc
tính toán và phân tích những tỷ lệ liên quan tới các chủ sở hữu và giá trị
thị trường, chẳng hạn.
Tỷ lệ hoàn vốn cổ phần = Error!
Thu nhập cổ phiếu = Error!
Tỷ lệ trả cổ tức = Error!

Tỷ lệ giá cổ phiếu/lợi nhuận = Error!
Tỷ lệ lãi cổ phiếu/giá cổ phiếu
Trên đây là phương pháp tỷ lệ được sử dụng trong phân tích các tỷ
lệ tài chính. Ngoài ra, các nhà phân tích còn sử dụng phương pháp phân
tích tài chính DUPONT nhằm đánh giá tác động tương hỗ giữa các tỷ lệ
tài chính. Đó là quan hệ hàm số giữa doanh lợi vốn, vòng quay toàn bộ
vốn và doanh lợi tiêu thụ. Kết hợp phương pháp phân tích tỷ lệ với
phương pháp phân tích DUPONT sẽ góp phần nâng cao chất lượng hoạt
động phân tích tài chính.
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng TSLĐ:
Muốn nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ, cần phải xem xét các yếu
tố ảnh hưởng tới nó. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng
tài sản lưu động. Để tiện cho việc nghiên cứu, người ta chia các nhân tố ảnh

hưởng tới hiệu quả sử dụng TSLĐ thành hai nhóm: nhóm các nhân tố chủ
quan và nhóm các nhân tố khách quan.
1. Nhóm các nhân tố khách quan:
Là các nhân tố do môi trường bên ngoài doanh nghiệp gây ra. Nó
không phụ thuộc vào hoạt động của doanh nghiệp và không nằm trong tầm
kiểm soát của doanh nghiệp. Đối với các nhân tố này, công việc tốt nhất
doanh nghiệp nên làm là hiểu rõ những tác động này để tận dụng chúng
hoặc tự điều chỉnh để phù hợp với biến động của chúng.
- Nhu cầu tiêu dùng của xã hội: Ngày nay, các nhà cung cấp hàng
hoá dịch vụ đều theo quan điểm marketing hiện đại: "sản xuất cái mà thị
trường cần", do đó nhu cầu tiêu dùng của xã hội giúp các nhà quản lý
doanh nghiệp trả lời câu hỏi: sản xuất cái gì? cho ai?
Việc quản lý, sử dụng tài sản lưu động một cách có hiệu quả có ảnh
hưởng rất lớn tới sản xuất kinh doanh doanh nghiệp và do đó ảnh hưởng
tới việc cung ứng hàng hoá dịch vụ cho xã hội. Ngược lại nhu cầu tiêu
dùng của xã hội có ảnh hưởng lớn tới sản xuất kinh doanh nói chung, tới

hiệu quả hoạt động, hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp nói riêng.
Nhu cầu tiêu dùng của xã hội biến động hầu như không theo qui luật nào
và nằm ngoài tầm kiểm soát cuả doanh nghiệp. Chẳng hạn, theo kế hoạch
thì các mặt hàng thực phẩm, đồ gia dụng, thường tiêu thụ mạnh vào dịp
cuối năm, do vậy một số doanh nghiệp tiến hành sản xuất, dự trữ hàng tết
từ cuối quí III, đột nhiên do kinh tế suy thoái nên nhu cầu mua sắm, tiêu
dùng của xã hội đột nhiên giảm hẳn khiến các nhà sản xuất, các nhà phân
phối tồn kho lượng hàng hoá lớn hơn nhiều lần so với dự kiến gây ứ đọng
vốn, ngưng trệ sản xuất, hiệu quả kinh doanh giảm. Cũng có khi một
doanh nghiệp sản xuất một mặt hàng mới mà xã hội chưa quen, chưa chấp
nhận nên hàng sản xuất ra chất đống trong kho không bán được nhưng sau
một thời gian khi xã hội đã quen và ưa thích mặt hàng đó thì nhu cầu tiêu
thụ tăng vọt, hàng tồn kho được bán hết, hiệu quả sử dụng tài sản tăng
lên.

×