Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Công ty Tư vấn đầu tư và Thương mại.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (446.19 KB, 74 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRUỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP







LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN
TẠI CÔNG TY TƯ VẤN ĐẦU TƯ VÀ THƯƠNG MẠI






Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
CHUTHỊ THUỶ NGUYỄN HOÀNG MINH

Lớp: K34A2



À NỘI 6- 2002





1

LỜI NÓI ĐẦU
Từ sau đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam nền kinh tế nước ta từng
bước chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, một nền kinh tế hướng ngoại. Từ đó
mọi hoạt động kinh tế, tài chính tín dụng, tiền tệ trong nước đều chịu sự tác động
của những biến động kinh tế thương mại, tiền tệ tín dụng trên thế giới và trong khu
vực.
Trong bối cảnh chung của đất nước thì bản thân mỗi đơn vị, tổ chức kinh tế hay
doanh nghiệp cũng chịu tác động ảnh hưởng theo. Các doanh nghiệp muốn tồn tại
đứng vững và ngày càng phát triển, đòi hỏi phải có tiềm lực mạnh mẽ về mặt tài
chính để có điều kiện cạnh tranh và tiến hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Mặt
khác, theo đà phát triển của kinh tế, các quan hệ kinh tế tài chính ngày càng mở
rộng và đa dạng. Vì vậy vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải có một lượng
vốn nhất định đồng thời tiến hành phân phối, quản lý và sử dụng nguồn vốn một
cách hợp lý, có hiệu quả cao nhất.
Quản lý và sử dụng vốn sao cho có hiệu quả là một nội dung quan trọng trong
công tác quản lý tài chính của mỗi doanh nghiệp. Nó giúp cho các doanh nghiệp
nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho tình hình tài
chính của doanh nghiệp luôn ở trạng thái ổn định và lành mạnh. Đây cũng là một
vấn đề luôn thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư, lãnh đạo doanh nghiệp và
những người làm công tác kế toán tài chính.
Xuất phát từ thực tế đó, em đã mạnh dạn chọn đề tài:
“Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Công ty Tư vấn
đầu tư và Thương mại”
làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình.

Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ những nét đặc thù trong hoạt động kinh
doanh của Công ty Tư vấn đầu tư và Thương mại, đánh giá đúng thực trạng hiệu quả




2

sử dụng vốn của Công ty thời gian qua từ đó nêu ra một số giải pháp chủ yếu nhằm
nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty Tư vấn đầu tư và Thương mại trực thuộc
Tổng công ty công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam trong thời gian tới.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
:

Đối tượng nghiên cứu của đề tà : là hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty Tư
vấn đầu tư và Thương mại trực thuộc Tổng công ty công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Khảo sát thực tế hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu ở Công
ty Tư vấn đầu tư và Thương mại từ năm 1999 - 2001. Các phân tích của luận văn đưa
ra trên cơ sở tổng hợp các tài liệu, các kết quả nghiên cứu của Công ty Tư vấn đầu tư
và Thương mại.
Phương pháp nghiên cứu
:
Quán triệt phương pháp duy vật biện chứng với quan
điểm lịch sử cụ thể, sử dụng các phương pháp phân tích hiệu quả, phân tích tài chính,
phân tích thống kê, phân tích so sánh trong nghiên cứu. Vừa dựa trên những lý thuyết
cơ bản vừa dựa trên hoàn cảnh cụ thể của qúa trình kinh doanh tại đơn vị thực tập
cũng như những tác động của môi trường kinh doanh trong và ngoài Công ty.

Những đóng góp của luận văn :


- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về hiệu quả sử dụng vốn.
- Phân tích thực trạng hiệu quả kinh doanh của Công ty Tư vấn đầu tư và Thương
mại trên một số chỉ tiêu tổng hợp chủ yếu.
- Trên cơ sở hệ thống hoá những vấn đề lý luận và phân tích thực trạng hiệu quả
kinh doanh, luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn của Công ty Tư vấn đầu tư và Thương mại.


Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 phần:
- Phần 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
- Phần 2: Thực trạng hiệu quả kinh doanh của Công ty Tư vấn đầu tư và Thương
mại.
- Phần 3: Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quảsử dụng vốn của Công
ty Tư vấn đầu tư và Thương mại.
Mặc dù có rất nhiều cố gắng song do những hạn chế về kiến thức và thời gian
nghiên cứu còn hạn hẹp nên luận văn này không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất
mong được sự đóng góp và chỉ bảo thêm của các thầy cô.





3

Chương I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN


I/ Khái niệm và phân loại vốn.

1. Khái niệm về vốn
Do vai trò quan trọng của vốn trong sự tồn tại và phát triển một doanh nghiệp nói
riêng và của một nền kinh tế nói chung, từ trước tới nay, không chỉ có các chủ
doanh nghiệp, những nhà quản lý quan tâm, trăn trở về nguồn huy động và cách
thức sử dụng vốn mà ngay cả các nhà kinh tế, nhà lý luận đã tốn không ít giấy mực
và tâm trí để đưa ra một định nghĩa, một nghiên cứu hoàn chỉnh nhất về vốn của
doanh nghiệp.
Dưới giác độ các yếu tố sản xuất, Mark đã khái quát hoá vốn thành phạm trù cơ
bản. Theo Mark, tư bản là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là một đầu vào của quá
trình sản xuất. Định nghĩa của Mark có tầm khái quát lớn. Tuy nhiên, do hạn chế
của trình độ phát triển kinh tế lúc bấy giờ, Mark quan niệm chỉ có khu vực sản xuất
vật chất mới tạo ra giá trị thặng dư.
Paul. A. Sammelson, nhà kinh tế học theo trường phái “tân cổ điển” đã thừa kế
quan niệm về các yếu tố sản xuất của trường phái cổ điển và phân chia các yếu tố
đầu vào của quá trình sản xuất ra thành ba loại chủ yếu là: đất đai, lao động và vốn.
Theo ông, vốn là các hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho một quá trình sản
xuất mới, là đầu vào cho hoạt động sản xuất của một doanh nghiệp: đó có thể là các
máy móc, trang thiết bị, vật tư, đất đai, giá trị nhà xưởng... Trong quan niệm về vốn
của mình, Sammelson không đề cập tới các tài sản tài chính, những giấy tờ có giá
trị đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Trong cuốn kinh tế học của D. Begg, tác giả đã đưa ra hai định nghĩa vốn hiện
vật và vốn tài chính của doanh nghiệp. Vốn hiện vật là dự trữ các hàng hoá đã sản




4


xuất ra để sản xuất các hàng hoá khác; vốn tài chính là tiền và các giấy tờ có giá
của doanh nghiệp. Như vậy, D. Begg đã bổ sung vốn tài chính vào định nghĩa vốn
của Sammelson.
Trong hai định nghĩa trên, các tác giả đã thống nhất nhau ở điểm chung cơ bản:
vốn là một đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, trong cách định
nghĩa của mình, các tác giả đã đều thống nhất vốn với tài sản của doanh nghiệp.
Thực chất, vốn là biểu hiện bằng tiền, là giá trị của tài sản mà doanh nghiệp đang
nắm giữ. Vốn và tài sản là hai mặt hiện vật và giá trị của môt bộ phận nguồn lực
mà doanh nghiệp huy động vào quá trình sản xuất kinh doanh của mình.
Vốn biểu hiện mặt giá trị, nghĩa là vốn phải đại diện cho một loại giá trị hàng
hoá, dịch vụ nhất định, một loại giá trị tài sản nhất định. Nó là kết tinh của giá trị
chứ không phải là đồng tiền in ra một cách vô ý thức rồi bỏ vào đầu tư.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn là một loại hàng hoá. Nó giống các hàng hoá
khác ở chỗ có chủ sở hữu nhất định. Song nó có điểm khác vì người sở hữu có thể
bán quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Giá của vốn (hay còn gọi là
lãi suất) là cái giá phải trả về quyền sử dụng vốn. Chính nhờ sự tách dời về quyền
sở hữu và quyền sử dụng vốn nên vốn có thể lưu chuyển trong đầu tư kinh doanh
và sinh lời.
Dưới góc độ của doanh nghiệp, vốn là một trong những điều kiện vật chất cơ
bản, kết hợp với sức lao động và các yếu tố khác làm đầu vào cho quá trình sản
xuất kinh doanh. Sự tham gia của vốn không chỉ bó hẹp trong một quá trình sản
xuất riêng biệt, chia cắt, mà trong toàn bộ các quá trình sản xuất và tái sản xuất liên
tục, suốt trong thời gian tồn tại của doanh nghiệp, từ khi bắt đầu quá trình sản xuất
đầu tiên cho tới chu kỳ sản xuất cuối cùng.
Tóm lại, vốn là một phạm trù được xem xét, đánh giá theo nhiều quan niệm, với
nhiều mục đích khác nhau. Do đó, khó có thể đưa ra một định nghĩa về vốn thoả





5

mãn tất cả các yêu cầu, các quan niệm đa dạng. Song hiểu một cách khái quát, ta có
thể coi:
Vốn kinh doanh là toàn bộ những giá trị ứng ra ban đầu hay các giá trị tích luỹ
được cho các quá trình sản xuất tiếp theo của doanh nghiệp.
2. Vai trò của vốn
Vốn là điều kiện không thể thiếu được để thành lập một doanh nghiệp và tiến
hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Để doanh nghiệp được phép thành lập,
bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải đầu tư một số vốn nhất định không nhỏ hơn
mức vốn pháp định, là mức vốn tối thiểu mà pháp luật qui định đối với mỗi nghành
nghề.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn đóng vai trò đảm bảo cho hoạt động
của doanh nghiệp được tiến hành thuận lợi theo mục đích đã định. Nó là một trong
bốn yếu tố đầu vào cơ bản của sản xuất. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp được đảm khi hội đủ các yếu tố: vốn, lao động, tài nguyên và kỹ thuật công
nghệ. Nhưng xét cho cùng thì điều kiện đầu tiên và quyết định là vốn. Khi có vốn,
doanh nghiệp có thể sử dụng để thuê lao động, mua tài nguyên và công nghệ. Vì
thế, vốn được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu, là điều kiện không thể thiếu để
tiến hành sản xuất, tái sản xuất và mở rộng sản xuất kinh doanh.
Vai trò của vốn chỉ có thể được phát huy trên cơ sở thực hiện các chức năng tài
chính, thực hiện yêu cầu của cơ quan hạch toán kinh doanh. Điều đó nghĩa là thực
hành tiết kiệm, hiệu quả. Trên cơ sở tự chủ về tài chính, doanh nghiệp phải sử dụng
hợp lý, đúng mức đồng vốn bỏ ra, phải làm sao với số vốn nhất định có thể thực
hiện được nhiều việc nhất.
Để khẳng định vai trò của vốn, Mark đã nói: “tư bản đứng vị trí hàng đầu vì tư
bản là tương lai” (trích từ tài liệu: “Tích tụ và tập trung vốn trong nước – NXB
Thống kê 1997”).
3. Phân loại vốn trong doanh nghiệp






6

Vốn trong doanh nghiệp thường được chia thành nhiều phần khác nhau theo từng
cách chia khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích, thời hạn, và tính chất sử dụng vốn mà
người ta phân chia thành các loại khác nhau:
3.1. Xét về vai trò và tính chất luân chuyển vốn khi tham gia vào quá trình sản
xuất kinh doanh có thể phân thành hai loại: Vốn cố định và vốn lưu động
3.1.1. Vốn cố định

Vốn cố định của một doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về
tài sản cố định mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều
chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời gian
sử dụng.
Là số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng các tài sản cố định nên qui mô
của vốn cố định nhiều hay ít sẽ quyết định quy mô của tài sản cố định ảnh hưởng
rất lớn đến trình độ trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ, năng lực sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Song ngược lại những đặc điểm kinh tế của tài sản cố
định trong quá trình sử dụng lại có ảnh hưởng quyết định, chi phối đặc điểm tuần
hoàn và chu chuyển của vốn cố định.
Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh vì tài sản cố định
của doanh nghiệp có thời gian luân chuyển dài. Tuỳ theo hình thái biểu hiện và kết
hợp tính chất đầu tư thì vốn cố định dưới dạng tài sản cố định của doanh nghiệp
được chia làm ba loại: tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định vô hình, tài sản cố
định tài chính.
a. Tài sản cố định vô hình
là những tài sản cố định không có hình thái vật chất cụ

thể, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu
kỳ kinh doanh của doanh nghiệp như chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí về đất
sử dụng, chi phí mua bằng sáng chế, phát minh hay nhãn hiệu thương mại, giá trị
lợi thế thương mại... tài sản cố định vô hình cũng có thể được hình thành do doanh
nghiệp đầu tư hay cho thuê dài hạn.




7

b. Tài sản cố định hữu hình
là những tư liệu lao động chủ yếu được biểu hiện
bằng các hình thái vật chất cụ thể như nhà xưởng, máy móc, thiết bị phương tiện
vận tải, các vật kiến trúc..., những tài sản cố định hữu hình này có thể là từng đơn
vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống bao gồm nhiều bộ phận tài sản
liên kết với nhau để thực hiện một hay một số chức năng nhất định trong quá trình
sản xuất kinh doanh. Tài sản cố định hữu hình có thể do doanh nghiệp tự mua sắm,
xây dựng hoặc cho thuê dài hạn.
c. Tài sản cố định tài chính
là giá trị các khoản đầu tư tài chính dài hạn với mục
đích kiếm lời như đầu tư vốn vào liên doanh dài hạn, cho thuê tài sản cố định dài
hạn... Đây là những khoản vốn đầu tư có thời gian thu hồi dài (lớn hơn một năm
hay một chu kỳ kinh doanh).
Vốn cố định được luân chuyển giá trị dần dần từng phần. Khi tham gia vào quá
trình sản xuất thì tài sản không bị thay đổi hình dáng hiện vật ban đầu nhưng tính
năng và công suất bị giảm dần, tức là nó bị hao mòn cùng với sự giảm dần về giá trị
sử dụng của nó cũng bị giảm đi. Vốn cố định được tách làm hai phần sau:
- Một phần tương ứng với giá trị hao mòn được chuyển vào giá trị sản phẩm
dưới hình thức chi phí khâu hao và được tích luỹ lại thành quỹ khấu hao sau khi sản

phẩm hàng hoá được tiêu thụ. Quỹ khấu hao này dùng để tái sản xuất tài sản cố
định nhằm duy trì năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
- Phần còn lại của vốn cố định được “cố định” trong hình thái hiện vật của tài sản
cố định ngày càng giảm đi trong khi phần vốn luân chuyển càng tăng lên tương ứng
với sự suy giảm dần giá trị sử dụng tài sản cố định. Kết thúc quá trình vận động đó
cũng là lúc tài sản cố định hết thời gian sử dụng và vốn cố định cũng hoàn thành
một vòng luân chuyển.
Thông thường, vốn cố định là bộ phận quan trọng và chiếm một tỷ trọng lớn
trong tổng số vốn kinh doanh của doanh nghiệp, đặc điểm luân chuyển của nó lại




8

tuân theo quy luật riêng, do đó việc quản lý và sử dụng vốn cố định có ảnh hưởng
trực tiếp tới hiệu quả vốn sản xuất kinh doanh.
3.1.2. Vốn lưu động
Vốn lưu động trong doanh nghiệp là số vốn tiền tệ ứng trước để đầu tư, mua sắm
tài sản lưu động của doanh nghiệp nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh
doanh được tiến hành liên tục.
Là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động nên đặc điểm vận động của vốn lưu
động chịu sự chi phối bởi những đặc điểm của tài sản lưu động. Trong các doanh
nghiệp người ta thường chia tài sản lưu động thành hai loại: tài sản lưu động sản
xuất và tài sản lưu động lưu thông.
- Tài sản lưu động sản xuất bao gồm các loại nguyên nhiên vật liệu, phụ từng
thay thế, bán thành phẩm, sản phẩm dở dang... đang trong quá trình dự trữ sản xuất
hoặc chế biến.
- Tài sản lưu động lưu thông bao gồm các sản phẩm thành phẩm chờ tiêu thụ, các
loại vốn bằng tiền, các khoản vốn trong thanh toán, các khoản chi phí chờ kết

chuyển, chi phí trả trước.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các tài sản lưu động sản xuất và tài sản
xuất lưu thông luôn vận động, thay thế và chyển hoá lẫn cho nhau, đảm bảo cho
quá trình sản xuất được diễn ra thuờng xuyên liên tục. Phù hợp với những đặc điểm
trên của tài sản lưu động, vốn lưu động của doanh nghiệp cũng không ngừng vận
động qua các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh.
Vốn lưu động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất và không giữ nguyên hình
thái vật chất ban đầu. Vì vậy giá trị của nó được chuyển dịch toàn bộ, một lần vào
giá trị sản phẩm:
- Khởi đầu vòng tuần hoàn vốn, vốn lưu động từ hình thái tiền tệ ban đầu chuyển
sang hình thái vốn vật tư hàng hoá dự trữ và vốn sản xuất. Kết thúc vòng tuần hoàn,




9

sau khi sản phẩm được tiêu thụ, vốn lưu động lại trở về hình thái tiền tệ như điểm
xuất phát ban đầu của nó.
- Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra một cách thường
xuyên liên tục nên cùng một thời điểm vốn lưu động tồn tại dưới các hình thái khác
nhau trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông.
- Các giai đoạn vận động của vốn được đan xen vào nhau, các chu kỳ sản xuất
được lặp đi lặp lại. Sau mỗi chu kỳ tái sản xuất, vốn lưu động hoàn thành một vòng
luân chuyển.
Từ những đặc điểm trên ta thấy quản lý và sử dụng vốn lưu động là bộ phận
quan trọng trong công tác quản lý tài chính của mỗi doanh nghiệp. Trong đó cần
phải xác định đúng đắn nhu cầu vốn lưu động giúp cho doanh nghiệp đảm bảo vốn
lưu động để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, tránh tình trạng ứ đọng vốn.
Trên cơ sở đó doanh nghiệp nên có những biện pháp khai thác và huy động các

nguồn tài trợ nhằm đáp ứng nhu cầu vốn và thực hiện tốt công tác quản lý và sử
dụng vốn, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh.
3.2. Vốn chủ sở hữu và nợ phải trả

Căn cứ vào nguồn hình thành thì vốn được chia làm hai loại: Vốn chủ sở hữu và
nợ phải trả.
3.2.1. Vốn chủ sở hữu

Vốn chủ sở hữu là phần vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, doanh
nghiệp có đầy đủ các quyền chiếm hữu, chi phối và định đoạt. Số vốn này không
phải là một khoản nợ và doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán. Tuỳ theo
loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau mà vốn chủ sở hữu
có nội dung cụ thể riêng như: vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, vốn do chủ doanh
nghiệp bỏ ra, vốn góp cổ phần... Vốn chủ sở hữu được xác định là phần vốn còn lại
trong tài sản của doanh nghiệp sau khi trừ đi toàn bộ nợ phải trả.




10

3.2.2. Công nợ phải trả

Là khoản nợ phát sinh trong quá trình kinh doanh mà doanh nghiệp có trách
nhiệm phải thanh toán cho các tác nhân kinh tế. Đó là số tiền vốn mà doanh nghiệp
đi vay, chiếm dụng của các đơn vị, tổ chức, cá nhân như: vốn vay của ngân hàng
thương mại, các tổ chức tài chính khác, vốn vay thông qua phát hành trái phiếu, các
khoản nợ khách hàng chưa thanh toán.
3.3. Nguồn vốn thường xuyên và nguồn vốn tạm thời


Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn có thể phân chia nguồn vốn
doanh nghiệp thành hai loại: Nguồn vốn thường xuyên và nguồn vốn tạm thời.
3.3.1. Nguồn vốn thường xuyên

Là nguồn vốn từ một năm trở lên bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu và các khoản
vay dài hạn. Đây là nguồn vốn có tính chất ổn định mà doanh nghiệp có thể sử
dụng dành cho việc đầu tư mua sắm tài sản cố định và một bộ phận tài sản lưu động
tối thiểu thường xuyên cần thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
3.3.2. Nguồn vốn tạm thời

Đây là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn ( ít hơn một năm ) mà doanh nghiệp có
thể sử dụng để đáp ứng các nhu cầu có tính chất tạm thời, bất thường phát sinh
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm
các khoản vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng cùng các khoản nợ
khác.
Việc phân loại nguồn vốn thường xuyên và nguồn vốn tạm thời giúp cho người
quản lý xem xét huy động các nguồn vốn một cách hợp lý với thời gian sử dụng,
đáp ứng đầy đủ, kịp thời vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Cách phân loại này còn giúp cho các nhà quản lý doanh nghiệp lập các kế hoạch
tài chính hình thành nên những dự định và tổ chức nguồn vốn trong tương lai trên




11

cơ sở xác định quy mô thích hợp cho từng nguồn vốn đó, tổ chức sử dụng vốn có
hiệu quả cao.

II/ Những chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
1. Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn
Hiệu quả sử dụng vốn là sự so sánh giữa chí phí sử dụng vốn và những lợi ích
mà đồng vốn đó mang lại cho doanh nghiệp. Thông qua sự so sánh như vậy có thể
thấy được ta sẽ đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp đó là cao
hay thấp, tốt hay xấu…
2. Những chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
2.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn nói chung

 Hiệu suất sử dụng vốn:
Doanh thu thuần trong kỳ
Vòng quay toàn bộ vốn trong kỳ = -------------------------------------------
Số

vốn sử dụng bình quân trong kỳ

Chỉ tiêu này phản ánh vốn của doanh nghiệp trong một kỳ quay được bao nhiêu
vòng. Qua chỉ tiêu này ta có thể đánh giá được khả năng sử dụng tài sản của doanh
nghiệp thể hiện qua doanh thu thuần được sinh ra từ tài sản doanh nghiệp đã đầu tư.
Vòng quay càng lớn thì hiệu quả càng cao.
 Suất hao phí vốn:
Là chỉ tiêu nghịch đảo chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn, phản ánh một đồng doanh
thu cần có bao nhiêu đồng vốn.

Số vốn sử dụng bình quân trong kỳ
Suất hao phí vốn trong kỳ = -----------------------------------------------
Doanh thu thuần trong kỳ
 Tỷ lệ doanh lợi trên tổng vốn:

Lợi nhuận thuần trong kỳ

Tỷ lệ doanh lợi trên tổng vốn trong kỳ = ---------------------------------------------

Số vốn sử dụng bình quân trong kỳ





12

Chỉ tiêu này cho biết số lợi nhuận được tạo ra trên một đồng vốn sản xuất trong
kỳ.
2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
 Hiệu suất sử dụng vốn cố định:
Đây là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định, nó giúp cho các nhà phân
tích biết được đầu tư một đồng vốn cố định có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu.
Doanh thu thuần trong kỳ
Hiệu suất sử dụng vốn cố định = --------------------------------------------
Vốn cố định bình quân trong kỳ
 Suất hao phí vốn cố định:
Là đại lượng nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định. Chỉ tiêu này
phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu cần phải bỏ vào sản xuất bao nhiêu đồng
vốn cố định.
Vốn cố định bình quân trong kỳ
Suất hao phí vốn cố định = ------------------------------------------------
Doanh thu thuần trong kỳ
 Tỷ lệ doanh lợi trên vốn cố định:
Lợi nhuận trong kỳ
Tỷ lệ doanh lợi trên vốn cố định = -----------------------------------------------
Vốn cố định bình quân trong kỳ


Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của vốn cố định. Chỉ tiêu này thể hiện
một đồng vốn cố định bỏ vào sản xuất đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Khả năng
sinh lời của vốn cố định càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn càng tốt.
2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động

 Hiệu suất sử dụng vốn lưu động:
Doanh thu thuần
Vòng quay vốn lưu động trong kỳ = ---------------------------------
Vốn lưu động bình quân





13

Vòng quay vốn lưu động phản ánh trong kỳ vốn lưu động quay được mấy vòng.
Qua đó cho biết một đồng lưu động bỏ vào sản xuất kinh doanh đem lại bao nhiêu
đồng doanh thu. Chỉ tiêu này tỷ lệ thuận với hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
 Tỷ lệ doanh lợi trên vốn lưu động:


Lợi nhuận
Tỷ lệ doanh lợi trên vốn lưu động = --------------------------------------------
Vốn lưu động bình quân trong kỳ

Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động bỏ vào sản xuất kinh doanh đem lại
bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ lệ này phản ánh hiệu qủa sử dụng vốn lưu động.
 Kỳ luân chuyển vốn lưu động:

360
K = ----------
L
K: kỳ luân chuyển vốn lưu động.
L: số lần luân chuyển (số vòng quay) của vốn lưu động trong kỳ.
Chỉ tiêu này cho biết số ngày cần thiết để thực hiện một vòng quay vốn lưu
động. Vòng quay của vốn càng nhanh thì kỳ luân chuyển vốn càng được rút ngắn
và chứng tỏ vốn lưu động càng được sử dụng có hiệu quả.
 Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động:
Hệ số này càng thấp thì hiệu quả sử dụng vốn cố định càng cao và ngược lại.
Vốn lưu động
Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động = -----------------------------------
Doanh thu sau thuế

2.4. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán

Tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh rõ nét chất lượng
công tác tài chính. Nếu hoạt động tài chính tốt, doanh nghiệp sẽ ít công nợ, khả
năng thanh toán dồi dào, ít bị chiếm dụng vốn cũng như ít đi chiếm dụng vốn.




14

Ngược lại nếu hoạt động tài chính kém thì sẽ dẫn đến tình trạng chiếm dụng vốn
lẫn nhau, các khoản công nợ phải thu, phải trả sẽ dây dưa, kéo dài.
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp chỉ tập trung vào thanh toán khoản vay
nợ mà doanh nghiệp cần phải thanh toán trong năm. Do vậy doanh nghiệp phải
dùng toàn bộ tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của mình để thanh toán nợ tới

hạn. Nếu khả năng thanh toán yếu, doanh nghiệp phải chịu lãi suất đồng thời làm
ảnh hưởng đến các mối quan hệ kinh tế trong kinh doanh. Vì vậy khi xét đến khả
năng thanh toán người ta chỉ xét đến khả năng thanh toán nợ ngắn hạn. Thuộc
nhóm chỉ tiêu này bao gồm:
Tổng tài sản
 Hệ số khả năng thanh toán tổng quát = ---------------------------
Tổng nợ phải trả
Chỉ tiêu này phản ánh mối quan hệ giữa tổng tài sản hiện nay mà doanh nghiệp
đang quản lý sử dụng với tổng số nợ phải trả ( nợ ngắn hạn, nợ dài hạn, ... ).
Nếu hệ số nay nhỏ hơn một là báo hiệu sự phá sản của doanh nghiệp, vốn chủ sở
hữu bị mất toàn bộ, tổng số tài sản hiện có (tài sản lưu động, tài sản cố định) không
đủ trả số nợ mà doanh nghiệp phải thanh toán.
 Hệ số khả năng thanh toán tạm thời:

Hệ số khả năng Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn trong kỳ
thanh toán = --------------------------------------------------------------
tạm thời trong kỳ Tổng nợ ngắn hạn trong kỳ

Hệ số khả năng thanh toán tạm thời thể hiện mức độ đảm bảo của tài sản lưu
động với nợ ngắn hạn. Nợ ngắn hạn là khoản nợ phải thanh toán trong kỳ, do đó
doanh nghiệp phải dùng tài sản thực có của mình để thanh toán bằng cách chuyển
đổi một bộ phận tài sản thành tiền. Trong tổng số tài sản mà doanh nghiệp đang
quản lý, sử dụng và sở hữu, chỉ có tài sản lưu động là trong kỳ có khả năng chuyển
đổi thành tiền.
 Hệ số khả năng thanh toán nhanh:




15


Tài sản lưu động - Vốn vật tư hàng hoá
Hệ số khả năng thanh toán nhanh = ------------------------------------------------
Tổng nợ ngắn hạn

Trong đó:
Tài sản lưu động bao gồm: tiền, các khoản phải thu, các khoản đầu tư ngắn hạn.
Việc phân tích và tính toán các hệ số khả năng thanh toán nhanh giúp cho doanh
nghiệp biết được thực trạng các khoản cần thanh toán nhanh để có kế hoạch dự trữ
nhằm đáp ứng kịp thời các nhu cầu thanh toán.
2.5. Các chỉ tiêu về khả năng cân đối vốn

Nhóm các chỉ tiêu phản ánh khả năng cân đối vốn bao gồm các tỷ lệ sau:
 Hệ số nợ:
Các doanh nghiệp cần phải xác định các chỉ tiêu hệ số nợ. Chỉ tiêu này phản ánh
mức độ nợ trong tổng số tài sản của dong nghiệp, từ đó cho thấy trong tổng tài sản
của doanh nghiệp, tài sản sở hữu thực chất của doanh nghiệp là bao nhiêu. Nếu tỷ
số này tăng lên, mức độ đơn vị cần được thanh toán tăng điều này gây ảnh hưởng
đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Tổng số nợ
Hệ số nợ = --------------------------
Tổng tài sản
Trong đó:
Tổng nợ phải trả bao gồm:
- Nợ ngắn hạn
- Nợ dài hạn
- Nợ khác
Tổng tài sản bao gồm:
- Tài sản lưu động
- Tài sản cố định





16

Khi hệ số nợ cao tức là chủ doanh nghiệp chỉ đóng góp một phần nhỏ trên tổng
số tài sản thì sự rủi ro trong kinh doanh được chuyển sang cho chủ nợ gánh chịu
một phần. Đồng thời khi hệ số nợ cao thì chủ doanh nghiệp càng có lợi rõ rệt vì khi
đó họ chỉ bỏ ra một lượng vốn nhỏ nhưng lại được sử dụng một lượng tài sản lớn.
Và khi kinh doanh vốn lớn hơn lãi suất tiền vay thì lợi nhuận của họ gia tăng rất
nhanh. Tuy nhiên khi hệ số nợ cao thì độ an toàn trong kinh doanh càng kém vì chỉ
cần một khoản nợ tới hạn trả, không trả được sẽ rất dễ làm cho cán cân thanh toán
mất cân bằng và xuất hiện nguy cơ phá sản.
 Tỷ suất tự tài trợ:
Đây là một chỉ tiêu tài chính đo lường sự góp vốn của chủ sở hữu trong tổng số
vốn hiện có của doanh nghiệp.

Nguồn vốn chủ sở hữu
Tỷ suất tự tài trợ = ---------------------------------- = 1 - hệ số nợ
Tổng nguồn vốn
Tỷ suất tự tài trợ càng lớn chứng tỏ doanh nghiệp có nhiều vốn tự có, có tính độc
lập cao với các chủ nợ, do đó không bị ràng buộc hoặc bị sức ép của các khoản vay.
Các chủ nợ thường thích tỷ suất tự tài trợ càng cao càng tốt. Chủ nợ nhìn vào tỷ số
này để tin tưởng một sự đảm bảo cho các món nợ vay được hoàn trả đúng hạn.
 Tỷ số nợ dài hạn:
Chỉ tiêu này được dùng để chỉ ra phần tài sản của doanh nghiệp được hình thành
bằng nguồn vốn vay dài hạn. Nợ dài hạn là những khoản nợ có thời gian đáo nợ
trên một năm, do vậy tài sản được hình thành từ nguồn vốn này có hệ số an toàn
cao hơn tài sản được hình thành từ nguồn vốn vay ngắn hạn.

Tổng số nợ dài hạn
Tỷ số nợ dài hạn = -------------------------------
Tổng nguồn vốn





17

Tổng số nợ dài hạn được xác định bằng tổng các khoản vay dài hạn và nợ dài
hạn trên bảng cân đối tài sản, phần nguồn vốn.
 Hệ số thanh toán lãi vay:
Lãi vay phải trả là một khoản chi phí cố định, nguốn để trả lãi vay là lợi nhuận
gộp sau khi đã trừ đi chi phí quản lý kinh doanh và chi phí bán hàng. So sánh
nguốn vốn để trả lãi với lãi vay phải trả sẽ cho chúng ta biết doanh nghiệp đã sẵn
sàng trả tiền lãi tới mức độ nào.
Lãi vay + lợi nhuận trước thuế
Hệ số thanh toán lãi vay = --------------------------------------------------
Lãi vay phải trả
Hệ số này dùng để đo lường mức độ lợi nhuận có được do sử dụng vốn để đảm
bảo trả lãi cho chủ nợ. Nói cách khác, hệ số thanh toán lãi vay cho chúng ta biết
được số vốn đi vay đã sử dụng tốt tới mức độ nào và đem lại một khoản lợi nhuận
là bao nhiêu, có đủ bù đắp lãi vay phải trả hay không.
2.6. Các chỉ tiêu về khả năng hoạt động

Các chỉ tiêu này dùng để đo lường hiệu quả sử dụng vốn, tài sản của một doanh
nghiệp bằng cách so sánh doanh thu với việc bỏ vốn vào kinh doanh dưới các loại
tài sản khác nhau.
 Vòng quay hàng tồn kho

Số vòng quay hàng tồn kho là số lần mà hàng hoá tồn kho bình quân luân chuyển
trong kỳ.
Giá vốn hàng bán
Số vòng quay hàng tồn kho = ------------------------------------
Hàng tồn kho bình quân
Số vòng quay hàng tồn kho càng cao thì việc kinh doanh được đánh giá càng tốt.
 Số ngày một vòng quay hàng tồn kho
Phản ánh số ngày trung bình của một vòng quay hàng tồn kho.
Công thức xác định là:
360 ngày




18

Số ngày một vòng quay hàng tồn kho = --------------------------------------
Số vòng quay hàng tồn kho
 Vòng quay các khoản thu
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu thành tiền mặt của
doanh nghiệp.
Doanh thu thuần trong kỳ
Vòng quay các khoản phải thu = ---------------------------------------------------
Số dư bình quân các khoản phải thu
Vòng quay càng lớn chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản thu nhanh là tốt
 Kỳ thu tiền trung bình
Kỳ thu tiền trung bình phản ánh số ngày cần thiết để thu được các khoản phải thu
(số ngày của một vòng quay các khoản phải thu).

360 ngày

Kỳ thu tiền trung bình = ----------------------------------------------
Vòng quay các khoản phải thu
Vòng quay các khoản phải thu càng lớn thì kỳ thu tiền trung bình càng nhỏ, và
ngược lại.
Tuy nhiên kỳ thu tiền trung bình cao hay thấp trong nhiều trường hợp chưa thể
có kết luận chắc chắn mà còn phải xem xét lại các mục tiêu và chính sách của
doanh nghiệp như: mục tiêu mở rộng thị trường, chính sách tín dụng của doanh
nghiệp.
III/ Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Kinh doanh là một hoạt động kiếm lời, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của mọi
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Để đạt tới lợi nhuận tối đa các doanh
nghiệp phải không ngừng nâng cao trình độ sản xuất – kinh doanh, trong đó, quản
lý và sử dụng vốn là một bộ phận rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định kết quả và
hiệu quả sản xuất kinh doanh.




19

Trong cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp, các doanh nghiệp Nhà nước
được Nhà nước tài trợ và cấp phát vốn đầy đủ, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh không cần quan tâm do nhiệm vụ của họ chỉ thực hiện đúng kế hoạch Nhà
nước giao. Do đó hiệu quả sử dụng vốn cũng không được các doanh nghiệp Nhà
nước quan tâm tới. Từ khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường, các doanh nghiệp
Nhà nước phải hạch toán độc lập, tự chủ trong hoạt động kinh doanh và quản lý
nguồn vốn, có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn, các doanh nghiệp Nhà nước
phải quan tâm đúng mức đến hiệu quả sử dụng vốn. Muốn vậy, các doanh nghiệp
phải thường xuyên tự đánh giá mình về phương diện sử dụng vốn, qua đó, thấy
được chất lượng quản lý sản xuất - kinh doanh, khả năng khai thác các tiềm năng

sẵn có, biết được mình đang ở cung đoạn nào trong quá trình phát triển (thịnh
vượng hay suy thoái), đang ở vị trí nào trong quá trình thi đua, cạnh tranh với các
xí nghiệp khác.
Qua phân tích, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn nhằm có biện pháp tăng cường
quản lý, sử dụng tiết kiệm các yếu tố của sản xuất để đạt hiệu quả cao hơn.
IV/ Các nhân tố ảnh hưởng tới cơ cấu vốn của doanh nghiệp
Trong thực tế, các doanh nghiệp ở các nghành khác nhau, thậm chí các doanh
nghiệp trong cùng một nghành cũng có cơ cấu vốn rất khác biệt. Có nhiều yếu tố
ảnh hưởng tới sự khác biệt của cơ cấu vốn như: sự dao động của doanh thu, cơ cấu
tài sản, thái độ của người cho vay và mức độ chấp nhận rủi ro của người lãnh đạo.
Chúng ta có thể đưa ra một số nhân tố sau:
1. Sự ổn định của doanh thu và lợi nhuận

Sự ổn định của doanh thu và lợi nhuận có ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô của
vốn huy động. Khi doanh thu ổn định sẽ có nguồn để lập quỹ trả nợ đến hạn, khi
kết quả kinh doanh có lãi sẽ là nguồn để trả lãi vay. Trong trường hợp này tỷ trọng
của vốn huy động trong tổng số vốn của doanh nghiệp sẽ cao và ngược lại
2. Cơ cấu tài sản





20

Vốn là biểu hiện bằng tiền của tài sản nên đặc điểm cơ cấu vốn cũng chịu sự chi
phối của cơ cấu tài sản. Toàn bộ tài sản của doanh nghiệp có thể chia ra tài sản lưu
động và tài sản số định. Tài sản cố định là tài sản có thời gian thu hồi vốn dài, do
đó nó được đầu tư bằng nguồn vốn dài hạn ( Vốn chủ sở hữu và vay nợ dài hạn ).
Ngược lại, tài sản lưu động sẽ được đầu tư một phần của vốn dài hạn, còn chủ yếu

là vốn ngắn hạn.
3. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của nghành

Những doanh nghiệp nào có chu kỳ sản xuất dài, vòng quay của vốn chậm thì cơ
cấu của vốn sẽ nghiêng về vốn chủ sở hữu ( hầm mỏ, khai thác, chế biến... ) ngược
lại những nghành nào có mức cầu về loại sản phẩm cố định, ít thăng trầm, vòng
quay của vốn nhanh... ( dịch vụ, bán buôn... ) thì vốn được tài trợ trừ các khoản nợ
sẽ chiếm tỷ trọng lớn.
4. Doanh lợi vốn và lãi suất vốn huy động

Khi doanh lợi vốn lớn hơn lãi suất vốn vay là cơ hội tốt nhất để gia tăng lợi
nhuận cho doanh nghiệp, do đó khi có nhu cầu tăng vốn người ta thường chọn hình
thức tài trợ từ vốn vay, từ thị trường vốn. Ngược lại, khi có doanh lợi vốn nhỏ hơn
lãi suất vay thì cấu trúc vốn lại nghiêng về vốn chủ sở hữu.
5. Mức độ chấp nhận rủi ro của người lãnh đạo

Trong kinh doanh phải chấp nhận mạo hiểm có nghĩa là phải chấp nhận sự rủi ro,
nhưng điều đó lại đồng nghĩa với cơ hội để gia tăng lợi nhuận (mạo hiểm càng cao
thì rủi ro càng nhiều nhưng lợi nhuận càng lớn). Do đó có thể có một số nhà quản
lý sẵn sàng sử dụng nhiều nợ hơn để gia tăng lợi nhuận.
Tuy nhiên các nhà quản lý cần phải cân nhắc kỹ trước khi ra quyết định tăng tỷ
trọng vốn vay nợ bởi lẽ tăng mức độ mạo hiểm và chỉ cần một sự thay đổi nhỏ về
doanh thu và lợi nhuận theo chiều hướng giảm sút sẽ làm cho cán cân thanh toán
mất thăng bằng, nguy cơ phá sản sẽ hiện thực.
6. Thái độ của người cho vay






21

Thông thường người cho vay thích các doanh nghiệp có cấu trúc vốn nghiêng về
vốn chủ sở hữu hơn, bởi lẽ với cấu trúc này nó hứa hẹn sự trả nợ đúng hạn, một sự
an toàn của đồng vốn mà họ đã bỏ ra cho vay. Khi tỷ lệ vốn vay nợ quá cao sẽ làm
giảm độ tín nhiệm của người cho vay, do đó chủ nợ sẽ không chấp nhận cho doanh
nghiệp vay thêm.
Các nhân tố trên ảnh hưởng rất lớn tới cơ cấu vốn của doanh nghiệp, giúp cho
doanh nghiệp có những quyết định đúng đắn về việc quản lý và sử dụng vốn.
Tóm lại, trong những điều kiện khác nhau và trong những thời kỳ khác nhau mỗi
doanh nghiệp đều phải xác định được cơ cấu vốn hợp lý phù hợp với đặc điểm
riêng của từng doanh nghiệp, luôn có sự tính toán các nhân tố có thể làm thay đổi
cơ cấu tạo sự chủ động trong sản xuất kinh doanh.
V/ Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh bao
gồm hàng loạt các phương pháp, biện pháp, công cụ quản lý nhằm sử dụng tiết
kiệm, với hiệu quả kinh tế cao nhất các nguồn vốn hiện có, các tiềm năng về kỹ
thuật công nghệ, lao động và các lợi thế khác của doanh nghiệp. Dưới đây là một số
biện pháp chủ yếu:
- Lựa chọn phương án kinh doanh, phương án sản phẩm
- Lựa chọn và sử dụng hợp lý các nguồn vốn
- Tổ chức và quản lý tốt quá trình sản xuất kinh doanh
- Tăng cường hoạt động Marketing
- Mạnh dạn áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh
- Tổ chức tốt công tác kế toán và phân tích hoạt động kinh tế.
1. Lựa chọn phương án kinh doanh, phương án sản phẩm

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, quy mô và tính chất sản xuất, kinh doanh
không phải do chủ quan doanh nghiệp quyết định, mà do thị trường quyết định.
Khả năng nhận biết, dự đoán thị trường và nắm bắt thời cơ... là những yếu tố quyết





22

định thành công hay thất bại trong kinh doanh. Vì vậy, giải pháp đầu tiên có ý
nghĩa quyết định hiệu quả kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn là phải lựa chọn đúng
đắn phương án kinh doanh, phương án sản phẩm. Các phương án kinh doanh,
phương án sản phẩm phải được xây dựng trên cơ sở tiếp cận thị trường để quyết
định quy mô, chủng loại, mẫu mã, chất lượng và giá bán sản phẩm.
2. Lựa chọn và sử dụng hợp lý các nguồn vốn

Thu hút và huy động vốn đầu tư có hiệu quả là điều kiện ảnh hưởng trực tiếp tới
việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Các nguồn huy động bổ sung vốn trong nền
kinh tế thị trường bao gồm rất nhiều nguồn: nguồn vốn doanh nghiệp tự bổ sung,
vay ngân hàng, vay các đối tượng khác, liên doanh liên kết... Việc lựa chọn nguồn
vốn nào rất quan trọng và cần phải dựa trên nguyên tắc hiệu quả kinh tế. Đối với
những doanh nghiệp thừa vốn thì tuỳ từng điều kiện cụ thể có thể lựa chọ khả năng
sử dụng. Nếu đưa đi liên doanh liên kết hoặc cho các doanh nghiệp khác vay thì
cần phải thận trọng, thẩm tra kỹ các dự án liên doanh, kiểm tra tư cách khách hàng
nhằm đảm bảo liên doanh có hiệu quả kinh tế, cho vay không bị chiếm dụng vốn do
quá hạn chưa trả, hoặc mất vốn do khách hàng không có khả năng thanh toán.
3. Tổ chức và quản lý tốt quá trình sản xuất kinh doanh

Điều hành và quản lý tốt sản xuất kinh doanh là một giải pháp rất quan trọng
nhằm đạt kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao. Tổ chức tốt quá trình sản
xuất tức đảm bảo cho quá trình đó được tiến hành thông suốt, đều đặn, nhịp nhàng
giữa các khâu dự trữ, sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá và đảm bảo sự phối
hợp ăn khớp, chặt chẽ giữa các bộ phận, đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp nhằm

sản xuất ra nhiều sản phẩm chất lượng tốt, tiêu thụ nhanh. Các biện pháp điều hành
và quản lý sản xuất kinh doanh phải nhằm hạn chế tối đa tình trạng ngừng việc của
máy móc, thiết bị, ứ đọng vật tư dự trữ và thành phẩm chất lượng sản phẩm kém,
gây lãng phí các yếu tố sản xuất và làm chậm tốc độ luân chuyển vốn.




23

Để đạt mục tiêu nêu trên, các doanh nghiệp phải tăng cường quản lý từng yếu tố
của quá trình sản xuất.
 Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định:
- Bố trí dây chuyền sản xuất hợp lý, khai thác hết công suất thiết kế và nâng cao
hiệu suất máy móc, thiết bị , sử dụng triệt để diện tích sản xuất, giảm chi phí khấu
hao trong giá thành sản phẩm.
- Xử lý nhanh những tài sản cố định không cần dùng, hư hỏng nhằm thu hồi vốn
nhanh, bổ sung thêm vốn cho sản xuất kinh doanh.
- Phân cấp quản lý tài sản cố định cho các bộ phận sản xuất nhằm nâng cao trách
nhiệm trong quản lý và sử dụng tài sản cố định, giảm tối đa thời gian nghỉ việc.
- Thường xuyên quan tâm đến việc bảo toàn vốn cố định, thực hiện nghiêm
chỉnh các nội dung của công tác bảo toàn và phát triển vốn.
 Một số biện pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động:
Hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn
lưu động nói riêng phụ thuộc vào việc tiết kiệm và tăng nhanh tốc độ luân chuyển
vốn lưu động. Các biện pháp chủ yếu thường được áp dụng trong quản lý vốn lưu
động như sau:
- Xác định đúng nhu cầu vốn lưu động cần thiết cho từng thời kỳ sản xuất, kinh
doanh nhằm huy động hợp lý các nguồn vốn bổ sung.
- Tổ chức tốt quá trình thu mua, dự trữ vật tư nhằm đảm bảo hạ giá thành thu

mua vật tư, hạn chế tình trạng ứ đọng vật tư dự trữ, dẫn đến kém phẩm chất gây ứ
đọng vốn lưu động.
- Quản lý chặt chẽ việc tiêu dùng vật tư theo định mức nhằm giảm chi phí
nguyên, nhiên, vật liệu trong giá thành sản phẩm.
- Tổ chức hợp lý quá trình lao động, tăng cường các biện pháp nâng cao chất
lượng sản phẩm, áp dụng các hình thức khen thưởng vật chất và tinh thần cho
người lao động.




24

- Tổ chức đa dạng các hình thức tiêu thụ sản phẩm.
- Xây dựng quan hệ bạn hàng tốt với khách hàng nhằm củng cố uy tín trên
thương trường. Tổ chức tốt quá trình thanh toán tránh và giảm các khoản nợ đến
hạn hoặc quá hạn chưa đòi được.
- Tiết kiệm các yếu tố chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí lưu thông góp phần
giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận.
4. Tăng cường hoạt động Marketing

Để sản xuất kinh doanh đáp ứng tối đã nhu cầu thị trường, các doanh nghiệp cần
phải hiểu biết và vận dụng tốt phương pháp Marketing. Marketing có vai trò đặc
biệt quan trọng trong khâu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Sản phẩm tiêu thụ
nhanh làm rút ngắn thời gian luân chuyển vốn, do đó khả năng sử dụng vốn hiệu
quả nhiều hơn.
Các doanh nghiệp phải tổ chức chuyên trách về vấn đề tìm hiểu thị trường để
thường xuyên có được những thông tin đầy đủ, chính xác, tin cậy về diễn biến của
thị trường. Trên cơ sở đó các doanh nghiệp có thể kịp thời thay đổi phương án kinh
doanh, phương án sản phẩm, xác định phương thức tiêu thụ sản phẩm và chính sách

giả cả hợp lý.
5. Mạnh dạn áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh

Kỹ thuật tiến bộ và công nghệ hiện đại là điều kiện vật chất để doanh nghiệp sản
xuất ra những sản phẩm mới, hợp thị hiếu, chất lượng cao, nhờ đó mà doanh nghiệp
có thể tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ, tăng giá bán, tăng lợi nhuận. Đồng thời
nhờ áp dụng kỹ thuật tiến bộ, doanh nghiệp có thể rút ngắn chu kỳ sản xuất sản
phẩm, giảm tiêu hao nguyên vật liệu hoặc sử dụng các loại vật tư thay thế nhằm
tăng tốc độ luân chuyển vốn, tiết kiệm chi phí vật tư, hạ giá thành sản phẩm.
6. Tổ chức tốt công tác kế toán và phân tích hoạt động kinh tế

Qua số liệu, tài liệu kế toán, đặc biệt là các báo cáo kế toán tài chính doanh
nghiệp thường xuyên nắm được số vốn hiện có, cả về mặt giá trị và hiện vật, nguồn

×