Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

Tài liệu TIỂU LUẬN: Thực trạng và giải pháp đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp ở Việt Nam docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.56 KB, 51 trang )









TIỂU LUẬN:

Thực trạng và giải pháp đổi mới
công nghệ trong các doanh nghiệp
sản xuất công nghiệp ở Việt Nam






Lời mở đầu


Ngày nay trong xu thế toàn cầu hoá, các nước đang trong quá trình hội nhập kinh
tế khu vực và thế giới. Đối với các nước đang phát triển đây vừa là cơ hội, vừa là
thách thức. Hiện nay khoảng các giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển
đang ngày càng cách xa, sự cách biệt đó một phần do sự phát triển về khoa học công
nghệ là khác nhau, trình độ phát triển khoa học công nghệ ở các nước đang phát triển
còn thấp và lạc hậu so với các nước phát triển.Vì thế các nước đang phát triển muốn
hội nhập vào nền kinh tế thế giới và rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển thì
phải đầu tư phát triển nền khoa học công nghệ cho mình. Có như vậy kinh tế của các
nước này mới đứng vững được trong quá trình hội nhập, giúp cho các doanh nghiệp


trong nước cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt là các doanh
nghiệp của các nước có trình độ công nghệ tiên tiến, đồng thời giúp phát triển mọi mặt
của đời sống kinh tế xã hội trong nước. Tuy nhiên trong quá trình hội nhập, các nước
đang phát triển cũng có lợi thế của những nước đi sau, các nước này có thể phát triển
nền khoa học công nghệ của mình nhờ sự áp dụng và phát triển những công nghệ của
các nước đi trước bằng chuyển giao công nghệ, song song với việc nghiên cứu và triển
khai nền khoa học công nghệ trong nước.
Nước ta cũng là nước đang phát triển, nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp là chủ yếu,
tình trạng công nghệ còn lạc hậu. Hơn 15 năm thực hiện đổi mới, nước ta đã đạt được
những thành tựu đáng kể, nhưng nhìn chung tình hình công nghệ còn kém phát triển,
trong hoạt động chuyển giao và đổi mới công nghệ ở nước ta nói chung và trong các
doanh nghiệp sản xuất nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế. Vì vậy với tính cần thiết phải
xác định thực trạng hiện nay của công nghệ trong các doanh nghiệp sản xuất đặc biệt
là các doanh nghiệp công nghiệp ở nước ta hiện nay, với đề tài này em mong muốn
làm rõ một số vấn đề còn tồn tại và có một số giải pháp để khắc phục tình trạng đó.
Em xin cảm ơn thầy (cô) đã giúp em hoàn thành đề tài này.




Nội dung


I. Cơ sở lý luận
1. Công nghệ và đổi mới công nghệ.
1.1. Công nghệ:
Hiện nay do yêu cầu của việc quản lý, đòi hỏi phải đưa ra được một định nghĩa
khái quát được bản chất của công nghệ là cần thiết, bởi vì không thể quản lý công
nghệ thành công khi mà chưa xác định rõ thế nào là công nghệ. Tuy nhiên cho đến nay
vẫn đang còn nhiều định nghĩa về công nghệ, có định nghĩa tương đối đầy đủ, có định

nghĩa thì không đầy đủ. Các tổ chức khoa học- công nghệ đã cố gắng trong việc đưa ra
một định nghĩa công nghệ để có thể hoà đồng các quan điểm, tạo thuận lợi cho việc
phát triển và hoà nhập của các quốc gia trong từng khu vực và trên phạm vi toàn cầu.
Mỗi lĩnh vực có một cách nhìn riêng về công nghệ để phục vụ cho mục đích của mình.
Nhưng nhìn chung một định nghĩa công nghệ cần khái quát đủ 4 đặc trưng sau:
Thứ nhất: Công nghệ là một máy biến đổi, khía cạnh này nhấn mạnh khả năng làm
ra đồ vật của công nghệ, đây cũng là sự khác biệt giữa khoa học ứng dụng với công
nghệ. Các nhà khoa học ứng dụng chỉ chú trọng tới việc khám phá ra các ứng dụng
của các lý thuyết, trong khi các nhà công nghệ không chỉ quan tâm đến việc làm ra các
đồ vật mà còn quan tâm đến hiệu quả kinh tế, tới sự thích hợp với các mục đích sử
dụng của công nghệ. Do đó khía cạnh máy biến đổi của công nghệ hàm ý vấn đề quản
lý có vấn đề đặc biệt trong việc đạt được kết quả biến đổi mong muốn.
Thứ hai: Công nghệ là một công cụ đề cập đến công nghệ thường được coi là một
cái máy, một trang thiết bị, một thiết bị. Vai trò của máy móc, đặc biệt là sự tác động
giữa con người và máy móc có vai trò quan trọng trong công nghệ.
Thứ ba: Công nghệ là kiến thức. Đặc trưng này khẳng định vai trò cốt lõi của khoa
học trong công nghệ. Nó phủ nhận cách nhìn công nghệ là những thứ phải nhìn thấy



được sờ mó được, coi công nghệ là những cái ai cũng có thể tạo ra nó nếu cần và ai có
nó thì cũng có thể sử dụng với một hiệu quả như nhau. Đó là do công nghệ có những
bí quyết và cơ sở khoa học, để sử dụng có hiệu quả công nghệ cần phải được đào tạo
và trau dồi các kỹ năng cho con người, đồng thời phải liên tục cập nhật các kiến thức
có sẵn.
Thứ tư: Công nghệ là hiện thân ở các vật thể. Căn cứ vào ba khía cạnh trên có thể
coi công nghệ nằm trong các dạng hiện thân mà nó tồn tại như của cải, thông tin, sức
lao động của con người và do đó thừa nhận công nghệ là 1 hàng hoá, một dịch vụ, nó
có thể được mua và bán như bất cứ các thứ hàng hoá khác trên thị trường nội địa cũng
như thị trường thế giới.

Xuất phát từ các luận điểm trên, hiện nay có một số định nghĩa thông dụng:
+ Định nghĩa của Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hiệp Quốc (UNIDO):
Công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp bằng cách sử dụng các kết quả
nghiên cứu và xử lý nó một cách có hệ thống và có phương pháp.
Với tư cách là một tổ chức phát triển công nghiệp, UNIDO nhấn mạnh tính khoa
học của công nghệ và xem xét tới khía cạnh hiệu quả khi sử dụng công nghệ vào mục
đích sản xuất công nghiệp.
+ Định nghĩa của Uỷ ban Kinh tế và Xã hội Châu á- Thái Bình Dương (ESCAP):
Công nghệ là hệ thống kiến thức về qui trình và kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và
xử lý thông tin.
Sau đó ESCAP đã mở rộng định nghĩa của mình: “ Công nghệ bao gồm tất cả các kỹ
năng, kiến thức, thiết bị và phương pháp sử dụng trong sản xuất chế tạo, dịch vụ, quản
lý và thông tin”.
Định nghĩa này không chỉ gắn công nghệ với sản xuất chế tạo ra sản phẩm cụ thể
mà còn mở rộng ra các lĩnh vực dịch vụ và quản lý. Những công nghệ mới dần hình
thành như công nghệ du lịch, công nghệ ngân hàng, công nghệ văn phòng, công nghệ
đào tạo, công nghệ truyền thông,…



Hiện nay, ở Việt nam cũng có một số quan niệm về công nghệ, một trong số đó là:
“Công nghệ là kiến thức, kết quả của khoa học ứng dụng nhằm biến đổi các nguồn lực
thành các mục tiêu sinh lợi”.
Cuối cùng có một định nghĩa được coi là khái quát nhất về công nghệ là: Công
nghệ là tất cả những cái gì dùng để biến đổi đầu vào thành đầu ra.
Xuất phát từ việc nêu ra được khái quát công nghệ, ta thấy rằng một công nghệ có
các bộ phận cấu thành sau:
+ Phần vật tư kỹ thuật (T) bao gồm mọi phương tiện vật chất như các công cụ,
trang bị máy móc, vật liệu, phương tiện vận chuyển… trong công nghệ chế tạo, các
máy móc thiết bị hợp thành dây chuyền công nghệ (phần cứng).

+ Phần con người (H): Công nghệ hàm chứa trong con người làm việc trong công
nghệ, bao gồm mọi năng lực của con người về công nghệ như kỹ năng, kinh nghiệm,
tính sáng tạo, khả năng lãnh đạo…
+ Phần thông tin của công nghệ (I): Công nghệ hàm chứa trong kiến thức có tổ
chức được và tư liệu hoá như các khái niệm, các thông số, các công thức, các ký
hiệu…
+ Phần tổ chức của công nghệ (O): Công nghệ hàm chứa trong các khung thể chế,
tạo nên bộ khung tổ chức của công nghệ như thẩm quyền, trách nhiệm, mối quan hệ,
sự phối hợp, liên kết…
Các bộ phận này có quan hệ tương hỗ với nhau, bỗ sung cho nhau, trong bất kỳ
công nghệ nào cũng không thể thiếu một trong các bộ phận đó.
Phần vật tư kỹ thuật là cốt lõi của bất kỳ công nghệ nào, nó được triển khai, lắp đặt
bởi con người. Con người làm cho công nghệ hoạt động máy móc thiết bị, phương tiện
kỹ thuật phát huy hết tính năng của chúng,con người không ngừng cải tiến, mở rộng,
đổi mới các công nghệ đó, đồng thời nhờ đó mà con người ngày càng nâng cao được
khả năng về trí tuệ và sức lực của mình. Như vậy con người đóng vai trò chủ động
trong công nghệ, song lại chịu sự chi phối của thông tin và tổ chức.



Phần thông tin thể hiện tri thức tích luỹ trong công nghệ. Các thiết bị và phương
tiện có các kiến thức khác nhau thì khi sử dụng trong sản xuất sẽ tạo ra các sản phẩm
khác nhau, đó là những bí quyết của công nghệ. Nhờ những tri thức này mà con người
rút ngắn được thời gian học tập và tiếp xúc công nghệ, có thể nói thông tin của một
công nghệ là sức mạnh của công nghệ.
Phần tổ chức đóng vai trò điều hoà, phối hợp 3 yếu tố trên để thực hiện một cách
có hiệu quả mọi hoạt động biến đổi. Phần tổ chức này giúp cho việc quản lý công
nghệ được thực hiện một cách có hiệu quả nhất. Phần này phụ thuộc vào độ phức tạp
của vật tư kỹ thuật và thông tin, song nó lại quyết định sự cấu thành 3 bộ phận còn lại
của công nghệ. Có thể nói phần tổ chức mang tính động lực của công nghệ và bản thân

nó biến đổi theo thời gian.
1.2. Đổi mới công nghệ:
Ngày nay do công nghệ luôn biến đổi trong chu kỳ sống của nó, trong mỗi giai
đoạn nhất định một công nghệ có thể phù hợp với thị trường có nghĩa là sản phẩm do
nó sản xuất có thể tồn tại trên thị trường, nhưng đến một giai đoạn nào đó, thì công
nghệ không còn phù hợp nữa. Do đó đổi mới công nghệ là một nhu cầu tất yếuvà phù
hợp với qui luật phát triển.
1.2.1. Thực chất đổi mới công nghệ:
Đổi mới công nghệ là sự chủ động thay thế một phần đáng kể (cốt lõi, cơ bản) hay
toàn bộ công nghệ đang sử dụng bằng công nghệ khác.
Muốn đổi mới công nghệ tốt thì phải xác định rõ mục tiêu và hoàn cảnh. Đổi mới
công nghệ phải chú ý ba khía cạnh nhất của xã hội đó là: nhu cầu xã hội, các nguồn
lực của xã hội và đặc thù tình cảm của xã hội.
Trước hết phải xem xét nhu cầu của xã hội không chỉ về công nghệ mà còn về sản
phẩm do công nghệ đó sản xuất ra. Bất kỳ một công nghệ nào được đổi mới đều phải
có đủ nhu cầu để thực hiện, nhu cầu đó tạo ra lợi ích sau này cho công nghệ, nó phải
lớn hơn chi phí bỏ ra để chế tạo ra công nghệ đó.



Các nguồn lực xã hội cũng có ý nghĩa đối với việc áp dụng công nghệ thành công.
Một công nghệ cần có đủ các nguồn lực- vốn, vật tư và con người có trình độ - để thực
hiện. Điều này nói lên rằng xã hội có đủ nguồn vốn để có thể đưa sản phẩm công nghệ
ra thị trường hay không, nó có thể được áp dụng từ một phạm vi nhỏ đến một phạm vi
lớn hay không,trình độ của con người có đủ để áp dụng công nghệ hay không, khi áp
dụng với phạm vi rộng rãi thì việc đào tạo người sử dụng sẽ như thế nào, đồng thời có
thể đưa các nguồn lực sẵn có trong xã hội để cho các công nghệ mới sử dụng hay
không.
Đặc thù tình cảm của xã hội muốn nói lên rằng xã hội đó có tiếp nhận các ý tưởng
mới hay không, một môi trường mà các nhóm người sẵn sàng xem xét sự áp dụng một

cách nghiêm túc, khách quan, lấy hiệu quả làm tiêu chuẩn hàng đầu. Nếu tình cảm xã
hội có xu hướng tốt sẽ tạo điều kiện cho hoạt động đổi mới công nghệ thuận lợi hơn
và ngược lại.
1.2.2. Vai trò của đổi mới công nghệ:
Với một công nghệ ở một thời điểm nhất định sẽ có một giới hạn về năng lực sản
xuất sản phẩm với một lượng đầu vào đã cho. Đổi mới công nghệ là một tiến bộ về
công nghệ. Tiến bộ đó nằm dưới dạng phương pháp mới về sản xuất hay kỹ thuật mới
tổ chức, quản lý hay marketing mà nhờ đó sản phẩm sẽ được tạo ra với năng suất cao
hơn, chất lượng tốt hơn, chi phí sản xuất thấp hơn và do đó giá cả có thể giảm xuống.
Chúng ta đang xét về mặt hiệu quả kinh tế của công nghệ, bên cạnh đó còn có hiệu
quả về mặt xã hội, việc đổi mới công nghệ còn góp phần giảm ô nhiễm môi trường,
tạo thêm nhiều ngành nghề mới tạo thêm công việc làm cho người lao động, cơ cấu lại
ngành kinh tế theo vùng lãnh thổ,…
1.2.3. Các giai đoạn đổi mới công nghệ:
Đổi mới công nghệ có thể bằng nhiều cách, có thể phát triển từ nguồn công nghệ
trong nước, cũng có thể từ nguồn công nghệ nhập từ nước ngoài. Nhưng nhìn chung
đổi mới công nghệ gồm một số giai đoạn sau:
+ Giai đoạn 1: Nhập công nghệ để thoả mãn nhu cầu tối thiểu.



+ Giai đoạn 2: Tổ chức cơ sở hạ tầng kinh tế ở mức tối thiểu để tiếp thu công nghệ
nhập.
+ Giai đoạn 3: Tạo nguồn công nghệ từ nước ngoài thông qua lắp ráp (SKD, CKD
và IKD).
+ Giai đoạn 4: Phát triển công nghệ nhờ lixăng.
+ Giai đoạn 5: Đổi mới công nghệ nhờ nghiên cứu và triển khai, thích ứng công
nghệ nhập, cải tiến cho phù hợp.
+ Giai đoạn 6: Xây dựng tiềm lực công nghệ để xuất khẩu công nghệ trên cơ sở
nghiên cứu và triển khai.

+ Giai đoạn 7: Liên tục đổi mới công nghệ dựa trên đầu tư cao về nghiên cứu cơ
bản.
Tuy nhiên dưới góc độ xem xét của đề tài, việc nghiên cứu đổi mới công nghệ chủ yếu
tập trung xem xét hoạt động đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp sản xuất công
nghiệp.
1.2.4. Thời điểm đổi mới công nghệ:
Khi đưa một công nghệ mới vào thay thế một công nghệ cũ, cần tuân theo qui luật
về trình tự thời gian, diễn biến của giá thành và các yếu tố kinh tế, kỹ thuật, thị trường,
xã hội, môi trường…Sau đâ chúng ta xét quá trình đổi mới công nghệ dựa trên qui luật
về giá cả của đổi mới công nghệ.
Giả sử công nghệ đang sử dụng có giá thành sản phẩm là c
1
và giá bán sản phẩm
b
1
. Công nghệ mới có giá thành là c
2
và giá bán là b
2
(hình vẽ). Giả thiết các đường b
và c là song song với nhau, khoảng cách giữa b
2
c
2
nhỏ hơn b
1
c
1
thể hiện tính ưu việt
của công nghệ mới. Đường b

1
,c
1
nằm ngang do công nghệ đang sử dụng đã ổn định,
còn b
2
,c
2
dốc xuống do quá trình đưa vào sử dụng, kinh nghiệm vận hành, trình độ tay
nghề của công nhân và khả năng quản lý của cán bộ được nâng lên. Các đường b
2
,c
2

cắt b
1
,c
1
tại các thời điểm t
1
, t
2
, t
3
và t
4
.




Tại t
1
, công nghệ mới có giá thành bằng giá bán của công nghệ cũ; lúc này sản
phẩm của công nghệ được giới thiệu trên thị trường. Tại t
2
, công nghệ mới có giá bán
sản phẩm bằng giá bán sản phẩm công nghệ cũ; sản phẩm công nghệ mới được đưa ra
đại trà. Tại t
3
, giá thành công nghệ mới bằng giá thành sản phẩm cũ và giá bán thấp
hơn giá bán sản phẩm công nghệ cũ, nên sản phẩm công nghệ mới sẽ chiếm lĩnh thị
trường. Tại t
4
, giá bán sản phẩm công nghệ mới bằng giá thành sản phẩm công nghệ
cũ; công nghệ cũ đã lỗi thời và công nghệ mới hoàn toàn thay thế công nghệ cũ.




Đồ thị: Giá


c
2
b
2


b
1



c
1




t
1
t
2
t
3
t
4
thời gian

2. Nội dung chủ yếu của hoạt động đổi mới công nghệ.
2.1. Lựa chọn công nghệ thích hợp:
2.1.1. Tính tất yếu khách quan của lựa chọn công nghệ thích hợp:
Ngày nay vấn đề đổi mới công nghệ là tất yếu khách quan, cần thiết đối với sự
phát triển của một quốc gia, quá trình đổi mới sẽ tạo điều kiện cho các nước đang phát
triển tiến nhanh vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, còn các nước
phát triển sẽ tạo ra một lực lượng sản xuất phát triển. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề
bất cập trong việc đổi mới với việc giải quyết các mục tiêu kinh tế - xã hội, một công



nghệ được đổi mới đòi hỏi phải thích ứng với điều kiện và hoàn cảnh của quốc gia đó.

Một công nghệ mới không chỉ tạo ra được những lợi ích về kinh tế mà còn phải giải
quyết được mối quan hệ với các nguồn lực hiện có của quốc gia như là nguồn lao
động, nguồn tài nguyên thiên nhiên, hầu hết các nước đang phát triển đều có nguồn
nhân lực dồi dào do đó thường thì khi đổi mới một công nghệ nào đó các nước này
thường chọn những công nghệ có hàm lương lao động cao để giải quyết vấn đề việc
làm trong quốc gia đó, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nhiều loại, trữ lượng
tương đối lớn, do đó phải có những công nghệ sử dụng các nguồn tài nguyên đó.
Ngoài ra còn phải giải quyết mối quan hệ với nguồn công nghệ hiện có, môi trường
văn hoá xã hội, chính trị pháp luật, quan hệ quốc tế… nhưng vấn đề lớn nhất mà công
nghệ đó phải đáp ứng đó là nó phải phù hợp với mục tiêu của quốc gia, của ngành, của
địa phương.
Như vậy, để thực hiện đổi mới công nghệ một cách có hiệu quả thì trước hết chúng
ta phải lựa chọn được công nghệ thích hợp.
Công nghệ thích hợp là công nghệ thoả mãn giải quyết mọi nhu cầu của kinh tế xã
hội đặt ra trên cơ sở phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh thực tế.
2.1.2. Những căn cứ lựa chọn công nghệ:
Trong hoạt động đổi mới công nghệ, người ta có thể hiểu công nghệ thích hợp theo
nhiều kiểu khác nhau, bởi một công nghệ sẽ đáp ứng một số mục tiêu và thích ứng với
điều kiện của một quốc gia nhất định, công nghệ đó có thể thích hợp với quốc gia này,
với điều kiện của vùng lãnh thổ này nhưng lại không thích hợp với quốc gia khác,
vùng lãnh thổ khác. Vì thế khi lựa chọn công nghệ thích hợp cần căn cứ vào một số
tiêu thức sau:
Thứ nhất là căn cứ vào định hướng theo công nghệ, một công nghệ có thể xếp vào
loại công nghệ thô sơ, thủ công và hiện đại. Việc lựa chọn loại công nghệ nào là tuỳ
thuộc vào điều kiện mỗi nước, các nước đang phát triển nên lựa chọn công nghệ trung
gian, dung hoà giữa công nghệ hiện đại và công nghệ thô sơ, thủ công. điều này có thể
lý giải là: điều kiện ở các nước đang phát triển không giống với các nước phát triển,
nếu các nước đang phát triển cũng áp dụng công nghệ hiện đại sẽ có nhiều khó khăn




(về vốn, lao động, sự thích nghi), còn áp dụng các công nghệ thấp thì không thể phát
triển kịp với các nước phát triển và khó hội nhập quốc tế.
Thứ hai là căn cứ vào định hướng theo nhóm mục tiêu, trong mỗi giai đoạn, một
quốc gia thường có các mục tiêu cho sự phát triển của mình, để đạt được các mục tiêu
đó các quốc gia phải lựa chọn cho mình những công nghệ thích hợp. Các nước đang
phát triển thường có một số mục tiêu là:
+ Thoả mãn nhu cầu và giải quyết công ăn việc làm, nâng cao mức sống cho nhân
dân.
+ Tăng năng suất lao động.
+ Cạnh tranh quốc tế.
+ Tự lực tự cường.
+ Độc lập dân tộc.
Thứ ba là căn cứ vào định hướng theo đầu vào, định hướng này xem xét công nghệ
có thích ứng với mức độ dồi dào của đầu vào hay không. Đặc biệt các nước đang phát
triển có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn nhân lực dồi dào, do vậy họ
xem xét công nghệ thích hợp là công nghệ sử dụng nhiều nguồn lực đó.
Thứ tư là căn cứ vào định hướng không gây đột biến, có nghĩa là xem xét sự hài
hoà giữa sử dụng, thích nghi, cải tiến và phát triển. Phải có kết hợp phát triển không
gượng ép, đảm bảo hài hoà tự nhiên, kết hợp công nghệ bản xứ và công nghệ nhập, tạo
lập sự phát triển trong hoà bình và bền vững, không mâu thuẫn giữa quốc gia và địa
phương, hoà hợp giữa công nghệ truyền thống và hiện đại v.v
2.1.3. Nội dung của lựa chọn công nghệ thích hợp:
+ Tìm hiểu nhu cầu về công nghệ và sản phẩm của công nghệ trong nước.
+ Xác định, định hướng về công nghệ, nội dung này sẽ xác định được công nghệ nhập
phù hợp với mục tiêu của quốc gia.
+ Nghiên cứu và tìm hiểu thông tin về thị trường công nghệ.




+ Quyết định lựa chọn công nghệ.
2.2. Đánh giá công nghệ:
2.2.1. Quan niệm về đánh giá công nghệ:
Công nghệ không tồn tại một cách biệt lập mà nó nằm trong “môi trường con
người”. Tất cả các công nghệ khi được ứng dụng đều gây ra những thay đổi môi
trường xung quanh con người. Môi trường thay đổi lại tác động như một lực định
hướng cho sự phát triển của những công nghệ mới. Nói cách khác có sự tác động
tương hỗ một cách có hệ thống giữa công nghệ và các yếu tố khác nhau tạo nên môi
trường bao quanh con người như: kinh tế, môi trường tự nhiên, dân số, văn hoá xã hội,
chính trị- pháp luật…
Công nghệ khác nhau tác động đến các yếu tố môi trường xung quanh con người
theo những hướng khác nhau, trong những tác động này có những tác động tiêu cực có
tác dụng kích thích tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống kinh tế xã hội…và cũng có
những tác động tiêu cực đến môi trường như làm ô nhiễm môi trường, khai thác cạn
kiệt tài nguyên… đến lượt các yếu tố này sẽ tác động tổng hợp lên hệ thống công
nghệ, hệ thống tác động tương hỗ này, các vòng phản hồi và cơ chế quản lý là cực kỳ
quan trọng đối với việc đánh giá đúng đắn công nghệ.
Do vậy vấn đề đánh giá công nghệ cần được khảo sát bằng phương pháp có hệ
thống và toàn diện. Những tiềm năng và hạn chế của công nghệ cần được đánh giá
trong tổng thể của nó.
Vì vậy người ta đưa ra quan niệm về đánh giá công nghệ: Đánh giá công nghệ
không chỉ giới hạn trong “cực tiểu hoá tác hại” của công nghệ và sự phát triển trong sự
thích hợp với môi trường mà còn là “cực đại hoá hiệu quả tích cực” của công nghệ và
phát triển công nghệ “bền vững với môi trường” xung quanh.
2.2.2. Vai trò của đánh giá công nghệ:
Đến nay ở các nước đang phát triển, ta thấy rằng sự thiếu thốn về công nghệ tiên
tiến đã liên quan tới nhiều vấn đề xã hội đặc biệt vấn đề lớn nhất là sự tăng trưởng




kinh tế thấp, từ đó liên quan đến phúc lợi xã hội thấp, sự lãng phí nguồn tài nguyên
thiên nhiên, trình độ văn hoá thấp dẫn đến tốc độ tăng dân số lớn, rối loạn xã hội và sự
bất ổn về chính trị…Hơn nữa vấn đề với trình độ công nghệ thấp kém gây ô nhiễm
môi trường trầm trọng, đây là vấn đề lâu dài đối với các nước này. Vì thế đánh công
nghệ có một vai trò hết sức quan trọng. Nó thể hiện ở một số vấn đề sau:
+ Nó giúp cho các nước này xác định được công nghệ nào là thích hợp và khả
năng thích ứng để từ đó tiến hành chuyển giao công nghệ, nghĩa là phải xác định công
nghệ hiện hành ở các nước đã phát triển có phù hợp với điều kiện và mục tiêu của
mình hay không.
+ Giúp cho các nước này lựa chọn công nghệ để triển khai, nghĩa là xác định công
nghệ vốn có và công nghệ nhập khẩu sao cho phù hợp với các mục tiêu phát triển quốc
gia.
+ Nó giúp cho các quốc gia quản lý công nghệ phù hợp để bảo vệ môi trường.
2.2.3. Các bước tiến hành đánh giá công nghệ:
Để đánh giá công nghệ ta tiến hành các bước sau:
+ Mô tả công nghệ.
+ Liệt kê các yếu tố tác động. Yếu tố tác động này được xác định qua việc phân
tích tác động giữa công nghệ với môi trường xung quanh con người.
+ Phân tích ảnh hưởng.
+ Giới hạn phạm vi ảnh hưởng.
+ Nghiên cứu đường lối chính sách liên quan.
+ Dùng công cụ phân tích.
Một bước quan trọng trong quá trình đánh giá công nghệ là đánh giá ảnh hưởng
khác nhau của một công nghệ đối với toàn bộ môi trường xung quanh con người, để
tiến hành sự đánh giá này, chúng ta xem xét một số các yếu tố như yếu tố công nghệ,
yếu tố kinh tế, yếu tố tài nguyên, yếu tố môi trường tự nhiên, yếu tố dân số, yếu tố



văn hoá xã hội, yếu tố pháp luật- chính trị…trong các yếu tố này có những yếu tố có

thể định lượng được, có những yếu tố chỉ có thể định tính. Do vậy để thực hiện đánh
giá công nghệ người ta sử dụng 2 loại công cụ và kỹ thuật cơ bản: một số có tính định
lượng và một số khác là định tính. Kỹ thuật phân tích lợi ích chi phí là một công cụ ra
quyết định lựa chọn đầu tư. Các bước tiến hành như sau:
Bước 1: Liệt kê các phương án công nghệ có sẵn i = 1,2,…,n. n là số phương án
lựa chọn.
Bước 2: Xác định tất cả các yếu tố chi phí j =1,2,…,m. m là số các khoản chi phí
(những tác dụng tiêu cực được coi là chi phí).
Bước 3: Biến đổi các chi phí thành tiền tương đương


 

T
y
m
j
jyi
CC
1 1
; C
jy
: chi phí cho khoản j ở năm thứ y,
T: tuổi thọ của công nghệ.
Bước 4: Xác định các yếu tố lợi ích j = 1,2,…,k. k là số các khoản lợi ích (những
tác động tiêu cực được coi là lợi ích).
Bước 5: Biến đổi các lợi ích thành tiền tương ứng


 


T
y
k
j
jyi
BB
1 1
; B
jy
khoản lợi ích thứ j ở năm thứ y.
Bước 6: So sánh lợi ích và chi phí.
Bước 7: Chọn phương án thích hợp dựa trên các mục tiêu và các ràng buộc.
Bước 8: Hiệu chỉnh tập phương án đã chọn dựa trên sự tác động tương hỗ.
Kỹ thuật định tính được sử dụng bằng một số đánh giá chủ quan đối với tác dụng
của một công nghệ tương ứng với các yếu tố khác nhau.
2.3. Phân tích năng lực công nghệ:
2.3.1. Năng lực công nghệ và vai trò của việc phân tích năng lực công nghệ:



Năng lực công nghệ của quốc gia (ngành, cơ sở) là khả năng của nó triển khai
những công nghệ đã có một cách có hiệu quả và đương đầu được với những thay đổi
công nghệ lớn.
Từ những năm 1970 các nhà nghiên cứu bắt đầu chú ý đến các quá trình có liên
quan đến việc làm chủ và thích nghi hoá công nghệ nhập. Người ta thấy rõ ràng công
nghệ có tính ẩn, chuyển giao công nghệ có độ bất định đáng kể. Để đồng hoá công
nghệ nhận từ bên ngoài, người ta phải giải quyết nhiều vấn đề tự lập theo cách riêng
mà không thể dựa hoàn toàn vào bên bán. Từ các chuyển hướng suy nghĩ đó, vấn đề
năng lực công nghệ của quốc gia, của cơ sở và việc tăng cường năng lực đặc biệt được

chú ý.
Theo định nghĩa này có hai mức để phân tích năng lực công nghệ đó là:
+ Sử dụng hiệu quả năng lực công nghệ sẵn có.
+ Thực hiện thành công đổi mới công nghệ.
Năng lực công nghệ được đánh giá trên hệ thống 4 nhóm chỉ tiêu sau:
+ Nhóm 1: Năng lực vận hành (năng lực sử dụng công nghệ; năng lực quản lý sản
xuất bằng công nghệ đó; năng lực bão hành, bảo dưỡng máy móc thiết bị và năng lực
khắc phục sự cố có thể xảy ra).
+ Nhóm 2: Năng lực tiếp thu công nghệ (năng lực tìm kiếm, đánh giá và lựa chọn
công nghệ phù hợp; năng lực lựa chọn hình thức tiếp thu công nghệ; năng lực đàm
phán trong chuyển giao công nghệ; năng lực học tập và tiếp thu công nghệ mới).
+Nhóm 3: Năng lực hỗ trợ tiếp thu công nghệ (năng lực tổ chức tiếp thu công
nghệ; năng lực về đào tạo nguồn nhân lực cho tiếp thu công nghệ; năng lực tìm kiếm
quỹ vốn cho phát triển công nghệ; năng lực xác định thị trường mới cho sản phẩm và
đảm bảo đầu vào cho sản xuất).
+ Nhóm 4: Năng lực đổi mới (năng lực thiết kế sản phẩm mới cho công nghệ
được chuyển giao; thay đổi nhỏ hoặc cơ bản công nghệ đã có cho phù hợp với công
nghệ nhập; thiết kế các công nghệ mới dựa trên các kết quả nghiên cứu và triển khai).



2.3.2. Phương pháp phân tích năng lực công nghệ:
Trên cơ sở các nhóm chỉ tiêu phản ánh năng lực công nghệ ta tiến hành phân tích
năng lực công nghệ của cơ sở, ngành,và quốc gia. Chúng ta có thể phân tích theo định
tính hoặc định lượng.
Để phân tích năng lực công nghệ quốc gia ta tiến hành các bước sau:
Bước 1: Phân tích toàn bộ quá trình sản xuất thành các công đoạn biến đổi.
Bước 2: Biểu diễn cơ cấu công nghệ theo giá trị tạo được do đóng góp công nghệ.
Bước 3: Đánh giá các nguồn lực có thể sử dụng.
Bước 4: Đánh giá về năng lực kết cấu hạ tầng (năng lực đồng hoá công nghệ

nhập, năng lực sản sinh công nghệ).
Bước 5: Suy ra năng lực công nghệ ngành, quốc gia.
Cụ thể ta tiến hành phân tích năng lực công nghệ cơ sở:
Cơ sở của phương pháp này là tập hợp kiến thức để nghiên cứu, phân tích, tính
toán và xác định giá trị tạo được do đóng góp của công nghệ khi thực hiện một công
nghệ cụ thể trên một cơ sở cụ thể. Căn cứ vào giá trị này cao hay thấp ta kết luận năng
lực công nghệ của cơ sở đó.
GTCN=..Q
Trong đó: GTCN: giá trị tạo được do đóng góp của công nghệ.
: hệ số ảnh hưởng của môi trường quốc gia (<1).
Q: sản lượng được tính ra bằng tiền.
 : Hàm hệ số đóng góp của công nghệ (hàm hệ số đóng góp của các
thành phần công nghệ).
 =T
t
.H
h
.I
i
.O
o

Trong đó:



T: giá trị hệ số đóng góp của thành phần vật chất.
H: giá trị hệ số đóng góp của thành phần con người.
I: giá trị hệ số đóng góp của thành phần thông tin.
O: giá trị hệ số đóng góp của thành phần tổ chức.

Với T,H,I,O xác định được chúng ta có đồ thị biểu diễn khả năng đóng góp của
từng thành phần công nghệ so với lý tưởng.
T
1



H 1 1 O


I 1

Từ đồ thị, một cách tương đối ta sẽ thấy được năng lực công nghệ cơ sở, thông
qua diện tích của tứ giác tạo thành bởi các hệ số đóng góp.
2.4. Đổi mới công nghệ:
2.4.1. Đánh giá trình độ công nghệ hiện tại:
Hiện nay sự chênh lệch về trình độ công nghệ giữa các nước phát triển và các
nước đang phát triển là rất lớn. Vì vậy việc nhận biết sự chênh lệch đó là cơ sở cho



việc sắp xếp, bố trí các hoạt động phát triển và chuyển giao công nghệ trong nước và
quốc tế.
Dấu hiệu về trình độ công nghệ của một ngành có thể xác định được bằng cách so
sánh nó với cùng ngành của một nước khác có thành tích tốt nhất trong lĩnh vực đó.
Để làm điều này, đối với một công nghệ cụ thể trước hết phải chọn ra một hoặc một số
chỉ số bộ phận định lượng để xác định trình độ công nghệ. Trong những chỉ số bộ
phận như vậy có thể giúp đánh giá trình độ công nghệ thì những khác nhau trong giá
trị giữa các nước có thể chứng minh sự tồn tại của khoảng cách công nghệ.
Bên cạnh đó, để đánh giá toàn diện, đầy đủ và có ý nghĩa hơn về trình độ công

nghệ của một ngành công nghệ thì công nghệ phải được xem xét trên quan điểm của 4
thành phần của nó và khoảng cách công nghệ từ đó được xác định đối với từng thành
phần.
Việc đánh giá này là giúp cho các nước nhận thấy được trình độ công nghệ của
mình so với các nước khác, trong quá trình hội nhập kinh tế các nước cạnh tranh với
nhau ngày càng gay gắt, vì thế để duy trì và phát triển nền kinh tế độc lập, các nước
phải có chính sách phát triển khoa học công nghệ nhằm phát triển nền sản xuất trong
nước. Đồng thời căn cứ vào thị trường và nhu cầu thị trường, một số sản phẩm không
còn phù hợp nữa buộc các doanh nghiệp phải thay thế công nghệ hiện tại.
2.4.2. Các hình thức đổi mới công nghệ:
a. Nghiên cứu và triển khai công nghệ trong nước:
Nghiên cứu và triển khai công nghệ trong nước đóng vai trò quan trọng trong hoạt
động đổi mới công nghệ. Ngoài những lợi ích về kinh tế mà nó đem lại cho đất nước.
Nó còn góp phần cho phát triển khoa học công nghệ trong nước tạo ra vị thế cho mỗi
quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế, nó đem lại độc quyền về công nghệ do nước
đó tạo ra, đem lại khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước.
Quá trình nghiên cứu và triển khai là quá trình nhận biết những đòi hỏi hay những
khả năng tiềm tàng, nảy sinh những ý tưởng sáng tạo. Sự nhận thức được nhu cầu của
xã hội là một sự thúc đẩy cơ bản cho nghiên cứu và triển khai - đó là sự thúc ép của



nhu cầu. Để đáp ứng đòi hỏi đó cần nghiên cứu cần dựa trên những kiến thức hiện có.
Một động cơ khác của nghiên cứu và triển khai là tìm kiếm những ứng dụng còn tiềm
tàng trong khoa học. Sự tìm tòi đó góp phần nâng cao kiến thức và làm nảy sinh
những ý tưởng công nghệ; đó là sự thúc đẩy của khoa học công nghệ. Tiếp theo quá
trình đó là các quá trình kỹ nghệ hoá: sáng tạo, thiết kế, chế tạo. Cuối cùng là quá trình
Marketing, tức là tìm cách để truyền bá công nghệ.













Nghiên cứu Triển khai

Hình thức này có nhiều ưu điểm như tận dụng và khai thác tốt nguồn lực có sẵn
(nhân lực, vật lực, tài lực); tạo ra được công nghệ phù hợp và thích nghi với điều kiện
sẵn có; dễ quản lý, không phụ thuộc vào nước ngoài, tiết kiệm ngoại tệ dùng để nhập
khẩu công nghệ; tạo điều kiện nâng cao năng lực công nghệ trong nước.
Sức ép nhu cầu








Tác động của KH & CN
Ghi
nh
ận
Nảy

sinh ý
Nâng
cao
ki
ến
Nảy
sinh ý
đ


Kỹ nghệ
hoá
Marketi
ng



Bên cạnh đó nó còn có những hạn chế như mất thời gian cho nghiên cứu và triển
khai, dễ mất cơ hội chiếm lĩnh thị trường (vì không có ngay công nghệ đang cần); hạn
chế về năng lực, nguồn lực do đó không tạo ra được công nghệ có chất lượng, có khi
chi phí còn đắt hơn là nhập từ nước ngoài.
Những hạn chế này là những vấn đề lớn đối với các nước đang phát triển do đó
hình thức đổi mới công nghệ này chỉ được thực hiện với một tỷ lệ nhỏ so với toàn bộ
hoạt động đổi mới công nghệ, các nước này chủ yếu thực hiện đổi mới công nghệ
thông qua hình thức chuyển giao công nghệ.
b. Chuyển giao công nghệ:
Chuyển giao công nghệ là quá trình chuyển và nhận công nghệ qua biên giới một
quốc gia.
Đây là hình thức chủ yếu để thực hiện đổi mới công nghệ ở các nước đang phát
triển. ở các nước này, do trình độ nghiên cứu và triển khai công nghệ trong nước còn

yếu do đó chủ yếu thực hiện chuyển giao công nghệ để nâng cao trình độ công nghệ
trong nước.
Như đã thống nhất về mặt định nghĩa, công nghệ gồm có 2 phần: phần cứng và
phần mềm. Trong chuyển giao công nghệ, phần mềm của công nghệ là rất trừu tượng,
vấn đề là bên nhận công nghệ phải nắm vững được phần mềm của công nghệ. Qua
thực tế chuyển giao công nghệ người ta đưa ra một số thể loại được coi như là phạm
trù của công nghệ như sau:
+ Nghiên cứu khả thi và khảo sát thị trường trước khi đầu tư.
+ Thu thập thông tin về một số công nghệ đã có.
+ Thiết kế kỹ thuật - công nghệ
+Xây dựng nhà máy và lắp đặt thiết bị.
+ Phát triển công nghệ.



Ngày nay chuyển giao công nghệ được thực hiện một các rộng rãi trong điều kiện
hợp tác hoá và phân công lao động ngày càng sâu sắc. Các nước thực hiện chuyển
giao công nghệ vì một số lý do sau:
Thứ nhất: Các nước phát triển không đồng đều và yêu cầu công nghệ rất đa dạng.
Một nước dù là nước phát triển hay đang phát triển thì với nguồn lực có hạn, họ không
thể tạo ra được tất cả các công nghệ mà họ cần mà họ chỉ có thể phát triển một số công
nghệ nào đó để có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh so với các nước khác.Vì thế họ cần phải
giao lưu công nghệ với các nước khác để khai thác các nguồn lực trong nước và tận
dụng các nguồn vốn từ bên ngoài để tạo ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu trong
nước.
Thứ hai: một công nghệ hay hay một sản phẩm của công nghệ đó bao giờ cũng có
một chu kỳ sống nhất định, vì thế các nhà sản xuất ra công nghệ hay sản phẩm đó
mong muốn kéo dài chu kỳ sống đó. Có thể công nghệ đó hay sản phẩm không phù
hợp với thị trường này nhưng vẫn đang là mới với một số thị trường khác. Do đó các
các nước tiến hành chuyển giao công nghệ để vừa tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu

trong nước vừa tận dụng được các công nghệ ở cuối chu kỳ sống của nó.
Thứ ba: nhu cầu của thị trường biến đổi ngày càng đa dạng vì vậy các nhà doanh
nghiệp cần phải định hướng cho các sản phẩm mới và các sản phẩm thay thế. Muốn
vậy không có con đường nào khác là phải luôn đổi mới công nghệ. Đổi mới từng
phần, từng công đoạn, hay đổi mới toàn bộ tuỳ thuộc theo chiến lược sản phẩm và
năng lực công nghệ. Nhưng đổi mới công nghệ không thể không chú ý tới chuyển giao
công nghệ. Nói cách khác đổi mới công nghệ là nhu cầu của chuyển giao công nghệ.
Thứ tư: tranh thủ vốn đầu tư của nước ngoài. Tận dụng chuyển giao công nghệ để
đầu tư chất xám từ nước ngoài, tận dụng liên doanh, liên kết …
Hiện nay có hai hình thức chuyển giao công nghệ đó là chuyển giao dọc và
chuyển giao ngang.
+ Chuyển giao dọc là sự nhận và chuyển công nghệ đang trong giai đoạn quản lý
của nghiên cứu có nghĩa là công nghệ chưa đưa vào sản xuất đại trà.



+ Chuyển giao ngang là sự chuyển và nhận công nghệ đã sản xuất đại trà.
Mỗi hình thức chuyển giao đều có ưu nhược điểm riêng trong một số trường hợp
thì áp dụng hình thức chuyển giao dọc là có lợi nhưng trong trường hợp khác thì
chuyển giao ngang là có lợi, vì thế khi thức hiện chuyển giao người ta xét xem nên
thực hiện chuyển giao theo hình thức nào là đạt hiệu quả cao nhất.
Các bước để tổ chức thực hiện chuyển giao công nghệ:
+ Chuẩn bị: trong bước này đòi hỏi nắm vững những yêu cầu của chuyển giao
công nghệ, nghĩa là sau khi thực hiện các công việc của hoạt động công nghệ như lựa
chọn công nghệ thích hợp, đánh giá công nghệ, phân tích năng lực công nghệ để thực
hiện đổi mới công nghệ các nước, các doanh nghiệp phải nắm vững được các điều
kiện này để tiến hành chuyển giao công nghệ đạt hiệu quả cao. Bên cạnh đó các nước
(các doanh nghiệp) còn phải nắm vững các hợp đồng chuyển giao công nghệ như hợp
đồng lixăng, hợp đồng chuyển giao công nghệ kèm theo cung cấp máy móc thiết bị,
xây dựng công trình công nghiệp có hoặc không kèm lixăng, hợp đồng dịch vụ, hỗ trợ

và tư vấn kỹ thuật, hợp đồng đại lý, hợp đồng tổng hợp.
Hợp đồng lixăng là giấy phép mà người chủ sở hữu công nghiệp cấp cho người
mua được quyền sở hữu công nghiệp đó của mình. Một hợp đồng lixăng chỉ chuyển
một quyền sở hữu công nghiệp.
Hợp đồng chuyển giao công nghệ kèm theo cung cấp máy móc thiết bị, xây dựng
công trình công nghiệp có hoặc không có lixăng: hợp đồng này bao gồm những nội
dung về chuyển giao quyền sở hữu hay sử dụng sáng chế, giải pháp hữu ích, hoặc các
đối tượng sở hữu công nghệ khác; thông tin về công nghệ. Trong hợp đồng này nhất
thiết phải có các thông tin về đặc điểm kỹ thuật của máy móc và thiết bị, các mô tả chi
tiết, rõ ràng về công nghệ mà bên nhận muốn nhận được, cũng như cách thức để nhận
được công nghệ.
Hợp đồng cung cấp dịch vụ hỗ trợ và tư vấn kỹ thuật: hợp đồng này chủ yếu nhằm
thoả thuận về việc cung cấp các dịch vụhỗ trợ và tư vấn công nghệ kể cả đào tạo và
thông tin.



Hợp đồng đại lý: bên nhận làm đại lý cần phải có kiến thức cần thiết về sử dụng,
bảo dưỡng, sữa chữa sản phẩm, cũng như các dịch vụ có liên quan. Vì thế hợp đồng
này phải ghi rõ những nội dung đào tạo cụ thể sẽ tiến hành cho bên đại lý; các tài liệu
liên quan (mô tả sản phẩm, cẩm nang vận hành và bảo dưỡng, cẩm nang sữa chữa…).
Các nội dung trong hợp đồng này phải được thực hiện trong khi bên đại lý bán máy
móc thiết bị.
Hợp đồng tổng hợp: nó là tập hợp một hoặc toàn nội dung nói trên.
+ Hợp đồng chuyển giao công nghệ.
+ Chuẩn y hợp đồng.
2.4.3. Yêu cầu của đổi mới công nghệ:
Từ việc đánh giá công nghệ ta có thể nhận thấy yêu cầu tổng quát của đổi mới
công nghệ là lợi ích mà công nghệ đem lại phải lớn hơn là chi phí bỏ ra cho công nghệ
đó: B

i
=>C
i
. Cụ thể là:
+ Nâng cao trình độ công nghệ, hiệu quả sản xuất, chất lượng sản phẩm…
+ Không làm phương hại đến an toàn sản xuất, bảo đảm an toàn lao động, điều
kiện và môi trường công nghệ cho người lao động.
+ Sử dụng hợp lý năng lượng, các nguồn tài nguyên và nguồn nhân lực.
+ Không gây tác hại đối với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội chung.




II. Thực trạng đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công nghiệp
ở Việt nam:
1. Tình hình công nghệ trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp ở Việt nam:
1.1. Tình hình công nghệ chung của nền kinh tế quốc dân:
Công nghiệp là ngành đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế nước ta, nó đã đạt
được tốc độ tăng trưởng khá cao trong khoảng thời gian 10 năm qua, với tỷ lệ tăng
bình quân (từ 1991- 2000) là 14% năm. Tuy nhiên tăng trưởng công nghiệp là quá
trình không đều, trải qua những khúc quanh hoặc gắn liền với sự thay đổi chính sách
trong nước hoặc do ảnh hưởng bởi tình hình ngoài nước. Mặc dù ngành công nghiệp
đạt tốc độ tăng trương cao như vậy nhưng so với tốc độ phát triển của thế giới thì công
nghiệp Việt nam còn phát triển ở trình độ thấp. Đặc biệt so sánh về mặt công nghệ thì
Việt nam còn phát triển ở trình độ thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực và trên
thế giới. Sau đây là số liệu so sánh trình độ công nghệ Việt nam và các nước trong khu
vực (%):
Nhóm ngành công
nghệ thấp (a)
Nhóm ngành công

nghệ trung bình (b)
Nhóm ngành công
nghệ cao (c)
ThaiLan
Singapore
Malaysia
Indonesia
Philipine
Vietnam
42,7
10,5
24,3
47,7
45,2
58,7
26,5
16,5
24,8
22,6
25,7
20,7
30,8
73
51,1
29,7
29,1
20,6
Từ bảng số liệu ta thấy công nghệ của Việt nam chủ yếu tập trung trong các nhóm
ngành có trình độ thấp, còn tỷ lệ các ngành có trình độ công nghệ trung bình và ngành
công nghệ cao đều thấp hơn so với các nước trong khu vực.

×