TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ-ĐỊA CHẤT
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
*********
BÀI TIỂU LUẬN
MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Tên đề tài: Xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, phục vụ nhân dân theo tư
tưởng Hồ Chí Minh
Giảng viên: NguyễnThị Kim Dung
Năm học: 2020-2021
HÀ NỘI - 2021
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Phần 1: Vị trí vấn đề nhà nước trong tư tưởng Hồ Chí Min
Phần 2: Nguồn gốc lý luận chủ yếu quyết định nhất đối với sự hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước.
Phần 3: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu
quả.
I. Xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh:
1.
Xây dựng Đảng Nhà nước về tư tưởng, lý luận và tổ chức.
2.
Xây dựng bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức của nhà nước đủ đức, đủ
tài.
3.
Xây dựng Đảng, Nhà nước về đạo đức.
4.
Tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng lãnh đạo.
II. Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của nhà nước
1.
Đặc quyền, đặc lợi.
2.
Tham ơ, lãng phí, quan liêu.
3.
Tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo.
III.Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục
đạo đức cách mạng
IV. Những vấn đề đặt ra về xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh
V. Bài học về xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh
Kết luận.
LỜI NÓI ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Trong lịch sử của các dân tộc thường có những vĩ nhân mà cuộc đời và sự
nghiệp, tư tưởng và hành động của họ gắn liền với cả một giai đoạn lịch sử đầy sôi
động và biến cố của dân tộc và thời đại mình:Mác, Anghen, V.I.Lenin,…và đặc
biệt là Hồ Chí Minh, là những con người tiêu biểu như vậy.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập Đảng, Mặt trận, Quân đội, đồng thời
cũng là người sáng lập Nhà Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Trong một phần tư
thế kỷ ở cương vị Chủ tịch Nhà Nước, Người đã dành nhiều công sức cho việc xây
dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam-Nhà Nước trong sạch,vững mạnh, hiệu quả.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân- do dân- vì dân, trong sạchvững mạnh-hiệu quả, là sự vận dụng sáng tạo học thuyết về nhà nước của chủ
nghĩa Mác- Lenin trong điều kiện của nước ta, có sự chọn lọc, kế thừa cả những
tinh hoa trong việc xây dựng nhà nước đã có trong lịch sử dân tộc và nhân loại.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước vững mạnh, có hiệu lực phải là một
nhà một nhà nước làm cho mọi người dân biết sống và làm việc theo Hiến Pháp và
pháp luật. Mặt khác, nhà nước đó “ phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với
nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân” . Một trong những
mối quan tâm của Người là làm sao đào tạo và bồi dưỡng được một đội ngũ cán bộ
chính quyền phù hợp với bản chất của Nhà nước ta, thấm nhuần tinh thần “dân là
chủ, cán bộ là đầy tớ trung thành của nhân dân” . Là người sáng lập ra Nhà nước
ta, Người rất đề cao pháp quyền, nhưng Hồ Chí Minh khơng lúc nào coi nhẹ vai
trị của giáo dục đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội và nhà nước.
Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, mô hình Nhà Nước Việt Nam được xây dựng
trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh đã phát huy thành quả tích cực trong sự nghiệp
cách mạng của dân tộc hơn 60 năm qua. Di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
nhà nước đã và đang được toàn Đảng, toàn dân kế thừa, phát triển trong sự nghiệp
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ trong nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
2.Mục đích chọn đề tài:
Trong thời kỳ nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng nhà nước pháp
quyền-nhà nước “cuả dân, do dân, vì dân”, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh,xã hội
công bằng, dân chủ văn minh, thì tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước pháp quyền “TRONG SẠCH-VỮNG MẠNH-HIỆU QUẢ”
nói riêng đã có vị trí và vai trị vô cùng quan trọng,là nền tảng để Đảng ta xây
dựng mơ hình Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hồ một cách hồn thiện
nhất. Do đó, tơi chọn đề tài này để có thể nghiên cứu chi tiết hơn về tư tưởng Hồ
Chí Minh trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Phương pháp luận:
Với phương pháp luận là chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh giúp
cho tư duy và góc độ nghiên cứu ln đi đúng hướng và hiệu quả. Kết hợp với
phương pháp phân tích tổng hợp, phương án so sánh và phương pháp liên ngành là
ba phương pháp nghiên cứu chính và cụ thể mà tơi có thể sử dụng khi nghiên cứu
đề tài này.
3.Cơ cấu của bài luận:
Lời mở đầu.
Phần 1: Vị trí vấn đề nhà nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phần 2: Nguồn gốc lý luận chủ yếu quyết định nhất đối với sự hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước.
Phần 3: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu
quả.
Kết luận
Tài liệu tham khảo.
Phần 1: Vị trí vấn đề nhà nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh:
Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ IX đã khẳng định: “ Tư tưởng Hồ
Chí Minh là hệ thống quan điểm tồn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lenin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp cùa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại”. Trong hệ
thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam của Hồ Chí Minh, tư tưởng về nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả
chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng với nội dung thiết thực. Hiện nay, việc nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước có ý nghĩa cấp thiết về lý luận và thực
tiễn đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
dân,do dân, vì dân, một nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh và hiệu quả.
Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin về:
“Vấn đề chính quyền nhất định là vấn đề chủ yếu nhất của mọi cuộc cách mạng”.
Song, Người thấy rõ ràng vấn đề chính quyền ở nước ta khơng thể rập khn theo
các nước khác, mà cần “ phân tích cụ thể một tình hình cụ thể” để có lời giải đáp
đúng, phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn đất nước và quy luật phát triển của cách
mạng Việt Nam. Người đã xác định cách mạng Việt Nam phải đi theo con đường
của cách mạng vơ sản và nhìn nhận vấn đề chính quyền nhà nước như một nội
dung cơ bản của cách mạng Việt Nam.
Phần 2: Nguồn gốc lý luận chủ yếu quyết định nhất đối với sự hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
Nguồn gốc lý luận quan trọng, chủ yếu, quyết định nhất hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước là học thuyết Mác-Lenin về nhà nước nói chung, nhà
nước chun chính vơ sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa nói riêng.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin, nhà nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội có thể rất khác nhau, nhưng bản chất của chúng chỉ là một:
chun chính cách mạng của giai cấp vơ sản. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mà muốn như vậy, địi hỏi đó phải là
một nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh và hiệu quả.
Chủ nghĩa Mác-Lenin đã chỉ ra rằng, nhà nước xã hội chủ nghĩa, với đặc
điểm vốn có của nó, là một nhà nước đặc biệt, nhà nước khơng cịn ngun nghĩa,
là nhà nước “nửa nhà nước”.
Nhờ có quan điểm cơ bản của chủ nghỉa Mác-Lenin, Hồ Chí Minh đã tìm
thấy con đường cách mạng Việt Nam, phương thức đúng đắn để giải quyết vấn đề
chính quyền nhà nước, hiểu biết thấu đáo bản chất nhà nước và cách thức tổ chức
nhà nước. Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-lenin về vấn đề nhà nước
nói chung, nhà nước xã hội chủ nghĩa nói riêng là cơ sở lý luận khoa học để Người
đánh giá, phê phán các học thuyết khác về tổ chức nhà nước cũng như khảo sát các
kiểu thực tiễn nhà nước một cách chính xác. Từ đó hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh thật sự cách mạng, khoa học, trở thành nền tảng tư tưởng của đường lối
xây dựng và hoàn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Đảng ta.
Phần 3: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước trong sạch, vững
mạnh, hiệu quả
I.
Xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh
1. Xây dựng Đảng, Nhà nước về tư tưởng, lý luận và tổ chức:
Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động của Đảng. Mở đầu tác phẩm “Đường cách mệnh”, Hồ Chí Minh đã đưa luận
điểm nổi tiếng của V. Lê-nin: “Khơng có lý luận cách mệnh thì khơng có cách
mệnh vận động... Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới
làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong”. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm
việc” (10-1947), Người viết: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng
cho chúng ta trong cơng tác thực tế. Khơng có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt
mà đi”. Như vậy, khẳng định Cách mạng Việt Nam “trước hết phải có Đảng cách
mệnh”, Người cịn muốn nhắc đến một điều đặc biệt quan trọng: dẫn đường cho
mọi hoạt động của cách mạng đều cần thiết phải có một học thuyết, một chủ nghĩa
cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Có lý luận soi đường thì quần
chúng hành động mới đúng đắn, mới phát hiện được tài năng và lực lượng vơ cùng
tận của mình”. Người chỉ rõ: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt,
trong Đảng ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng như
người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam” . Nhưng, Người cũng phát hiện
ra rằng “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính,
chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” .
Có chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, soi đường, dẫn lối, Đảng
đã đạt được những mục tiêu nhất định, đã lãnh đạo được giai cấp công nhân thực
hiện được sứ mệnh lịch sử của mình, đưa dân tộc ta vượt qua những khó khăn, thử
thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu “Đảng
áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp Mác - Lênin mà giải quyết các vấn
đề thực tế của cách mạng Việt Nam… không phải chỉ học thuộc lòng vài bộ sách
của Mác - Lênin mà làm được như vậy. Đảng phải có tinh thần khoa học và tinh
thần cách mạng rất cao, phải hiểu rõ lịch sử xã hội, phải quyết tâm phấn đấu cho
giai cấp và nhân dân, phải tin tưởng vào lực lượng và sáng kiến của quần
chúng”. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh cho thấy tầm quan trọng của việc học tập,
nâng cao năng lực về lý luận để vận dụng vào thực tiễn cách mạng chứ không phải
“học lý luận vì lý luận, hoặc để tạo cho mình một cái vốn lý luận để sau này đưa ra
mặc cả với Đảng”.
2. Xây dựng bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức của Nhà nước đủ đức đủ
tài:
a. Tuyệt đối trung thành với cách mạng
Đây là yêu c ầu đ ầu tiên c ần có đ ối với đ ội ngũ cán b ộ, công ch ức.Cán b ộ,
công ch ức ph ải là những ng ười kiên c ường b ảo vệ chế độ xã h ội chủ nghĩa, bảo
v ệ Nhà n ước. H ồ Chí Minh nh ấn m ạnh lịng trung thành đó không ph ải là nh ững
đi ều tr ừu t ượng, chung chung, mà ph ải đ ược th ể hi ện h ằng ngày, h ằng gi ờ,
trong m ọi lĩnh v ực công tác, th ể hi ện trong k ết qu ả th ực t ế công tác. Lịng trung
thành đó th ể hi ện đ ặc bi ệt rõ trong nh ững lúc đ ất n ước g ặp khó khăn, th ử thách,
chuyển giai đoạn.
b. Hăng hái, thành th ạo trong công việc, gi ỏi chun mơn, nghiệp v ụ
Chỉ với long nhiệt tình thì không đủ và cùng lắm chỉ phá được cái xấu, cái cũ
mà không xây được cái tốt, cái mới. Yêu cầu tối thiểu là phải hiểu biết cơng việc
của mình, biết quản lý tốt công việc của nhà nước. Do vậy đội ngũ này cần được
đào tạo và tự mình phải ln học hỏi. Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 76 ban hành
“Quy chế công chức” nêu rõ công chức là người giữ một nhiệm vụ cụ thể trong bộ
máy nhà nước dưới sự lãnh đạo cua Chính phủ. Sắc lệnh cũng nêu lên cách thức và
nội dung thi tuyển để bổ nhiệm và các ngạch bậc hành chính trong bộ máy chính
quyền.
c. Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân
Hồ Chí Minh ln ln chủ trương xây dựng mối quan hệ bền chặt giữa đội
ngũ cán bộ, công chức với nhân dân. Đội ngũ cán bộ công chức là người ăn lương
từ ngân sách của nhà nước, mà nguồn ngân sách đó là của nhân dân đóng góp.
Chính vì vậy, Hồ Chí Minh nhắc nhở mọi cán bộ khơng được lãng phí của cơng
phải phục vụ sẵn sang hy sinh quyền lợi cá nhân cho Tổ Quốc. Đặc biệt là phải
chống bệnh tham ô, lãng phí, quan lieu, phải ln ln gắn bó với dân hiểu dân và
vì dân. Đối với cán bộ, cơng chức xa dân, quan lieu, hách dịch…đối với nhân dân
đều dẫn đến nguy cơ làm suy yếu Nhà nước, thậm chí làm biến chất Nhà nước.
d. Cán bộ, công chức Nhà nước phải là người dám phụ trách, dám quyết
đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là trong tình huống khó khan “thắng
khơng kiêu bại khơng nản”
Đó là những người có ý thức sẵn sang làm “công bộc” làm “đầy tớ” của dân,
những người cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư, làm việc với tinh thần đầy
sáng tạo. Hồ Chí Minh địi hỏi cán bộ, cơng chức ln phải học tập để nâng cao
trình độ về mọi mặt, học mọi nơi mọi lúc, học tập suốt đời và phải thường xuyên
phê bình và tự phê bình.
3. Xây dựng Đảng, Nhà nước về đạo đức
Đảng là đạo đức, là văn minh, nhờ đó Đảng mới trong sạch, vững mạnh.
Trong 12 điều xây dựng Đảng chân chính cách mạng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh,
Đảng là một tổ chức cách mạng chứ không phải tổ chức để “làm quan phát tài”.
Khơng như vậy, Đảng sẽ rơi vào thối hóa, biến dạng, tha hóa, xa dân, tự đánh mất
sức mạnh tự bảo vệ. Xây dựng Đảng về đạo đức là cơ hội để mỗi cán bộ, đảng viên
tự rèn luyện, giáo dục và tu dưỡng tốt hơn, hoàn thành các nhiệm vụ mà Đảng và
nhân dân giao phó, đặc biệt là giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng.
Đưa ra tiêu chí của một người cán bộ tốt là phải vừa có đức, vừa có tài,
Người nhấn mạnh, trong đó, đạo đức là gốc: “Cũng như sơng thì có nguồn mới có
nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân” . Do vậy, để xây dựng Đảng thực sự đạo đức, văn
minh, cần nắm rõ 3 nguyên tắc:
Một là, những chuẩn mực đạo đức cần có của tổ chức Đảng: Kiên định chủ
nghĩa Mác-Lênin một cách sáng tạo, chống giáo điều và xa rời nguyên tắc. Trung
thành với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân, dân tộc Việt Nam và của lồi
người. Đảng gắn bó với dân, là người lãnh đạo đồng thời là người đày tớ trung
thành của nhân dân.
Hai là, những phẩm chất đạo đức cách mạng cần có của cán bộ, đảng viên:
Trung với nước hiếu với dân; cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư; u thương, quý
trọng con người; có tinh thần quốc tế trong sáng.
Ba là, những nguyên tắc, biện pháp xây dựng, rèn luyện đạo đức cách mạng:
Nói đi đơi với làm, nêu gương đạo đức; tu dưỡng đạo đức suốt đời; xây dựng đạo
đức đi đôi với chống lại những hiện tượng phi đạo đức.
4. Tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng lãnh đạo
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị,
phát huy mạnh mẽ vai trò, hiệu lực của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, có hiệu lực và hiệu
quả.“Bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ
để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước. Quản lý đất nước theo
pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội” . Bãi bỏ những
thủ tục hành chính gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp. Đề cao đạo đức
công vụ, trách nhiệm xã hội, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong chỉ đạo và thực thi
công vụ của cán bộ, công chức. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức có
bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có trình độ, năng lực
chuyên môn phù hợp, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới. Kiên quyết đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền; thực hành tiết
kiệm trong các cơ quan nhà nước và trong đội ngũ cán bộ, cơng chức.
II.
Đề
phịng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà
nước:
Xây dựng một Nhà nước của dân, do dân, vì dân khơng bao giờ tách rời với
việc làm cho Nhà nước luôn trong sạch, vững mạnh. Điều này ln thường trực
trong tâm trí và hành động của Hồ Chí Minh. Khi nước nhà giành được độc lập,
chính quyền cách mạng cịn non trẻ cũng như lúc cách mạng chuyển giai đoạn, Hồ
Chí Minh càng chú ý hơn bao giờ hết đến việc bảo đảm sự trong sạch, vững mạnh
của các cấp chính quyền, bởi vì thường những lúc đó cách mạng đứng trước những
thách thức rất gay gắt và những tiêu cực rất dẽ trở thành nguy cơ làm biến chất Nhà
nước.
Chỉ một tháng sau khi thành lập nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ, Hồ
Chí Minh đã gửi thư cho Uỷ Ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng nêu rõ phải
chống đặc quyền, đặc lợi; bộ máy nhà nước không phải là bộ máy áp bức bóc lột
nhân dân, cán bộ, cơng chức khơng phải là những “ơng quan cách mạng”. Hồ Chí
Minh chỉ ra sáu căn bệnh cần đề phòng: trái phép, cậy thế, hủ hoá, tư túng, chia rẽ,
kiêu ngạo. Người nhắc nhở “ Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết được
sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai khơng phạm những lầm lỗi trên này,
thì nên chú ý tránh đi, và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm những lầm lỗi trên
này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính Phủ sẽ khơng
khoan dung. Vì hạnh phúc của dân tộc, vì lợi ích của nước nhà mà tơi phải nói.
Chúng ta phải ghi sâu những chữ “cơng bình, chính trực” vào lịng”. Trong q
trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam Hồ Chí Minh thường đề cập đến
vấn đề sau đây và nhắc nhở mọi người tránh và khắc phục.
1. Đặc quyền, đặc lợi
Xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh đòi hỏi phải tẩy trừ những thói
cậy mình là người trong cơ quan chính quyền để cửa quyền, hách dịch vời dân,
đờng thời vơ vét tiền của, lợi dụng chức quyền để làm lợi cho cá nhân mình, làm
như thế tức là sa vào chủ nghĩa cá nhân.
2. Tham ơ, lãng phí, quan liêu
Hồ Chí Minh coi tham ơ, lãng phí, quang liêu là “giặc nội xâm”, “giặc ở
trong lòng”, thứ giặc nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Người phê bình những người
“lấy của cơng dùng vảo việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức”. Quan điểm của Hồ
Chí Minh là: “Tham ơ, lãng phí và bệnh quan liêu dù cố ý hay không, cũng là bạn
đồng minh của thực dân và phong kiến… Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt
gian, mật thám”.
Ngày 27/11/1946, Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh 223 ấn định hình phạt tội đưa
và nhận hối lộ với mức từ 5 năm đến 20 năm tù khổ sai và phải nộp phạt gấp đôi số
tiền nhận hối lộ. Ngày 26/1/1947, Hồ cơng là tội tử hình. Hồ Chí Minh ký lệnh nói
rõ tội phạm tham ơ, trộm cắp của Lãng phí là một căn bệnh mà Hồ Chí Minh lên án
gay gắt. Chính bản thân Người ln làm gương, tích cực thực hành chống lãng phí
torng cuộc sống và cơng việc hằng ngày. Lãng phí ở đây được Hồ CHí Minh xác
định là lãng phí sức lao động, lãng phí thời giờ, lãng phí tiền của. Chống lãng phí là
biện pháp để tiết kiệm, một vấn đề quốc sách của mọi quốc gia. Liên quan đến
bệnh tham ô, bệnh lãng phí là bệnh quan liêu, một căn bệnh khơng những có ở cấp
trung ương, ở cấp tỉnh, ở cấp huyện mà cịn ngay ở cấp cơ sở.
Hồ Chí Minh phê bình những người và các cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến
cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không
gần gũi quần chúng. Đối với cơng việc thì trọng hình thức mà không xem xét khắp
mọi mặt, không đi sâu vào từng vấn đề. Bệnh quan liêu làm cho chúng ta chỉ biết
khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo tên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi đến chốn…
thành thử có mắt mà khơng thấy suốt, có tai mà khơng nghe thấu, có chề độ mà
khơng biết nắm vững… Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn
tham ơ, lãng phí.
Vì vậy, đây là bệnh gốc sinh ra các bệnh tham ơ, lãng phí; muốn trừ sạch
bệnh tham ơ, lãng phí thì trước hết phải tẩy sạch bệnh quan liêu.
3. Tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo.
Những hành động trên gây mất đoàn kết, gây rồi cho cơng tác. Hồ Chí Minh
kịch liệt lên án tệ kéo bè, kéo cánh, tệ nạn bà con bạn hữu mình khơng tài năng gì
cũng kéo vào chức này chức nọ. Người có tài có đức, nhưng khơng vừa lịng mình
thì đẩy ra ngồi. Qn rằng việc nước là việc cơng, chứ khơng phải việc riêng gì
dịng họ của ai. Trong chính quyền, cịn hiện tượng gây mấy đồn kết, khơng biết
cách làm cho mọi người “bênh vực lớp này, chống lại lớp khác”.
Ngoài bệnh cậy thế, có người cịn kiêu nạo, “tưởng mình ở trong cơ quan
Chính Phủ là thần thánh rồi…Cử chỉ lúc nào cũng vác mặt quan cách mạng”, làm
mất uy tín của Chính Phủ.
III.
Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với đẩy mạnh
giáo dục đạo đức cách mạng.
Về phép trị nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh,Người ln kết hợp một cách
nhuần nhuyễn giữa quản lý xã hội bằng pháp luật với phát huy những truyền thống
tốt đẹp trong đời sống cộng đồng người Việt Nam được hình thành quan hàng ngàn
năm lịch sử. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa “Đức trị” và “Pháp trị”.
Trong việc thực thi quyền hạn và trách nhiệm của mình với cương vị là Chủ
tịch nước, Hồ Chí Minh bao giờ cũng thể hiện là một người sáng suốt, thống nhất
hài hoà giữa lý trí và tình cảm, nghiêm khắc, bao dung, nhân ái nhưng không bao
che cho những sai lầm, khuyết điểm của bất cứ ai. Kỷ cương, phép nước thời nào
cũng luôn được đề cao và phải được áp dụng cho tất cả mọi người. Do đó, Hồ Chí
Minh u cầu pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở
địa vị nào, làm nghề nghiệp gì. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh dùng sức mạnh uy tín
của mình để cảm hố những người có lỗi lầm, kéo họ đi với cách mạng, giáo
dục những người mắc khuyết điểm để họ tránh phạm pháp.
Theo người một xã hội kỷ cương, một nhà nước mạnh có hiệu lực phải quản
lý bằng pháp luật, khơng một giờ phút nào coi thường pháp luật, thiếu pháp
luật. Không quản lý nhà nước bằng pháp luật sẽ dẫn đến sơ hở, cán bộ sẽ dễ sinh ra
lạm dụng quyền lực, vi phạm quyền dân chủ của dân cũng như cơng dân dễ có
hành vi xâm phạm đến quyền tự do của người khác, của cộng đồng, và của xã hội
dẫn đến hỗn loạn vơ Chính Phủ. Chính vì vậy khi xây dựng Hiến Pháp mới và hình
thành một hệ thống pháp luật mới, Người đề nghị vận dụng những điều luật cũ còn
tương đối phù hợp với tình hình mới, trừ bỏ những điều luật vi phạm và trái với với
chủ quyền của nhân dân. Tuy nhiên Người cũng lưu ý: “ Luật pháp phải dựa vào
đạo đức, mặtkhác luật pháp bảo vệ pháp luật bảo vệ đạo đức. Không xử phạt là
khơng đúng, song chút gì cũng trừng phạt thì khơng đúng. Nhà nước phải vừa giáo
dục vừa sử dụng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên lương thiện”.
Trong những năm trực tiếp lãnh đạo nhà nước, Người đã từng bước xây dựng
hệ thống pháp luật, ngoài hai bản Hiến Pháp, Người đã công bố 16 đạo luật và gần
1300 văn bản dưới luật khác.
IV.
Những vấn đề đặt ra về xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh
trong tình hình hiện nay
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan
tâm chăm lo xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh. Từ khi giành được
chính quyền, Đảng vừa là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị, vừa là hạt
nhân lãnh đạo hệ thống ấy. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh chi phối tính
chất, mục tiêu, nhiệm vụ, hiệu quả xây dựng hệ thống chính trị. Hiệu lực, hiệu quả
hoạt động các tổ chức của hệ thống chính trị chính là thước đo năng lực lãnh đạo,
uy tín, vị thế, địa vị cầm quyền của Đảng.
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định xây dựng
Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa quyết định bảo đảm sự thành công của
công cuộc đổi mới. Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị là nhằm nâng cao năng
lực lãnh đạo và cầm quyền của Đảng, tăng cường hiệu lực và hiệu quả hoạt động
của hệ thống chính trị, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính đồng bộ,
phù hợp giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị.
Trên cơ sở kiên trì các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản,
công tác xây dựng Đảng được tiến hành trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, tổ
chức, đạo đức và đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ. Xây dựng Đảng về chính trị
đã giúp giữ vững, kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng; kiên định các nguyên
tắc nền tảng; tăng cường bản lĩnh chính trị; nâng cao chất lượng đường lối, chính
sách. Công tác tư tưởng, lý luận được tăng cường đã tạo sự thống nhất trong Đảng
và đồng thuận xã hội trước những vấn đề lớn của đất nước, của công cuộc đổi mới;
đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch;
tìm tịi, bổ sung và phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Tổ chức đảng về hệ thống chính trị có bước đổi mới quan trọng, từ thể chế,
tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành, đến nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, xây
dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược; chỉnh đốn lề lối, tác
phong công tác; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, kiểm sốt quyền lực, phịng chống
tham nhũng, lãng phí; tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân
dân. Giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng được đặc biệt coi trọng, có
tác dụng quan trọng trong đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thối tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của đảng
viên. Qua thực tiễn xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ngày càng được củng cố; quyền con người, quyền công dân được bảo đảm tốt
hơn; tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành của hệ thống chính trị từng bước được đổi
mới, hoàn thiện, nâng cao hiệu quả.
Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh là nhân tố quyết
định tạo nên những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử của cơng cuộc đổi mới ở
Việt Nam hơn 3 thập niên qua. Thông qua xây dựng Đảng và hệ thống chính trị,
Đảng Cộng sản Việt Nam trưởng thành hơn trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, nâng
cao năng lực lãnh đạo và cầm quyền, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết với
nhân dân, khơi dậy tiềm năng sáng tạo, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
khuyến khích nhân dân tham gia xây dựng Đảng và quản lý nhà nước.
Tuy nhiên, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị cũng bộc lộ những yếu kém,
khuyết điểm: Năng lực dự báo, định hướng chính sách, thể chế hóa, cụ thể hóa để
tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, còn khoảng cách với đòi hỏi của thực tiễn. Năng
lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước, hiệu
quả hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội chưa nâng lên kịp với địi hỏi của
tình hình nhiệm vụ mới. Bộ máy đảng, nhà nước, đồn thể chậm được sắp xếp lại
cho tinh giản và nâng cao chất lượng, còn nhiều biểu hiện quan liêu, vi phạm quyền
dân chủ của nhân dân. Công tác tuyển chọn, bồi dưỡng, thay thế, trẻ hóa, chuẩn bị
cán bộ kế cận còn lúng túng, chậm trễ. Quản lý, giáo dục đảng viên chưa được
quan tâm đúng mức, hiệu quả chưa cao. Năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ
của hệ thống chính trị chưa tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ. Một bộ phận cán
bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hóa về phẩm chất đạo đức, sức
chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng chưa cao. Chất lượng sinh hoạt đảng, tính
chiến đấu trong tự phê bình và phê bình cịn yếu, thực hiện trách nhiệm nêu gương
của đảng viên nhiều nơi thiếu nền nếp, chưa trở thành ý thức tự giác. Chưa đạt hiệu
quả cao trong đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; chưa phân định
rõ vai trò lãnh đạo tập thể và trách nhiệm cá nhân; thực hiện kiểm soát quyền lực
chưa tốt. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” chậm
được thể chế hóa một cách đồng bộ. Cịn nhiều bất cập trong quản lý kinh tế - xã
hội, để nhiều vụ việc tồn đọng, sai phạm kéo dài, chậm được xử lý, gây bức xúc
trong nhân dân.
Hệ thống chính trị ở cơ sở hiện nay còn nhiều mặt yếu kém trong công tác
lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện và vận động quần chúng. Tình trạng tham
nhũng, quan liêu, mất đoàn kết nội bộ, vừa vi phạm quyền làm chủ của dân, vừa
không giữ đúng kỷ cương, phép nước xảy ra ở nhiều nơi, có nơi nghiêm trọng.
Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống chính trị chưa được xác định
rành mạch, trách nhiệm khơng rõ; nội dung và phương thức hoạt động chậm đổi
mới, còn nhiều biểu hiện của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp.
Để tiếp tục xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
trong tình hình hiện nay cần tập trung giải quyết một số vấn đề cơ bản sau đây:
Một là, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống
chính trị, đồng thời xây dựng mối quan hệ đoàn kết, phối hợp giữa các tổ chức dưới
sự lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ cơ sở; đổi mới nội dung và phương thức hoạt động
hướng vào phục vụ dân, sát với dân, được dân tin cậy.
Hai là, thực hành dân chủ thực sự trong nội bộ các tổ chức của hệ thống
chính trị ở cơ sở theo nguyên tắc tập trung dân chủ và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trên cơ sở thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, phát huy quyền làm chủ đại
diện, quy định cụ thể việc thực hiện quyền của dân giám sát tổ chức và cán bộ ở
cơ sở và kịp thời thay thế người khơng đủ tín nhiệm. Phát huy dân chủ phải đi liền
với củng cố và nâng cao kỷ luật, kỷ cương theo pháp luật.
Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở chuẩn hóa, có năng lực tổ chức và
vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công
tâm, thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức
hiếp dân; trẻ hóa đội ngũ, chăm lo cơng tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và
đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở.
Trước yêu cầu mới ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp cơng
nghiệp, hóa hiện đại hóa đất nước, cùng với đổi mới nền kinh tế, từng bước đổi mới
kiện tồn hệ thống chính trị là đòi hỏi khách quan, yêu cầu cấp bách.
V.
Bài học về xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Nhưng muốn làm cách mạng, quần
chúng phải được giác ngộ, tổ chức rèn luyện dưới sự lãnh đạo của một chính Đảng.
Nhận thức rõ điều này, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã tích cực chuẩn bị về mọi mặt
cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người khẳng định: Đảng có vững,
cách mạng mới thành cơng. Phải xây dựng Đảng thành một Đảng kiểu mới của giai
cấp công nhân, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác–Lênin, phấn đấu vì lý tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Ngoài lợi ích của giai cấp cơng nhân, của nhân dân
lao động và của dân tộc Việt Nam, Đảng khơng có lợi ích nào khác. Đảng một lịng,
một dạ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Lịch sử phát triển Đảng trong những
chặng đường qua đã cho thấy, Đảng ta với tư cách là hạt nhân lãnh đạo của hệ
thống chính trị là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Do vậy,
Đảng và hệ thống chính trị phải thật sự trong sạch, vững mạnh. Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm
2011) đã chỉ rõ: “Để đảm đương được vai trị lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng
cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đề ra 6 nhiệm vụ trọng tâm,
trong đó nhấn mạnh nhiệm vụ trọng tâm thứ nhất: “Tăng cường xây dựng, chỉnh
đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ
cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín,
ngang tầm nhiệm vụ”.
Cụ thể hóa nhiệm vụ trên, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã ban hành
Nghị quyết Trung ương 4 về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn,
đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Nghị quyết Trung ương 6 về “Xây dựng đội
ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang
tầm nhiệm vụ”; Quy định số 08-Qđi/TW, ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành
Trung ương về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy
viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”.
Bài học về xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh là bài
học không bao giờ là cũ, được coi là nguyên tắc cốt tử đối với sự phát triển, tồn
vong của Đảng. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, liên minh giai cấp cơng - nơng trí thức là lực lượng nịng cốt, hợp tác giữa cơng - nơng - trí thức và doanh nhân là
một động lực cho tăng cường, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Lấy mục tiêu xây dựng nước Việt Nam hịa bình, độc lập, thống nhất, tồn vẹn lãnh
thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm động lực phát triển,
đoàn kết toàn Đảng, toàn dân tộc tạo khí thế mới, động lực mới, quyết tâm đưa đất
nước phát triển nhanh và bền vững.
Từ thực tiễn công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong thời gian
qua, rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
Một là, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị phải trên cơ sở kiên định chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, kiên định bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Hai là, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển,
giữa đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế.
Ba là, kết hợp giữa “xây” và “chống”. “Xây” là công việc thường xuyên, cơ
bản, lâu dài, xuất phát từ nhu cầu khơng ngừng hồn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm cho Đảng xứng đáng với vai trò lãnh đạo và trách nhiệm cầm
quyền, Nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân. “Chống” là nhiệm vụ quan
trọng, cấp bách, bởi trước tình trạng suy thối tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống,
phải có giải pháp đủ mạnh, xứng tầm để ngăn chặn, đẩy lùi, tạo môi trường cho
phát triển bền vững.
Bốn là, đi đôi với giữ vững, tăng cường vai trị lãnh đạo của Đảng phải tơn
trọng, phát huy đầy đủ tính chủ động, tích cực của các tổ chức thành viên hệ thống
chính trị. Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng là vấn đề có tính
ngun tắc, là nhân tố quyết định bảo đảm thành cơng của xây dựng Đảng, xây
dựng hệ thống chính trị.
Năm là, huy động, lơi cuốn, phát huy vai trị của nhân dân tham gia xây dựng
Đảng và hệ thống chính trị, phải “đưa chính trị vào giữa dân gian”. Có nhiều kênh
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, trong đó cần đặc biệt coi trọng vai trị của
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội.
KẾT LUẬN
Trong lịch sử, tư tưởng “lấy dân làm gốc” đã sớm xuất hiện ở những nhà
nước lãnh đạo, những nhà chính trị lớn. Nhưng đến Hồ Chí Minh tư tưởng về nhà
nước của dân, do dân, vì dân mới được phát triển sâu sắc, phong phú về nội dung,
với chất lượng mới, trở thành một quan điểm khoa học nhân đạo về bản chất nhà
nước mới, nhà nước của dân, do dân, vì dân; nhà nước trong sạch, vững mạnh và
hiệu quả.
Nếu như lấy dân làm gốc là tư tưởng chính trị truyền thống, thì đến Hồ Chí
minh tư tưởng ấy được diễn đạt trong một mệnh đề chủ động hết sức giản dị, tự
nhiên “Dân là gốc nước” đúng như câu thơ của Người:
Gốc có vững thì cây mới bền
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân
Ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch, vững
mạnh, hiệu quả có giá trị lý luận và thực tế to lớn, sâu sắc, định hướng cho việc
xây dựng và hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Với những kết quả quả đạt được trong quá trình đổi mới, cũng như những
khó khăn tồn tại trong 18 năm đổi mới, hoàn thiện nhà nước theo hướng xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến quá
trình đổi mới đất nước nói chung. Thực tế cho thấy, vấn đề đổi mới và hoàn thiện
nhà nước hiện nay là một q trình khó khăn cả trên lý thuyết lẫn thực tiễn. Điều
đó địi hỏi Đảng, nhà nước và nhân dân ta cần có những bước đi và giải pháp vừa
khẩn trương vừa vững chắc trong hiệc thực tiếp tục cải cách triệt để hơn nữa tổ
chức và hoạt động của động của nhà nước để đáp ứng được tình hình mới của nhà
nước trong quá trình chấn hưng dân tộc và hội nhập ngày nay.
Tài liệu tham khảo:
1.
Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
2.
Tạp chí xây dựng Đảng.
3.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ
X, XI, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.