BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC UEH
TRƯỜNG KINH DOANH
KHOA KINH DOANH QUỐC TẾ - MARKETING
TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: KINH TẾ VĨ MƠ
Đề tài 3: “Tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay. Thực trạng và giải pháp
chính sách.”
Giảng viên: Trần Bá Thọ
Mã lớp học phần: 22D1ECO50100233
Thành phố Hồ Chí Minh, Ngày 23 Tháng 3 Năm 2022
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường luôn diễn ra tình trạng cạnh tranh gay gắt giữa các doanh
nghiệp để thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên thương trường các nhà kinh tế
cũng như các doanh nghiệp ln phải nhanh chóng để tiếp cận, nắm bắt những vấn đề
của nền kinh tế mới. Bên cạnh bao vấn đề cần có để kinh doanh cịn là những vấn đề
nối cộm khác trong kinh tế. Một trong những vấn đề nối cộm ấy là lạm phát. Lạm phát
là một hiện tượng kinh tế xã hội gån với nền kinh tế thị trường. Nó là một trong những
hiện tượng quan trọng nhất của thế kỷ XXI và đụng chạm tới mọi hệ thống kinh tế dù
phát triển hay không.
Lạm phát được coi là một căn bệnh kinh niên của mọi nền kinh tế hàng hố tiền tệ. Nó
có tính thường trực, nếu khơng thường xun kiểm sốt, khơng có những giải pháp
chống lạm phát thường trực, đồng bộ và hữu hiểu thì lạm phát có thể xảy ra ở bất cứ
nền kinh tế hàng hố nào với bất kì chế độ xã hội nào.
Nền kinh tế của Việt Nam cũng khơng thể tránh khỏi lạm phát, nó là một vấn đề hết
sức phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian trí tuệ mới có thể mong muốn đạt được
kết quả khả quan. Chống lạm phát không chỉ là việc của các nhà doanh nghiệp mà còn
là nhiệm vụ của chính phủ. Lạm phát ảnh hưởng tồn bộ đến nền kinh tế quốc dân, đến
đời sống xã hội, đặc biệt là giới lao động ở nước ta hiện nay, chống lạm phát giữ vững
nền kinh tế phát triển ốn định, cân đối là một mục tiêu rất quan trọng trong phát triển
kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Là sinh viên, chúng em thông qua các phương tiện truyền thơng để tìm hiểu và đưa ra
những giải pháp hợp lý để giảm tỉ lệ lạm phát. Vì vậy nhóm đã chọn đề tài: “Tình
hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay. Thực trạng và giải pháp chính sách”.
Do kiến thức cịn hạn chế và thời gian thực hiện ngắn nên khơng thể tránh sai sót trong
q trình làm đề tài. Chúng em rất mong nhận được những đóng góp ý kiến từ thầy.
1
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ LẠM PHÁT
1. Định nghĩa lạm phát:
- Quan niệm cổ điển cho rằng “Lạm phát là phát hành tiền vượt quá số lượng tiền cần
thiết trong lưu thông". Tuy nhiên định nghĩa này khơng giải thích được hiện tượng lạm
phát chi phí đẩy (xuất hiện trên thế giới từ những năm 70 hoặc ở Việt nam năm 2005)
do loại lạm phát này vẫn có thể xảy ra trong khi cung tiền tăng ổn định. Nếu chỉ coi là
lạm phát khi sự tăng giá là kết quả của việc tăng mạnh cung tiền thì sẽ dẫn đến coi
thường các nguy cơ lạm phát có thể xảy ra.
- Một quan điểm phổ biến khác cho rằng: Lạm phát là hiện tượng tăng lên của mức giá
chung (mức giá bình quân, mức giá tổng hợp) theo thời gian. Tuy nhiên không phải
mọi sự tăng lên của mức giá đều đáng lo ngại. Nếu giá cả chi tăng tạm thời, trong ngắn
hạn, chẳng hạn như dịp gần Tết Nguyên đán ở Việt nam, sau đó lại giảm xuống thì đó
là kết quả của những biến động cung cầu tạm thời, nhiều khi có tác dụng tích cực hơn
là tiêu cực tới nền kinh tế. Những trường hợp như vậy mà đã coi là lạm phát thì sẽ dẫn
đến sự cường điệu hoá nguy cơ lạm phát.
- Các nhà kinh tế học theo trường phái trọng tiền hiện đại, đứng đầu là Milton
Friedman đã định nghĩa “lạm phát là hiện tượng giá cả tăng nhanh và liên tục trong
một thời gian dài". Theo trường phái này, sự tăng lên của mức giá chung mới chỉ phản
ánh hình thức biểu hiện của lạm phát, bản chất của lạm phát được thể hiện ở tính chất
của sự tăng giá đó: đó là sự tăng giá với tốc độ cao và kéo dài. Chính sự tăng giá cao
và liên tục từ thời gian này đến thời gian khác mới tạo ra những tác động đặc thù của
lạm phát. Cũng vì vậy, cái gọi là tỷ lệ tăng giá hàng tháng mà chúng ta có thể nghe trên
đài, báo hay vơ tuyến chỉ cho biết mức giá cả đã thay đổi bao nhiêu phần trăm so với
tháng trước chứ chưa được coi là biểu hiện của lạm phát. Đó có thể chỉ là sự thay đổi
xảy ra duy nhất một lần hoặc chi là tạm thời chứ không kéo dài. Chỉ khi nào tỷ lệ tăng
giá vẫn duy trì cao trong thời gian dài thì mới được coi là biểu hiện của lạm phát cao.
2
Định nghĩa này cũng được các nhà kinh tế học theo trường phái Keynes ủng hộ. Định
nghĩa này cũng đặc biệt thích hợp với các nhà điều hành chính sách tiền tệ vì Ngân
hàng trung ương chỉ có thể điều chỉnh giá cả trong dài hạn chứ không thể điều chỉnh
trong ngắn hạn. Những cố gắng điều chỉnh giá cả trong ngắn hạn thơng qua các cơng
cụ của chính sách tiền tệ sẽ chỉ làm cho diễn biến giá cả thêm phức tạp.
2. Phân loại lạm phát:
2.1.Căn cứ vào định lượng:
- Lạm phát vừa phải: Còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một
năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kì này nền
kinh tế hoạt động một cách bình thường, đời sống của người lao động ổn định. Sự ổn
định đó được biểu hiện: Giá cả tăng chậm, lãi suất tiền gửi không cao, không xảy ra
tình trạng mua bán và tích trữ hàng hóa với số lượng lớn ...
- Lạm phát phi mã: lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 con số
1 năm. Ở mức 2 con số thấp :11%,12%.. thì nói chung các tác động tiêu cực khơng
đáng kể và nền kinh tế vẫn có thể chấp nhận được. Nhưng khi tăng đến hai chữ số cao
thì lạm phát sẽ làm cho giá cả chung tăng lên nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh
tế, các hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng hố ,vàng bạc, bất
động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường. Như vậy lạm phát
sẽ làm ảnh hưởng xấu đến sản xuất và thu nhập vì những tác động tiêu cực của nó
khơng nhỏ. Bên cạnh đó lạm phát phi mã còn là mối đe doạ đối với sự ổn định của nền
kinh tế.
- Siêu lạm phát: 3 con số một năm xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ rất
nhanh, tỷ lệ lạm phát cao. Tốc độ và tỷ lệ siêu lạm phát vượt xa lạm phát phi mã, nó
như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng
nhanh và không ổn định, tiền luơng thực tế của người lao động bị giảm mạnh, tiền tệ
mất giá nhanh chóng, thơng tin khơng cịn chính xác, các yếu tố thị trường biến dạng
và hoạt động sản xuất kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn, mất phương hướng. Tóm
lại, siêu lạm phát làm cho đời sống và nền kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng.Tuy
nhiên siêu lạm phát rất ít xảy ra .
3
2.2.Căn cứ vào định tính:
- Lạm phát cân bằng: Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người lao động, tăng
phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do đó khơng gây
ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao động và dến nền kinh tế nói chung.
- Lạm phát khơng cân bằng: Tăng không tương ứng với thu nhập của người lao động.
Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra.
- Lạm phát dự đoán trước: là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một thời kì tương
đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn. Loại lạm phát này có thể dự đốn trước được
tỷ lệ của nó trong các năm tiếp theo. Về mặt tâm lý, người dân đã quen với tình trạng
lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị trước. Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống, đến
kinh tế.
- Lạm phát bất thường: xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa xuất hiện. Loại lạm
phát này ảnh hưởng đến tâm lý, đời sống người dân vì họ chưa kịp thích nghi. Từ đó
mà loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế và niềm tin của nhân dân
vào chính quyền có phần giảm sút. Trong thực tế lịch sử của lạm phát cho thấy lạm
phát ở nước ta đang phát triển thường diễn ra trong thời gian dài, vì vậy hậu quả của
nó phức tạp và trầm trọng hơn. Và các nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3 loại với tỷ
lệ khác nhau: lạm phát kinh niên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dưới 50% một
năm, lạm phát nghiêm trọng thường kéo dài hơn 3 năm với tỷ lệ lạm phát trên 50% và
siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm.
3. Nguyên nhân gây ra lạm phát:
3.1.Lạm phát do cầu kéo:
Kinh tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn tổng cung ở mức toàn dụng lao
động, thì sẽ sinh ra lạm phát. Trong khi đó, chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng
cầu cao hơn tổng cung, người ta có cầu về tiền mặt cao hơn, dẫn tới cung tiền phải
tăng lên để đáp ứng. Do đó có lạm phát. Nhiều người có trong tay một khoản tiền lớn
và họ sẵn sàng chi trả cho một hàng hoá hay dịch vụ với mức giá cao hơn bình thường.
Khi nhu cầu về một mặt hàng tăng lên sẽ kéo theo sự tăng lên về giá cả của mặt hàng
đó. Giá cả của các mặt hàng khác cũng theo đó leo thang, dẫn đến sự tăng giá của hầu
hết các loại hàng hoá trên thị trường. Lạm phát do sự tăng lên về cầu được gọi là “lạm
4
phát do cầu kéo", nghĩa là cầu về một hàng hoá hay dịch vụ ngày càng kéo giá cả của
hàng hố hay dịch vụ đó lên mức cao hơn.các nhà khoa học mơ tả tình trạng lạm phát
này là "q nhiều tiền đuổi theo q ít hàng hóa"
3.2. Lạm phát do cầu thay đổi:
Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác
lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng
nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà khơng thể giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm
vẫn khơng giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả
là mức giá chung tăng lên, nghĩa là lạm phát.
3.3. Lạm phát do chi phí đẩy:
Chi phí của các doanh nghiệp bao gồm tiền lương, giá cả ngun liệu đầu vào, máy
móc, chi phí bảo hiểm cho công nhân, thuế... Khi giá cả của một hoặc vài yếu tố này
tăng lên thì tổng chi phí sản xuất của các xí nghiệp chắc chắn cũng tăng lên. Nếu tiền
cơng danh nghĩa tăng lên, thì chi phí sản xuất của các xí nghiệp tăng. Các xí nghiệp vì
muốn bảo tồn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá thành sản phẩm. Mức giá chung
của toàn thể nền kinh tế cũng tăng.
3.4. Lạm phát do cơ cấu:
Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền cơng danh nghĩa cho người lao động. Ngành
kinh doanh khơng hiệu quả, vì thế, khơng thể không tăng tiền công cho người lao động
trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả
sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát nảy sinh vì điều đó.
3.5. Lạm phát do xuất khẩu:
Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được huy
động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến
tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân
bằng.
3.6. Lạm phát do nhập khẩu:
Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà phải nhập khẩu. Khi giá nhập khẩu
tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong trường OPEC quyết định tăng giá
5
dầu, hay do đồng tiền trong nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng
tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên.
3.7. Lạm phát tiền tệ:
Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng
tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước; hay chẳng hạn do ngân hàng trung ương
mua công trái theo yêu cầu của nhà nước) khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng
lên là nguyên nhân gây ra lạm phát.
3.8. Lạm phát đẻ ra lạm phát:
Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý sẽ cho rằng tới đây giá cả hàng
hóa sẽ còn tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại. Tổng cầu trở nên cao hơn tổng cung,
gây ra lạm phát.
4. Tác động của lạm phát:
4.1 Các hiệu ứng tích cực:
Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát (tỷ lệ tăng giá mang
giá trị dương) vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Ơng dùng từ "dầu bơi trơn" để miêu
tả tác động tích cực của lạm phát. Mức lạm phát vừa phải làm cho chi phí thực tế mà
nhà sản xuất phải chịu để mua đầu vào lao động giảm đi. Điều này khuyến khích nhà
sản xuất đầu tư mở rộng sản xuất. Việc làm được tạo thêm. Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm.
4.2. Các hiệu ứng tiêu cực:
4.2.1 Đối với lạm phát dự kiến được:
Trong trường hợp lạm phát có thể được dự kiến trước thì các thực thể tham gia vào nền
kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó, tuy vậy nó vẫn gây ra những tổn thất cho xã
hội:
- Chi phí mịn giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ tiền và lãi
suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm phát làm cho
người ta giữ ít tiền hay làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ cần phải thường xuyên đến
ngân hàng để rút tiền hơn. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ "chi phí mịn giày" để
chỉ những tổn thất phát sinh do sự bất tiện cũng như thời gian tiêu tốn mà người ta
phải hứng chịu nhiều hơn so với khơng có lạm phát.
6
- Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các doanh nghiệp sẽ
mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm.
- Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong trường hợp do lạm
phát doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh chi phí thực đơn) cịn doanh
nghiệp khác lại khơng tăng giá do khơng muốn phát sinh chi phí thực đơn thì giá cả
của doanh nghiệp giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương đối so với doanh nghiệp tăng giá.
Do nền kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực dựa trên giá tương đối nên lạm phát đã
dẫn đến tình trạng kém hiệu quả xét trên góc độ vi mơ.
- Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái với ý muốn của
người làm luật do một số luật thuế khơng tính đến ảnh hưởng của lạm phát. Ví dụ:
trong trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân không thay đổi nhưng thu nhập danh
nghĩa tăng do lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu nhập trên cả phần chênh lệch
giữa thu nhập danh nghĩa và thu nhập thực tế.
- Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm thước đo trong
tính tốn các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này co giãn và vì vậy các cá
nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của mình.
4.2.2. Đối với lạm phát không dự kiến được:
Đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại của cải giữa các cá
nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng, cam kết tín dụng thường được lập trên lãi suất
danh nghĩa khi lạm phát cao hơn dự kiến người đi vay được hưởng lợi còn người cho
vay bị thiệt hại, khi lạm phát thấp hơn dự kiến người cho vay sẽ được lợi còn người đi
vay chịu thiệt hại. lạm phát không dự kiến thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát nên
tác dụng của nó rất lớn.
Các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về quy mô của các tác động tiêu cực của
lạm phát, thậm chí nhiều nhà kinh tế cho rằng tổn thất do lạm phát gây ra là không
đáng kể và điều này được coi là đúng khi tỷ lệ lạm phát ổn định và ở mức vừa phải.
Khi lạm phát biến động mạnh, tác động xã hội của nó thơng qua việc phân phối lại của
cải giữa các cá nhân một cách độc đoán rõ ràng là rất lớn và do vậy chính phủ của tất
cả các nước đều tìm cách chống lại loại lạm phát này.
7
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Theo lý thuyết kinh tế học, tăng trưởng, lạm phát, cán cân thanh toán, thất nghiệp là
những yếu tố kinh tế vĩ mô đáng quan tâm, ảnh hưởng tới cân đối vĩ mơ của nền kinh
tế, trong đó yếu tố lạm phát là vấn đề được quan tâm hàng đầu của bất kỳ một quốc gia
nào. Trong thời gian gần đây, lạm phát ln được Chính phủ quan tâm và dành nhiều
nỗ lực nhằm kiềm chế lạm pháp ở mức hợp lý đồng thời bảo đảm tăng trưởng kinh tế
bền vững. Sau đây, chúng ta sẽ điểm qua tình hình lạm phát của Việt Nam từ 2020 đến
nay:
1. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam năm 2020 đến nay:
Năm 2020 là một năm đầy biến động, lạm phát tăng cao ở những tháng đầu năm, việc
nguồn cung của một số mặt hàng thiết yếu, đặc biệt là nguồn cung thịt lợn giảm do
dịch bệnh tả lợn Châu Phi đã làm cho giá nhóm thực phẩm tăng cao; ngồi ra, do ảnh
hưởng của dịch Covid-19, nhu cầu tiêu dùng nguyên liệu giảm nên giá xăng dầu năm
2020 giảm khá sâu. Tuy vậy, cùng với việc phối hợp chặt chẽ và linh hoạt trong công
tác điều hành giá các mặt hàng do nhà nước quản lí cùng việc chỉ đạo triển khai tốt
cơng tác bình ổn thị trường hàng hóa nên về cơ bản diễn biến lạm phát của năm 2020
tương đối sát với dự báo từ đầu năm.
Có thể thấy, mặt bằng giá năm 2020 tăng khá cao so với cùng kỳ năm trước, ngay từ
tháng một đã tăng 6,43%, ảnh hưởng đến công tác quản lý, điều hành giá của năm
2020. Tuy nhiên với sự điều hành, chỉ đạo sát sao của Chính phủ cùng với các Bộ,
ngành, mức tăng của CPI được kiểm soát dần qua từng tháng với xu hướng giảm dần.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2020 tăng 3,23% so với năm trước, đạt mục tiêu
kiểm sốt lạm phát, giữ CPI bình qn đầu năm 2020 dưới 4% của Quốc Hội đề ra
trong một năm với nhiều biến động khó lường như vậy. CPI tháng 12/2020 tăng 0,19%
so với tháng 12/2019, là mức thấp nhất trong giai đoạn 2016-2020. Lạm phát cơ bản
bình quân năm 2020 tăng 2,31% so với bình quân năm 2019.
Tốc độ tăng CPI bình quân năm 2020 (%)
8
Năm 2020, Việt Nam đã thành công trong việc kiểm soát tốt CPI. Đến năm 2021, các
nhà kinh tế cũng nhận định rõ đây là một năm kiểm soát CPI khá hiệu quả. CPI bình
quân năm 2021 tăng 1,84% so với bình quân năm 2020, đây là mức tăng bình quân
năm thấp nhất trong 5 năm trở lại đây (giai đoạn 2016-2021). Lạm phát cơ bản bình
quân năm 2021 tăng 0,81% so với bình quân năm 2020. Lạm phát cơ bản tháng
12/2021 tăng 0,16% so với tháng 11/2021 và tăng 0,67% so với tháng 12/2020. Dù
trong năm 2021 đối mặt với bối cảnh áp lực lạm phát toàn cầu ngày càng tăng cao, giá
nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất, giá cước vận chuyển liên tục tăng nhưng nhờ sự
chỉ đạo sát sao của Chính phủ, các ngành, các cấp đã tích cực triển khai thực hiện
những giải pháp đồng bộ để ngăn chặn dịch bệnh và ổn định giá cả thị trường.
Tuy nhiên, bước sang năm 2022, áp lực lạm phát được đánh giá là rất lớn. Nếu dịch
Covid-19 được kiểm soát trong năm 2022, nhu cầu sản xuất và tiêu dùng tăng lên; lạm
phát sẽ chịu tác động của vấn đề tăng giá nguyên nhiên vậ liệu trên thế giới như xăng
dầu, than và giá cước vận chuyển. Việc nhập khẩu nguyên liệu với mức giá cao sẽ ảnh
hưởng đến chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm từ đó đẩy giá hàng hóa tiêu dùng trong
nước lên cao, tạo áp lực cho lạm phát.
Mặc khác, tại Hội thảo diễn biến thị trường, giá cả ở Việt Nam năm 2021 và dự báo
2022, các chuyên gia kinh tế cho rằng, áp lực tăng cao của lạm phát trong năm 2022 là
có thực, nhưng khơng q lo ngại, dự báo vẫn trong tầm kiểm soát theo mục tiêu của
Chính phủ, CPI sẽ ở mức 2-3,7%, thấp hơn so với mục tiêu dưới 4%. Thực tế, tháng
9
1/2022, chỉ số giá tiêu dùng CPI (lạm phát) tăng 1,94% so với cùng kỳ năm trước, cho
thấy áp lực lạm phát cả năm rất lớn. Ngay trong những tháng đầu năm, giá cả hàng hóa
tại nhiều nước trên thế giới tăng cao, tác động tới giá cả hàng hóa trong nước. Bộ Tài
chính cho biết, mặt bằng giá cả thị trường trong 2 tháng đầu năm 2022 của Việt Nam
biến động tăng. Nhóm mặt hàng năng lượng, nhiên liệu có mức tác động lớn nhất đến
CPI 2 tháng đầu năm, trong đó, giá gas trong nước tăng từ ngày 1/2/2022 sau khi giảm
trong tháng trước; mức giá bán lẻ xăng dầu trong nước tăng trong 4 kỳ điều hành 2
tháng đầu năm. Kỳ điều hành gần đây nhất cũng tiếp tục điều chỉnh tăng đối với xăng
dầu. Một số mặt hàng phòng chống dịch như kit-test xét nghiệm Covid -19 tăng giá
cục bộ do nhu cầu mua tích trữ và sử dụng tăng sau Tết khi người dân quay trở lại làm
việc, đi du lịch, đi lễ hội, học sinh, sinh viên quay trở lại trường học, số ca nhiễm bệnh
tăng cao… Ngược lại, giá bán nhiều hàng hóa, dịch vụ được điều chỉnh giảm do tác
động giảm thuế giá trị gia tăng từ 10% xuống còn 8% từ ngày 1/2/2022 theo Nghị định
số 15/2022/NĐ-CP của Chính phủ, từ đó góp phần giảm áp lực đáng kể lên mặt bằng
giá. Dự báo một số yếu tố sẽ gây áp lực lên mặt bằng giá trong tháng 3 và các tháng
còn lại năm 2022 như: Giá nhiều mặt hàng nguyên liệu, vật tư chiến lược vẫn chịu áp
lực lớn từ xu hướng tăng giá trên thế giới và nhu cầu đầu tư, tiêu dùng trong nước khi
kinh tế phục hồi như xăng dầu, gas, vật liệu xây dựng, phân bón, thức ăn chăn nuôi,
dịch vụ du lịch…
2. Nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam năm 2020 đến nay:
Trong năm 2020:
-Một số nguyên nhân làm tăng CPI:
Tháng 01 và tháng 02 là tháng Tết nên nhu cầu mua sắm tăng cao, giá các mặt
hàng lương thực bình quân năm 2020 tăng 4,51% so với năm trước góp phần
làm cho CPI chung tăng 0,17%. Giá gạo năm 2020 tăng 5,14% so với năm
trước do giá gạo xuất khẩu tăng cùng với nhu cầu tiêu dùng trong nước tăng.
Giá các mặt hàng thực phẩm năm 2020 tăng 12,28% so với năm trước góp
phần làm cho CPI tăng 2,61%, chủ yếu do giá các mặt hàng thực phẩm tươi
sống tăng cao trong dịp Tết Nguyên đán, nhất là giá mặt hàng thịt lợn tăng cao
do nguồn cung chưa được đảm bảo, giá thịt lợn tăng 57,23% so với năm trước
10
làm cho CPI chung tăng 1,94%. Theo đó, giá thịt chế biến tăng 21,59%; mỡ
lợn tăng 58,99% so với năm trước. Do ảnh hưởng của mưa bão, lũ lụt tại các
tỉnh miền Trung trong tháng 10 và tháng 11 tác động làm cho diện tích rau
màu ngập nặng, nhiều ao, hồ, chuồng trại bị hư hỏng, cuốn trôi... làm cho giá
rau tươi, khô và chế biến tăng.
Do ảnh hưởng từ dịch Covid-19 trên thế giới vẫn còn phức tạp, nhu cầu về một
số loại vật tư y tế, thuốc phòng và chữa bệnh phục vụ trong nước và xuất khẩu
ở mức cao nên giá các mặt hàng này có xu hướng tăng nhẹ. Bình quân năm
2020 giá thuốc và thiết bị y tế tăng 1,35% so với trước.
Giá dịch vụ giáo dục năm 2020 tăng 4,32% so với năm 2019 do các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương thực hiện tăng học phí năm học mới 2020-2021
theo lộ trình của Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính
phủ.
-Bên cạnh các nguyên nhân làm tăng CPI, có một số nguyên nhân kiềm chế CPI như
sau:
Giá xăng dầu, giá gas trong nước giảm mạnh theo giá thế giới là yếu tố chính
làm giảm áp lực lên mặt bằng giá trong các tháng từ tháng 2 đến tháng 5 năm
2020. Giá xăng dầu trong nước bình quân năm 2020 giảm 23,03% so với năm
trước tác động làm CPI chung giảm 0,83%; Giá gas bình quân năm 2020 giảm
0,95% so với năm trước; Giá dầu hỏa bình quân năm 2020 giảm 31,21% so với
trước.
Nhu cầu du lịch giảm trong thời gian giãn cách xã hội theo Chỉ thị số 16/CTTTg của Thủ tướng Chính phủ do ảnh hưởng của dịch Covid-19 lần 1 và lần 2
nên bình quân năm 2020 giá du lịch trọn gói giảm 6,24% so với năm trước.
Do ảnh hưởng của dịch Covid-19, nhu cầu đi lại của người dân giảm, bình
quân năm 2020 so với năm trước, giá vé máy bay giảm 34,7%, giá vé tàu hỏa
giảm 2,12%.
Chính phủ triển khai các gói hỗ trợ cho người dân và người sản xuất gặp khó
khăn do dịch Covid-19. Cụ thể, gói hỗ trợ của Tập đoàn Điện lực Việt Nam
(EVN) triển khai giảm giá điện, tiền điện cho khách hàng với thời gian từ
11
tháng 4 đến tháng 6 năm 2020. Theo đó, giá điện tháng 5 (dựa trên sản lượng
và doanh thu điện sinh hoạt từ ngày 01/4/2020 đến ngày 30/4/2020) và tháng 6
năm 2020 (dựa trên sản lượng và doanh thu điện sinh hoạt từ ngày 01/5/2020
đến 31/5/2020) giảm lần lượt là 0,28% và 2,72% so với tháng trước.
Trước diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, dưới sự chỉ đạo sát sao của Chính
phủ, các ngành, các cấp đã tích cực triển khai thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ
để ngăn chặn dịch bệnh và ổn định thị trường, đảm bảo đời sống của nhân dân.
Trong năm 2021:
-CPI bình quân tăng do một số nguyên nhân sau:
Giá xăng dầu trong nước tăng 31,74% so với năm trước (làm CPI chung tăng
1,14 điểm phần trăm), giá gas tăng 25,89% (làm CPI chung tăng 0,38 điểm
phần trăm).
Giá gạo tăng 5,79% so với năm trước (làm CPI chung tăng 0,15 điểm phần
trăm) do giá gạo trong nước tăng theo giá gạo xuất khẩu, nhu cầu tiêu dùng gạo
nếp và gạo tẻ ngon tăng trong dịp Lễ, Tết và nhu cầu tích lũy của người dân
trong thời gian giãn cách xã hội.
Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 7,03% so với năm trước do giá xi măng, sắt,
thép, cát tăng theo giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào (làm CPI chung tăng 0,14
điểm phần trăm).
Giá dịch vụ giáo dục tăng 1,87% so với năm trước (làm CPI chung tăng 0,1
điểm phần trăm) do ảnh hưởng từ đợt tăng học phí năm học mới 2020-2021
theo lộ trình của Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính phủ.
Và trong năm 2022, ba yếu tố gây trở ngại đến việc kiểm sốt lạm phát chính là
tổng cầu tăng đột biến, giá cả nguyên vật liệu tăng cao và đứt gãy chuỗi cung ứng,
kể cả trong nước và quốc tế:
Thứ nhất, tổng cầu tăng đột biến sau khi Việt Nam khắc phục khá thành cơng
đại dịch. Tính chung 2 tháng đầu năm 2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa và
doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt hơn 876 nghìn tỷ đồng, nhích tăng 1,7% so
12
với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá giảm 0,3% trong khi cùng kỳ
năm 2021 chỉ tăng vỏn vẹn 0,7%. Đặc biệt, với quy mơ gói hỗ trợ 350.000 tỷ
đồng từ chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội chính tạo áp lực
lạm phát rất lớn.
Mặt khác, nền kinh tế Việt đang phục hồi, doanh nghiệp đang rộn ràng quay trở
lại hoạt động sản xuất nếu tình trạng thiếu hụt lao động xảy ra cũng một yếu tố
khá quan trọng tác động tới lạm phát. Bởi thiếu hụt lao động, các doanh nghiệp
phải tốn nhiều chi phí để tuyển dụng, đào tạo lao động.
Thứ hai, nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc khá nhiều vào nguyên vật liệu nhập
khẩu. Hiện nay, tổng cầu thế giới tăng nên nguyên vật liệu nhập khẩu hàng hóa
thế giới cũng tăng rất cao, có nhiều mặt hàng tăng gấp 2 lần so với đầu năm.
Như vậy, nhập khẩu lạm phát không thể tránh khỏi.
Thứ ba, đứt gãy chuỗi cung ứng chính là nguyên nhân gây ra lạm phát cao trên
thế giới. Đứt gãy chuỗi cung ứng nhiên liệu, khí đốt… khiến lạm phát châu Âu
tăng rất mạnh trong vỏn vẹn 2 tháng đầu năm, lên tới 5,1% trong khi mục tiêu
điều hành chỉ khiêm tốn 2%.
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH ĐỂ KIỀM CHẾ LẠM PHÁT
Chính phủ nhất trí điều chỉnh mục tiêu chống lạm phát và mức tăng trưởng thích hợp
trong tình hình mới và nêu 5 giải pháp cần tập trung chỉ đạo và điều hành nhằm kiềm
chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và duy trì tiềm năng tăng
trưởng của nền kinh tế.
1. Điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng:
Chính phủ tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng theo nguyên tắc thị trường
một cách chặt chẽ, chủ động và linh hoạt, bảo đảm mục tiêu chống lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô, bảo đảm huy động các nguồn vốn phục vụ phát triển kinh tế.
Thời gian gần đây báo chí liên tục đưa tin về việc Ngân hàng Nhà nước thực hiện
chính sách tiền tệ thắt chặt, NHTM tăng lãi suất tiền gửi, siết chặt cho vay... với mục
tiêu chung là kìm chế lạm phát, ổn định kinh tế. Tuy nhiên cái giá phải trả cho việc
13
thực hiện những chính sách này khơng rẻ chút nào. Bài viết của PGS-TS Trần Ngọc
Thơ - ThS Hồ Quốc Tuấn đăng trên Thời báo Kinh Tế Sài Gòn dưới đây trao đổi về
những cái giá mà kinh tế Việt Nam phải trả khi thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát.
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa đưa ra quyết định về việc phát hành tín phiếu
NHNN bằng tiền đồng dưới hình thức bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng. Đây rõ
ràng là một biện pháp nằm trong gói giải pháp thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát của
Chính phủ, bên cạnh các bài thuốc tăng dự trữ bắt buộc, điều chỉnh các loại lãi suất cơ
bản, lãi suất tái cấp vốn... đã được tiến hành.
Hệ quả của việc thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát là gì?
Thắt chặt tiền tệ sẽ tiếp thêm năng lượng cho cuộc đua tăng lãi suất. Quyết định rút
tiền ra khỏi lưu thơng bằng tín phiếu sẽ tiếp thêm năng lượng cho cuộc đua tăng lãi
suất của ngân hàng. Nhìn ở một khía cạnh nào đó, cuộc đua này sẽ khiến nhiều người
bắt đầu quan tâm trở lại với việc đem tiền đi gửi ngân hàng vì lãi suất tiền đồng tăng
cao trong khi thị trường chứng khoán đầu năm khơng có tín hiệu tốt cịn thị trường bất
động sản thì đang bị đánh giá là q nóng và bị cơ quan quản lý theo dõi quá kỹ. Tuy
nhiên, nếu lãi suất huy động của ngân hàng tăng thì lãi suất đầu ra khó mà đứng n.
Như vậy, chi phí vay mượn cho sản xuất kinh doanh sẽ tăng lên.
Đồng Việt Nam sẽ tiếp tục lên giá: Lãi suất tiền đồng (VND) được đẩy lên cao trong
tình hình lãi suất đô la Mỹ (USD) trên thế giới đang giảm sẽ tạo áp lực giảm giá lên
đồng USD So với VND. Cho dù lãi suất USD trong nước hiện khá cao so với thế giới,
nhưng tính ra vẫn thấp hơn lãi suất VND khá nhiều, và tốc độ tăng lãi suất VND trong
thời gian sắp tới nhiều khả năng sẽ nhanh hơn nhiều do mức độ căng thẳng vốn tiền
đồng đã đến mức báo động ở nhiều ngân hàng. Áp lực tăng giá VND chắc chắn sẽ gây
ảnh hưởng không nhỏ cho xuất khẩu, vốn đang đứng trước nguy cơ bị ảnh hưởng xấu
từ tình hình suy thối ở nhiều nước phát triển. Đứng trước tình hình này, có thể NHNN
sẽ tiếp tục bị buộc phải mua USD vào, và như vậy lại tăng cung tiền ra nền kinh tế.
Rồi để trung hòa lượng cung tiền tăng lên này, NHNN sẽ lại phải tiếp tục phát hành tín
phiếu, trái phiếu? Vậy chúng ta đang đi vào một vịng luẩn quẩn? Đó là chưa kể chúng
ta cần để ý đến bài học của Trung Quốc trong bài tốn trung hịa” này: mua ngoại tệ
vào trong lúc lãi suất ngoại tệ thấp, còn phải bán trái phiếu, tín phiếu với lãi suất “hợp
14
lý, thì kết quả là khoảng chênh lệch lãi suất là âm, khiến NHNN bị “lỗ nặng”. Với điều
kiện hiện tại, khi mà khoảng hở lãi suất USD-VND đã trở nên quá lớn, liệu NHNN có
đủ khả năng đứng vững trước sức ép phải bù đắp khoản lỗ do chính sách trung hòa”
này?
Đánh giá chung:
Từ những đánh giá trên, chúng ta có thể nhận ra rằng thực hiện thắt chặt tiền tệ cũng
đồng nghĩa với chấp nhận rủi ro suy giảm tăng trưởng, đồng tiền tăng giá, thị trường
vốn phát triển chậm lại và bỏ lỡ cơ hội thu hút vốn đầu tư gián tiếp. Chấp nhận một rủi
ro lớn như vậy, sẵn sàng trả giá không nhỏ, chỉ là vì chúng ta muốn kiềm chế lạm phát,
để tăng trưởng thực sự mang lại lợi ích cho đại bộ phận người dân. Tuy nhiên, phân
tích chính sách này, chúng ta sẽ nhận thấy có những rủi ro có thể khiến nó khơng mang
lại lợi ích thật sự mà chỉ mang tính ngắn hạn và khơng tồn vẹn.
2. Giảm thâm hụt ngân sách nhà nước:
Hai là tăng thu gắn liền với thắt chặt, tiết kiệm chi tiêu, nâng cao hiệu quả sử dụng
nguồn vốn ngân sách nhà nước, hạn chế bội chi ngân sách. Thủ tướng yêu cầu hệ
thống chính trị phải gương mẫu thực hiện tiết kiệm 10% chi thường xuyên; cắt giảm
các khoản chi chưa thật cần thiết thực hiện các biện pháp tiết kiệm xăng dầu; rà soát và
giảm các hạng mục, cơng trình chưa thật bức thiết, đồng thời kêu gọi nhân dân thực
hành tiết kiệm tiêu dùng.
Thâm hụt ngân sách, lạm phát và mất cân đối vĩ mơ: Nhìn vào những nước đã từng trải
qua lạm phát cao sẽ thấy rằng, lạm phát ở những nước này thường là hệ quả của việc
in tiền nhằm tài trợ cho thâm hụt ngân sách. Như vậy, thâm hụt ngân sách cao và lâu
dài tất yếu dẫn tới việc nhà nước buộc phải phát hành thêm tiền để tài trợ thâm hụt, và
điều này đến lượt nó dẫn tới lạm phát. Từ góc độ này nhìn lại nền kinh tế Việt Nam,
mặc dù Luật Ngân sách 1993 không cho phép nhà nước in tiền để tài trợ thâm hụt ngân
sách, nhưng với lượng tiền đồng trong lưu thông lớn như hiện nay (khoảng 16% GDP)
thì chỉ cần duy trì tốc độ in thêm tiền đúng bằng tốc độ tăng trưởng kinh tế (giả sử là
8%) thì nhà nước cũng đã có thêm được 1,3% GDP để tài trợ cho thâm hụt ngân sách
(chưa kể đến “thuế lạm phát cao ở Việt Nam trong mấy năm qua).
15
Bên cạnh một số nguyên nhân khách quan khác, thì lạm phát ở Việt Nam cịn do đầu
tư cơng và nền hành chính cơng - dịch vụ cơng của chúng ta quá kém hiệu quả. Chính
sự kém hiệu quả này, đến lượt mình, lại làm cho tình trạng thâm hụt ngân sách càng
trở nên trầm trọng, và “vịng xốy đi xuống” của kinh tế vĩ mô sẽ lại tiếp diễn. Cũng
cần nhấn mạnh thêm là “dịng xốy đi xuống này một khi đã được khởi động thì rất
khó dừng lại chứ đừng nói tới khả năng đổi chiều. Vì vậy, nhóm giải pháp thứ hai của
Thủ tướng yêu cầu “cắt giảm đầu tư cơng và chi phí thường xun của các cơ quan sử
dụng ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng
giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách” cần phải được thực hiện một cách triệt để và nhất quán.
Nếu không giảm được thâm hụt ngân sách thì nhóm giải pháp thứ nhất -thắt chặt tiền
tệ - sẽ bị vơ hiệu hóa đáng kể, và vì vậy khơng thể đạt được mục tiêu mong muốn là
kiềm chế lạm phát.
Giảm thâm hụt ngân sách bằng cơ chế quản lý đầu tư cơng: Chính sách giảm tổng cầu
thông qua thắt chặt chi tiêu công là đúng đắn, cần thiết nhưng chưa đủ. Nỗ lực giảm
chi tiêu cơng của Chính phủ chỉ thực sự có hiệu lực nếu như Chính phủ đồng thời có
cơ chế để đảm bảo những khoản đầu tư cịn lại có hiệu quả. Đề thu hẹp thâm hụt ngân
sách thì song song với việc giảm chi tiêu, Chính phủ cũng cần cải thiện các nguồn thu
ngân sách, tránh tình trạng ngân sách phụ thuộc quá nhiều tới hơn 40%) vào các nguồn
thu không bền vững từ dầu mỏ và thuế nhập khẩu như hiện nay. Cải cách thuế, đặc biệt
là thuế thu nhập cá nhân (hiện chiếm 2% tổng ngân sách của Việt Nam trong khi con
số này ở các nền kinh tế hiện đại đều lớn hơn 20%) và thuế bất động sản. Thật bất
công và kém hiệu quả khi nhiều người sau một đêm trở thành triệu phú nhờ vào việc
Nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng (CSHT) tại nơi họ có bất động sản, trong khi lại khơng
phải đóng góp gì cho ngân sách nhà nước. Áp dụng thuê bất động sản đúng đắn là một
cách đảm bảo sự bền vững cho ngân sách nhà nước, đồng thời giúp Nhà nước thực
hiện được các chương trình đầu tư CSHT vì quốc kế dân sinh.
3. Cân đối cung cầu trong nền kinh tế:
Ba là Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành phải chịu trách nhiệm đảm bảo cân đối cung
cầu các mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống và sản xuất như xăng, dầu, gạo, thuốc, xi
măng, sắt, thép, phân bón... gắn liền với kiểm sốt chặt chẽ giá cả. Khẳng định không
16
tăng giá bán than cho ngành điện, không tăng giá điện và giá xăng dầu Nhà nước tiếp
tục bù lỗ cho các mặt hàng này nhằm ổn định giá.
Lãnh đạo các Bộ, ngành cho biết, Chính phủ tiếp tục thực hiện không tăng giá với
nhiều mặt hàng từ nay đến cuối năm. Cùng đó, nhiều biện pháp sẽ được áp dụng để
đảm bảo cung cầu, không biến động giá của những mặt hàng quan trọng.
4. Ổn định giá cả thị trường:
Bốn là Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, chính quyền các địa phương, hiệp hội các
ngành hàng tăng cường các biện pháp quản lý thị trường giá cả, tổ chức tốt thương mại
trong nước, kêu gọi các doanh nghiệp có trách nhiệm với đất nước khơng đầu cơ trục
lợi và tăng giá các mặt hàng Chính phủ đã xác định nguyên tắc ưu tiên là từ nay đến
cuối năm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo đà cho những năm tiếp theo,
đảm bảo an sinh xã hội. Và trong việc ổn định giá các mặt hàng thiết yếu, Thủ tướng
đã chỉ đạo, với mặt hàng xăng dầu, trong bất cứ thời điểm nào, địa điểm nào cũng phải
đảm bảo nguồn cung tổng thể. Trong trường hợp có diễn biến bất thường, Chính phủ
sẽ nghiên cứu biện pháp hợp lý để giải quyết Điều này cho thấy Chính phủ ln xác
định ưu tiên chống lạm phát là mục tiêu hàng đầu, nhất là đối với xăng dầu – mặt hàng
thiết yếu hàng đầu của nền kinh tế.
Cùng với các giải pháp từ Chính phủ, sự nỗ lực của các doanh nghiệp trong bình ổn
giá, nhất là với các mặt hàng thiết yếu, sẽ góp phần thực hiện tốt mục tiêu kiềm chế
lạm phát, phát triển kinh tế bền vững.
5. Chính sách tỷ giá hối đối và biện pháp thu hút USD trong việc giảm lạm phát:
Các công cụ lãi suất và nghiệp vụ thị trường mở đã khơng thành cơng và gây nên
nhiều biến động khó lường. Lạm phát cần phải có một phương thuốc mới để điều trị
phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay. Và tỷ giá hối đối là cơng cụ mà chúng ta cần
phải xem xét tới để thay đổi sau một thời gian dài phục vụ cho tăng trưởng kinh tế.
Theo phân tích của IMF, một trong những lí do khiến lạm phát ở Trung Quốc,
Malaysia, Thái Lan được duy trì ở mức tương đối thấp là nằm ở chính sách tỷ giá hối
đoái Việt Nam đã cố gắng duy trì một đồng tiền yếu trong những năm trước đây để hỗ
trợ cho xuất khẩu, phục vụ cho quá trình tăng trưởng kinh tế của đất nước nhưng nếu
tiếp tục duy trì chính sách này trong khi tình hình kinh tế đã thay đổi liệu có cịn phù
17
hợp. Việc cố gắng giữ chân” tỷ giá hối đoái trong giai đoạn lạm phát ở mức cao hiện
nay dường như trở thành một bài tốn khó tìm lời giải với q trình điều tiết nền kinh
tế. Nói vậy thì việc giảm tỷ giá hối đoái theo sát với thị trường hợm liệu có thể có tác
động tích cực đối với nền kinh tế hiện nay?
Cần nhớ rằng, khi tỷ giá giảm thì cái lợi đầu tiên là chúng ta sẽ nhập khẩu nguyên,
nhiên liệu với giá rẻ hơn, dẫn đến chi phí sản xuất trong nước giảm làm cho giá cả
hàng hóa trong nước giảm.
Cái lợi thứ hai là xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng cũng sẽ làm tăng tổng cung cho nền
kinh tế trong nước. Tác động gộp của các yếu tố này có thể làm giảm lạm phát.
Nhưng có một hệ quả kèm theo là khi đó người dân sẽ không nắm giữ USD, do VND
đang tăng giá nên họ sẽ chuyển đổi USD sang nắm giữ VND. Các ngân hàng sẽ phải
tăng lượng VND để đáp ứng nhu cầu chuyển đổi USD của người dân trong khi nhu
cầu VND của chính ngân hàng vẫn chưa được giải quyết đầy đủ. Việc này trước hết sẽ
gây bất ổn trong tâm lý thị trường vốn đã không thực sự ổn định, kế đến là ảnh hưởng
đến tính thanh khoản của ngân hàng cùng với áp lực tăng lượng cung tiền trong lưu
thông. Như vậy, điều chỉnh tỷ giá hối đối khơng thơi là chưa đủ. Chúng ta cần phải
thúc đẩy các kênh đầu tư để thu hút lượng USD nhằm giảm bớt tác dụng phụ của chính
sách tỷ giá hối đối. Xét trong tình hình kinh tế như hiện nay, thị trường chứng khốn
chưa có tín hiệu khởi sắc tốt; kinh doanh bất động sản đang được kiểm chế dần; lạm
phát tăng cao khó có thể đo lường được khiến đồng tiền trở nên mất giá, ngay cả các
ngân hàng cũng huy động vốn với lãi suất ngắn hạn cao hơn dài hạn (trước khi Ngân
Hàng Trung ương qui định mức lãi suất trần 12%) đề phòng ngừa rủi ro; trong khi giá
vàng đang tăng.
Biện pháp kiềm chế lạm phát trong năm 2022:
Năm 2022, các tổ chức quốc tế dự báo CPI của Việt Nam tăng khoảng 3,5-4%; rủi ro
vượt 4% phụ thuộc vào giá cả hàng hóa thế giới. Để giúp kiềm chế lạm phát tăng cao
trong năm 2022, theo chun gia kinh tế Ngơ Trí Long, cần nâng cao hiệu quả trong
phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ trong điều hành cung tiền, lãi suất, trung hòa
lượng tiền vào-ra, điều tiết giá cả.
18
Về quản lý, điều hành giá các mặt hàng thiết yếu, các bộ, ngành cần tiếp tục điều hành
giá xăng dầu linh hoạt, bảo đảm giá xăng dầu trong nước phản ánh, bám sát diễn biến
giá thành phẩm xăng dầu thế giới. Nâng cao hiệu quả thực hiện các gói hỗ trợ người
dân và doanh nghiệp, các gói kích cầu và cung, từ đó nắn dịng tiền vào những lĩnh
vực có triển vọng phục hồi mạnh và tính lan tỏa cao, góp phần tăng vịng quay tiền
trong nền kinh tế thực, phục hồi kinh tế tốt hơn.
Cải thiện mạnh mẽ, thực chất môi trường đầu tư-kinh doanh; chú trọng phát triển kinh
tế-xã hội số; nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế, từ đó giảm áp
lực lạm phát.
Theo PGS, TS Đinh Trọng Thịnh, giảng viên cấp cao Học viện Tài chính, cần phải tiếp
tục đẩy mạnh cơng tác phịng, chống dịch Covid-19. Đây sẽ là tiền đề tốt cho ổn định
sản xuất, ổn định thị trường, bình ổn giá cả các mặt hàng.
Trong năm 2022, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính cần xem xét kỹ lưỡng nhu cầu
và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, tính tốn cẩn trọng mức độ, thời hạn, hình
thức, phương thức huy động vay nợ cơng để vừa bảo đảm kích thích nền kinh tế phục
hồi và phát triển nhanh chóng, vừa bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn vay, bảo đảm khả
năng trả nợ vay và sự ổn định, phát triển trong dài hạn của nền kinh tế.
Để có biện pháp điều hành, bình ổn giá phù hợp, kiểm sốt lạm phát, Phó thủ tướng
Chính phủ Lê Minh Khái, Trưởng ban chỉ đạo điều hành giá đã yêu cầu các bộ, ngành
liên quan và địa phương theo dõi sát diễn biến cung cầu, giá cả thị trường các mặt
hàng quan trọng, thiết yếu để có biện pháp điều hành, bình ổn giá phù hợp; tiếp tục
chủ động tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh và lưu thơng phân phối hàng hóa;
đáp ứng kịp thời nhu cầu tiêu dùng của người dân.
Liên quan tới mặt hàng xăng dầu, Phó thủ tướng yêu cầu Bộ Công Thương tiếp tục
phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính điều hành giá xăng dầu linh hoạt, bảo đảm giá
xăng dầu trong nước phản ánh, bám sát diễn biến giá thành phẩm xăng dầu thế giới, sử
dụng hợp lý Quỹ Bình ổn giá xăng dầu với liều lượng thích hợp, góp phần kiểm sốt
lạm phát, hỗ trợ hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, đời sống của người
dân, ổn định của thị trường, cung cầu xăng dầu trong nước.
Để giúp kiềm chế lạm phát tăng cao trong năm 2022, Tổng cục Thống kê cho rằng,
Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương theo dõi chặt chẽ diễn biến giá cả, lạm phát
19
trên thế giới, kịp thời cảnh báo các nguy cơ ảnh hưởng đến giá cả, lạm phát của Việt
Nam. Đặc biệt, cần đánh giá, nhận định các mặt hàng, nguyên vật liệu nào có khả năng
thiếu hụt tạm thời hay trong dài hạn để từ đó đưa ra được chính sách phù hợp.
Bên cạnh đó, theo dõi sát diễn biến giá của các mặt hàng thiết yếu như lương thực,
thực phẩm, xăng dầu, gas… có giải pháp điều hành phù hợp và chủ động chuẩn bị các
nguồn hàng vào các dịp lễ, Tết để hạn chế tăng giá.
Theo Tổng cục Thống kê, đối với mặt hàng xăng dầu, Bộ Công Thương và Bộ Tài
chính theo dõi sát diễn biến giá xăng dầu thế giới, đồng thời kết hợp Quỹ bình ổn xăng
dầu để hạn chế mức tăng giá của mặt hàng này đối với CPI chung. Bộ Công Thương
cần chủ động chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện thúc đẩy sản xuất kinh doanh, bảo đảm
nguồn cung và lưu thông hàng hóa, giảm áp lực lạm phát.
"Đặc biệt, thơng tin kịp thời, chính xác và rõ ràng các chính sách, giải pháp chỉ đạo,
điều hành của Chính phủ nhằm loại bỏ thông tin sai lệch về giá cả thị trường, không để
xảy ra hiện tượng lạm phát do tâm lý"- đại diện Tổng cục Thống kê nhấn mạnh.
Về cơ sở để dự báo như trên, ơng Minh cho rằng tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn
biến phức tạp, đặc biệt là biến chủng mới, chiến tranh thương mại, xung đột chính trị
trên thế giới cịn nhiều bất ổn, khó lường khiến cho tăng trưởng kinh tế toàn cầu chưa
thể hồi phục vững chắc.
Bên cạnh đó, trên thế giới thời gian qua hầu hết giá cả các loại hàng hóa đều đạt đỉnh
trong nhiều năm trở lại đây, tạo áp lực đối với hàng hóa Việt Nam, nhưng theo đánh
giá, áp lực khơng q lớn, bởi vì sức cầu trong nước vẫn còn yếu.
"Khi kinh tế phục hồi trong năm 2022 dưới tác động của các gói hỗ trợ phục hồi và
phát triển kinh tế khiến nhu cầu tiêu dùng, đầu tư gia tăng sẽ gây sức ép không nhỏ lên
giá cả. Bên cạnh đó, khả năng điều chỉnh các mặt hàng do Nhà nước quản lý như giá
điện, nước, y tế, giáo dục có thể xảy ra, tạo áp lực tăng lạm phát đáng kể đối với Việt
Nam"- chuyên gia Ngô Trí Long nhấn mạnh và kiến nghị cần điều hành giá xăng dầu
linh hoạt, bám sát diễn biến giá thành phẩm xăng dầu thế giới.
Để kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đã đề ra, Tổng cục Thống kê đề xuất: Đối với các
mặt hàng do Nhà nước quản lý nên tận dụng các tháng có CPI tăng thấp để điều chỉnh
giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý nhằm hạn chế lạm phát kỳ vọng.
20
Việc điều chỉnh giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý không nên dồn vào các tháng
cuối năm do các tháng cuối năm thường có nhu cầu tiêu dùng cao, nếu CPI liên tục
tăng cao sẽ tạo ra lạm phát kỳ vọng rất lớn và số liệu CPI so cùng kỳ sẽ cao, tạo áp lực
điều hành lạm phát cho năm sau.
Cơ quan thống kê cũng nhấn mạnh giá cả nguyên liệu trên thế giới sẽ tiếp tục tăng
trong tương lai. Do đó, Chính phủ cần nỗ lực thực hiện các biện pháp ngoại giao để
đảm bảo nguồn nguyên liệu thơ thơng qua tăng cường hợp tác với Chính phủ các nước
giàu tài nguyên, hỗ trợ các doanh nghiệp ký hợp đồng nhập khẩu nguyên liệu dài hạn,
đảm bảo nguồn nguyên liệu đầu vào, ổn định giá thành sản xuất để kiểm soát lạm phát.
21
PHẦN KẾT LUẬN
Chúng ta nhận thức rằng quá trình đấu tranh chống lạm phát không đơn giản ngày một
ngày hai. Nó là bệnh kinh niên nhưng việc xóa bỏ hồn tồn lạm phát thì cái giá phải
trả khơng tương xứng với lợi ích đem lại.
Tình hình diễn biến lạm phát và khắc phục nó tại Việt Nam rất phức tạp. Lạm phát đã
hồnh hành cơng khai khi Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế xã hội, xoá bỏ cơ chế
quan liêu bao cấp. Sự cải cách không đồng bộ giữa giá cả và quản lý kinh tế dẫn đến
khủng hoảng trầm trọng. Thành công trong công cuộc chống lạm phát năm 1989 đưa
đất nước vượt lên chính là sự đổi mới trong nhận thức quản lý kinh tế của Đảng và nhà
nước ta. Kinh tế ổn định làm tiền đề cho sự thành công của các thành tựu trong lĩnh
vực giáo dục, khoa học, chính trị... Tuy nhiên, lạm phát ln rình rập và đe dọa chúng
ta bất cứ lúc nào. Chính vì vậy Đảng và nhà nước phải ln thận trọng trong mỗi bước
đi của mình để đảm bảo cho nền kinh tế nước nhà phát triển vững mạnh, làm nền tảng
để phát triển khoa học, giáo dục, đuổi kịp sự phát triển của các nước trong khu vực nói
riêng và các nước trên thế giới nói chung. Điều này không chỉ của riêng ai mà của tất
cả các cá nhân, doanh nghiệp đặc biệt là các nhà doanh nghiệp trẻ và của toàn xã hội.
22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chương I: Cơ sở lý thuyết về lạm phát
/> />Chương II: Tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay
/> /> /> /> /> />Chương III: Các giải pháp chính sách để kiềm chế lạm phát
1. Giáo trình Lý thuyết tài chính-tiền tệ (ĐH Kinh Tế Quốc Dân)
2. Tổng cục thống kê, )
3. Việt Báo ()
4. Dữ liệu chứng khốn tài chính Việt Nam (http://vietstock. vn)
5. Tạp chí kinh tế Việt Nam ()
6. Nguyên lý Kinh tế Vĩ mô (ĐH Kinh Tế Quốc Dân)
23
7. Báo quân đội nhân dân (Bước sang năm 2022, áp lực lạm phát được đánh giá là rất
lớn)
24