MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Bối cảnh của đề tài.
- Tìm hiểu về ứng dụng cơng nghệ thơng tin vào mơn Tiếng Việt lớp 2.
- Tìm hiểu thực trạng khi đưa các bài giảng điện tử vào giảng dạy.
- Tìm hiểu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về việc ứng dụng CNTT trong dạy
học.
- Tìm một số giải pháp đổi mới phương pháp dạy học khi đưa ứng dụng
công nghệ thông tin vào giảng dạy môn Tiếng Việt Lớp 2 góp phần nâng cao
hiệu quả dạy học.
- Xác định tính thực thi và hiệu quả của việc dạy học môn Tiếng Việt.
- Đề xuất các biện pháp trong dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp 2.
- Tháng 9: Khảo sát tình hình thực tế tại lớp.
- Từ tháng 10 năm 2017 đến tháng 5 năm 2018: thực hiện các nội dung của đề
tài.
- Tháng 5 năm 2018 hoàn thiện đề tài.
II. Lý do chọn đề tài.
Ngày nay cơng nghệ thơng tin càng phát triển thì việc ứng dụng công nghệ
thông tin được đưa vào tất cả các lĩnh vực. Cùng với sự đi lên của xã hội, ngành
giáo dục cũng đã nhanh chóng ứng dụng cơng nghệ thông tin vào dạy học. Đưa
công nghệ thông tin ứng dụng vào giảng dạy, học tập làm thay đổi mạnh mẽ nội
dung, phương pháp dạy và học. Hiện nay Bộ giáo dục và Đào tạo yêu cầu đẩy
Trang 1
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục đào tạo ở tất cả các cấp học,
bậc học, ngành học. Xem công nghệ thông tin như là một công cụ hỗ trợ đắc lực
nhất cho đổi mới phương pháp dạy học ở các môn học.
Thực hiện tinh thần chỉ đạo trên của Bộ giáo dục và Sở giáo dục, nhận
thức được rằng việc ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ cho việc đổi mới
phương pháp dạy học là một trong những hướng tích cực nhất, hiệu quả nhất
trong việc đổi mới phương pháp dạy học, tơi đã tích cực học tập và đưa công
nghệ thông tin vào giảng dạy trong năm học 2017 - 2018.
Nhận thức được vai trị của việc ứng dụng cơng nghệ thơng tin trong giảng
dạy, tôi đã đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào nhiều môn học. Đặc biệt là
môn Tiếng Việt, tôi đã thiết kế được nhiều giáo án điện tử để đưa vào giảng dạy.
Qua quá trình soạn giáo án và giảng dạy, tôi đã đúc kết được một số kinh
nghiệm. Vì vậy tơi chọn sáng kiến kinh nghiệm: “Ứng dụng công nghệ thông
tin vào giảng dạy môn Tiếng Việt Lớp 2.”
III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu.
- Thực nghiệm trong chương trình mơn Tiếng Việt Lớp 2
- Sử dụng bài giảng điện tử trong môn Tiếng Việt Lớp 2
- Đối tượng nghiên cứu là học sinh lớp 2
IV. Mục đích nghiên cứu.
* Giáo viên:
- Nâng cao chất lượng giảng dạy mơn Tiếng Việt.
- Tìm ra biện pháp khắc phục các tồn tại, khó khăn trong q trình giảng
dạy, điều chỉnh phương pháp dạy học cho phù hợp với đối tượng học sinh.
- Tự học nâng cao trình độ tin học, nâng cao kĩ năng sử dụng CNTT.
* Học sinh:
- Hình thành kĩ năng học cho học sinh, phát triển tư duy sáng tạo.
- Rèn các phẩm chất cần thiết trong học tập cho học sinh.
- Yêu con người, thiên nhiên, quê hương, đất nước qua các bài học.
Trang 2
V. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu.
- Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là một phương pháp khá tích
cực, đặc biệt là đối với mơn Tiếng Việt. Qua các bài giảng đã truyền thụ đến học
sinh, tôi nhận thấy ở các em niềm say mê và hứng thú học tập. Hình ảnh trực
quan sinh động, cụ thể giúp học sinh nhớ bài lâu hơn, giờ dạy của giáo viên nhẹ
nhàng mà hiệu quả hơn. Bên cạnh đó tiếp xúc với phương tiện cơng nghệ thơng
tin sẽ giúp giáo viên nâng cao thêm tầm hiểu biết của mình và tự hồn thiện để
hịa nhập cùng với sự phát triển của xã hội.
- Có thể nói ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là một phương
pháp thể hiện cao tính sáng tạo về khoa học. Trước kia khi giảng dạy bằng
phương pháp truyền thống, người giáo viên phải chuẩn bị rất nhiều đồ dùng
trực quan rồi lỉnh kỉnh mang đến lớp, có đồ dùng chỉ dùng được một lần rồi
bỏ đi. Vào tiết dạy vừa giảng bài, giáo viên vừa phải ghi nhớ và sắp đặt đồ
dùng để treo lên bảng, thời gian tháo gắn đồ dùng cũng chiếm một phần không
nhỏ trong tiết học, chưa nói đến những tranh cần thiết phải sử dụng nhưng nó
q nhỏ, màu sắc khơng rõ ràng, phần nào đã làm giảm sự tập trung ở các em.
Còn với việc ứng dụng cơng nghệ thơng tin vào dạy học thì khác hẳn. Nó như
mở ra một cái nhìn mới cho các em học sinh, được tiếp xúc với phương tiện
hiện đại tầm nhìn của các em được mở rộng hơn, bài giảng khơng cịn trở nên
khó hiểu với các em nữa vì những hình ảnh minh họa cho lời nói của giáo viên
giờ đây sinh động, hiện thực, phong phú. Giáo viên có nhiều thời gian truyền thụ
kiến thức cho học sinh, học sinh hiểu bài sâu hơn, vận dụng kiến thức đã học vào
thực hành tốt hơn.
B. PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
- Nhận thức của học sinh lớp 2 hiệu quả nhất là con đường trực quan sinh
động. Bởi vậy các phương tiện trực quan rất cần thiết trong quá trình giảng dạy.
Đặc biệt là phương tiện trực quan sinh động, rõ nét sẽ thu hút được sự chú ý của
Trang 3
học sinh. Trong những tiết học có đồ dùng trực quan đẹp, học sinh sẽ chú ý đến
bài giảng hơn và kết quả là học sinh tiếp thu bài tốt hơn, nhớ lâu hơn.
- Đối với môn Tiếng Việt, tranh ảnh đồ dùng dạy học Tiếng Việt còn rất
hạn chế hoặc có thì lại bé, học sinh sẽ khơng quan sát rõ và sự tập trung cốt
lõi của bài học còn hạn chế. Thế nhưng, những tranh ảnh, đồ dùng của môn
Tiếng Việt được tôi áp dụng soạn giảng bằng giáo án điện tử, khi đưa lên màn
hình trình chiếu với sự nhấn mạnh bằng cách hiệu ứng tranh thay đổi, chữ đổi
màu hay gạch chân… thì mức độ tập trung của học sinh sẽ cao hơn đồng thời
nắm bắt được cốt lõi của nội dung bài học hơn.
- Trong phương pháp dạy học hiện nay luôn coi trọng việc lấy học sinh
làm trung tâm, người thầy chỉ đóng vai trò là người giúp các em đi đúng hướng,
giúp các em tiếp thu kiến thức một cách chủ động, sáng tạo. Chính vì vậy mà
việc đưa ứng dụng cơng nghệ thơng tin, cải tiến phần mềm và tích hợp phần
mềm để soạn giáo án điện tử vào giảng dạy “môn Tiếng Việt nói riêng và các
mơn học khác nói chung là cần thiết”
II. Thực trạng
1. Giáo viên:
a. Thuận lợi:
Bản thân giáo viên ln phấn đấu, có lịng u nghề mến trẻ, tận tụy với
học sinh, tích cực thực hiện mục tiêu nhà trường đề ra. Nắm bắt phương pháp
giảng dạy và vận dụng sáng tạo.
Có rất nhiều tài liệu, tư liệu phục vụ cho việc soạn giảng như: tải hình ảnh,
thông tin, bài giảng tham khảo…từ mạng Internet.
Được sự quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu, giáo viên thường xuyên
được bồi dưỡng, trau dồi chuyên môn qua công tác dự giờ, kiểm tra, chuyên đề,
tạo mọi điều kiện hỗ trợ giúp giáo viên giảng dạy tốt… Nhà trường luôn khuyến
khích giáo viên giảng dạy bằng phương tiện cơng nghệ thông tin để giúp học
sinh hứng thú học tập trước phương pháp mới.
Trang 4
Sau khi giảng dạy trên lớp, bài giảng của giáo viên được lưu giữ vào kho
bài giảng của nhà trường, tạo điều kiện cho giáo viên có thể tham khảo, sửa đổi
hoặc bổ sung giáo án sau phần rút kinh nghiệm để hoàn thiện hơn, giảng dạy ở
nhiều năm tiếp theo.
b. Khó khăn:
Nhiều giáo viên trình độ tin học, kỹ năng sử dụng máy tính và các phương
tiện hỗ trợ còn hạn chế. Giáo viên Tiểu học được trang bị kiến thức dạy rất nhiều
môn học nên điều kiện nghiên cứu chun sâu về một mơn học nào đó cịn hạn
chế.
Sách giáo khoa mới dừng lại ở mức độ cung cấp thông tin. Phương pháp
dạy học truyền thống đã chiếm lĩnh một thời gian dài. Nó đi sâu vào tiềm thức và
thói quen dạy học của người giáo viên. Vì vậy để đưa công nghệ thông tin vào
giảng dạy là cả một q trình địi hỏi người giáo viên phải kiên trì, say mê, tâm
huyết với nghề, ln tìm tịi học hỏi, sáng tạo trong quá trình dạy học.
Thực tế, khi làm một bài giảng điện tử phải bỏ rất nhiều thời gian cơng sức
tìm tài liệu, nghiên cứu phương pháp sao cho có một bài giảng hay thu hút học
sinh học tập nên phần lớn giáo viên còn ngại.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho dạy học, đặc biệt là phục vụ cho
việc dạy tin học và ứng dụng CNTT của nhà trường còn nhiều hạn chế. Điều này
chưa thật sự phát huy hết khả năng của việc đưa công nghệ thông tin vào giảng
dạy.
2. Học sinh:
Về phía học sinh, có những thuận lợi và khó khăn nhất định.Các em học
sinh Lớp 2 cịn chưa có ý thức nhiều trong việc học tập. Vì thế đa số các em cịn
chưa có phương pháp học tập, thích chơi đùa, thích nghe kể chuyện, vừa học vừa
chơi.
a. Thuận lợi:
Trang 5
- Đối với học sinh tiểu học, khi được tiếp nhận công nghệ thông tin trong
tiết học các em thấy thích thú, hưng phấn học tập vì tranh ảnh to, màu sắc đẹp,
mẫu chữ rõ ràng. Học sinh tiếp nhận kiến thức một cách chủ động, nhớ bài lâu
hơn.
b. Khó khăn:
Do học sinh mới được tiếp cận với giáo án điện tử nên các em có phần lạ
lẫm. Vì thế một số em tò mò, tập trung nhiều vào tranh ảnh, màu sắc mà sao nhã
vệc tiếp thu bài.
III. Các biện pháp
1. Biện pháp 1: Đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Việt
Đổi mới phương pháp dạy học là quá trình chuyển từ giáo dục truyền thụ
một chiều, học tập thụ động. Chủ yếu là ghi nhớ kiến thức để đối phó với thi cử
sang học tập tích cực, chủ động, sáng tạo, chú trọng đến hình thành năng lực tự
học cho HS dưới sự giúp đỡ, hướng dẫn, tổ chức của giáo viên.
Đổi mới các hình thức dạy học, làm cho việc học tập của HS trở nên lí thú,
gắn với thực tiễn cuộc sống; kết hợp dạy cá nhân với dạy theo nhóm nhỏ, tăng
cường sự tương tác, giúp đỡ lẫn nhau.
Để thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp dạy học, người giáo viên cần
nắm chắc nội dung chương trình đổi mới sách giáo khoa Tiếng Việt năm 2000
của Bộ Giáo dục và Đào tạo, phân dạng các bài học theo nội dung để có phương
pháp dạy học phù hợp với từng loại bài cụ thể.
1.1. Phân môn Tập đọc
- Phân môn tập đọc học sinh được luyện đọc cả bài văn hay bài thơ theo
câu, theo đoạn và cả bài, mang tính chất tổng hợp hơn về cả kiến thức và kĩ năng
đọc. Vì vậy rất khó khăn trong việc tổ chức luyện đọc theo câu, theo đoạn. Đặc
biệt là những bài tập đọc có nội dung dài.
Trang 6
- Khi trình chiếu một bài tập đọc giúp các em tập trung chú ý hơn. Các em
được quan sát bài đọc, được nghe hướng dẫn cách đọc, cách chia câu, chia đoạn
để chủ động đọc.
* Cụ thể: Tuần 8, khi dạy bài tập đọc: Bàn tay dịu dàng
cả bài
Lun
®äc ®o¹n
- Kết quả: Đối với giáo viên, việc tổ chức luyện đọc và rèn các kĩ năng đọc
dễ dàng hơn. Đối với học sinh, các em chú ý học và biết cách đọc tốt hơn. Tiết
học diễn ra nhẹ nhàng và thực sự hiệu quả.
1.2. Phân mơn chính tả
- Khi dạy phân mơn này học sinh gặp khó khăn trong việc trình bày bài.
Mỗi bài chính tả là một bài văn hay bài thơ. Mỗi thể thơ có cách trình bày riêng.
trong đoạn văn có những câu đối thoại khó trình bày đúng. Việc viết mẫu trên
bảng lớp đơi khi do vội vàng, giáo viên viết chưa được đẹp hoặc là rất mất thời
gian cho sự chuẩn bị. Nếu giáo viên chỉ phân tích bằng lời thì nhiều em vẫn
chưa hiểu được dẫn tới trình bày khơng đúng, hiệu quả bài viết chưa cao.
- Khi trình chiếu một bài mẫu sẽ giúp các em dễ dàng định hình cách trình
bày . Vì vậy khi sử dụng giáo án điện tử tơi cho các em quan sát cách trình bày
bài mẫu, phân tích cách trình bày bài. Từ đó học tập được cách trình bài và cố
gắng viết đẹp như bài mẫu.
Trang 7
* Cụ thể: Ở tuần 14: Chép bài: Câu chuyện bó đũa
- Kết quả: Học sinh nắm rõ cách trình bày bài viết, viết nhanh, viết đúng,
viết đẹp, đạt được mục tiêu của tiết học.
1.3. Phân môn Kể chuyện
Mỗi tuần có 1 tiết dành cho phân mơn Kể chuyện. Sau bài tập đọc, có
một câu chuyện được gắn với câu chuyện mà học sinh được đọc trong bài tập
đọc. Ở lớp 2 , kĩ năng kể của học sinh còn nhiều hạn chế . Tiết kể chuyện học
sinh chỉ biết nghe mà Ýt em biết kể lại c©u chuyện. Vì vậy mà sử dụng giáo án
điện tử tôi sẽ đưa được rất nhiều tranh ảnh của nội dung câu chuyện. Các em rất
hứng thú nghe kể và nắm được nội dung câu chuyện. Có nhiều em chỉ sau 1, 2
lần kể và qua tranh minh họa là có thể kể lại được truyện.
Ví dụ: Tuần 25: Câu chuyện: Sơn Tinh, Thuỷ Tinh
Trang 8
Lần 1: Tơi đưa tồn bộ các bức tranh lên máy để học sinh quan sát rồi đưa
ra những câu hỏi gây hứng thú và sự tò mò của học sinh, lơi cuốn học sinh vào
với câu chuyện mình sẽ kể.
Chẳng hạn:
- Bức tranh 1 minh hoạ điều gì?
- Đây là nội dung thứ mấy của câu chuyện?
- Bức tranh 2 vẽ cảnh gì?
- Đây là nội dung thứ mấy của câu chuyện?
- Hãy nêu nội dung của bức tranh 3?
- Đây là nội dung thứ mấy của câu chuyện?
Các con hãy chú ý quan sát lên bảng và lắng nghe câu chuyện này nhé.!.
Lần 2: Tôi đưa từng tranh một để học sinh có điều kiện quan sát kĩ hơn,
nghe kể lại để có thể nhẩm theo nội dung từng tranh của câu chuyện và nhớ nội
dung của từng tranh rất tốt.
Thực tế trong lớp tôi, ở phần kể chuyện này từ khi sử dụng bằng giáo án
điện tử các em rất hứng thú học và đa phần các em đều có thể kể lại vắn tắt được
nội dung của câu chuyện.
1.4. Phân môn Tập viết:
- Đối với phương pháp truyền thống, khi dạy phân môn này giáo viên
phân tích và viết mẫu trên bảng lớp đơi khi do vội vàng, giáo viên viết chưa được
Trang 9
đẹp hoặc là rất mất thời gian cho sự chuẩn bị. Khi hướng dẫn học sinh có một số
em ở góc phía giáo viên đứng bị che khuất tầm nhìn rất khó quan sát vì thế hiệu
quả tiết dạy chưa cao.
- Khi sử dụng giáo án điện tử tôi thiết kế phần chữ viết trên máy tính. Khi
trình chiếu học sinh quan sát rất rõ từ điểm đặt bút, điểm dừng bút đến quy trình
viết. Tơi cũng có thể đưa thêm các bài viết đẹp của học sinh lớp trước để học
sinh học tập, phấn đấu.
* Cụ thể: Tuần 26: Tập viết: Chữ hoa X
- Học sinh nắm rõ quy trình viết, học sinh viết đẹp và đúng mẫu hơn. Có
mục tiêu phấn đấu nên hiệu quả tiết dạy rất cao.
1.5. Phân môn Luyện từ và câu:
Trọng tâm dạy luyện từ và câu ở lớp 2 là giúp các em có một vốn từ ngữ
phong phú. Việc đưa tranh ảnh và khai thác tranh ảnh để giúp các em dễ dàng
hiểu rõ hơn nghĩa của các từ, giúp các em mở rộng thêm vốn từ một cách tự
nhiên, sinh động hơn.
Vốn sống của các em cịn ít, nhiều sự vật tưởng chừng như rất đơn giản
nhưng các em chưa biết dùng các từ để gọi tên các sự vật đó hoặc chưa hiểu hết
nghĩa của các từ đó.
Ví dụ: Tuần 16: Khi dạy bài Từ chỉ tính chất. Câu kiểu Ai thế nào? Từ ngữ
về vật nuôi.
Trang 10
Sau khi cho học sinh quan sát về vật nuôi, học sinh sẽ biết phân biệt và gọi
tên chính xác tên các con vật trong tranh: gà, vịt, ngan, ngỗng, thỏ, trâu, đàn bò,
…
Bằng hệ thống tranh ảnh đẹp do GV sưu tầm mất nhiều thời gian nhưng
được lưu trữ trên máy gọn nhẹ và mang lại hiệu quả cao. Khi mở rộng vốn từ
cho HS không phải chỉ nêu được các sự vật, tên gọi các sự vật, tên gọi của từ mà
còn phải khai thác để hiểu hết nghĩa của từ và những bản chất thuộc tính của sự
vật đó. Bằng một số câu hỏi gợi mở tạo ra hứng thú tị mị, thích khám phá thêm
các sự vật khác.. Bằng cách quan sát trực tiếp: Đây cũng là một cách để HS được
tiếp cận kiến thức một cách nhanh chóng, ghi nhớ lâu và chính xác.
1.6. Phân môn Tập làm văn:
Với phân môn Tập làm văn ở lớp 2, viết những đoạn văn ngắn kể về
người thân, cây cối, con vật,… Thực tế trong quá trình dạy học, tơi nhận thấy
rằng nhiều em cịn lúng túng khi sử dụng từ và đặt câu. Kĩ năng nói, viết và diễn
đạt câu còn yếu. Các em thường viết văn theo cách dập khn, máy móc, chắp
vvá, khơ khan. Học sinh thường tiếp thu bài một cách gượng ép, thụ động và
không hứng thú khi học phân môn này.
Trang 11
Nếu khơng có các biện pháp tổ chức phù hợp để gây hứng thú cho học
sinh thì các em sẽ tiếp thu kiến thức một cách cứng nhắc, nhiều lần sẽ gây nhàm
chán, mất tập trung.
Muốn bài viết của các em đạt yêu cầu, thầy cô phải là người khơi dậy
trong các em những vốn sống mà trẻ đã tích luỹ được từ thực tế và mở ra cho các
em những góc nhìn mà các em chưa từng thấy...
Ví dụ: Trước khi viết đoạn văn ngắn kể về cây bóng mát, tôi cho học sinh
tham quan qua màn ảnh nhỏ một số hình ảnh về một số lồi cây bóng mát.
Sau khi được quan sát các loại cây, HS biết cách dùng từ chính xác hơn
để mơ tả, diễn đạt câu đầy đủ, rõ ràng để trả lời các câu hỏi gợi ý
- Trong tranh (ảnh) là cây gì? Cây đó trồng ở nơi nào?
- Cây có gì đẹp? Các bộ phận của cây như thế nào? Cách chăm sóc cây ra
sao?
- Em có suy nghĩ gì về cây?
Ví dụ: Cây bàng ngồi sân.....(Học sinh có thể tìm được các từ để nói tiếp
như : râm mát, xịe tán rộng đứng sừng sững, đang đâm chồi,,…)
Tôi nhận thấy học sinh rất thích kể theo quan sát của mình. Đây là cách
phát huy tính tích cực, sáng tạo. Bước đầu đã biết dùng các từ gợi tả, gợi cảm, từ
Trang 12
ngữ “đắt” gây bất ngờ thú vị, những câu văn hay và giàu hình ảnh. Tạo điều
kiện cho mỗi em được tự do sáng tạo kể theo cách nhìn của mình. Tơi ln tơn
trọng sự sáng tạo trong câu trả li ca các em không gò ép, khuôn mẫu. Bit
din đạt bằng lời thành câu ngắn gọn, rõ ý, kết nối thành một đoạn văn ngắn.
Cùng với lời nhận xét khen, động viên các em, kết quả học sinh thực sự
thích thú khi học tiết học này. Đồng thời qua đó, giáo viên có thể phát hiện ra
những học sinh học tốt và có kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi, phát triển mũi
nhọn.
Ngoài ra giáo viên cần quan tâm chú ý việc chấm, chữa, nhận xét bài văn
để chữa lỗi dùng từ, đặt câu cho HS. Đối với học sinh lớp 2 vốn từ của các em
còn rất hạn chế, việc tìm và sử dụng từ cịn lúng túng và dùng từ đặt câu chưa
chính xác. Một số em viết và nói cịn tuỳ tiện, dùng từ sai, diễn đạt lủng củng,
câu cộc lốc khô khan, không biết sử dụng các câu có hình ảnh gợi tả, gợi cảm, ,...
giáo viên dễ dàng hơn khi sửa chữa kịp thời cho học sinh.
Sau nhiều tuần rèn cho học sinh các kĩ năng trên, bài viết của đa số các em
đã tiến bộ rất nhiều. Rèn được kĩ năng này, các em sẽ tự tin viết văn khi tránh
được lối diễn đạt lủng củng, rườm rà, lặp ý. Có như vậy bài văn của các em sẽ
mạch lạc, trong sáng, mang tính chân thực.
2. Biện pháp 2: Chú trọng việc dạy học theo hướng tích cực hố hoạt động
học tập của học sinh trong giờ học .
Để hoạt động dạy và học theo hướng tích cực hố hoạt động học tập của
học sinh người giáo viên cần:
a. Định hướng mục tiêu, xác định nhiệm vụ học tập.
Đầu giờ học, hoặc đầu mỗi phần của bài học, bằng nhiều phương pháp
khác nhau, giáo viên nêu vấn đề (câu hỏi) hướng dẫn học sinh vào vấn đề cần
giải quyết. Muốn định hướng mục tiêu, xác định nhiệm vụ học tập được tốt, phần
nêu vấn đề của giáo viên phải đạt được các yêu cầu sau:
- Lời dẫn phải xúc tích, giàu tính khái quát và giàu hình ảnh.
Trang 13
- Phải đề cập đến cốt lõi của bài học.
- Tạo ấn tượng, trí tị mị của học sinh.
b. Sử dụng trực quan hợp lí
Đồ dùng dạy học góp phần phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng,
tư duy và ngơn ngữ cho học sinh. Trực quan có tác dụng minh hoạ cho bài giảng
và nó làm cho bài giảng thêm sinh động, hấp dẫn, góp phần tạo biểu tượng, cụ
thể hoá SGK cho học sinh dễ tiếp thu kiến thức. Trực quan là các yếu tố có khả
năng tác động đến tất cả các giác quan của học sinh trong giờ học. Trực quan
trong một giờ học có rất nhiều. Chúng ta nói đến trực quan khơng có nghĩa chỉ là
tranh ảnh, vật mẫu mà trực quan bao gồm:
- Tài liệu học tập (văn bản, câu hỏi, hình thức trình bày bài trong sách giáo
khoa) đây là trực quan đầu tiên có tác dụng khơng nhỏ đối với học sinh.
-Vật mẫu, tranh ảnh, đoạn video clip, bài hát có liên quan đến nội dung bài.
* Cụ thể :
Tơi sử dụng tranh, ảnh thật có màu sắc đẹp, hấp dẫn giúp học sinh tích cực
tiếp thu bài. Với cách dạy này học sinh nhớ bài lâu hơn, chất lượng học sinh đọc
tốt hơn.
Trang 14
Ngồi việc sử dụng tranh ảnh thật, việc trình chiếu những đoạn video clip có
hình ảnh động, gần gũi hấp dẫn giúp học sinh tích cực tiếp thu bài. Với những bài
dạy có hình sống động, gần gũi hấp dẫn được học sinh rất u thích. Giúp các em
có điều kiện tìm tịi, khám phá thêm những điều lí thú, chưa biết về các con vật
nuôi trong nhà quen thuộc, các con vật hoang dã mà các em ít được biết.
Một trong những hình ảnh được trình chiếu mà học sinh yêu thích
- Bản thân người thầy là một trực quan sinh động trong giờ học, nó được thể
hiện qua giọng đọc, cách thể hiện bài giảng( trực quan âm thanh), cách dẫn dắt vào
bài, cử chỉ điệu bộ, thái độ tình cảm khi giảng bài…cách vào bài, chuyển ý hấp dẫn
sẽ lơi kéo người học tìm hiểu nội dung bài.
- Trực quan có rất nhiều nhưng chúng ta cần sử dụng trực quan như thế nào
đem lại hiệu quả tối ưu nhất, đó là vấn đề mà các nhà giáo chúng ta cần lưu tâm.
Việc sử dụng đồ dùng trực quan hình ảnh( như tranh ảnh, vật mẫu,...) cần đúng lúc,
đúng chỗ, để làm nổi bật những gì giáo viên cần tác động đến học sinh.
Ví dụ : Tập đọc: Câu chuyện bó đũa
Trang 15
Có thể sử dụng ngay khi giới thiệu bài. Cho học sinh quan sát tranh và đặt các
câu hỏi gợi mở câu chuyện trong nội dung bài tập đọc để bước đầu giúp các em
hiểu câu chuyện và hứng thú đọc bài hơn, từ đó giúp các em hiểu bài sâu hơn.
+ Trong tranh vẽ có những ai?
+ Các người con có ai bẻ được bó đũa này khơng?
+ Để biết người cha đã bẻ bó đũa này như thế nào, các con sẽ đọc nội
dung bài tập đọc để biết rõ hơn nhé.
Bằng giọng đọc mẫu chậm dãi phù hợp với học sinh lớp 2, thay đổi giọng
đọc cho phù hợp với bài đọc sẽ hấp dẫn và lôi cuốn học sinh. Giúp các em hiểu
câu chuyện trong bài đọc và sẽ thích đọc, cố gắng đọc hay và đọc đúng theo thầy
cô.
3. Biện pháp 3: Nâng cao chất lượng bài soạn và bài dạy của giáo viên
a. Chuẩn bị
Để một tiết dạy đạt hiệu quả đòi hỏi phải có sự chuẩn bị kĩ của cả thầy và
trị. Người dạy có sự chuẩn bị sẽ cảm thấy tự tin trong việc truyền thụ nội dung
đến học sinh, học sinh nắm bài một cách thoải mái, hứng thú với giờ học.
* Đối với giáo viên:
- Đọc trước bài, tìm hiểu kĩ nội dung của bài.
Trang 16
- Xác định khối lượng kiến thức cần cung cấp cho học sinh, cần giáo dục ,
bồi dưỡng học sinh về mặt giá trị nào trong bài.
- Chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng trực quan có liên quan đến bài.
- Bản thân giáo viên phải hiểu nội dung bài để xây dựng nội dung bài
giảng và hệ thống câu hỏi phù hợp.
- Chuẩn bị cho mình một ngân hàng tư liệu ( tranh ảnh, đoạn video...) để
làm giáo án điện tử.
* Đối với học sinh:
- Đọc trước bài và chuẩn bị theo hướng dẫn của giáo viên.
- Tìm hiểu các sự kiện xung quanh bài học.
b. Xác định rõ mục tiêu của giờ dạy:
- Việc xác định rõ được mục tiêu giờ dạy sẽ giúp cho người giáo viên định
hướng được việc dạy của mình. Từ đó xây dựng nội dung bài dạy cũng như hệ
thống câu hỏi phù hợp và lựa chọn phương pháp, hình thức dạy học cho phù hợp
với cách giải quyết mục đích ấy.
VD: Tiết 16: Từ chỉ tính chất. Câu kiểu Ai thế nào? Từ ngữ về vật ni.
* Mục đích u cầu của bài học
- Bước đầu tìm được từ trái nghĩa với từ cho trước (BT1); Biết đặt câu với
mỗi từ trong cặp từ trái nghĩa tìm được theo mẫu: Ai thế nào?(BT2).
- Nêu đúng tên các con vật được vẽ trong tranh (BT3).
- Ham thích mơn học, u q các con nuôi trong nhà.
* Xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp và lựa chọn phương pháp, hình thức dạy
học cho phù hợp.
BÀI TẬP 3:
- Mục tiêu là nêu đúng tên các con vật được vẽ trong tranh
+ Nhiệm vụ của các em là quan sát trong phim có những con vật nào?
Trang 17
+ Các em vừa được xem xong đoạn phim, vậy trong phim có những con vật
nào?
- Phương án a) gà, vịt, ngan, ngỗng
- Phương án b) gà, vịt, ngan, ngỗng, bồ câu, cừu, lợn, trâu, bò
- Phương án c) lợn, bị và bê, trâu, bị, voi
- Vì vậy để nâng cao hiệu quả giờ dạy, giáo viên cần xác định được mục
đích của bài lựa chọn phương pháp, hình thức dạy học phù hợp để đạt kết quả
cao nhất.
c. Xây dựng hệ thống câu hỏi, bài dạy trên máy tính.
- Hệ thống câu hỏi phải gắn gọn, cô đọng, hàm xúc, câu hỏi gợi mở và
có tác dụng định hướng cho học sinh.
Giáo viên có thể linh hoạt trong việc sử dụng câu hỏi tìm hiểu bài. Có thể
cho học sinh tìm hiểu trước ở nhà, có câu hỏi có thể lồng ghép vào trong q
trình giảng, có những câu hỏi sử dụng sau khi học xong bài để kiểm tra khả
năng nắm bài của học sinh. Các câu hỏi phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý và
khả năng nhận thức của trẻ. Tránh các câu hỏi quá khó, các câu hỏi buộc học
sinh phải trả lời có hay khơng hoặc các câu hỏi có sức liên tưởng q lớn,
trừu tượng quá…
Trang 18
Tóm lại, giáo viên cần đầu tư về thời gian nghiên cứu trước bài, thiết kế
bài dạy theo ý đồ của mình, lựa chọn câu hỏi thích hợp, cụ thể hoá, bám sát nội
dung, chủ đề của bài. Đảm bảo thời gian quy định và định hướng trả lời đúng
trọng tâm bài học. Với cách làm như vậy các tiết học của tôi đều đem lại hiệu
quả cao.
4. Biện pháp 4: Tăng cường việc tổ chức trò chơi học tập trong giờ học Tiếng
Việt
Tơi nhận thấy tổ chức trị chơi học tập rất quan trọng đối với các em nhất là các
em nhỏ. Bởi vì các em rất hào hứng khi được thi đua, cố gắng làm nhanh, làm đúng
để được thắng cuộc. Từ đó gây hứng thú học tập đối với các em giúp các em thích
học và ghi nhớ bài tốt hơn. Chính vì vậy tơi đã thường xuyên đưa các trò chơi vào
trong tiết dạy.
Để việc tổ chức trò chơi đạt hiệu quả, phù hợp với nội dung bài, khả năng
nhận thức của học sinh giáo viên cần:
- Nội dung trò chơi gắn liền với với bài học, phục vụ cho yêu cầu về kiến
thức, kĩ năng của bài.
- Hình thức tổ chức trị chơi: gọn nhẹ, cách tiến hành đơn giản để tất cả học
sinh đều có khả năng tham gia, luật chơi rõ ràng, chặt chẽ, đảm bảo tính cơng bằng.
- Chuẩn bị đủ phương tiện, điều kiện trước khi tổ chức trò chơi.
- Tùy thuộc vào thời gian, nội dung bài học mà giáo viên tổ chức trò chơi
sao cho phù hợp.
Kết thúc trò chơi, giáo viên tổng kết bình chọn đội thắng cuộc và tuyên
dương. Với những đội còn lại, giáo viên cũng động viên học sinh để khích lệ tinh
thần học tập cho cả lớp.
* Nội dung các trị chơi trong mơn Tiếng Việt
1. Trò chơi: “Ai nhanh , ai đúng ?”
2. Trị chơi: Thi đọc đúng ?
3. Trị chơi: Đuổi hình bắt chữ
Trang 19
Sau đây là một số ví dụ hình thức tổ chức trị chơi cụ thể mà tơi thường tổ
chức cho học sinh:
1. Trị chơi: “Ai nhanh , ai đúng ?”
Ví dụ: Tiết 16: Từ chỉ tính chất. Câu kiểu Ai thế nào? Từ ngữ về vật nuôi.
Sau khi học sinh đã được học xong và biết được Từ trái nghĩa là những từ
có nghĩa trái ngược nhau. Biết sử dụng từ trái nghĩa để đặt câu theo kiểu Ai thế
nào? ; biết được các con vật nuôi trong nhà. Để biết được các em có nắm được
bài khơng cuối tiết tơi cho các em chơi một trị chơi để củng cố kiến thức như
sau. Các em hãy hồn thành trị chơi sau bằng cách chọn ý trả lời đúng.
2. Trò chơi: Thi đọc đúng ?
Học sinh lớp 2 vẫn chủ yếu là luyện đọc câu, các em gặp khó khăn khi
đọc câu theo kiểu tiếp sức. Học sinh đọc lần lượt, mỗi học sinh đọc 1 câu nối tiếp
cho đến hết bài. Nếu nhìn vào SGK một vài em thường khơng chú ý sẽ khơng
đọc đúng câu của mình, dẫn đến các bạn đọc tiếp theo sau cũng nhầm lẫn và bài
đọc không được nối tiếp mà dễ bị ngắt quãng.
Trang 20
Bằng các hiệu ứng và màu sắc của từng câu, từng đoạn các em dễ phân biệt
và chủ động đọc đúng câu của mình, giúp hình thành thói quen đọc câu nối tiếp.
3. Trị chơi: Đuổi hình bắt chữ
Trị chơi này được tổ chức như sau: Học sinh cùng quan sát 1 bức tranh.
Mục đích phân tích tìm nhanh và gọi tên được chính xác các sự vật trong tranh.
Các em sẽ nhìn vào từng hình vẽ gợi ý về từ cần đoán trên máy chiếu.
Trong thời gian quy định hoặc sớm hơn các em đoán nhanh từ cần biểu thị.
Ví dụ:
- Hình Cá và Quả: Cá quả
- Hoặc chỉ đơn giản xây dựng 2 hình đối lập, con thỏ đang chạy nhanh,
con rùa đang chạy rất chậm: Chậm như rùa
Với trò chơi này thu hút nhiều học sinh tham gia và tạo trí tị mị của học
sinh, giờ học trở nên nhẹ nhàng, thoại mái. Tạo sự gần gũi, thân thiện, cởi mở
giữa thầy- trò.
5. Biện pháp 5: Tổ chức các cuộc thi qua môn Tiếng Việt
Giáo viên thường xuyên quan tâm tổ chức các cuộc thi qua môn Tiếng
Việt tạo khơng khí học tập, giao lưu cởi mở, giúp học sinh u thích và học tốt
mơn học. Tổ chức vào những giờ Hoạt động tập thể, sinh hoạt, hoạt động ngoại
khóa, có thể tổ chức thành buổi riêng, trong buổi Dạ hội Tiếng Việt.
Ví dụ: Cuộc thi : Em yêu Tiếng Việt
Trang 21
- Nội dung một số câu hỏi, câu đố hoặc yêu cầu như sau:
Cột gì cao trước sân trường
Chỉ mang một lá huy hoàng tung bay
Đầu tuần buổi sáng thứ hai
Cả trường, cả lớp ai ai cũng chào?
- Nội dung một số câu đố hoặc yêu cầu khác như sau:
3. Hãy thêm các từ để hoàn chỉnh câu tục ngữ sau:
- Có cơng mài ...., có ngày nên ......
4. Trong câu: Những giọt nắng rơi rớt xuống sân trường, trên vòm cây, kẽ
lá được cấu tạo theo mẫu câu nào? Chọn đáp án đúng:
A. Kiểu câu Ai là gì?
B. Kiểu câu Ai làm gì?
C. Kiểu câu Ai thế nào?
5. Có thể xem đoạn phim, đoán tên câu chuyện. Hoặc đưa nội dung đoạn
phim về câu chuyện Tấm Cám một số câu hỏi, hoặc yêu cầu như sau:
Con gì đã giúp cơ Tấm tìm xương cá bống?
A. Con mèo
B. Con chim
C. Con gà
IV. Hiệu quả mang lại của sáng kiến.
Sau khi nghiên cứu và đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy
môn Tiếng Việt lớp 2, tôi thấy học sinh thích học những tiết có dạy bằng giáo án
điện tử có hiệu quả tốt hơn những tiết dạy truyền thống.
Tóm lại, việc ứng dụng cơng nghệ thơng tin vào dạy học nói chung và
mơn Tiếng Việt lớp 2 nói riêng, mang lại một kết quả rất khả thi cho giáo viên,
học sinh và cả nhà trường, cụ thể:
1. Đối với học sinh:
Trang 22
- Được làm quen với hình ảnh trực quan sinh động, dễ hiểu.
- Học sinh được nhìn thấy nhiều hình ảnh và âm thanh thực tế ngoài đời.
- Học sinh tiếp thu bài nhanh, nhớ bài lâu hơn.
Thực tế cho thấy chất lượng lớp giảng dạy có ứng dụng cơng nghệ thơng
tin thì kết quả cao hơn so với năm trước tơi khơng có ứng dụng cơng nghệ
thơng tin vào giảng dạy. Hầu hết các em ở lớp đều nắm chắc bài và đọc nhanh
hơn, lưu loát hơn, viết đẹp hơn, kể chuyện cũng tốt hơn. Các tiết học khác cũng
vậy, có ứng dụng cơng nghệ thơng tin vào giảng dạy thì lúc nào bài dạy cũng hấp
dẫn, giờ học sinh động, phát huy được khả năng tự học của học sinh và học sinh
hiểu bài sâu hơn.
2. Đối với giáo viên:
- Tự tin khi lên tiết dạy vì mọi thứ đều đã được chuẩn bị sẵn sàng, logic.
- Đỡ mất thời gian trình bày các đồ dùng trực quan.
- Dẫn dắt học sinh vào vấn đề một cách nhẹ nhàng, sinh động.
3. Đối với nhà trường:
- Nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên.
- Nâng cao chất lượng học sinh.
- Được tăng cường thêm về nguồn tư liệu đồ dùng dạy học.
- Giáo viên trong nhà trường có nhiều cơ hội được tham khảo, học hỏi lẫn
nhau về cách thực hiện, cách giảng dạy giáo án điện tử và có được nhiều giáo án
điện tử để giáo viên trong nhà trường có thể vận dụng giảng dạy ở lớp mình
V. Khả năng ứng dụng và triển khai
- Sáng kiến có thể được áp dụng rộng rãi trong nhà trường và trong cả
nước
VI. Ý nghĩa của sáng kiến
Nhận thấy được sự hưng phấn, hứng thú, tích cực lĩnh hội và nắm vững tri
thức, nhận thức của các em qua môn Tiếng Việt, giờ học nhẹ nhàng, thoải mái,
hiệu quả. Để làm được như vậy đòi hỏi người giáo viên phải có sự đầu tư trong quá
Trang 23
trình soạn bài, phải có một kiến thức cơ bản nhất định về tin học. Ngồi ra, q trình
soạn cịn địi hỏi sự tìm tịi, sưu tầm và khả năng học hỏi của bản thân người dạy nhằm
truyền kiến thức bài dạy đạt hiệu quả cao nhất. Bên cạnh đó, trong q trình giảng dạy
bằng phương tiện cơng nghệ thơng tin, giáo viên cần chú ý phối hợp với các hình thức
tổ chức hoạt động dạy học khác như: học nhóm, lớp, cá nhân… và kết hợp nhiều
phương pháp dạy học.
C. PHẦN KẾT LUẬN
I. Những bài học kinh nghiệm
Để có nhiều bài giảng điện tử giúp giáo viên giảm nhẹ thời gian đầu tư vào
bài học, chúng ta nên có những vận dụng linh hoạt các tài liệu trong thư viện
điện tử dùng chung, thừa hưởng những thành quả của đồng nghiệp khắp nơi.
Không sử dụng nguyên bản các bài giảng sưu tầm mà đòi hỏi giáo viên phải điều
chỉnh cho phù hợp với đặc thù của học sinh lớp mình và cần phải nắm vững nội
dung bài giảng để khi thực hiện được sinh động và phù hợp hơn.
Mỗi giáo viên cần phải tích cực học tập và tự bồi dưỡng để có kiến thức tin
học cơ bản sử dụng công nghệ thông tin và biết khai thác tốt mạng internet, phải có ý
thức và sự say mê tím tịi, sáng tạo trong việc ứng dụng cơng nghệ thơng tin vào làm
đồ dùng dạy học và soạn giáo án điện tử. Mỗi giáo viên phải xác định đây là giải
pháp tích cực để thực hiện đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học.
- Tuy nhiên, việc dạy học theo phương pháp truyền thống vẫn được coi
trọng. Không phải bài nào cũng đưa công nghệ thông tin vào giảng dạy. Chỉ
chọn một số tiết học có nội dung mới, khó và phức tạp hoặc sử dụng một vài
phương tiện và nội dung kết hợp, hỗ trợ một phần trong quá trình giảng. Tránh
áp đặt, sử dụng nhiều sẽ gây nham chán , học sinh sẽ thụ động và mất tập trung.
II. Những kiến nghị, đề xuất.
Qua đề tài nghiên cứu “Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy
môn Tiếng Việt lớp 2” đã giúp tôi hiểu thêm về những lợi ích từ việc ứng dụng
cơng nghệ thơng tin nói riêng và phương tiện kĩ thuật hiện đại nói chung.
Trang 24
Trong q trình giảng dạy có sự hỗ trợ của “ công cụ” này đã giúp tôi bổ
sung vốn kiến thức tin học và một số biện pháp hữu ích trong việc nâng cao chất
lượng dạy học. Riêng bản thân cịn có những hy vọng trong tương lai gần đây
các phương tiện kĩ thuật hiện đại ứng dụng vào dạy học ngày càng được áp dụng
phổ biến và rộng rãi hơn nữa. Song để nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập,
tơi cũng mạnh dạn có một số kiến nghị sau:
1. Đối với nhà trường:
- Để thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin trong nhà trường trở thành
phong trào mạnh mẽ hơn, nhà trường cố gắng bố trí tổ chức các lớp bồi dưỡng
kỹ năng sử dụng máy tính và các phần mềm Tin học với giáo viên theo hình thức
trao đổi giúp đỡ lẫn nhau. Giảng viên là những giáo viên có kỹ năng tốt về Tin
học của trường.
- Tổ chức sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề để trao đổi về kinh nghiệm ứng
dụng CNTT trong giảng dạy.
2. Đối với Phòng giáo dục:
Phòng giáo dục nên bố trí sắp xếp để cán bộ giáo viên được tham gia các
lớp tập huấn, bồi dưỡng CNTT ở tiểu khu, huyện để chúng tơi có điều kiện giao
lưu học hỏi kinh nghiệm của các đồng chí, đồng nghiệp đồng thời chúng tôi cũng
kịp thời nắm bắt ý kiến chỉ đạo về chun mơn từ phía các đồng chí chun viên
phịng giáo dục.
Trên đây là một số kinh nghiệm giảng dạy mơn Tiếng Việt lớp 2 có ứng
dụng cơng nghệ thơng tin. Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài chắc
chắn sẽ khơng tránh khỏi thiếu sót, tơi rất mong sự đóng góp ý kiến của các cấp
lãnh đạo, hội đồng khoa học cơ sở cũng như các bạn bè đồng nghiệp đóng góp
để đề tài của tơi được hoàn thiện hơn.
Trang 25