Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Tài liệu TIỂU LUẬN: Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực Việt Nam docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.79 KB, 29 trang )















TIỂU LUẬN:

Chính sách đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực Việt Nam






LỜI MỞ ĐẦU


Nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cùng với
sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, tiến bộ khoa học kỹ thuật đòi hỏi
nguồn nhân lực ngày càng tăng về số lượng và nâng cao về chất lượng để đáp ứng
được nhu cầu phát triển của đất nước, tạo điều kiện để đất nước phát triển nhanh và


bền vững . Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phải tiến hành đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực chủ yếu là thông qua giáo dục. Vì vậy để thực hiện có hiệu quả
quá trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cần phải có những chính sách cụ thể
để hướng dẫn thực hiện. quá trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có hiệu quả.
Vì vậy em thực hiện đề tài: “Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân
lực Việt Nam” nhằm có những hiểu biết về các chính sách đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực và tình hình thực hiện các chính sách đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực ở Việt Nam hiện nay.

I. Khái niệm và các thành phần của chính sách quản lý nguồn nhân lực
1. Các khái niệm cơ bản.
1.1 Khái niệm nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là nguồn lực con người, là một trong ba yếu tố của quá trình
sản xuất, cung cấp sức lao động cho xã hội tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Nguồn
nhân lực được xem xét trên nhiều khía cạnh khác nhau nên có những khái niệm
khác nhau.
Tiếp cận dựa trên khả năng lao động của con người: Nguồn nhân lực bao gồm
tất cả những người có cơ thể phát triển bình thường có khả năng lao động.
Tiếp cận dựa vào khả năng lao động và giới hạn tuổi lao động: Nguồn nhân
lực bao gồm tất cả những người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động không
kể đến trạng thái có việc làm hay không có việc làm.



Tiếp cận theo cách hiểu của các nhà kinh tế: Nguồn nhân lực là tổng thể
những tiềm năng của con người của một quốc gia có trong một thời kỳ nhất định.
Tiềm năng đó bao gồm tổng hòa năng lực về thể lực, trí lực, nhân cách của con
người đáp ứng một cơ cấu do nền kinh tế - xã hội đòi hỏi ( về số lượng, chất lượng
và cơ cấu).
Như vậy nguồn nhân lực bao gồm hai bộ phận: bộ phận thứ nhất là tất cả

những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động. Bộ phận thứ hai là những
người ngoài độ tuổi lao động, có khả năng lao động và có nhu cầu tham gia lao
động.
Khi nghiên cứu về nguồn nhân lực không chỉ xem xét về mặt số lượng mà
phải xem xét cả về mặt chất lượng nguồn nhân lực bao gồm sức khỏe, trình độ học
vấn, trình độ chuyên môn lành nghề, năng lực, phẩm chất và thái độ lao động của cá
nhân người lao động, cũng như phải xem xét cả về mặt cơ cấu nguồn nhân lực. Chất
lượng nguồn nhân lực còn phụ thuộc vào cơ cấu đội ngũ lao động, trình độ, năng
lực tổ chức và quản lý, khả năng phối hợp để thực hiện các mục tiêu đặt ra.
1.2 Khái niệm quản lý nguồn nhân lực
“ Quản lý nguồn nhân lực là tìm mọi cách tạo thuận lợi cho mọi người trong tổ
chức hoàn thành tốt các mục tiêu chiến lược và các kế hoạch của tổ chức, tăng
cường cống hiến của mọi người theo hướng phù hợp với chiến lược của tổ chức,
đạo đức và xã hội”.[ 5,tr 29].
Ở cấp độ vi mô tổ chức ở đây là: tổ sản xuất, phân xưởng, phòng ban, doanh
nghiệp. Và các hoạt động quản lý nguồn nhân lực ở cấp độ này bao gồm các hoạt
động tuyển mộ tuyển chọn, bố trí lực lao động trong tổ chức, tổ chức đào tạo và
phát triển lao động … nhằm đảm bảo một lực lượng lao động đáp ứng được yêu cầu
công việc của tổ chức cả về mặt số lượng và chất lượng.
Ở cấp độ vĩ mô thì tổ chức ở đây có thể là địa phương, quốc gia, có thể là khu
vực và quốc tế. Và hoạt động quản lý nguồn nhân lực ở đây bao gồm một số hoạt
động như quyết định các chính sách quốc gia, kế hoạch về nguồn nhân lực, phân bổ
sử dụng lao động toàn xã hội. Ban hành và hướng dẫn thi hành các văn bản pháp



luật lao động và kiểm tra việc thi hành pháp luật lao động … Và các hoạt động trên
nhằm tạo ra một lực lượng lao động đủ về số lượng và cao về chất lượng, có cơ cấu
hợp lý đáp ứng được yêu cầu của xã hội.
Như vậy, Quản lý nguồn nhân lực là một quá trình phải được xem xét trong

mối quan hệ không thể tách rời giữa các quá trình: Phát triển nguồn nhân lực, phân
bố nguồn nhân lực và sử dụng nguồn nhân lực.
1.3 Khái niệm đào tạo
“Đào tạo được hiểu là các hoạt động học tập nhằm giúp cho người lao động có
thể thực hiện hiệu quả hơn chức năng nhiệm vụ của mình”.[1, tr 161]
Đào tạo là những hoạt động học tập được diễn ra trong thời gian ngắn hạn
nhằm cung cấp cho người lao động những kiến thức, kỹ năng chuyên sâu hơn về
công việc hiện tại, củng cố và bổ sung những kiến thức và kỹ năng, trình độ chuyên
môn còn thiếu hụt của người lao động. Đó là các hoạt động học tập nhằm nâng cao
kiến thức, trình độ, kỹ năng của người lao động để thực hiện có hiệu quả hơn công
việc hiện tại.
1.4 Khái niệm phát triển.
“Phát triển là các hoạt động học tập vượt ra khỏi phạm vi công việc trước mắt
của người lao động, nhằm mở ra cho họ những công việc mới dựa trên cơ sở những
định hướng tương lai của tổ chức” [1, tr 161]
Như vậy phát triển là các hoạt động học tập nhằm cung cấp những kiến thức,
kỹ năng, năng lực cho người lao động khi họ chuẩn bị bước vào công việc mới với
những đòi hỏi, yêu cầu cao hơn về trình độ chuyên môn lành nghề trong công việc.
Phát triển chủ yếu là chuẩn bị cho người lao động những kiến thức kỹ năng về công
việc trong tương lai.
1.5 Khái niệm chính sách
Chính sách là một trong những công cụ chủ yếu mà Nhà nước sử dụng để
quản lý nên kinh tế quốc dân. Mỗi chính sách cụ thể là một tập hợp các giải pháp
nhất định để thực hiện các mục tiêu bộ phận trong quá trình đạt tới các mục tiêu
chung của sự phát triển kinh tế - xã hội.



1.6 Chính sách quản lý nguồn nhân lực
Chính sách quản lý nguồn nhân lực là công cụ để quản lý nguồn nhân lực gồm

các chế độ, các biện pháp, các qui định cụ thể tác động đến hành vi lao động, thái
độ lao động của người lao động để đạt được các mục tiêu đã được đặt ra.
1.7 Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là công cụ để quản lý nguồn
nhân lực, bao gồm các chế độ, các qui định cụ thể về quá trình đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng trình độ của người lao động để
họ có thể thực hiện có hiệu quả công việc hiện tại cũng như chuẩn bị những kiến
thức, kỹ năng, năng lực để họ có thể đảm nhiệm những công việc ở vị trí cao hơn
trong nghề nghiệp của bản thân họ.
2. Cấu trúc của chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Cấu trúc của chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực gồm các phần
sau:
- Mục tiêu của chính sách
- Đối tượng áp dụng cúa chính sách.
- Các nội dung chủ yếu của chính sách
- Việc tổ chức thực hiện chính sách.
- Việc kiểm tra giám sát tình hình thực hiện chính sách
II. Phân loại chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
1. Phân loại theo phạm vi điều chỉnh của chính sách:
1.1 Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở phạm vi quốc gia
Đây là những qui định, chế độ do Nhà nước ban hành nhằm nâng cao năng lực
về mọi mặt kỹ năng, kiến thức và tinh thần và cơ cấu nguồn nhân lực để có thể tham
gia một cách có hiệu quả vào quá trinh phát triển quốc gia.
1.2 Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở phạm vi địa phương



Là những chính sách do cơ quản quản lý ở địa phương ban hành nhằm tổ
chức, thực hiện, quản lý việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở địa phương.
1.3 Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong phạm vi ngành

Là những chính sách do các Bộ ban hành nhằm tổ chức thực hiện và quản lý
hoạt động đào tạo nguồn nhân lực mà cụ thể là lực lượng lao động đang làm việc
trong các ngành cả về mặt số lượng và chất lượng để có thể đáp ứng được yêu cầu
phát triển của ngành.
1.4 Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong phạm vi doanh
nghiệp
Là những chính sách của doanh nghiệp nhằm tổ chức đào tạo nâng cao kiến
thức, kỹ năng, trình độ chuyên môn lành nghề cho người lao động đang làm việc
trong doanh nghiệp để họ có thể làm việc có hiệu quả hơn trong công việc hiện tại
cũng như chuẩn bị những kiến thức kỹ năng cho những công việc ở vị trí cao hơn
trong tương lai.
2. Phân loại theo đối tượng thụ hưởng chính sách
Cùng với việc ban hành những chính sách chung áp dụng cho toàn bộ nguồn
nhân lực, Nhà nước còn ban hành những chính sách riêng áp dụng đối với từng
nhóm người lao động tùy theo mục tiêu nhiệm vụ phát triển đất nước trong từng
thời kỳ. Trong thời kỳ hiện này, nước ta ban hành những chính sách đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực cho nhưng nhóm đối tượng đặc thù sau:
- Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực khu vực quản lý hành
chính Nhà nước.
- Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực khoa học – công nghệ
- Chính sách đào tạo và phát triển đội ngũ các doanh nhân
- Chính sách đào tạo và phát triển công nhân kỹ thuật trình độ cao
3. Phân loại theo qui trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
3.1 Chính sách thu hút trước khi đào tạo và phát triển nguồn nhân lực



Đó là các chính sách nhằm tạo các điều kiện thuận lợi để thu hút, khuyến
khích mọi người tham gia vào quá trình đào tạo và phát triển nhằm nâng cao kiến
thức, trình độ chuyên môn lành nghề, kỹ năng. Các chính sách đó bao gồm chính

sách về đa dạng hóa các loại hình đào tạo nhằm đáp ứng được các yêu cầu của xã
hội. Các Chính sách ưu tiên đối với đối tượng chính sách, gia đình khó khăn như
cộng điểm ưu tiên, miễn giảm học phí tạo điều kiện cho họ được học tập. Ngoài ra
còn có chế độ học bổng đối với những học sinh đạt kết quả cao trong học tập nhằm
khuyến khích động viên sinh viên học tập. Còn có chính sách tổ chức quản lý quỹ
tín dụng cho sinh viên…
3.2 Chính sách trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
Đây là các chính sách nhằm tổ chức, tiến hành và quản lý quá trình đào tạo và
phát triển nguồn nhân lực bao gồm chính sách về kinh phí cho quá trình đào tạo và
phát triển, chính sách về xây dựng cơ sở hạ tầng, chính sách về xây dựng đội ngũ
cán bộ giảng viên đủ về số lượng và cao về chất lượng, tổ chức đào tạo nâng cao
trình độ cho đội ngũ cán bộ giảng viển. chính sách về thiết kế nội dung và phương
pháp dạy học.
3.3 Chính sách sau đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
Đây là những chính sách sắp xếp, bố trí, sử dụng những người đã được đào tạo
một cách hợp lý để có thể phát huy những kiến thức, kỹ năng, trình độ chuyên môn
lành nghề, năng lực của họ thực hiện công việc phù hợp với năng lực trình độ của
họ.
III. Phân tích thực trạng chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của
Việt Nam.
1. Thực trạng chính sách thu hút đầu vào trước khi đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực ở Việt Nam.
1.1 Các chế độ chính sách ưu tiên về cộng điểm khi tuyển sinh cho thí sinh theo
khu vực.
Nước ta hiện nay là một nước đang phát triển nên nhiều vùng địa phương điều
kiện kinh tế chưa phát triển, cơ sở hạ tầng về giáo dục ở những vùng này còn rất



thiếu thốn, có những nơi học sinh phải đi từ sáng đến trưa mới đến được trường lớp.

Đồng thời do sự chênh lệch về mức sống giữa các vùng. Có những vùng người dân
phải lo kiếm sống để đảm bảo cuộc sống nên không có điều kiện học tập. Do đó ở
những vùng đó điều kiện học tập không thể bằng những khu vực thành thị có điều
kiện học tập tốt. Chính vì vậy trong khi tuyển sinh Bộ giáo dục và đào tạo có chế độ
ưu tiên về điểm cho những thí sinh thuộc những vùng có điều kiện khó khăn để
nhằm đảm bảo thực hiện công bằng trong giáo dục, tạo điều kiện cho các thí sinh ở
khu vực khó khăn có cơ hội học đại học.
Khi tuyển sinh vào đại học, các thí sinh được phân chia theo các khu vực 4
khu vực:
“ Khu vực 1 (KV1) gồm các xã, thị trấn thuộc miền núi, vùng cao, vùng sâu,
hải đảo, trong đó có các xã thuộc vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn theo quy định của Chính phủ. Các thí sinh thuộc KV 1 được cộng 1,5 điểm xét
tuyển.
- Những thí sinh thuộc khu vực 2 (KV2) gồm các thành phố trực thuộc tỉnh
(không trực thuộc Trung ương); các thị xã; các huyện ngoại thành của thành phố
trực thuộc Trung ương sẽ được ưu tiên cộng 0,5 điểm xét tuyển
- Các thí sinh thuộc khu vực 2 - nông thôn (KV2-NT) gồm các xã, thị trấn
không thuộc KV1, KV2, KV3 sẽ được cộng 1 điểm xét tuyển
- Khu vực 3 (KV3) gồm: Các quận nội thành của thành phố trực thuộc Trung
ương. Thí sinh thuộc KV3 không thuộc diện hưởng ưu tiên khu vực”.[11.8]
Dân số nước ta chủ yếu tập trung ở nông thôn, theo số liệu của Tổng cục thống
kê năm 2005 thì dân số ở khu vực nông thôn chiếm 73,03% tổng dân số cả nước, do
đó phần lớn dân số vẫn đang phải sống trong điều kiện kinh tế xã hội còn nhiều khó
khăn và thiếu thốn. Hàng năm về số lượng thí sinh dự thi đai học, cao đẳng thì số thí
sinh thuộc các khu vực được cộng điểm ưu tiên theo khu vực chiếm 82%[10.9]
trong tổng số thí sinh dự thi. Như vậy, nếu không còn chế độ ưu tiên khu vực đối
với các đối tượng nêu trên thì sẽ làm cho đa số thí sinh dự thi đại học, cao đẳng phải
chịu thiệt thòi, cánh cửa vào học các trường đại học và cao đẳng sẽ trở nên hẹp lại.




Từ đó không có cơ hội để nâng cao trình độ, kiến thức kỹ năng cho người lao động
ở các khu vực kinh tế khó khăn. Ví dụ như đợt tuyển sinh 2005, khoảng cách điểm
chênh lệch giữa đối tượng được ưu tiên cao nhất với đối tượng thuộc KV 3 là 3,5
điểm, nhờ vậy nhiều thí sinh ở KV1, KV2, KV2-NT đã vượt qua được các thí sinh ở
KV 3 để vào học các trường đại học và cao đẳng.
Chính sách ưu tiên về cộng điểm khi tuyển sinh đại học cho các thí sinh ở các
khu vực khó khăn là một trong những chính sách cần thiết nhằm tạo điều kiện cho
những thí sinh ở các khu vực mà cuộc sống còn gặp nhiều khó khăn có thể thi đỗ và
theo học ở các trường đại học, cao đẳng. Do vậy, qui chế tuyển sinh không thể bỏ đi
đối tượng ưu tiên này mà cần phải mở rộng đối tượng ưu tiên không chỉ có thí sinh
thuộc vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn mà cần có cả số thí sinh thuộc vùng
kinh tế khó khăn.
1.2 Chính sách về miễn giảm học phí cho sinh viên thuộc đối tượng chính sách,
gia đình khó khăn.
Để nhằm giảm bớt khó khăn về mặt kinh tế, cũng như thể hiện sự biết biết ơn
của nhà nước đối với những người có công với cách mạng, hiện nay nhà nước ta có
chính sách miễn, giảm học phí cho sinh viên thuộc đối tượng chính sách, gia đình
có công với cách mạng, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn có để họ điều kiện theo
học ở các trường đại học và cao đẳng.
Chính sách miễn học phí là chính sách mà đối tượng của chính sách sẽ được
miễn phí tòan phần về học phí. Ở nước ta hiện nay chế độ miễn học phí toàn phần
được áp dụng anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang và thương binh khi
theo học đại học và cao đẳng. Con thương binh, bệnh binh, con người được hưởng
diện chính sách như thương binh bị mất sức lao động từ 61% đến 80% [9]. Các đối
tượng này được áp dụng mức miễn học phí toàn phần nhằm thế hiện sự quan tâm
của nhà nước đến những người có công với cách mạng. đồng thời cũng giảm bớt
gánh nặng về vấn đề học phí cho các đối tượng này khi phần lớn là có hoàn cảnh
khó khăn.
Chế độ miễn học phí còn được áp dụng đối với các sinh viên mồ côi cả cha lẫn

mẹ không có nơi nương tựa, những người bản thân bị thương tật, có khó khăn về



kinh tế, khả năng lao động bị suy giảm từ 21% trở lên và có xác nhận của hội đồng
y khoa. Những đối tượng này gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống, hàng ngày họ
phải làm việc để có thể kiếm tiền nuôi sống bản thân, tiền để trang trải cho các sinh
hoạt hàng ngày như nơi ở, tiền ăn, tiền sách vở…Đối với các đối tượng này thì
chính sách miễn học phí thể hiện sự quan tâm của xã hội đối với những hoàn cảnh
khó khăn, nhằm góp phần đảm bảo công bằng xã hội.
Đối tượng được hưởng chính sách miễn học phí còn gồm những sinh viên có
cả cha mẹ thường trú tại hải đảo hoặc vùng sâu, vùng cao từ 3 năm trở lên theo
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. và gia đình thuộc diện nghèo đói có thu nhập
bình quân đầu người thường dưới 13 kg gạo. Đây là những gia đình có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn, sinh sống ở những nơi điều kiện kinh tế xã hội chưa phát triển,
cơ sở hạ tầng còn thiếu thốn, đặc biệt là cơ sở hạ tầng về giáo dục còn rất thấp. Rất
ít người ở đây được học tập và có thể theo học đến các bậc học cao như đại học cao
đẳng. Chính vì vậy khi có thể thi đỗ vào các trường đại học và cao đẳng đã là một
sự cố gắng rất lớn từ phía các sinh viên này. Nếu như không có chế độ miễn học phí
đối với các đối tượng này với mức tiền học phí là 180000 đồng/sinh viên/ tháng như
hiện nay và có thể tăng lên trong tương lai thì chắc chắn những sinh viên này sẽ
phải thôi học. Nhờ có chính sách này mà đã khuyến khích được các đối tượng này
cố gắng học tập, nâng cao trình độ để sau này có thể cải thiện tình trạng khó khăn
của gia đình.
Nhà nước còn có chế độ miễn học phí cho sinh viên hệ chính quy tập trung
ngành sư phạm khi vào học có cam kết sau khi tốt nghiệp phục vụ trong ngành Giáo
dục đào tạo nhằm thu hút, tạo điều kiện cho sinh viên sư phạm sau khi ra trường sẽ
phục vụ cho ngành giáo dục, từng bước tăng số lượng giáo viên.
Bên cạnh chính sách miễn học phí, Nhà nước còn có chính sách giảm 50% học
phí cho các đối tượng sinh viên là con của thương binh; con của bệnh binh và người

hưởng chính sách như thương binh bị mất sức lao động từ 21 đến 60 %. Con cán bộ
công nhân viên chức mà cha hoặc mẹ bị tai nạn lao động được hưởng trợ cấp
thường xuyên. Có gia đình (gia đình, cha, mẹ hoặc người nuôi dưỡng) thuộc diện hộ
nghèo theo qui định hiện hành của nhà nước. Hộ nghèo là hộ có mức thu nhập bình



quân đầu người hàng tháng quy đổi ra gạo: Dưới 25kg gạo ở thành thị; Dưới 20kg
gạo ở nông thôn vùng đồng bằng và trung du; Dưới 15kg gạo ở nông thôn miền núi.
Một thực trạng hiện nay đang gặp phải đối với việc thực hiện chế độ miễn
giảm học phí cho đối tượng chính sách, gia đình khó khăn đó là hiện này không có
qui định bắt buộc các trường ngoài công lập thực hiện miễn giảm như các trường
công lập. Các trường ngoài công lập không được nhà nước cấp ngân sách nên việc
miễn giảm học phí tùy thuộc vào khả năng của từng trường. Trong khi đó hàng năm
có rất nhiều thí sinh thuộc diện đối tượng chính sách dự thi đại học và cao đẳng
nhưng không đỗ vào các trường công lập mà theo học ở các trường ngoài công lập
với mức học phí cao hơn rất nhiều so với các trường công lập ( ví dụ như đại học
dân lập Văn Lang mức cao nhất là 4.400.000 đ) dẫn đến tình trạng không ít sinh
viên học trong tư thế cầm cự chờ đợi đợt thi sau.
1.3 Chế độ trợ cấp xã hội
Ngoài chế độ về miễn giảm học phí cho đối tượng chính sách, nhà nước còn
ban hành chế độ trợ cấp cho các đối tượng sau:
- Sinh viên là người dân tộc ít người, liên tục ở vùng cao (KV3) hoặc có hộ
khẩu thường trú ở vùng cao (KV3) ít nhất lên 3 năm trở lên (tính đến thời điểm
nhập học tại trường); sinh viên lên người mồ côi cả cha lẫn mẹ không nơi nương
tựa, không có người đỡ đầu chính thức, người trợ cấp thường xuyên.
- Sinh viên là gười tàn tật theo quy định của nhà nước lênngười gặp khó khăn
về kinh tế, khả năng lao động bị suy giảm từ 41% trở lên do tàn tật được Hội đồng
Y khoa có thẩm quyền xác định.
- Sinh viên có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn về kinh tế, vượt khó học tập, gia

đình thuộc diện xóa đói giảm nghèo phải xuất trình giấy tờ thuộc hộ xóa đói giảm
nghèo do Sở LĐ - TB và XH cấp)
Theo chế độ này thì hàng tháng mối sinh viên sẽ được hưởng mức trợ cấp xã
hội là 140.000 đồng. Chế độ này nhằm góp phần giảm phần nào khó khăn về mặt
kinh tế, giúp cho sinh viên có một khoản tiền để trang trải cho cuộc sống hàng ngày,
để có thể có điều kiện học tập.



Đồng thời để khuyến khích sinh viên học tập thì ngoài mức trợ cấp xã hội
hàng tháng những sinh viên thuộc diện trợ cấp xã hộ nếu kết quả học tập đạt từ loại
khá trở lên còn được nhận thêm phần thưởng khuyến khích học tập lấy từ kinh phí
học bổng với các mức là: bằng 140% mức học bổng khuyến khích toàn phần nếu
đạt loại xuất sắc; bằng 90% mức học bổng khuyến khích toàn phần nếu đạt loại giỏi
và bằng 30% mức học bổng khuyến khích toàn phần nếu đạt loại khá.
Như vậy, mục đích của chế độ trợ cấp xã hội là hỗ trợ phần nào về kinh tế cho
sinh viên có điều kiện khó khăn có thể theo học ở các bậc đại học và cao đẳng, tạo
điều kiện cho họ có cơ hội học tập nâng cao kiến thức, trình độ chuyên môn.
1.4 Chính sách học bổng dành cho những sinh viên có kết quả học tập tốt.
Chính sách học bổng khuyến khích được cấp cho những sinh viên có kết quả
học tập và rèn luyện tốt để nhằm khuyến khích thúc đẩy, động viên sinh viên cố
gắng phấn đấu học tập. Hiện nay, học bổng khuyến khích học tập hiện có 3 mức và
được áp dụng cho 3 loại đối tượng đó là “mức 120.000đ/ tháng đối với sinh viên có
kết quả học tập và rèn luyện từ 7,0 đến cận 8,0; mức 180.000đ/tháng đối với loại
giỏi từ 8,0 đến cận 9,0. và mức 240.000đ/tháng đối với loại xuất sắc đạt điểm từ 9,0
trở lên”[10]
Hiện nay chế độ học bổng khuyến khích học tập của nước ta còn ít về số lượng
chỉ có 3 mức. Đồng thời giá trị của mức học bổng còn rất thấp chỉ đủ trang trải một
phần cho học phí, không có đủ để chi trả cho việc ăn ở, mua sách vở. Với mức học
phí đại học trong các trường công lập hiện nay là 180.000đ/ tháng như hiện nay thì

chỉ có những sinh viên đạt loại xuất sắc mới được hưởng mức học bổng cao hơn
mức học phí hàng năm, nhưng mức cao hơn này cũng chỉ rất nhỏ không đủ để trang
trải bớt những chi phí học tập cho sinh viên, mặt khác số lượng sinh viên đạt kết
quả xuất sắc và được hưỏng mức học bổng này thường chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong
tổng số sinh viên được hưởng loại học bổng này. Còn những sinh viên đạt loại khá
và giỏi thì mức học bổng chỉ vừa bằng mức học phí phải đóng hàng tháng hoặc ít
hơn.
Một vấn đề nữa đối với chính sách này đó là học bổng hiện nay chủ yếu được
cấp dựa vào kết quả học tập của sinh viên. Do đó vấn đề đặt ra là những sinh viên



con nhà giàu thường có đủ điều kiện để học tập, nên kết quả học tập thường cao hơn
những sinh viên có điều kiện khó khăn ngoài thời gian học tập còn phải tham gia
làm thêm nhiều công việc để kiếm tiền trang trải cho cuộc sống và chi phí học tập
cho nên điều kiện học tập và kết quả học tập đạt được không thể bằng những sinh
viên có điều kiện học tập. Chính vì vây, các học bổng này thường do các sinh viên
con nhà giàu có đủ điều kiện học tập chiếm hết.
Hiện nay vẫn tồn tại tình trạng là những sinh viên giỏi công lập được Nhà
nước cấp học bổng, còn sinh viên giỏi trong các trường ngoài công lập lại không
được trong khi họ cũng học giỏi.
1.5 Thành lập quỹ tín dụng sinh viên nhằm hỗ trợ cho sinh viên có hoàn cảnh
khó khăn vay vốn học tập.
Quỹ tín dụng sinh viên được thành lập năm 1995 theo chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ nhằm hỗ trợ học sinh, sinh viên có điều kiện khó khăn được vay vốn học
tập. Hàng năm, nhiều trường đại học chứng nhận cho khoảng 5% sinh viên là sinh
viên nghèo vay vốn Nhà nước để đảm bảo điều kiện học tập. Nếu tất cả số sinh viên
này được vay với mức 3 triệu đồng/năm thì mỗi năm Nhà nước cần chi cho sinh
viên vay khoảng 100 tỷ đồng và sẽ tạo điều kiện học tập đến cho khoảng 40 nghìn
sinh viên.

Tính đến tháng 5/2002 Quy đã cho 41.534 HS - SV/126.789 HS - SV trong
diện được vay vốn (trong tổng số 471.562 HS - SV trên toàn quốc) vay vốn để học
tập.
Tuy nhiên nguồn hình thành quỹ là do các ngân hàng phải đóng góp theo chỉ
thị của Thủ tướng Chính phủ, nhưng do chỉ thị không bắt buộc, việc góp vốn hoàn
toàn mang tính tự nguyện vì đối tượng vay là sinh viên, lãi suất thấp, rủi ro cao và
chủ yếu là mang tính chất xã hội nên các ngân hàn không hào hứng tham gia. Chính
vì vậy cho đến hiện nay thì quỹ đã cạn kiệt và trong tình trạng chi vượt thu. Cụ thể
là đến ngày 30/6/2002 tổng số vốn của quỹ là 65,5 tỷ dồng, trong khi số tiền cho
vay là 76,6 tỷ đồng và khoản tiền thu nợ là 6,5 tỷ đồng. Như vậy, quỹ tín dụng sinh
viên đã phải cho vay vượt quá nguồn vốn thực có là 4,6 tỷ đồng. Như vậy nêu trong
thời gian tới, nhà nước không có những biện pháp nhằm thu hút và bổ sung vốn cho



quỹ thì sẽ có hàng chục nghìn sinh viên đang theo học tại các trường Đại học, cao
đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề trong cả nước có thể phải thôi học vì
không có tiền để trang trải cho chi phí học tập.
2. Thực trạng chính sách trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở Việt
Nam.
Thực trạng chính sách về các nguồn kinh phí để tổ chức thực hiện quá trình đào
tạo và phát triển nguồn nhân lực
Để tổ chức quá trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực thì cần phải có kinh
phí để thực hiên. Hiện nay nguồn kinh phí này được huy động thông qua nguồn vốn
ngân sách do nhà nước cấp hàng năm, học phí do học sinh và gia đình học sinh
đóng góp. Hàng năm tỷ lệ % ngân sách nhà nước chi cho giáo dục đào tạo liên tục
tăng lên qua các năm. Cụ thể là năm 2002 chiếm 12,04%; năm 2003 là 12,63%;
năm 2004 là 17,1%, năm 2005 là 18% và năm 2006 là 20%. Tuy tỷ lệ ngân sách nhà
nước hàng năm cấp cho giáo dục đào tạo có tăng nhưng với số lượng trường đại học
cao đẳng ngày càng tăng lên như hiện nay thì lượng vốn ngân sách nhà nước cấp

cho mỗi trường hầu như tăng không đáng kể, trong khi đó hầu hết số vốn ngân sách
nhà nước này được dùng để chi trả lương cho giáo viên khoảng 85% ngân sách nhà
nước chi cho giáo dục, nên phần đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng trường lớp,
nâng cao chất lượng đào tạo còn rất hạn chế. Chính vì vậy các trường phải trông
chờ nhiều vào nguồn thu học phí.
Tuy nhiên với mức học phí hiện nay mà mỗi sinh viên phải đóng là 1,8 triệu
đồng/ năm là còn rất thấp so với mức chi phí đầu tư bình quân cho một sinh viên
trường đại học công lập là khoảng 9 triệu đồng / năm, phần còn lại là do Nhà nước
bao cấp. Điều này thực tế không còn phù hợp trong điều kiện hiện nay.
Với mức đầu tư do ngân sách nhà nước cấp và mức thu từ học phí hiện này thì
các trường đại học vẫn luôn trong tình trạng thiếu kinh phí, và phải co kéo giữa cac
khoản thu chi để đủ được chi phí đào tạo. Chính vì vậy dẫn đến không có nguồn chi
cho các yêu cầu học tập, thí nghiệm và trả lương đầy đủ hoặc cao để thu hút cán bộ
giảng dạy có chất lượng. Do đó để có thể tăng nguồn kinh phí cho đào tạo thì một
phương án đề ra và đang được xem xét hiện nay là điều chình tăng học phí nhằm



khai thác nguồn lực sẵn có của người dân để đóng góp vào việc nâng cao chất
lượng đào tạo. Nhưng một vấn đề đặt ra là nếu tăng học phí sẽ dẫn đến tình trạng rất
nhiều sinh viên có điều kiện khó khăn sẽ phải thôi học vì không có đủ khả năng tài
chính để theo học.
Đồng thời ngân sách cho giáo dục đào tạo ( ở các trường đại học công lập hiện
nay vẫn theo cách cấp phát thường niên theo như dự tóan của các trường được tính
dựa trên cơ sở đầu vào hay chỉ tiêu đào tạo được giao hàng năm. Trong khi đó đầu
vào lại do Bộ chủ quản quyết định. Như vậy thực chất số lượng ngân sách cuối cùng
vẫn do Bộ chủ quản quyết định. Các đơn vị đào tạo đại học hàng năm lập dự toán
như một cái máy mà không có tính sáng tạo, tự chủ, tính tự quyết. Vì nếu có ý kiến
khác thì sẽ chỉ gặp lôi thôi trong duyệt dự toán mà điều này thì không có trường nào
muốn. Do quy trình cấp phát như trên nên các cơ sở đại học chỉ có khuynh hướng

làm đúng theo hướng dẫn của cấp trên và đơn vị quản lý tài chính để có được sự
thuận lợi trong hoạt động đăng ký ngân sách mỗi năm. Chính vì vậy để có thể huy
động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ngân sách Nhà nước chi cho giáo dục đào
tạo cần có những biện pháp cải tiến về phương thức cấp phát.
2.2 Số lượng các trường đại học và cao đẳng và sự mất cân đối về cơ cấu ngành
nghề đào tạo.
Để đáp ứng nhu cầu đào tạo ngày càng tăng nên có rất nhiều trường đại học
cao đẳng được thành lập tăng nên với rất nhiều chuyên ngành mở ra. Theo số liệu
điều tra của Tổng cục thống kê thì năm 2004 cả nước có 230 trường đại học và cao
đẳng, đến năm 2005 đã tăng lên là 311 trường. Như vậy đã tăng lên 81 trường tương
đương 35,22%. Đồng thời ngày càng có nhiều trường, các cơ sở đào tạo ngoài
công lập khác nhau được thành lập. Năm 2004 có 29 trường đại học và cao đẳng
ngoài công lập chiếm 12,61% và năm 2005 thì con số này là 37 trường chiếm
11,89%.
Tuy nhiên, do sự tăng lên nhanh chóng về số lượng các trường đại học và cao
đẳng, việc đưa các trường cao đẳng lên đại học và mở nhiều đại học dân lập trong
khi chưa chuẩn bị đủ điều kiện cần thiết, đồng thời chưa đổi mới về cơ chế quản lý
chất lượng các trường này nên đã dẫn đến chất lượng đào tạo của các trường này



không được tốt, và xảy ra nhiều vấn đề tiêu cực nghiêm trọng diễn ra trong một thời
gian dài trong một số trường dân lập ví dụ như có một trường ở tỉnh nọ chưa có cơ
sở vật chất và đội ngũ cán bộ giảng dạy cơ hữu được phép tuyển sinh ngay một lúc
đến chín ngành đào tạo, kể cả những ngành kỹ thuật.
Việc phân bố các trường đại học cao đẳng chỉ mới tập trung ở một số trung
tâm văn hóa, kinh tế lớn là Hà nội và TP Hồ Chí Minh. Điều này dẫn tới hạn chế số
lượng sinh viên ở các vùng kinh tế khó khăn có khả năng theo học.
Hiện nay ngày càng có nhiều ngành đào tạo được mở ra đáp ứng được nhu cầu
của thị trường nhưng tồn tại tình trạng mất cơ cấu về ngành nghề đào tạo. Theo số

liệu điều tra “trong 50 năm qua chúng ta đã đào tạo được hơn 1 triệu cán bộ các
ngành khoa học, kỹ thuật có trình độ đại học với cơ cấu là: sư phạm chiếm 33,3%;
khoa học kỹ thuật là 25,5%; khoa học xã hội là 17%; y dược là 9,3%; nông nghiệp
là 8,1%; khoa học tự nhiên là 6,8%. Với một nước nông nghiệp như nước ta hiện
nay mà chỉ có 8,1% cán bộ có trình độ đại học được đào tạo thuộc ngành nông
nghiệp thì cơ cấu trên là bất hợp lý.”[4]
Như vậy trong thời gian tới cần có những sự điều chỉnh trong việc quản lý sự
thành lập và chất lượng của các trường đại học, cần có những biện pháp giải quyết
sự mất cân đối về các ngành nghề đào tạo.
2.3 Thực trạng về đội ngũ cán bộ giảng viên các trường đại học và cao đẳng ở
Việt Nam.
2.3.1 Số lượng cán bộ giảng viên đại học và cao đẳng ở Việt Nam.
Hiện nay, cùng với sự tăng lên của nhu cầu học tập nhằm nâng cao kiến thức
trình độ để đáp ứng được yêu cầu của xã hội thì quy mô đào tạo được mở rộng rất
nhanh với nhiều trường đại học và cao đẳng được thành lập với nhiều chuyên ngành
đào tạo ra đời , đồng nghĩa với nó thì nhu cầu về đội ngũ cán bộ giảng viên đại học
và cao đẳng cũng tăng lên. Nhưng trên thực tế hiện nay ở nước ta đội ngũ giảng
viên ở các trường đại học và cao đẳng cò đang thiếu trầm trọng nhất là đối với
những chuyên ngành đào tạo mới. Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê thì
đến năm học 2005-2006 cả nước ta có 47.700 giảng viên đại học và cao đẳng chiếm



4.8% trong tổng số nhà giáo ở nước ta. Với số lượng cán bộ giảng viên đại học như
trên thì tỷ lệ sinh viên/ giảng viên trung bình là 28 sinh viên/ giảng viên, đặc biệt ở
một số lĩnh vực kinh tế, dịch vụ là gần 40 sinh viên/ giảng viên trong khi tỷ lệ này
hợp lý chỉ là trung bình 15- 20 sinh viên / giảng viên. Thực trạng đó là do trong khi
qui mô đào tạo ngày càng tăng nhưng biên chế lại không tăng, vì vậy ở nước ta một
giảng viên đại học phải giảng dạy quá nhiều giờ có trường hợp lên tới 800-1.000
giờ/năm (ở nước ngoài khoảng 300-400 giờ/năm) không còn thời gian tham gia

nghiên cứu khoa học để nâng cao trình độ chuyên môn của mình, không có thời
gian để cập nhật kiến thức mới. Đặc biệt là sự thiếu hụt những giảng viên đầu
ngành đã được đào tạo một cách có hệ thống ở nước ngoài, có kinh nghiệm sư
phạm là những người thực hiện những đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, cấp nhà
nước thì đều đã tuổi cao và đã nghỉ hưu trong khi chưa có đội ngũ cán bộ giảng
viên giỏi kế cận.
Mặt khác hiện nay biên chế giảng viên của các trường do Bộ chủ quản quyết
định nên việc các trường muốn nhận thêm giáo viên để đáp ứng yêu cầu mở rộng
qui mô đào tạo của trường thường gặp nhiều khó khăn và thường phải đợi Bộ giao
chỉ tiêu. Do đó chính sách về chỉ tiêu cán bộ giảng viên của các trường do Bộ chủ
quản giao cho các trường đã trở nên không phù hợp với nhu cầu của các trường,
không đáp ứng được nhu cầu mở rộng qui mô đào tạo ngày càng tăng lên hiện nay.
Nếu không có các biện pháp đổi mới cách thức tuyển dụng đội ngũ giảng viên nhằm
từng bước đáp ứng đủ số lượng giảng viên đại học, cao đẳng, giảm tỉ lệ sinh viên/
giảng viên xuống còn 20 sinh viên / giảng viên.
2.3.2 Chất lượng đội ngũ cán bộ giảng viên đại học và cao đẳng của nước ta.
Bên cạnh việc thiếu giảng viên thì chất lượng đội ngũ cán bộ giảng viên đại
học vẫn chưa cao. Hiện tại ở nước ta tỷ lệ giảng viên đại học cao đẳng chỉ có trình
độ cử nhân kỹ sư, chiếm tới 55%; trình độ trên đại học còn rất ít cụ thể là chỉ có
13% đạt trình độ tiến sĩ, số phó giáo sư là 4% và số giáo sư chỉ chiếm một tỷ lệ vô
cùng nhỏ là 1%. Một trong những nguyên nhân đưa đến tình trạng trên đó là hiện
nay nước ta đang thiếu trầm trọng đội ngũ giảng viên, nên để có thể đáp ứng được
nhu cầu đào tạo thì những giảng viên này thường phải giảng dạy rất nhiều giờ nên



không có thời gian để học tập nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức mới. Như vậy
với cơ cấu trình độ của đội ngũ cán bộ giảng viên như trên thì nước ta đang ở trong
tình trạng bất hợp lý đó là trình độ đại học dạy đại học.
Trường đại học có nhiệm vụ chính là giảng dạy và nghiên cứu khoa học,

nhưng ở nước ta công tác nghiên cứu khoa học của đội ngũ cán bộ giảng viên đại
học còn rất ít. Ở nhiều trường đại học nước ngoài tỷ lệ thời gian của giảng viên
phân bổ cho hai nhiệm vụ này là 50/50 còn ở nước ta tỷ lệ thời gian dành cho
nghiên cứu khoa học còn rất ít, chủ yếu thời gian của giảng viên được sử dụng để
giảng dạy, tỷ lệ này ở một số giảng viên chủ chốt ở một số trường đã có truyền
thống nghiên cứu khoa học là 70% giảng dạy và 30% nghiên cứu khoa học. Đối với
đội ngũ cán bộ giảng viên đại học, thì nghiên cứu khoa học giúp cho họ nâng cao
trình độ chuyên môn, cập nhật liên tục kiến thức, làm giàu kho tàng kiến thức của
minh để có thể truyền dạy lại cho sinh viên đạt hiệu quả hơn.
Trong những năm qua nước ta đã có những chính sách nhằm tạo điều kiện cho
giảng viên trẻ đi học tập, nghiên cứu, tham gia hội nghị, hội thảo trao đổi kinh
nghiệm ở nước ngoài như hỗ trợ về mức phí. Chính sách này cần được tiếp tục thực
hiện nhằm góp phần nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ giảng viên tiến tới thực
hiện mục tiêu tăng tỷ lệ giảng viên có trình độ thạc sĩ lên 30% và trình độ tiến sĩ lên
20% vào năm 2008.
Một nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng đội ngũ cán bộ giảng viên
chưa cao đó là do chế độ lương và thu nhập của giảng viên đại học còn tương đối
thấp, đời sống đội ngũ cán bộ giảng viên còn có nhiều khó khăn. Chính vì vậy họ
phải dành nhiều thời gian để đi dạy để tăng thu nhập, dành ít thời gian dành để
nghiên cứu, nâng cao kiến thức, chưa tập trung đầu tư nâng cao chất lượng giảng
dạy. Hiện nay thì chế độ lương và trợ cấp cho cán bộ giảng viên đại học đang được
xem xét điều chỉnh để tạo điều kiện cho đội ngũ này yên tâm công tác, dành nhiều
thời gian để nâng cao trình độ.
Như vậy, hiện nay chất lượng đội ngũ cán bộ giảng viên đại học và cao đẳng ở
nước ta vẫn chưa cao, cần có những chính sách, biện pháp nhằm nâng cao trình độ
của đội ngũ này.



2.4 Nội dung và phương pháp dạy học ở bậc đại học.

2.4.1 Nội dung chương trình đào tạo và tình trạng thiếu giáo trình ở nhiều môn
học
Nội dung chương trình đào tạo có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đào tạo và
giáo trình là một công cụ để chuyển các kiến thức đó đến cho sinh viên thông qua
việc nghiên cứu giáo trình. Tuy nhiên hiện nay chương trình đào tạo và vấn đề giáo
trình ở nước ta còn nhiều bất cập. Đa số các trường vẫn đang trong tình trạng thiếu
giáo trình, có nhiều môn học sinh viên không có giáo trình để nghiên cứu. Còn có
những môn đã có giáo trình nhưng nội dung chủ yếu được biên soạn từ rất lâu. Qua
thực tế điều tra ở một số trường đại học và cao đẳng ở nước ta cho thấy, giáo trình ở
các trường này chủ yếu được biên soạn từ cách đây khoảng 20 đến 30 năm và các
thông tin trong đó đã quá lỗi thời không còn phù hợp với sự phát triển mạnh mẽ
hiện nay của xã hội.
Nội dung chương trình đào tạo của ta hiện nay còn nặng về lý thuyết, ít gắn
với thực tiễn, chương trình học tập quá tải, chiếm hết thời gian phát huy khả năng tư
duy sáng tạo của sinh viên gây ra tâm lý chán học, sợ học . Cụ thể là chương trình
đào tạo đại học bốn năm ở các nước phương Tây gồm 125 đến 130[11.10] tín chỉ,
trong khi đó chương trình đào tạo đại học hệ bốn năm ở nước ta trung bình khoảng
250[11.10] đơn vị học trình ( tương đương tín chỉ), trong khi kiến thức tiếp thu lại ít
hơn.
Hiện nay ở nước ta, việc biên soạn và in ấn giáo trình được khoán trắng cho
các trường đại học tự lo do đó dẫn đến tình trạng bất cập về nội dung lẫn kinh phí
thực hiện. Điều đó dẫn đến giá sách hiện tại tương đối cao so túi tiền của sinh viên.
2.4.2 Phương pháp dạy và học ở bậc đại học.
Phương pháp dạy học ở bậc đại học phải nhằm phát huy tính tự học, tự nghiên
cứu của sinh viên nhằm phát huy tư duy sáng tạo, tư duy độc lập của sinh viên,
người thầy sẽ giúp sinh viên giảng cho sinh viên những phần bản chất nhất khó nhất
trong giáo trình còn lại là sinh viên tự nghiên cứu. Nhưng hiện nay ở nước ta
phương pháp được sử dụng phổ biến trong các trường đại học chủ yếu là thầy giảng,




học sinh ngồi nghe và ghi chép, với số lượng giờ lên lớp không dài khuyến khích
được tính chủ động tích cực của sinh viên, chính vì vậy làm cho sinh viên trở nên
thụ động trong việc tiếp thu kiến thức. Sinh viên ít được Mặc dù hiện nay phương
pháp dạy học ở nước ta đã có những đổi mới nhưng còn diễn ra chậm. Vì vậy, trong
thời gian tới cần phải đẩy nhanh việc đổi mới phương pháp dạy và học ở bậc đại
học theo hướng phát huy tính độc lập, tư duy sáng tạo của sinh viên.
3. Thực trạng chính sách sau đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở Việt
Nam
Thiếu sự hợp tác giữa các cơ sở đào tạo với các đơn vị sử dụng.
Qui mô đào tạo của các trường liện tục mở rộng nhưng do các trường thiếu sự
hợp tác với các đơn vị,các doanh nghiệp, tổ chức lao động về nhu cầu thực tế về lao
động của các đơn vị sử dụng nên dẫn tới tình mất cân đối giữa cung và cầu đào tạo.
Có ngành số sinh viên được đào tạo quá nhiều so với nhu cầu nên nhiều người
không kiếm được việc làm phù hợp, trong khi có những ngành mà cầu tương đối
lớn thì lại thiếu nhân lực. Vì vậy nhiều người sau khi được đào tạo không tìm được
làm việc theo đúng chuyên ngành đã được đào tạo nên phải chuyển sang làm những
công việc khác không đúng chuyên môn hoặc theo học những nghành đào tạo khác
để có thể kiếm được việc làm. Qua điều tra cho thấy hiện nay có trên 32% số lao
động trong các doanh nghiệp không được sử dụng đúng chuyên ngành, và theo kết
quả khảo sát của đề tài KX.07.14 chỉ có 48,8% nhân lực qua đào tạo được sử dụng
đúng ngành nghề đã được đào tạo. Như vậy đã lãng phí 51,2% nhân lực có trình độ.
Hiện nay nhiều doanh nghiệp đã có sự liên hệ với các cơ sở đào tạo như hàng năm
đến kỳ thì tốt nghiệp các doanh nghiệp đều cử người đến các trường xin tuyển
người đồng thời cũng có trao đổi về kế hoạch lao động trong tương lai cũng như yêu
cầu đối với sinh viên tốt nghiệp của đơn vị mình để có thể thu hút được ngày càng
nhiều nhân lực có trình độ.
3.2 Chính sách trọng dụng đãi ngộ cán bộ chuyên môn kỹ thuật có trình độ
cao.
Nhà nước đã ban hành và đổi mới các chính sách về tiền lương, chính sách

tuyển dụng theo hợp đồng lao động, chính sách về việc xét tuyển, nâng ngạch lương



nhằm khuyến khích những người có trình độ phát huy được năng lực của mình,
cống hiến nhiều hơn nữa cho xã hội. Chính sách sử dụng nguồn nhân lực sau đào
tạo hiện nay ở mỗi doanh nghiệp được thực hiện khác nhau tùy theo quan điểm và
cách thức tổ chức quản lý của doanh nghiệp. Nhưng nhìn chung hiện nay nhiều
doanh nghiệp đã có sự quan tâm hơn đối với việc sử dụng có hiệu quả nguồn nhân
lực đã được đào tạo, có những chính sách nhằm sử dụng nguồn nhân lực có chất
lượng cao như bố trí họ vào làm những công việc đúng chuyên môn đã được đào
tạo, tạo điều kiện cho họ có thể thăng tiến lên những vị trí cao hơn, tạo điều kiện
cho họ được đi học, đào tạo nâng cao trình độ với việc trợ cấp kinh phí khóa học
cho họ, từ đó làm cho họ gắn bó với doanh nghiệp hơn.
Đồng thời doanh nghiệp có những kế hoạch thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ cho lao động trong doanh nghiệp để tạo điều kiện cho họ được
làm việc ở những vị trí cao hơn, có khả năng phát huy tiềm năng. Cũng như có
những chính sách hàng nằm tuyển những sinh viên mới ra trường vào làm việc và
tạo điều kiện cho họ tiếp tục học tập, tích lũy kinh nghiệm, chế độ ưu đãi về lương
thưởng. Tuy nhiên, trên thực tế cũng không ít các doanh nghiệp thường không
muốn cho nhân viên đi học vì sợ ảnh hưởng tới thời gian làm việc, do đó nhiều
người đi đào tạo về thì không được doanh nghiệp nhận vào làm việc ở nữa do đó
gây cho nhiều người sợ mất việc làm nên không muốn đi học tiếp.
IV. Một số giải pháp nhằm hòan thiện chính sách đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực .
1. Xây dựng mức học phí hợp lý, giao quyền tự chủ về tài chính cho các
trường đại học.
Với nguồn thu từ ngân sách và học phí như hiện nay phần lớn các trường đại
họ cđang trong tình trạng thiếu kinh phí để đầu tư vào cơ sở hạ tầng vật chất của
trường., như thiếu giảng đường, cán bộ và giáo viên của trường không có chỗ làm

việc riêng, trang thiết bị phục vụ học tập thiếu thốn… Vì vậy để nâng cao chất
lượng cơ sở hạ tầng cho qúa trình đào tạo, Nhà nước cần tiếp tục tăng ngân sách cho
giáo dục đào tạo, đồng thời đổi mới phương pháp cấp phát ngân sách, nên căn cứ
vào qui mô đào tạo để ra tỷ lệ % kinh phí do ngân sách cấp. Thay việc cơ quan quản



lý lập hộ các trường dự toán thu chi thì nên ban hành cơ chế kiểm tra, kiểm soát
việc thu chi, nhà trường được tự quyết trong việc sử dụng nguồn thu của mình có
hiệu quả và hợp lý.
Bộ Giáo dục và đào tạo cần nghiên cứu để điều chỉnh mức học phí sao cho
đảm bảo cho nhiều người có điều kiện học đại học trong khi các trường đại học vẫn
có đủ kinh phí cho đào tạo và phát triển.
Ngoài ra nên giao quyền tự chủ về tài chính cho các trường đại học trong việc
tìm nguồn kinh phí cho quá trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực như kêu gọi
các tổ chức tài trợ, liên kết đào tạo với các trường ở nước ngoài
2. Nâng cao chất lượng và phát triển đội ngũ cán bộ giảng viên
Để giải quyết tình trạng thiếu giảng viên hiện nay và giảm tỷ lệ sinh viên/
giảng viên xuống còn 20 sinh viên / giảng viên thì trong thời gian tới Bộ giáo dục
và đào tạo cần nghiên cứu nên giao quyền tự chủ cho các trường đại học và cao
đẳng trong việc quyết định biên chế cho phù hợp với nhu cầu đào tạo của trường.
Trên cơ sở đó các trường dựa vào nhu cầu về số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ
giáo viên để tiến hành tuyển dụng.
Ban hành các chính sách tạo điều kiện để giảng trẻ đi học tập nghiên cứu ở
nước ngòai, tham gia các buổi hội thảo, hội nghị, các buổi trao đổi kinh nghiệm để
nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ có hiệu quả. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế
tuyển dụng, đào tạo, bồi dương đội ngũ cán bộ giảng viên trẻ từ những sinh viên tốt
nghiệp loại giỏi có khả năng nghiên cứu và tiếp tục phát triển và thi tuyển vào vị trí
giảng viên ở các bộ môn. Đồng thời có những chính sách tạo điều kiện cho giảng
viên yên tâm học tập nghiên cứu, nâng cao trình độ như vẫn được hưởng nguyên

lương và phụ cấp, được tài trợ kinh phí học tập, tài liệu bằng nguồn ngân sách của
nhà nước và các nguồn vốn vay của nước ngoài.
Cần phải sửa đổi chế độ lương làm sao đưa mọi khoản thu nhập thực tế từ
công quỹ vào lương và điều chính sự phân phối công bằng để tiền lương thực tế tạo
điều kiện cho đội ngũ cán bộ giảng viên tập trung vào nhiệm vụ giảng dạy, nghiên
cứu mà không phải lo dạy thêm, để đảm bảo cuộc sống.



3. Đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học
Về nội dung chương trình và giáo trình, Bộ giáo dục và đào tạo cần xây dựng
chương trình khung cho bậc đại học và cho ngành học còn nội dung cụ thể để từng
trường tự đảm nhận. Giáo trình nên để cho các trường đại học tạ viết nhưng cần có
một số chuẩn kiến thức phải được thống nhất. Các trường cần phải nghiên cứu và
viết lại giáo trình cho phù hợp với điều kiện hiện nay. Cần xây dựng chương trình
đào tạo theo hướng cá nhân hóa việc học tập của sinh viên, tọa khả năng chuyển đổi
thích ứng với quá trình hợp tác và hội nhập quốc tế, đồng thời cũng cần tạo cơ chế
liên thông để mởi rộng cơ hội lựa chọn cơ hội học tập suốt đời cho người học.
Nhà nước nên quản lý chặt chẽ trong việc biên soạn và in ấn giáo trình để,
đảm bảo chất lưọng về nội dung trong giáo trình đồng thời đảm bảo giá cả phù hợp
với túi tiền của snh viên.
Các trường nên xây dựng các trung tâm thư viện có đủ các loại giáo trình, và
cần phải thường xuyên cập nhật giáo trình phù hợp với tình hình thực tế.
Về phương pháp, cần thay đổi về quan niệm, cách dạy học theo hướng độc
thoại một chiều, thầy giảng học trò ghi chép mà cần dạy theo phương pháp trao đổi
kiến thức hai chiều, đẩy mạnh khả năng tự học, tự đọc sách của sinh viên, tổ chức
nhiều buổi thảo luận theo từng chủ đề, dạy theo vấn đề tình huống, nâng cao tính
sáng tạo, tư duy phê phán và giải quyết vấn đề nơi sinh viên, giúp sinh viên xây
dựng quá trình tự đào tạo.








KẾT LUẬN



Hiện nay quy mô đào tạo ở nước ta đang ngày càng tăng, có nhiều trường đại
học và cao đẳng được thành lập và nhiều chuyên ngành được mở ra để đáp ứng nhu
cầu học tập của mọi người trong xã hội. Nhà nước đã có những chính sách nhằm tạo
điều kiện cho mọi người học tập. Các chính sách nhằm thu hút trước đào tạo đang
phát huy tác dụng, tạo điều kiện cho nhiều người được học tập. Tuy nhiên trong
việc thực hiện trong đào tạo còn nhiều vấn đề đó là kinh phí cho các trường còn ít,
cơ sở vật chất hạ tầng của các trường vẫn thiếu thốn, thiếu trầm trọng đội ngũ cán
bộ giảng viên đại học. Bên cạnh thiếu về số lượng thì chất lượng đội ngũ cán bộ
giảng viên vẫn còn chưa cao. Nội dung và phương pháp dạy và học ở bậc đại học
vẫn còn nhều bất cập và cần phải tiếp tục đổi mới trong thời gian tới. Nhà nước cần
có các chính sách nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực sau khi đào tạo. Như
vậy hiện nay các chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở Việt nam có
những mặt ưu điểm nhưng cũng có những mặt chưa hợp lý cần phải tiếp tục được
sửa đổi, bổ sung để có thể đạt hiệu quả cao trong việc nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực của đất nước.













DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Ths. Nguyễn Vân Điềm & PGS.TS. Nguyễn Ngọc Quân - 2004 - Giáo trình Quản
trị nhân lực - NXB Lao động - Xã hội.
2. GS.TS Nguyễn Minh Đường - 1996 - Bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực
trong điều kiện mới - Xí nghiệp in Bưu điện - Hà nội .
3. TS. Vũ Thành Hưng - 2004 - Một số vấn đề về đào tạo nguồn nhân lực ở Việt
Nam - Tạp chí Kinh tế & Phát triển số 90 tháng 12/2004.
4. Ths. Vũ Thành Hưởng - 2005 - Một số vấn đề bức xúc trong việc gắn đào tạo với
sử dụng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay - Tạp chí Kinh tế & Phát triển số 98
tháng 8/2005
5. Phạm Thành Nghị, Vũ Hoàng Ngân - 2004 - Quản lý nguồn nhân lực Việt Nam,
một số vấn đề lý luận và thực tiễn – NXB Khoa học xã hội.
6. PGS.PTS nhà giáo ưu tú Phạm Đức Thành và PTS Mai Quốc Chánh – 1998 –
Giáo trình Kinh tế lao động – NXB Giáo dục
7. TS. Nguyễn Anh Tuấn - 2005 - Quan điểm và giải pháp để nâng cao chất lượng
giáo dục và đào tạo ở Việt Nam - Tạp chí Kinh tế & Phát triển số 96 tháng 6/2005
8. PTS Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm – 1996 - Phát triển nguồn nhân lực, kinh nghiệm
và thực tiễn nước ta – NXB Chính trị Quốc gia – Hà nội
9. Thông tư liên tịch số 54/TTLT-Bộ GD&ĐT-TC ngày 31/8/1998 của Bộ Giáo dục
& Đào tạo, Bộ Tài chính về việc Hướng dẫn thực hiện thu, chi và quản lý học phí ở
các cơ sở giáo dục và đào tạo công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân

10. Thông tư53/1998/TT-LT/BGD&ĐT-BTC-BLĐ, TB&XH ngày 25/08/1998 của
Liên BộGiáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội.
Hướng dẫn thực hiện chế độ học bổng và trợ cấp xã hội đối với học sinh, sinh viên
các trường đào tạo công lập


11. Tài liệu thu thập trên mạng Internet:
11.1 Luật giáo dục năm 2005

×