Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Tài liệu Giáo trình kế toán chi phí : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ 1 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.12 KB, 89 trang )

Giáo trình kế toán chi phí
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KẾ
TOÁN CHI PHÍ

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ 1
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ
Nghiên cứu kế toán chi phí giúp cho chúng ta thấy rõ vai trò của nhà quản trị lẫn vai trò của kế
toán viên trong quản lý chi phí ở một tổ chức. Nhà quản trị thực hiện các giai đoạn nào của quá
trình quản lý ? Kế toán chi phí có thể giúp cho nhà quản trị như thế nào trong các giai đoạn này ?
Quyển sách này đề cập đến những câu hỏi đó. Trong chương này chúng ta xem xét vai trò của kế
toán chi phí ở đâu trong một tổ chức, và chủ yếu đề cập đến tổ chức là công ty sản xuất, trên cơ sở
đó làm nền tảng để nghiên cứu các chương tiếp theo.
MỤC ĐÍCH VÀ CHỨC NĂNG CỦA KẾ TOÁN CHI PHÍ
Mục đích
Kế toán là một hệ thống thông tin chủ yếu và đáng tin cậy nhất ở hầu hết các tổ chức, hệ thống này
cung cấp tho6nng tin nhằm 5 mục đích chính sau:
Mục đích 1: Phục vụ cho việc đề ra các chiến lược tổng quát và kế hoạch dài hạn: gồm quá trình
phát triển đầu tư vào sản phẩm mới và đầu tư cho tài sản hữu hình, vô hình (bằng sáng chế, nhãn
hiệu, con người…)
Mục đích 2: Cung cấp thông tin liên quan đến các giai đoạn phân bổ nguồn lực như sản phẩm và
trọng tâm khách hàng và định giá, thường được thực hiện qua các báo cáo về khả năng sinh lời của
sản phẩm dịch vụ, loại nhãn hiệu, khách hàng, kênh phân phối v.v…
Mục đích 3: Phục vụ cho việc lập kế hoạch chi phí và kiểm soát chi phí của các mặt hoạt động,
được thực hiện qua các báo cáo về các khoản thu, chi, tài sản và trách nhiệm của các bộ phận và
những khu vực trách nhiệm khác.
Mục đích 4: Đo lường kết quả và đánh giá con người. Gồm những so sánh kết quả thực tế với kế
hoạch. Nó có thể dựa vào các thước đo tài chính và phi tài chính.
Mục đích 5: Thỏa mãn các quy định và yêu cầu pháp lý, các quy định và chế độ thường ấn định
các phương pháp kế toán phải tuân thủ. Những báo cáo tài chính phải tuân thủ các quy định của
chế độ kế toán, cũng như chịu ảnh hưởng của các Cơ quan Nhà nước, như vụ chế độ kế toán hoặc


hội đồng chuẩn mực kế toán.
Tong 5 múc đích trên, kế toán quản trị tập trung vào các mục đích từ 1 đến 4, kế toán tài chính chú
trọng vào mục đích 5. Kế toán chi phí cung cấp thông tin phục vụ cho kế toán quản trị và kế toán
tài chính, nên kế toán chi phí hướng đến cả 5 mục đích nói trên.
Chức năng của kế toán chi phí
Để đạt được những mục tiêu nói trên, kế toán chi phí cung cấp thông tin hỗ trợ cho một số chức
năng khác nhau về mặt tổ chức – kiểm soát hoạt động, tính giá thành sản phẩm, kiểm soát quản lý
và kiểm soát chiến lược – được trình bày qua bảng tóm tắt dưới đây:
CHỨC NĂNG CỦA KẾ TOÁN CHI PHÍ
Kiểm soát hoạt động Cung cấp thông tin phản hồi về tính hiệu quả và chất lượng của
các công việc hoàn thành.
Tính giá thành sản phẩm sản
xuất và tiêu thụ
Đo lường giá vốn của các nguồn lục đã sử dụng để sản xuất một
sản phẩm hay dịch vụ, tiêu thụ và chuyển giao sản phẩm hay
dịch vụ đó cho khách hàng.
Kiểm soát quản lý Cung cấp thông tin về kết quả của các nhà quản lý và các đơn vị
kinh doanh.
Kiểm soát chiến lược Cung cấp thông tin về kết quả tài chính và kết quả có tính cạnh
tranh lâu dài, các điều kiện thị trường, thị hiếu của khách hàng,
và các cải tiến về mặt kỹ thuật của công ty.
Nhu cầu thông tin về chi phí của các cấp quản trị thì khác nhau. ở cấp thi hành, là cấp chế tạo
nguyên liệu thành thành phẩm hay thực hiện dịch vụ cung cấp cho khách hàng, thông tin cần thiết
chủ yếu nhằm để kiểm soát và cải tiến các thao tác. Thông tin không tổng hợp và thường xuyên,
thông tin có tính vật chất và hành động hơn là tài chính và kinh tế. Ở những cấp quản trị cao hơn,
như các cấp quản trị trung gian, là cấp giám sát công việc và được ra các quyết định về các nguồn
lực tài chính và vật chất, sản phẩm, dịch vụ, và khách hàng. Những nhà quản trị này có thể không
cần được thường xuyên cung cấp thông tin kế toán, nhưng thông tin có mức tổng hợp hơn. Họ sử
dụng những thông tin này để nhận diện những dấu hiệu cảnh báo về các lĩnh vực hoạt động khác
với kế hoạch cũng như những quyết định tốt hơn.

Các Ủy viên hội đồng quản trị, là cấp quản trị cấp cao được cung cấp thông titn viề chi phí có tính
tổng hợp các giao dịch và các sự kiện xảy ra ở từng cấp thi hành, khách hàng và từng bộ phận; họ
sử dung những thông tin nay để hỗ trợ cho các quyết định có hiệu quả lâu dài đối với công ty. Các
uy viên thường nhận thông tin về chi phí ít thường xuyên hơn vì họ sử dung thông tin cho các
quyết định có tính chiến lược nhiều hơn là có tính tác nghiệp. Trước đây, các nhà quản trị cấp cao
có thói quen chỉ sử dụng thông tin tài chính để đánh giá mặt kinh tế của các sự kiện xảy ra trong tổ
chức.
PHÂN BIỆT KẾ TOÁN CHI PHÍ, KẾ TOÁN TÀI CHÍNH VÀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
Các chuyên ngành kế toán
Kế toán cung cấp hệ thống thông tin đáng tin cậy cho nhiều đối tượng sự dụng khác nhau. Nhu cầu
thông tin của các nhóm người sử dụng thông tin khác nahu để ra quyết định có thể khái quát qua
sơ đồ sau:
NHU CẦU THÔNG TIN KẾ TOÁN CỦA TỪNG NHÓM SỬ DỤNG ĐỐI VỚI TỪNG
LOẠI QUYẾT ĐỊNH
NHÓM SỬ DỤNG QUYẾT ĐỊNH CÓ NHU CẦU THÔNG TIN
Cổ đông Mua, bán hoặc nắm giữ cổ phiếu
Chủ nợ Tăng, giảm hoặc giữ nguyên mức tín dụng nợ
Nhân viên Đệ trình yêu cầu tăng lương, thay đổi việc làm
Chính phủ Tính thuế, đánh giá tác động của công ty đến môi
trường kinh doanh
Khách hàng Mua sản phẩm của công ty
Nhà quản trị Xác định trình độ và hiệu quả để điều hành hoạt
động kinh doanh
Công chúng Đánh giá tác động về kinh tế và xã hội của công ty
Như vậy, rõ ràng những người cần ra các quyết định khác nhau luôn luôn có nhu cầu thông tin
không giống nhau. Ví dụ: Thông tin cho biết về việc công ty không chấp hành an toàn lao động
theo quy định có thể ảnh hưởng đến các quyết định của nhân viên, nhưng lại không được sự quan
tâm của khách hàng. Phân biệt nhu cầu thông tin của những đối tượng sử dụng khác nhau là một
khó khăn lớn đối với kế toán viên hoặc những người cung cấp thông tin khác mà muốn thõa mãn
tất cả đối tượng này bằng một báo cáo duy nhất hoặc bằng một số lượng báo cáo ít nhất.

Do thông tin kế toán có thể đáp ứng cho nhiều đối tượng có nhu cầu sử dụng khác nhau nên kế
toán được chia thành một số chuyên ngành sau:
Kế toán tài chính (KTTC)
Kế toán tài chính đặt trọng tâm vào việc ghi chép, tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế phát sinh đã xảy
ra trong quá khứ, để phục vụ cho quá trình soạn thảo các báo cáo tài chính theo quy định chung.
Kế toán tài chính phản ánh sự hình thành và vận động của tài sản, nguồn vốn; quá trình kinh
doanh và kết quả của quá trình kinh doanh trong một đơn vị cụ thể, nhằm cung cấp thông tin cho
quản lý va chủ yếu cho những người bên ngoài công ty.
Kế toán chi phí (KTCP)
Là một lĩnh vực của kế toán có liên quan chủ yếu với việc ghi chép và phân tích các khoản mauc5
chi phí (nhằm tính giá thành và kiểm soát chi phí) và dự toán chi phí cho kỳ kế hoạch (nhằm mục
đích lập kế hoạch và là căn cứ để dánh giá). Đôi khi kế toán chi phí còn được gọi là kế toán quản
trị vì nó cung cấp thông tin phục vụ cho chức năng quản trị, trong đó chủ yếu cho chức năng kiểm
soát và đánh giá chi phí kinh doanh cả quá khứ và tương lai.
Kế toán quản trị (KTQT)
Kế toán quản trị đặt trọng tâm giải quyết các vấn đề quản tri ở công ty. Do vậy kế toán quản trị
thiết kế thông tin kế toán nhằm cung cấp cho các nhà quản trị dùng vào việc hoạch định, điều hành
và ra quyết định kinh doanh sẽ xảy ra trong tương lai.
Phân biệt giữa kế toán chi phí, kế toán tài chính và kế toán quản trị
Người t thương phân biệt kế toán quản trị với kế toán tài chính. Kế toán quản trị đo lường và báo
cáo các thông tin có tính chất tài chính cũng như các loại thông tin khác (phí tài chính) có tác dụng
hổ trợ cho các nhà quản trị hoàn thành các mục tiêu của tổ chức. Kế toán tài chính bị gò bó trong
các quy định pháp lý. Chế độ kế toán quy định các nguyên tắc ghi nhận doanh thu, chi phí, các
khoản mục được xếp vào các loại tài sản, công nợ hay định ra các quy định pháp lý về lập báo
cáo… Kế toán chi phí đo lường và báo cáo thông tin chi phí và những thông tin khác có liên quan
đến quá trình huy động và sử dụng các nguồn lực của tổ chức, do đó kế toán chi phí cung cấp
thông tin cho cả kế toán tài chính và kế toán quản trị.
Để phân biệt rõ kế toán chi phí, kế toán tài chính và kế toán quản trị, chúng ta nghiên cứu các
laoi5 thông tin do chúng cung cấp qua minh họa 1.1.
Mục tiêu của minh họa 1.1 nhằm khái quát các căn cứ phân biệt có tính chất phổ biến, thông dung

để làm rõ các loại thông tin, qua đó làm cơ sở định hướng để tạo lập thông tin trên các báo cáo của
kế toán tài chính, kế toán quản trị và kế toán chi phí.
Minh họa 1.1: SƠ ĐỒ PHÂN BIỆT CÁC LOẠI THÔNG TIN KẾ TOÁN
QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG CỦA CHI PHÍ TRONG CÔNG TY SẢN XUẤT
Tất cả các tổ chức đều cần thông tin kế toán để tồn tại và phát triển. Trong chương trình này,
chúng ta chỉ tập trung vào các tổ chức có mục đích lợi nhuận, mà đặc biệt là các công ty sản xuất,
vì 2 lý do:
Phần lớn các nhân viên kế toán chi phí làm việc trong các công ty sản xuất.
Căn cứ
phân biệt
Thông tin kế toán
Loại
thông tin
KTTC KTCP KTQT
Đối tượng
sử dụng chủ
yếu
Bên ngoài
doanh nghiệp
Bên trong và
ngoài DN
Bên trong doanh
nghiệp
Đặc điểm
thông tin
Cố định, quá
khứ, nguyên
tắc
Đáp ứng theo
yêu cầu

Linh hoạt, thích
hợp, tương lai
Báo cáo sử
dụng
Báo cáo tài
chính
- B/C CPSX
- Phiếu CP bộ
phận
Báo cáo theo
yêu cầu quản trị
Kỳ báo cáo
Định kỳ quy
định
Định kỳ và
thường xuyên
Định kỳ và
thường xuyên
Phạm vibáo
cáo
Toàn bộ DN
Chủ yếu bộ phận
Kế toán chi phí là một chuyên ngành đặc biệt của kế toán, được thiết kế cho quá trình báo cáo các
hoạt động kinh doanh của công ty.
Đăc điểm hoạt động của công ty sản xuất
Cơ cấu tổ chức của công ty sản xuất
Công ty sản xuất có ba chức năng chính hay ba mặt hoạt động trong quá trình kinh doanh đó là:
Sản xuất: bao gồm quá trình chế tạo thành phẩm để bán cho người tiêu dùng.
Bán hàng: bao gồm các hoạt động cần thiết để tiêu thụ sản phẩm.
Quản lý hành chính: bao gồm quá trình liên kết các hoạt động sản xuất với hoạt động bán hàng và

các hoạt động khác phát sinh tai công ty.
Tất cả các hoạt động đều đóng góp vào sự thành công của công ty. Người ta thương cho rằng hoạt
động sản xuất và bán hàng là hoạt động trực tiếp, có vai trò quan trọng trong các hoạt động ở công
ty, còn hoạt động nhân sự, kỹ thuật, tài chính là hoạt động gián tiếp có tính chất hành chính. Các
hoạt động thường được chia nhỏ thành nhiều bộ phận gắn với các quyền hạn và trách nhiệm cụ thể
công việc. Việc phân chia nhỏ các bộ phận tùy thuộc vào quan điểm phân quyền và đặc điểm, điều
kiện kinh doanh của từng công ty.
Cơ cấu tổ chức của công ty sản xuất có thể khía quát qua sơ đồ sau:
Minh họa 1.2 : SƠ ĐỒ CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA DNSX
Qua sơ đồ trên cho ta thấy Tổng Giám đốc là nhà quản trị có toàn quyền trong điều hành hoạt
động sản xuất kinh doanh, phân quyền cho các Giám đốc có quyền điều hành các mặt hoạt động,
trong phạm vi và quyền hạn được giao. Theo quyền hạn đó Giám đốc phân quyền cho các bộ phận
cấp dưới là các bộ phận , phân xưởng sản xuất, các phòng ban…
Thông thường những người ở vị trí gián tiếp hoàn thành các chức năng quản lý hành chính của
công ty và hỗ trợ cho những ở vị trí trực tiếp. Theo nguyên tắc chung phần lớn các công ty là
không ai được phá vỡ hệ thống, mắt xích quyền hạn trong quá trình giải quyết các vấn đề đặt ra.
Quá trình hoạt động của công ty sản xuất
Quá trình hoạt động của công ty sản xuất có thể mô tả là quá trình mà theo đó tổ chức liên kết các
thị trường để mua các yếu tố đầu vào cho sản xuất, va2ban1 sản phẩm. Chi phí của quá trình này
bao gồm tất cả các khoản chi phí cần thiết để đưa sản phẩm vào vị thế có thể bán được, nghĩa là
chúng bao gồm các chi phí mua vào, sản xuất, tiêu thụ, hành chính và tài chính. Quá trình này
được minh họa qua sơ đồ sau:
Minh họa 1.3 : QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA DNSX
Tổng Giám
đốc
Giám đốc
Sản xuất
Giám đốc
Kinh doanh
Giám đốc

Nhân sự
Giám đốc
Tài chính
Giám đốc
Kỹ thuật
- Các FXSX
- Quản lý
kho
- Q. lý thu
mua
- Bảo trì
- Quản lý các
bộ phận KD
(Cửa hàng A,
B, C…)
- Phòng Q.
lý nhân
viên
- Đề đạt
khen
thưởng
- Kế toán
- Thủ quỹ
- Kiểm
toán
- P.K. tra
chất lượng
- P.N. cứu
PTS xuất
Mua các

nguồn lực
− Đất đai
− Nhà xưởng
− Máy móc
thiết bị
− Nguyên
vật liệu
− Năng
lượng
− Lao động
− Các dịch
vụ khác…
Tồn trữ các
nguồn lực
− Đất đai
− Nhà xưởng
− Máy móc
thiết bị
− Nguyên
vật liệu
− Dầu, than

Quá
trình
sản
xuất
Tồn
kho
thành
phẩm

Bán
thành
phẩm
Quá trình hoạt động qua sơ đồ trên gồm 5 giai đoạn.
Giai đoạn 1: Mua các nguồn lực
Quá trình bắt đầu tổ chức, mua các yếu tố khác nhau của quá trình sản xuất. Công ty thường mua
các yếu tố sản xuất theo khối lượng đủ để đề phòng thiếu hụt đình trệ quá trình sản xuất.
Có hai nguồn lực cần phân biệt: Loại thứ nhất chúng ta thường gọi là nguồn lực lâu dài hay cố
định, như đất đai nhà xưởng, máy móc thiết bị. Nguồn lực cố định tạo thành năng lực sản xuất của
công ty, nó biểu hiện đến mức tối đa. Loại thứ 2 liên quan đến yếu tố sản xuất ngắn hạn như
nguyên vật liệu, năng lượng… chúng được tiêu dùng nhanh chóng trong quá trình sản xuất, còn
nguồn lực lao động đượcbỏ qua không thuộc loại dài hạn hay ngắn hạn; nghĩa là lao động không
phải lực lượng tồn trữ sản xuất.
Giai đoạn 2: Tồn trữ nguồn lực
Khi các yếu tố đầu vào của các quá trình sản xuất được mua, chúng được dự trữ để chờ đưa vào
quá trình sản xuất. Tồn trữ các yếu tố đầu vào dễ nhận diện nhất là nguyên liệu cất giữ trong kho,
tùy vào nhu cầu sản xuất, đặc điểm của từng loại nguyên liệu mà công ty mua vào dự trữ cho sản
xuất.
Dự trữ các nguồn lực dài hạn và ngắn hạn phụ thuộc vào bản chất của quá trình sản xuất, cũng như
các mức giá trên thị trường của các yếu tố đó.
Giai đoạn 3: Quá trình sản xuất
Quá trình sản xuất được bắt đầu từ quá trình chuyển nguyên liệu từ kho vào phân xưởng sản xuất,
ở đó chúng được kết hợp với máy móc, sức lao động, năng lượng, phụ liệu và các nguồn lực khác
theo tỷ lệ nhất định để tạo ra thành phẩm.
Độ dài của chu kỳ sản xuất (quá trình biến đổi các yếu tố đầu vào thành thành phẩm) sẽ phụ thuộc
vào bản chất của quá trình đó.
Dù cho phương pháp hoặc tốc độ quá trình sản xuất như thế nào, kỹ thuật của quá trình đó cơ bản
là giống nhau. Ở đầu vào các yếu tố đưa vào quá trình theo các tỷ lệ và ở đầu kia, thành phẩm tạo
ra.
Giai đoạn 4: Sự tồn trữ thành phẩm

Vào giai đoạn hoàn thành quá trình sản xuất thành phẩm được chuyển vào kho để đem bán. Mục
đích của công ty là đảm bảo sao cho có sự cân đối giữa số lượng thành phẩm với số lượng có thể
tiêu thụ. Số lượng thành phẩm trong kho ở bất kỳ thời điểm nào cũng đại diện cho số lượng thành
phẩm hoàn thành, nhưng chưa tiêu thụ được.
Giai đoạn cuối cùng của quá trình hoạt động là bán thành phẩm cho khách hàng. Quá trình tiêu thụ
được xem là chấm dứt khi thành phẩm đã giao cho khách hàng. Giai đoạn này của quá trình sẽ bao
gồm các yếu tố đầu vào, các yếu tố của quá trình tiêu thụ, tiếp thị và quản lý hành chính.
Quá trình vận động của chi phí trong công ty SX
Công ty sản xuất cung cấp sản phẩm hữu hình, mà chúng hình thành từ nguyên vật liệu được mua
từ các công ty sản xuất hoặc công ty thương mại. Đến cuối kỳ, tồn kho của công ty sản xuất gồm
nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang và thành phẩm. Quá trình vận động của chi phí trong công ty
sản xuất được khái quát qua sơ đồ sau:
CHI PHÍ BCĐKT KQHĐKĐ
TỔNG CHI PHÍ SẢN XUẤT KINH DOANH
Mua NVL TỒN KHO
NVL
Chi phí SXTT
khac
TỒN KHO
SPDD
Doanh thu
Tồn kho
thành
phẩm
Giá vốn
hàng bán
CPSX gián tiếp
CPKHTSCĐ
TSCĐ
Lãi gộp

CP đầu tư
vào TSCĐ
CP HĐKD
khác
CP HĐKD phát
sinh trong kỳ
Lãi HĐKD
(-)
(=)
(-)
(=)
(1)
(2)
(3) (4)
(5)
Sơ đồ trên nhằm minh họa quá trình vận động của chi phí ở công ty sản xuất, bao gồm các loại chi
phí của các hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, với quá trình vận động của chúng qua các
báo cáo tài chính.
Từ sơ đồ trên cho ta thấy mối liên hệ giữa bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh. Căn cứ trên mối quan hệ đó, giá vốn hàng bán ở công ty sản xuất có thể được xác định qua
các bước sau:
Giá vốn
hàng bán
=
Trị giá TP
tồn kho ĐK
+
Giá trị TP
nhập kho
-

Giá trị TP
tồn kho CK
Trị giá TP
nhập kho
=
Trị giá SP dd
ĐK
+
Tổng CPSX
phát sinh
-
Trị giá SP
dd CK
Tổng CPSX
phát sinh
=
CPNVLTT
trong kỳ
+ CPNCTT
trong kỳ
+ CPSXC
trong kỳ
KẾ TOÁN CHI PHÍ TRONG MÔI TRƯƠNG CẠNH TRANH TOÀN CẦU
Khởi sự vào giữa thập nie6n, các công ty sản xuất ở Bắc Mỹ và Châu Âu phải đối đầu với sự cạnh
tranh gay gắt với các công ty nước ngoài có ưu thế hàng hóa chất lượng cao và giá thấp. Các mạng
lưới toàn cầu huy động và chi tiêu vốn để mua và vận chuyển nguyên liệu, và để phân phối thành
phẩm cho phép những nhà sản xuất giỏi nhất dù đóng ở bất kỳ quốc gia nào cũng có thể tiếp cận
với những thị trường nội địa trên khắp thế giới. Trong môi trường toàn cầu hiện nay, một công ty
có chi phí và chất lượng ngang băng với các đối thủ cạnh tranh nội địa chưa đủ để có thể tồn tại và
thịnh vượng nếu chi phí, chất lượng và sản phẩm của công ty đó không tốt như các công ty hàng

đầu trên thế giới.
Các hệ thống trước đây mà các công ty đã sử dụng trong nhiều thập niên để đo lường chi phí sản
phẩm ngày nay đã cung cấp những thông tin bị bóp méo nhiều. Những hệ thống này không thể
phân bổ một cách chính xác chi phí của những nguồn lực gián tiếp khổng lồ cần thiết để thiết kế,
sản xuất, tiếp thị,bán, giao sản phẩm và dịch vụ. Những sai sót do hệ thống tính giá thành gây ra vì
không còn phản ảnh được mặt kinh tế của các hoạt động hiện hành đã khiến các nhà quản lý, các
nhà thiết kế, và các nhà điều hành trực tiếp không có được các quyết định đúng đắn.
Những yêu cầu mới đối với thông tin kế toán chi phí
Trong môi trường cạnh tranh mãnh liệt, các nhà quản lý của cả các tổ chức dịch vụ lẫn các công ty
sản xuất đầu cần có thông tin chính xác, thích hợp về các chi phí thực tế. Đối với các công ty sản
xuất, các nhà quản lý cần thông tin để làm các việc sau:
Giúp các kỹ sư thiết kế những sản phẩm mà có thể được sản xuất một cách hiệu quả.
Báo hiệu nơi nào trong các hoạt động sản xuất cần cải tiến về chất lượng, năng suất, và tốc độ.
Hướng dẫn các quyết định về cơ cấu sản phẩm.
Lựa chọn các nhà cung cấp.
Thương lượng giá, đặc điểm sản phẩm, chất lượng, phương thức giao hàng, và dịch vụ với khách
hàng…
Các nhà quản lý ở các công ty dịch vụ cần đo lường một cách chính xác chi phí và khả năng sinh
lời của các loại sản phẩm, các bộ phận thị trường, và từng loại sản phẩm và khách hàng. Cả các
nhà quản lý các công ty sản xuất lẫn công ty dịch vụ đều cần các hệ thống kiểm soát hoạt động
mà có thể giúp họ cải tiến chi phí, cải tiến chất lượng, và giảm thời gian làm việc của nhân viên.
Ngày nay kế toán viên chi phí thỏa mãn nhu cầu đòi hỏi thông tin tốt hơn bằng cách sử dung hệ
thống tính giá thành dựa trên hoạt động, là hệ thống đo lường chính xác hơn chi phí của các
hoạt động, sản phẩm, dịch vụ, và khách hàng. Các hệ thống kiểm soát chi phí dựa trên hoạt động
là hệ thống cung cấp thông tin phản hồi đúng lúc để nhận biết và cải tiến chi phí, là hệ thống liên
kết các quyết định và hành động hiện hành với các lợi ích tài chính lâu dài.
Hệ thống tính giá thành dựa trên hoạt động
Ngày nay, các tổ chức sản xuất và dịch vụ đang vận dụng phương pháp tính giá thành dựa trên
hoạt động gọi tắt là ABC, để giải quyết hạn chế của các hệ thống tính giá thành truyền thống trong
việc phân bổ một cách chính xác các khoản chi phí gián tiếp của họ. Ngày nay có rất nhiều

công ty sản xuất có chi phí gián tiếp gấp 5, 10 lần chi phí lao động trực tiếp. Các hệ thống tính giá
thành truyền thống phân bổ những khoản chi phí để lộ những sai lầm lớn trong chi phí phân
bo613cho sản phẩm và khách hàng.
Các hệ thống tính giá thành dựa trên các hoạt động (ABC) tránh được những phân bổ chủ quan và
những nhầm lẫn về chi phí theo sau bằng cách: Trước hết phân bố chi phí của các nguồn nhân lực
cho những hoạt động có sử dung các nguồn lực đó. Sau đó chi phí của hoạt động được phân bổ
cho sản phẩm, dịch vụ và khách hàng mà gây ra nhu cầu hoặc được hưởng lợi từ những hoạt động
đã hoàn thành đó. Điều này có nghĩa là chi phí mua nguyên liệu được phân bổ cho các mặt hàng
mua vào, chi phí thiết kế sản phẩm được phân bổ cho những sản phẩm mới được thiết kế, và chi
phí hỗ trợ khách hàng được phân bổ cho cá nhân khách hàng.
Quản lý dựa trên hoạt động
Lúc đầu các công ty sử dụng phương pháp tính giá thành dựa trên hoạt động để phân tích các số
liệu tài chính trước đây. Họ phân bổ các chi phí hoạt động kinh doanh của kỳ gần nhat61cho sản
phẩm và dịch vụ sản xuất và khách hàng được phục vụ trong kỳ đó. Quá trình này cho phép các
nhà quản lý nhận biết chi phí thực tế của các hoạt động và quy trình thực hiện trong kỳ vừa qua và
khả năng sinh lợi của các loại sản phẩm, dịch vụ và khách hàng của kỳ trước đó. Thông tin này trở
thành thông tin căn bản để hành động, thường được xem như quản lý dựa trên hoạt động
(ABM) trong kỳ sắp đến. ABM bao gồm rất nhiều quyết địh để thực hiện các công việc sau:
Điều chỉnh phương pháp tính giá, cơ cấu sản phẩm, và cơ cấu khách hàng
Củng cố mối quan hệ giữa khách hàng với nhà cung cấp
Cải tie5n1 mẫu mã của sản phẩm và dịch vụ
Thực thi các hoạt động hiệu quả hơn
Loại bỏ nhu cầu phải thực hiện một số hoạt động nhất định mà không tạo ra giá trị đối với khách
hàng
Thí dụ ABM quản lý dực trên hoạt d9o6ng556bao gồm những nỗ lực hiện nay để tái bố trí và cải
tiến các quá trình kinh doanh và đầu tư vào những công nghệ mới mà làm giảm chi phí thực hiện
các hoạt động chủ yếu.
Ngày nay các công ty hàng đầu còn vận dụng các hệ thống tính giá thành dựa trên hoạt động của
họ tròng các mô hình dự báo. Thay vì chỉ nhập các số liệu lịch sử vào hệ thống tính giá thành dực
trên hoạt động, các công ty này đã sử dụng các số liệu dự toán để ước tính chi phí của hoạt động

trong kỳ tương lai. Ngoài ra họ còn ước tính chi phí tương lai của việc sản xuất sản phẩm và phục
vụ khách hàng. Những con số dự báo này giúp các nhà quản trị có các quyết định tốt hơn trước khi
các sự kiện thực tế xảy ra và tác động vào cách ứng xử của chi phí tương lai một cách chủ động
hơn. Thí dụ, bằng cách sủ dụng hệ thống tính giá thành dựa trên hoạt động, nhà quản lý có thể
điều chỉnh mức cung các nguồn lực (con người, thiết bị và phương tiện) ở các kỳ tương lai với nhu
cầu ước tính đối với các hoạt động nhằm đáp ứng số lượng và cơ cấu dự kiến về sản phẩm, dịch vụ
và khách hàng. Một khi các nhà quản trị còn sử dụng hệ thống tính giá thành dực trên hoạt
động làm nền tảng cho hệ thống dự toán của họ thì rất nhiều khoản mục chi phí trước đây
được xem là cố định sẽ trở thành khả biến, vì nhà quản trị có thể điều chỉnh mức cung của
các nguồn lực này cho phù hợp với nhu cầu sử dụng tiềm năng của chúng.
Sự đổi mới của kế toán chi phí
Việc tính toán chi phí của các hoạt động, sản phẩm và khách hàng của kế toán chi phí trước đây
cho thấy là không phù hợp trong môi trường cạnh tranh và công nghệ sản xuất không ngừng thay
đổi như hiện nay. Với các báo cáo tổng hợp hàng tháng về kết quả tài chính, hệ thống kiểm soát
chi phí của công ty dã gửi quá trễ các báo cáo đến cho các nhà quản lý để họ kịp có hành động sửa
sai. Đồng thời, thông tin trên các báo cáo này quá tổng hợp để cho phép các nhà quản trị nhận biết
được những nguyên nhân gây ra các biến động xấu. Điều này cho thấy kế toán chi phí cần phải co
sự thay đổi để đáp ứng được nhu cầu thông tin kịp thời cho công tác quản lý và thông tin do kế
toán chi phí cung cấp phải thật chi tiết đủ để giúp cho người quản lý kiểm soát và nghiên cứu cải
tiến chi phí.
Có một nhà quản trị cấp cao đã nhận xét: Để hiểu được vấn đề của thông tin tài chính chậm trễ và
tổng hợp, bạn hãy hình dung nhà quản trị như một người chơi bowling, đang mỗi phút thảy trái
banh vào các chai nhưng lại không được thông báo cho biết mỗi lần thảy trái banh đã làm ngã
được bao nhiêu chai. Đến cuối tháng chúng ta kết sổ, tính tổng số chai bị thảy ngã trong tháng, so
sánh số liệu này với mức chuẩn, và báo lại cho người chơi biết số tổng cộng và số chênh lệch. Nếu
số tổng cộng thấp hơn mức chuẩn, chúng ta đòi hỏi người chơi giải thích và khuyến khích anh ta
nên cố g8ang1 hơn vào tháng sau. Chúng ta bắt đầu hiểu ra rằng chúng ta sẽ không thể đào tạo
được nhiều người chơi bowling đẳng cấp thế giới với một hệ thống báo cáo như thế này.
Báo cáo kết quả hàng tháng của rất nhiều bộ phận kinh doanh cũng bắt đầu dày đặc với những
khoản phân bổ chi phí khiến cbo các nhà quản tri phải chịu trách nhiệm đối với kết quả mà họ

không đặt dưới sự kiểm soát của họ cũng như không thể truy cứu chúng. Chi phí của các nguồn
lực cấp công ty, như chi phí thắp sáng và điều hòa nhiệt độ trong văn phòng hay ở khuôn viên bên
ngoài, cũng được phân bổ một cách tùy tiện cho từng bộ phận cho dù những bộ phận này không có
trách nhiệm với các khoản chi phí đó. Thí dụ, hãy trở lại với ví dụ trên, hãy nghĩ về các kế toán
viên, sau khi một quả banh được thảy xuống mỗi một làn trong sân chơi 35 làn bóng, đếm tất cả số
chai bị ngã của cả sân chơi 35 làn rồi sau đó chia tổng số chai bị ngã cho 35 và báo cáo lại số bình
quân cho từng người chơi. Con số này có thể được tính rất chính xác nhưng nó vô nghĩa đối với cá
nhân người chơi. Từng người chơi muốn biết kết quả của chính họ, họ không cần số bình quân.
Những người chơi không muốn kết quả của bản thân họ bị ảnh hưởng bởi hành động của những
người khác mà họ không thể kiểm soát được.
Những dấu hiệu bị bóp méo và chậm trễ của các hệ thống KTCP đã có những biểu hiện thay đổi
sâu sắc trong các tổ chức. Bản chất của công việc đã có những biến đổi về căn bản. Các tiêu chuẩn
công việc và chi phí tiêu chuẩn đã được các kỹ sư thiết lập từ một thế kỷ nay trong phong trào
quản lý khoa học. Hệ thống tiêu chuẩn công việc và chi phí phản ảnh một quan điểm mà qua đó
các nhà quản trị xác định công việc của những người thừa hành. Những người thừa hành được
hướng dẫn để tuân thủ các thủ tục này, và hệ thống đo lường (so sánh kết quả thực tế với các tiêu
chuẩn đã xây dựng) được dùng để kiểm tra liệu công nhân có tuân theo các thủ tục đó hay không.
Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt hiện nay, các Công ty chỉ so sánh kết quả với các tiêu
chuẩn quá khứ thì chưa đủ. Cải tiến không ngừng kết quả là cần thiết để sánh vai hoặc vượt trội
các đối thủ cạnh tranh hàng đầu. Cải tiến không ngừng ngụ ý là những quá trình mà người công
nhân không ngừng giải quyết vấn đề và tìm tòi cách thức để làm giảm hoặc loại trừ hao hụt, nâng
cao chất lượng, và giảm thiểu khiếm khuyết.
Ngày nay nhiều nhà quản trị đã nhận thức rằng nguồn sáng kiến mới tốt nhất để cải tiến không
ngừng chính ở chỗ công nhân trực tiếp sản xuất, là những người gắn bó nhất với công việc đang
được thực hiện. Những người này nhìn thấy các hình thức khiếm khuyết đang xảy ra và những
nguyên nhân chính gây nên các khiếm khuyết đó. Cho phép công nhân được hành động mà không
áp đặt lệnh từ các nhà quản trị trung gian và cấp cao được xem là sự trao quyền hạn chp công
nhân. Troa quyền hạn cho công nhân là nhà quản trị cho phép những công nhân trực tiếp sản
xuất, trực tiếp tiếp xúc với khách hàng và nhà cung cấp được quyền ra quyết định. Công nhân
được khuyến khích giải quyết vấn đề và sáng tạo ra những phương pháp mới để thực thi công việc

và làm vừa lòng khách hàng. Tuy nhiên, để áp dụng những cải tiến này, công nhân không thể gắn
bị gắn một cách chặt chẽ với các tiêu chuẩn do các kỹ sư và các nhà quản lý xây dựng từ trước mà
đúng hơn họ cần thông tin để thử nghiệm các giải pháp được thiết kế nhằm sử chữa tận gốc các
nguyên nhân gây ra khiếm khuyết. Họ cũng cần thông tin:
Để nhận diện nguồn gốc và những nguyên nhân có thể có của các khiếm khuyết.
Để thấy ngay lập tức những hậu quả từ việc cố gắng sửa chữa các nguyên nhân gây ra khiếm
khuyết.
Trong quan điểm quản lý chất lượng toàn diện (TQM) này, công nhân chính là người giải quyết
vấn đề. Họ là một bộ phận của quá trình mà giúp cho họ tìm ra giải pháp để loại bỏ sản phẩm
hỏng, hao hụt, và các hoạt động không tăng thêm giá trị cho khách hàng. Như vậy vai trò của công
nhân đã thay đổi. Họ không còn chỉ phải tuân thủ các thủ tục hoạt động tiêu chuẩn và giám sát
máy móc sản xuất sản phẩm. Bây giờ họ phải nhanh chóng nhận ra vấn đề khi chúng phát sinh,
nghĩ ra các phương pháp chống lại các vấn đề đó, áp dụng các phương pháp này, và thử nghiệm và
công nhận các vấn đề đã được các phương pháp đó giải quyết. Đối với trách nhiệm này, công nhân
cần thông tin mới để giúp họ giải quyết vấn đề chứ không chỉ so sán h chúng với các chuẩn mực
có sẵn mà nhanh chóng trở nên lạc hậu. Ngày nay thông tin kế toán chi phí đã chuyển từ sự chú
trọng vào quá khứ qua việc kiểm soát các hành động của công nhân. Thay vào đó, các nhà quản trị
đang triển khai những hình thức thông tin kế toán chi phí mới để hỗ trợ và gai tăng quyền hạn cho
công nhân viên nhằm giúp họ liên tục cải tiến hoạt động của mình.
 ẩm
gỗ b.2.
pc. d. e.
 e.1.

HẾT CHƯƠNG
1
  e.2.
 e.3. đại
Phương trình chi phí bảo trì của doanh nghiệp là:
y = 2.000 x + 500.000 o 3.

II. 1. 2. a. b. ội
Chươg 3
KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM THEO CHI PHÍ THỰC
TẾ
Chương này trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản như sau:
Mục tiêu, đăc điểm kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo chi phí thực tế.
Lý luận cơ bản về đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, đối tượng tính giá thành, kỳ tính giá thành
trong kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Quy trình kế toán chi phísản xuất và tính giá thành sản phẩm theo chi phí thực tế.
Vận dụng những lý luận cơ bản kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo chi phí
thực tế vào:
Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm công nghiệp.
Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp.
Kế toánchi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nông nghiệp.
Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm dịch vụ.
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN PHẨM VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN
PHẨM THEO CHI PHÍ THỰC TẾ
Mục tiêu kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo chi phí thực tế
Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo chi phí thực tế là một trong những mô
hình kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ra đời sớm nhất. Từ khi ra đời cho đến
nay, mục tiêu mô hình kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo chi phí thực tế vẫn
gắn liền với quá trình tập hợp, phân bổ chi phí sản xuất thực tế để tính giá thành thực tế sản phẩm
nhằm hướng đến 3 mục tiêu cơ bản:
Mục tiêu thứ nhất, cung cấp thông tin cho việc lập báo cáo tài chính.
Mục tiêu thứ hai, cung cấp thông tin phục vụ cho hoạch định, kiểm soát và ra quyết định trong nội
bộ công ty.
Mục tiêu thứ ba, cung cấp thông tin để tiến hành việc nghiên cứu cải tiến chi phí sản xuất.
Trong 3 mục tiêu trên, mục tiêu thứ nhất thường gắn liền và chỉ thay đổi cùng với những nguyên
tắc kế toán, chuẩn mực kế toán của từng quốc gia. Mục tiêu thứ hai và mục tiêu thứ ba thường gắn
liền và thay đổi theo nhu cầu thông tn quản trị chi phí sản xuất của từng công ty.

Đăc điểm kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo chi phí thực tế
Đặc điểm của mô hình kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành theo chi phí thực tế là:
Tập hợp chi phí sản xuất căn cứ vào chi phí sản xuất thực tế phát sinh.
Tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm đều dựa trên cơ sở chi phí sản xuất thực tế.
Những đặc điểm trên đây thể hiện thông tin giá thành sản phẩm theo mô hình kế toán chi phí sản
xuấtvà tính giá thành sản phẩm theo chi phí thực tế chi có được sau khi quá trình sản xuất kết thúc,
giá thành sản phẩm thể hiện chi phítrong quá khứ, rất phù hợp với thông tin theo yêu cầu kế toán,
nguyên tắc kế toán, chuẩn mực kế toán chung khi lập và trình bày báo cáo tài chính. Sự phù hợp
này đã thể hiện vai trò tích cực của mô hình kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
theo chi phí sản xuất thực tế qua một thời kỳ lịch sử khá dài. Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay,
khi mà công nghệ sản xuất thay đổi nhanh chóng, kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm theo chi phí thực tế đang đứng trước nhu cầu cải tiến bức bách để đáp ứng tốt hơn về cung
cấp thông tin phục vụ cho quá trình quản trị chi phí.
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, đối tượng tính giá thành, kỳ tính giá thành
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất:
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là phạm vị, giới hạn nhất định để tập hợp chi phí sản xuất.
Thực chất của việc xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là xác định chi phí sản xuất phát
sinh ở những nơi nào (phân xưởng, bộ phận, quy trình sản xuất…) và thời kỳ chi phí phát sinh
(trong kỳ hay trước kỳ) để ghi nhận vào nơi chịu chi phí (sản phẩm A, sản phẩm B…).
Để xác định được đối tượng tập hợp chi phí sản xuất người ta thường dựa vào những căn cứ như:
địa bàn sản xuất, cơ cấu tổ chức sản xuất, tính chất quy trình công nghệ sản xuất, loại hình sản
xuất, đặc điểm sản phẩm, yêu cầu quản lý, trình độ và phương tiện của kế toán. Các đối tượng tập
hợp chi phí sản xuất có thể là phân xưởng sản xuất, quy trình công nghệ sản xuất, sản phẩm hay
nhóm sản phẩm, đơn đặt hàng, công trường thi công…
Trong công tác kế toán, xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là cơ sở xây dựng hệ thống
chứng từ ban đầu liên quan đến chi phí sản xuất, xây dựng hệ thống sổ chi tiết của chi phí sản
xuất.
Đối tượng tính giá thành:
Đối tượng tính giá thành sản phẩm là khối lượng sản phẩm, dịch vụ hoàn thành nhất định mà công
ty cần tính tổng giá thành và giá thành đơn vị sản phẩm. Xác định đối tượng tính giá thành thường

gắn liền với giải quyết hai vấn đề cơ bản. Vấn đề thứ nhất, về mặt kỹ thuật, khi nào một sản được
công nhận là hoàn thành; vấn đề thứ hai, về mặt thông tin, khi nào cần tính tổng giá thành và giá
thành đơn vị. Để xác định đối tượng tính giá thành, kế toán có thể dựa vào những căn cứ như: quy
trình công nghệ sản xuất, đặc điểm sản phẩm, yêu cầu quản lý, trình độ và phương tiện của kế
toán.
Đối tượng tính giá thành sản phẩm thường được chọn là sản phẩm, dịch vụ hoàn thành, hoặc
những chi tiết, khối lượng sản phảm dịch vụ đến một điểm dừng thích hợp mà nhà quản lý cần
thông tin về giá thành.
Lựa chọn đối tượng tính giá thành thích hợp sẽ là cơ sở để tính giá thành chính xác.
Giữa đối tượng tính giá thành với đối tượng tập hợp chi phí sản xuất thường có nhữngn mối quan
hệ với nhau:
Một đối tượng tập hợp chi phí sản xuất tương ứng với một đối tượng tính giá thành sản phẩm như
trong các quy trình công nghệ sản xuất, sản xuất theo đơn đặt hàng…
Một đối tượng tập hợp chi phí sản xuất tương ứng với nhiều đối tượng tính giá thành sản phẩm
như trong các quy trình công nghệ sản xuất tạo ra nhiều loại sản phẩm.
Nhiều đối tượng tập hợp chi phí sản xuất tương ứng với một đối tượng tính giá thành sản phẩm
như trong các quy trình công nghệ sản xuất phức tạp gồm nhiều giai đoạn.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa đối tượng tập hợp chi phí sản xuất với đối tượng tính giá thành giúp
kế toán thiết lập quy trình kế toán chi phí sản xuất tính giá thành sản phẩm và phân bổ chính xác
hơn chi phí sản xuất vào giá thành sản phẩm.
Kỳ tính giá thành:
Kỳ tính giá thành sản phẩm là khoảng thời gain cần thiết phải tiến hành tổng hợp chi phí sản xuất
và tính tổng giá thành, giá thành đơn vị. Tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh kế, kỹ thuật sản xuất và nhu
cầu thông tin giá thành, kỳ tính giá thành có thể được xác định khác nhau. Trong kế toán chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo chi phí thực tế, kỳ tính giá thành được chọn trùng với kỳ
kế toánnhư tháng, quý, năm.
Xác định kỳ tính giá thành sẽ giúp cho kế toán xác định rõ khoảng thời gian chi phí phát sinh, thời
gian tổng hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm để thu nhập, cung cấp thông tin cho việc lập báo
cáo kế toán; ra quyết định và đánh giá hoạt động sản xuất theo yêu cầu nhà quản lý trong từng thời
kỳ.

Quy trình kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo chi phí thực tế
Quá trình kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo chi phí thực tế có thể tiến hành
theo nhiều quy trình khác nhau. Quá trình này có thể khái quát qua sơ đồ sau:
Chi phí sản xuất thực
tế đầu vào
(Chi phí sản xuất dở
dang đầu kỳ + Chi phí
sản xuất thực tế phát
sinh trong kỳ)
Chi phí sản xuất thực
tế đầu ra
(Giá thành thực tế
sản phẩm + Chi phí
sản xuất dở dang
cuối kỳ)
Quy trình kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo chi phí thực tế có thể trình bày
qua các bước cơ bản như sau:
Xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, đối tượng tính giá thành, kỳ tính giá thành và kết cấu
giá thành sản phẩm thích hợp với từng loại hình doanh nghiệp.
Xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất để làm cơ sở xây dựng hệ thống chứng từ ban đầu của
chi phí, mở sổ chi tiết ci phí và tiến hành tập hợp chi phí sản xuất. Theo chế độ kế toán hiện nay,
chứng từ chi phí và sổ chi tiết đều mang tính hướng dẫn các doanh nghiệp có thể linh hoạt điều
chỉnh hay tự xây dựng theo đặc điểm kinh tế kỹ thuật và nhu cầu thông tin cho quản lý.
Xác định đối tượng tính giá thành để làm cơ sở tiến hành tổng hợp chi phí sản xuất và tính tổng
giá thành, giá thành đơn vị sản phẩm.
Xác định kết cấu giá thành sản phẩm theo từng loại hình doanh nghiệp để làm nền tảng nhận diện
quan hệ, phạm – vi chi phí sản xuất có liên quan. Kết cấu giá thành sản phẩm tuỳ thuộc vào đặc
điểm kinh tế - kỹ thuật – sản xuất của từng ngành. Tuy nhiên về cơ bản, theo chế độ kế toán Việt
Nam hiện nay, chỉ được tính vào giá thành sản phẩm phần chi phí sản xuất. Các chi phí khác, như
chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp hay các khoản chi do nguồn vốn chuyên dùng tài

trợ như quỹ đầu tư xây dựng, quỹ phúc lợi… không được tính vào giá thành sản phẩm.
Tập hợp chi phí SX theo từng đối tượng tập hợp chi phí.
Quá trình tập hợp chi phí sản xuất tuỳ thuộc vào đặc điểm ban đầu của chi phí sản xuất phát sinh,
môi1 quan hệ giữa nchi phí phát sinh với từng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất. Tiến hành tập
hợp trực tiếp từ chứng từ vào đối tượng tập hợp chi phí hoặc từ chứng từ tập hợp chung sau đó
chọn tiêu thức thích hợp để phân bổ cho từng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất. Quá trình tập
hợp chi phí sản xuất thường phải được xem xét theo 3 loại chi phí: chi phí sản xuất thực tế phát
sinh trong kỳ, chi phí trả trước và chi phí phải trả liên quan trong kỳ.
Tổng chi phí sản xuất.
Tiến hành tổng hợp chi phí sản xuất đã tập hợp được theo từng đối tập hợp chi phí sản xuất. Quá
trình tổng hợp chi phí sản xuất có thể tiến hành thông qua kết chuyển trực tiếp chi phí sản xuất
trực tiếp hoặc phải chọn tiêu thức phân bổ thích hợp để phân bổ chi phí sản xuất gián tiếp vào các
đối tượng tính giá thành.
Tính tổng giá thành, giá thành đơn vị từng sản phẩm.
Việc tính tổng giá thành sản phẩm và giá thành đơn vị từng sản phẩm có thể thực hiện theo một
trong 2 trình tự sau:
Từ tổng chi phí đầu vào (chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ và chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ)
tiến hành tính chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ và loại trừ chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ ra khỏi
tổng chi phí đầu vào để tính tổng giá thành và giá thành đơn vị sản phẩm.
Từ tổng chi phí đầu vào (chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ và chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ)
tiến hành tính chi phí sản xuất của mỗi sản phẩm hoàn thành tương đương sau đó tính chi phí sản
xuất dở dang cuối kỳ, tổng CPSX và CPSX đơn vị cho sản phẩm hoàn thành tương đương trong
kỳ.
KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM CÔNG NGHIỆP
Khái quát về sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp là một ngành sản xuất vật chất tạo ra các sản phẩm hàng hoá đáp ứng cho
nhu cầu tiêu dùng trong sinh hoạt, trong sản xuất…. Doanh nghiệp sản xuất ra các sản phẩm công
nghiệp là hoạt động chính, đây chính là những sản phẩm đã đăng ký sản xuất kinh doanh.
Sản xuất công nghiệp thường ổn định, do các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp thường có những
qui trình công nghệ sản xuất, cơ cấu tổ chức sản xuất tương đối ổn định, sản xuất thường tập trung

theo từng phân xưởng; chủng loại vật tư và nguồn nhân lực sử dụng cũng thường ổn định theo
từng quá trình sản xuất. Đây chính là đặc điểm của sản xuất công nghiệp giúp phân biệt với những
ngành sản xuất vật chất khác như xây lắp, nông nghiệp và cũng giúp cho các doanh nghiệp sản
xuất công nghiệp có điều kiện thuận lợi hơn trong việc đầu tư, đổi mới và tự động hoá quá trình
sản xuất. Những đặc điểm này chi phối cơ bản đến đặc điểm chi phí sản xuất, phương pháp lập dự
toán và quản lý chi phí sản xuất, ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức kế toán chi phí sản xuất và giá
thành sản phẩm công nghiệp.
Ngoài ra, sản xuất công nghiệp cũng rất phong phú và đa dạng. Quá trình sản xuất có thể bao gồm
nhiều qui trình công nghệ chế biến khác nhau và mỗi doanh nghiệp có những qui trình công nghệ
sản xuất, tổ chức sản xuất khác biệt. Đặc điểm này chi phối đến sự khác biệt trong kế toán chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở từng bộ phận, từng doanh nghiệp.
Về phương diện tổ chức và quản lý sản xuất, các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp chủ yếu là
thực hiện sản xuất các sản phẩm theo chức năng. Tuy nhiên, để tận dụng năng lực sản xuất hoặc
đôi khi để đảm bảo chất lượng sản phẩm, chủ động trong sản xuất, các đơn vị sản xuất công
nghiệp còn tổ chức các hoạt động phục vụ cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho hoạt động sản xuất
chức nănbg. Về cơ bản, những hoạt động phục vụ này cũng gắn liền với những đặc điểm kỹ thuật
sản xuất như sản xuất công nghiệp. Tuy nhiên, nó không phải là hoạt động chứv năng nên thường
có quy mô nhỏ, qui trình công nghệ sản xuất giản đơn.
Kế toán tập hợp chi phí sản xuất
Kế toán tập hợp chi phí nguyeên vật liệu trực tiếp.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm toàn bộ chi phí nguyên vật liệu sử dụng trực tiếp để chế
tạo ra sản phẩm như chi phí nguyên vật liệu chính, chi phí nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu …
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp phát sinh có thể liên quan trực tiếp đến từng đối tượng tập hợp
chi phí nguyên vật liệu chính, hoặc có thể liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí như chi
phí nguyên vật liệu phụ… .
Để tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp kế toán thường căn cứ vào các chứng từ và sử dụng
những tài khoản sau:
Chứng từ sử dụng:
Phiếu xuất kho (02-VT)
Bảng phân bố nguyên liệu, vật liệu (07-VT)

Tài khoản sử dụng: TK 621 “Chi phí NVL trực tiếp”
Tài khoản 621 dùng để theo dõi tình hình tập trung và kết chuyển hoặc phân bổ chi phí nguyên
liệu, vật liệu trực tiếp trong quá trình sản xuất với nội dung kinh tế và kết cấu như sau:
SỐ PHÁT SINH NỢ:
Trị giá nguyên liệu, vật liệu trực tiếp sử dụng không hết được nhập lại kho.
Kết chuyển hoặc phân bổ trị giá nguyên liệu, vật liệu thực sử dụng cho hoạt động sản xuất, kinh
doanh trong kỳ vào bên nợ tài khoản 154 “Chi phí sản xuất” kinh doanh dở dang “hoặc bên nợ tài
khoản 631 “Giá thành sản xuất” và chi tiết cho từng đối tượng để tính giá thành công trình xây lắp,
giá thành sản phẩm, dịch vụ.
Kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp vượt trên mức bình thường vào tài khoản 632.
Tài khoản 621 không có số dư cuối kỳ.
Tài khoản 621 được mở chi tiết theo từng đối tượng kế toán chi phí và quá trình tập hợp chi phí
nguyên liệu, vật liệu trực tiếp như sau:
Nếu liên quan trực tiếp đến từng đối tượng tập hợp chi phí, căn cứ vào chứng từ ghi vào từng sổ
chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp được mở rộng cho từng đối tượng.
Nếu liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí, căn cứ vào chứng từ tập hợp chi phí nguyên
liệu, vật liệu chung theo từng loại hoặc từng nhóm sau đó chọn tiêu thức phân bổ và ghi mức phân
bổ vào từng sổ chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp được mở rộng cho từng đối tượng.
Kế toán tập hợp chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp được phản ảnh qua sơ đồ sau: (trường hợp
hoạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên)
(1)
(2)
TK 111
(1) Tập hợp chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp xuất từ kho
(2) Tập hợp chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp mua ngoài xuất dùng trực tiếp không nhập
kho.
Kế toán tập hợp chi phí nhân công trực tiếp
Chi phí nhân công trực tiếp bao gồm tiền lương và các khoản trích theo lương tính vào chi phí sản
xuất như kinh phí công đoàn, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội của công nhân trực tiếp chế tạo ra
sản phẩm.

Chi phí nhân công trực tiếp có thể liên quan trực tiếp đến từng đối tượng tập hợp chi phí hoặc có
thể liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí.
Để tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp kế toán thường căn cứ vào các chứng từ và sử dụng
những tài khoản sau:
Chứng từ sử dụng:
Bảng chấm công (01a – LĐTL)
Bảng chấm công làm thêm giờ (01b – LĐTL )
Bảng thanh toán tiền lương (02 – LĐTL)
Bảng thanh toán tiền thưởng (03 – LĐTL)
Phiếu xác nhận sản phẩm hoặc công việc hoàn thành (05 – LĐTL)
Bảng thanh toán tiền làm thêm giờ (06 – LĐTL)
Bảng thanh toán tiền thuê ngoài (07 – LĐTL)
Hợp đồng giao khoán (08 – LĐTL)
Biên bảng thanh lý (nghiệm thu) hợp đồng giao khoán (09 – LĐTL)
Bảng kê trích nộp các khoản theo lương (10 – TĐTL)
Bảng phân bổ tiền lương và bảo hiểm xã hội (11 – LĐTL)
Tài khoản sử dụng: 622 “Chi phí nhân công trực tiếp”
Tài khoản 622 dùng để theo dõi tình hình tập hợp và kết chuyển hoặc phân bổ chi phí nhân công
trực tiếp trong quá trình sản xuất với nội dung kinh tế và kết cấu như sau:
SỐ PHÁT SINH NỢ:
Chi phí nhân công trực tiếp tham gia quá trình sản xuất sản phẩm (Xây lắp, sản xuất sản phẩm
công nghiệp….) bao gồm: Tiền lương, tiền công lao động và khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, kinh phí công đoàn được tính theo tỷ lệ quy định hiện hành (19%) trên tiền lương phải
trả cho công nhân trực tiếp sản xuất. (Riêng đối với hoạt động xây lắp không bao gồm các khoản
trên lương về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn).
Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào bên nợ tài khoản 154 “Chi phí sản xuất, kinh doanh dở
dang” hoặc bên nợ tài khoản 631 “Giá thành sản xuất”.
Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vượt trên mức bình thường vào tài khoản 632.
Tài khoản 622 không có số dư cuối kỳ.
Tài khoản 622 được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí.

Nếu liên quan trực tiếp đến từng đối tượng tập hợp chi phí, căn cứ vào chứng từ ghi vào từng sổ
chi phí nhân công trực tiếp được mở cho từng đối tượng.
TK 621
TK 152
Nếu liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí, trước hết căn cứ vào chứng từ tập hợp chi phí
nhân công trực tiếp chung theo từng loại hoặc từng nhóm sản phẩm, sau đó chọn tiêu thức phân bổ
để tính toán mức phân bổ cho từng đối tượng và ghi mức phân bổ vào từng sổ chi phí nhân công
trực tiếp được mở cho từng đối tượng tập hợp chi phí.Kế toán tập hợp CP nhân công trực tiếp
được phản ánh qua sơ đồ sau:

(1) Tập hợp chi phí tiền lương công nhân trực tiếp sản xuất.
(2) Trích các khoản kinh phí công đoàn, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế tính vào chi phí.
(3) Trích trước tiền lương nghỉ phép công nhân sản xuất.
(4) Nếu doanh nghiệp phân bổ khoản trích trước tiền lương nghỉ phép công nhân trực tiếp sản
xuất khi phát sinh ghi NỢ TK 142 / CÓ TK 334 và sau đó định kỳ phân bổ NỢ TK / CÓ TK
142.
Kế toán tập hợp chi phí sản xuất chung.
Chi phí sản xuất chung bao gồm tất cả các chi phí sản xuất ngoài hai khoản mục chi phí trên. Các
khoản mục ch phí thuộc chi phí sản xuất chung như:
Chi phí lao động gián tiếp, phục vụ, tổ chức quản lý sản xuất tại phân xưởng.
Chi phí nguyên vật liệu dùng trong máy móc thiết bị.
Chi phí công cụ dụng cụ dùng trong sản xuất.
Chi phí khấu hao máy móc thiết bị, tài sản cố định khác dùng trong hoạt động sản xuất.
Chi phí dịch vụ thuê ngoài phục vụ sản xuất như điện, nước, sửa chữa, bảo hiểm tài sản tại xưởng
sản xuất.

Chi phí sản xuất chung thường được tập hợp theo đối tượng tập hợp chi phí là từng phân xưởng
sản xuất.
Để tập hợp chi phí sản xuất chung kế toán thường căn cứ các chứng từ và sử dụng những tài khoản
sau:

Chứng từ sử dụng:
Phiếu xuất kho
Bảng phân bổ nguyên liệu, vật liệu, công cụ dụng cụ.
Bảng phân bổ tiền lương
Bảng phân bổ khấu hao
Hoá đơn dịch vụ
Tài khoản sử dụng : TK 627 “Chi phí sản xuất chung”
Tài khoản 627 dùng để theo dõi tình hình tập hợp và kết chuyển hoặc phân bổ chi phí sản xuất
chung thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất với nội dung kinh tế và kết cấu như sau:
SỐ PHÁT SINH NỢ:
TK 622
(1)
TK 334
(2)
(3)
(4)
TK 338
TK 335
TK 142
Các chi phí sản xuất chung phát sinh trong kỳ, bao gồm: Lương, phụ cấp lương, tiền ăn giữa ca
của công nhân viên quản lý phân xưởng, bộ phận, đội sản xuất; Khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, kinh phí công đoàn được tính theo tỷ lệ quy định hiện hành (19%) trên tiền lương phải
trả nhân viên quản lý phân xưởng, bộ phận, đội sản xuất; Khấu hao tài sản cố định dùng chung cho
hoạt động của phân xưởng, bộ phận, đội sản xuất và những chi phí khác liên quan tới hoạt động
của phân xưởng, bộ phận, đội sản xuất.
SỐ PHÁT SINH CÓ:
Các khoản giảm chi phí sản xuất chung.
Kết chuyển hoặc phân bổ chi phí sản xuất chung vào bên nợ tài khoản 154 “Chi phí sản xuất, kinh
doanh dở dang” hoặc bên nợ tài khoản 631 “Giá thành sản xuất”.
Kết chuyển biến phí sản xuất chung vượt trên mức bình thường vào tài khoản 632.

Chi phí sản xuất chung cố định không phân bổ được ghi nhận vào giá vốn hàng bán trong kỳ do
mức sản phẩm thực tế sản xuất ra thấp hơn mức công suất bình thường.
Tài khoản 627 không có số dư cuối kỳ.
Tài khoản 627 được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí (phân xưởng).
Kế toán tập hợp chi phí SX chung được phản ánh qua sơ đồ sau:


Tập hợp chi phí tiền lương, kinh phí công đoàn, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế của bộ phận quản
lý, phục vụ sản xuất.
Tập hợp chi phí nguyên liệu, vật liệu liên quan đến quản lý, phục vụ sản xuất.
Tập hợp chi phí công cụ, dụng cụ dùng trực tiếp sản xuất; quản lý, phục vụ sản xuất.
Tập hợp chi phí khấu hao máy móc thiết bị, tài sản cố định dùng sản xuất, phục vụ sản xuất.
Tập hợp CP dịch vụ thuê ngoài liên quan phục vụ sản xuất.
Tập hợp CP khác bằng tiền liên quan đến phục vụ sản xuất.
Trích trước chi phí liên quan đến quản lý, phục vụ sản xuất.
Phân bổ chi phí sản xuất liên quan đến quản lý, phục vụ sản xuất.
Kế toán tập hợp chi phí thiệt hại trong sản xuất
Các khoản thiệt hại trong sản xuất bao gồm: Thiệt hại về sản phẩm hỏng và thiệt hại ngừng sản
xuất.
TK 152
TK 153,142
TK 214
TK 111,112
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
TK 334,338

TK 627
(1)
TK 142,242
(8)
TK 331
TK 335
Kế toán các khoản thiệt hại về sản phẩm hỏng:
Phân
loại
sản
phẩm
hỏng
−Căn cứ vào
mức độ không
đạt tiêu chuẩn
kỹ thuật
− Sản phẩm hỏng sửa chữa được: là sản phẩm
hỏng xét về mặt kỹ thuật có thể sửa chữa được
và xét về mặt kinh tế thì chi phí sửa chữa không
vượt quá chi phí chế tạo (giá thành), đồng thời
việc sửa chữa có lợi về mặt kinh tế.
− Sản phẩm hỏng không sửa chữa được: là
những sản phẩm hỏng mà về mặt kỹ thuật không
thể sửa chữa được, hoặc về mặc kinh tế thì chi
phí sửa chữa lớn hơn chi phí chế tạo mới sản
phẩm vì vậy việc sửa chữa không có lợi về mặt
kinh tế.
Phân loại
sản phẩm
hỏng

− Căn cứ vào
mối quan hệ
với việc hạch
toán và lập kế
hoạch
− Sản phẩm hỏng trong định mức: là những sản
phẩm hỏng không thể tránh khỏi trong quá trình
sản xuất. Các nhà quản trị chấp nhận 1 tỷ lệ sản
phẩm hỏng vì họ không muốn tốn thêm chi phí
để hạn chế hoàn toàn sản phẩm hỏng khi việc bỏ
thêm chi phí này sẽ tốn kém nhiều hơn việc
chấp nhận 1 tỷ lệ tối thiểu về sản phẩm hỏng.
− Sản phẩm hỏng ngoài định mức: là các sản
phẩm hỏng nằm ngoài dự kiến của nhà sản xuất
do các nguyên nhân bất thường như nguyên vật
liệu không đảm bảo chất lượng, máy móc thiết
bị hư hỏng đột xuất, …
Thiệt hại sản phẩm hỏng = (Chi phí sửa chữa sản phẩm hỏng + Giá trị sản
phẩm hỏng không sửa chữa được) – (Giá trị phế liệu thu hồi + Khoản thu bồi
thường của cá nhân, tập thể gây ra sản phẩm hỏng)
Nguyên tắc
hạch toán
Thiệt hại sản phẩm hỏng trong định mức: được xem như chi phí
sản xuất thành phẩm trong kỳ.
Thiệt hại sản phẩm hỏng ngoài định mức: không được tính vào
CPSX, thường được xem là một khoản phí tổn thời kỳ phải trừ
vào doanh thu trong kỳ và được hạch toán vào giá vốn hàng bán.
Chứng từ
sử dụng
Phiếu báo sản phẩm hỏng: nêu rõ tên bộ phận sản xuất, tên sản

phẩm và số lượng sản phẩm hỏng, nơi phát sinh sản phẩm hỏng,
nội dung và mức độ hư hỏng; nguyên nhân và người chịu trách
nhiệm.
Các chứng từ phản ánh chi phí sửa chữa (nếu là sản phẩm hỏng
sửa chữa được)
Nội dung hạch
toán
Đối với sản phẩm hỏng trong định mức:
Thiệt hại về sản phẩm hỏng trong định mức được xem như chi phí
sản xuất chính phẩm trong kỳ. Vì vậy, trường hợp này, kế toán chỉ
cần theo dõi các khoản giá trị tận thu từ sản phẩm hỏng nhằm điều
chỉnh giảm giá thành. Căn cứ vào Phiếu nhập kho phế liệu, hoặc
các chứng từ phản ánh khoản thu tiền bán phế liệu, phế phẩm. Kế
toán ghi: Nợ TK 152, 112, 131 / Có TK 154 “SP đang chế tạo”
Đối với sản phẩm hỏng trên định mức:
Trường hợp sản phẩm hỏng sửa chữa được:
Trường hợp phát hiện và sửa chữa ngay trong kỳ: Chi phí sửa chữa
sản phẩm hỏng được phản ánh vào các TK 621, 622, 627 chi tiết
“sửa chữa sản phẩm hỏng”. Cuối kỳ, kết chuyển vào 154 “Sửa chữa
sản phẩm hỏng” để kết chuyển vào giá vốn hàng bán sau khi trừ các
khoản thu bồi thường hoặc giá trị phế phẩm thu bồi,
Trường hợp phát hiện SP hỏng trong hoặc cuối kỳ, sang kỳ sau mới
sửa chữa:
Kết chuyển giá trị sản phẩm hỏng sửa chữa được sang TK 154 “Sửa
chữa sản phẩm hỏng”:
Nợ TK 154 “Sửa chữa sản phẩm hỏng”/ Có TK 154 “Sản phẩm đang
chế tạo”: theo Chi phí sản xuất thực tế
Sang đầu kỳ sau, căn cứ vào chứng từ có liên quan, phản ánh chi phí
sửa chữa phát sinh:
Nợ TK 621, 622, 627 “Sửa chữa sản phẩm”/ Có TK 152, 153, 334,

111, 112,…
Cuối kỳ, kết chuyển chi phí sửa chữa sản phẩm hỏng sang TK 154
“Sửa chữa sản phẩm hỏng”:
Nợ TK 154 “Sửa chửa sản phẩm hỏng”/ Có TK 621, 622, 627 “Sữa
chữa sản phẩm hỏng”
Phản ánh giá trị sản phẩm hỏng đã sửa chữa hoản thành được nhập
kho theo chi phí sản phẩm thực tế ban đầu (không bao gồm khoản
chi phí sửa chữa):
Nợ TK 155/ Có TK 154 “Sửa chữa chi phí hỏng”
Khoản chi phí sửa chữa sản phẩm được xác định là khoản chi phí sản
xuất phát sinh trên mức bình thường sẽ được tính vào giá vốn hàng
bán sau khi đã loại trừ giá trị phế liệu thu bồi hoặc khoản thu bổi
thường
Nợ TK 152, 138, 632/ Có TK 154 “Sửa chữa sản phẩm hỏng”
Trường hợp SP hỏng không được sửa chữa được:
Cuối kỳ, căn cứ vào chi phí thực tế hoặc giá thánh kế hoạch hoặc giá
thành định mức phản ánh giá trị sản phẩm hỏng không sửa chữa
được. Trường hợp đã xác định được ngay nguyên nhân làm hỏng sản
phẩm, kế toán ghi:
Nợ TK 152, 1388: Giá trị phế liệu thu bồi hoặc khoản thu bồi thường
Nợ TK 632: Thiệt hại tính vào giá vốn hàng bán sau khi đã trừ các
khoản thu hồi
Có TK 154 “Sản phẩm đang chế tạo”: Trị giá sản phẩm hỏng.
Trường hợp chưa xác định được ngay nguyên nhân, kê toán sẽ kết
chuyển giá trị sản phẩm hỏng vào TK 1381 để chờ xử lý: Nợ TK
1381/ Có TK 154 “Sản phẩm đang chế tạo”: trị giá sản phẩm hỏng.
Sang kỳ sau, căn cứ vào biên bản xử lý và các chứng từ có liên quan,
kế toán phản ánh:
Nợ TK 152,1388: Giá trị phế liệu thu hồi hoặc khoản thu bồi thường
Nợ TK 632: Thiệt hại tính vào giá vốn hàng bán sau khi đã trừ các

khoản thu bồi
Có TK 1381: Trị giá sản phẩm hỏng.
Kế toán khoản thiệt hại ngừng sản xuất:
Thiệt hại ngừng sản xuất là khoản thiệt hại xảy ra do việc đình chỉ sản xuất trong một thời gian do
các nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan.
Phân
loại:
Ngừng sản xuất có kế hoạch: Là các trường hợp mà doanh nghiệp dực kiến
trước được thời gian, thời điểm ngừng sản xuất là đã lập được kế hoạch chi
phí trong thời gian ngừng sản xuất (Ví dụ: ngừng sản xuất theo mùa vụ, hay
do sửa chữa lớn máy móc thiết bị)
Chi phí dự tính phát sinh trong thời gian ngừng sản xuất gồm:
Lương phải trả bộ phận sản xuất trực tiếp, gián tiếp và các tài khoản trích
bảo hiểm, kinh phí công đoàn
Chi phí bảo dưỡng máy móc thiết bị, chi phí khấu hao Nhà xưởng, máy
móc thiết bị…
Nội dung
hoạch
toán
Ngừng sản xuất ngoài kế hoạch: Là các trường hợp ngừng sản xuất do
nguyên nhân khách quan hay chủ quan mà doanh nghiệp không dự kiến
trước được, như do thiếu nguyên vật liệu, do mất điện hay máy móc thiết bị
hư hỏng đột xuất…
Trường hợp ngừng sản xuất có kế hoạch:
Căn cứ vào dự toán chi phí phải chi ra trong thời gian ngừng sản xuất  kế
toán tiến hành trích trước chi phí phát sinh trong thời gian ngừng sản xuất
vào giá thành sản phẩm hàng tháng:
Nợ TK 622, 627 / Có TK 335
Khi ngừng sản xuất, căn cứ vào các chứng từ có liên quan phản ánh chi phí
phát sinh:

Nợ TK 335 / Có TK 334, 338, 152, 111, 112,…
Trường hợp ngừng sản xuất ngoài kế hoạch: sẽ làm phát sinh các khoản chi
phí vượt kế hoạch, vì vậy các khoản chi phí vượt trên mức bình thường này
sẽ được xem là chi phí thời kỳ và được tính trừ vào doanh thu trong kỳ để
xác định kết quả kinh doanh. Kế toán sẽ hạch toán các thiệt hại này vào TK
giá vốn hàng bán, sau khi trừ các khoản thu bồi thường.
Căn cứ vào chứng từ có liên quan phản ánh chi phí phát sinh: Nợ TK 622,
627/ Có TK 152, 334, 338, 111, 112,…
Cuối kỳ, kết chuyển các chuyển các khoản chi phí này vào TK 154 “Thiệt
hại ngừng SX”: Nợ TK 154 “Thiệt hại ngừng sản xuất”/ Có TK 622, 627
Các khoản thu bồi thường (nếu có): Nợ TK 111, 112, 138 / Có TK 154
“Thiệt hại ngừng sản xuất”
Khoản thiệt hại còn lại được hạch toán vào giá vốn hàng bán: Nợ TK 632 /
Có TK 154 “Thiệt hại ngừng sản xuất”
Lưu ý: Trường hợp thiệt hại ngừng sản xuất vì thiên tai, hoả hoạn,… có thể
bù đắp bằng quỹ dự phòng tài chính sau khi đã trừ đi khoản được bồi
thường bởi công ty bảo hiểm.
Ví dụ 1: Doanh nghiệp K kế toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên, thực hiện
mô hình kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành theo chi phí thực tế. Trong tháng 5 có tình hình
về sản phẩm hỏng như sau:
Theo phiếu báo sản phẩm hỏng của bộ phận KCS, trong kỳ có 100 sản phẩm hỏng trên định mức.
Số sản phẩm này nếu sửa chữa thì không có lợi về mặt kinh tế.
Số phế liệu thu được từ sản phẩm hỏng đã nhập kho: 950.000đ
Theo biên bản xử lý sản phẩm hỏng: nguyên nhân gây ra sản phẩm hỏng vượt định mức là do công
nhân vận hành máy không đúng quy trình. Vì vậy, công nhân sản xuất phải bồi thường 70% thiệt
hạibằng cách khấu trừ lương trong 5 tháng, bắt đầu từ tháng sau. Khoản thiệt hại còn lại được tính
vào giá vốn hàng bán trong kỳ.
Trị giá sản phẩm hỏng được tính theo giá thành kế hoạch. Giá thành kế hạch đơn vị sản phẩm:
30.000đ/ sản phẩm.
Yêu cầu: Phản ánh tình hình trên vào các tài khoản có liên quan.

Giải
Trị giá 100 sản phẩm hỏng ngoài định mức:
100 x 30.000 = 3.000.0000
Giá trị phế phẩm thu hồi: 950.000.
Khoản thu bồi thường từ công nhân:
(3.000.000 – 950.000) x 70% = 1.435.000
Thiệt hại sản phẩm hỏng không sửa chữa được trên định mức tính vào TK 632 trong kỳ:
(3.000.000 – 950.000) x 30 = 615.000
Kế toán ghi sổ như sau:
Nợ TK 154 “Sản phẩm hỏng không sửa chữa được” 3.000.000
Có TK 154 “Sản phẩm đang chế tạo”: 3.000.000
Nợ TK 152: 950.000
Nợ TK 138: 1.435.000
Nợ TK 632: 615.000
Có TK 154 “SP hỏng không SC được”: 3.000.000
Kế toán chi phí sản xuất của bộ phận phục vụ:
Hoạt động phục vụ là những hoạt động sản xuất các loại sản phẩm hay dịch vụ chủ yếu để cung
ứng trong nội bộ doanh nghiệp như:
Hoạt động sơ chế, sản xuất các loại nguyên liệu, vật liệu cho hoạt động chức năng.
Hoạt động sản xuất công cụ, dụng cụ cung ứng cho hoạt động chức năng.
Hoạt động sửa chữa, vận tải trong nội bộ doanh nghiệp.
Hoạt động sản xuất điện, nước, hơi gió cung ứng cho các hoạt động sản xuất, bán hàng, quản lý
của doanh nghiệp.
Hoạt động phục vụ ăn uống….
Với mục đích phục vụ trong nội bộ doanh nghiệp, hoạt động phục vụ thường có quy mô nhỏ, quy
trình công nghệ sản xuấtgiảm đơn, tổ chức sản xuất tập trung theo từng phân xưởng. Chi phí sản
xuất của hoạt động động phục vụ liên quan đến chi phí sản xuất của bộ phận chức năng. Vì vậy,
chi phí sản xuất của hoạt động phục vụ được tập trung theo từng bộ phận, sau đó, tổng hợp và
phân bổ cho các bộ phận sản xuất chức năng. Sự phân bổ chi phí sản xuất của bộ phận phục vụ sẽ
chi phối đến chi phí sản xuất của từng bộ phận chức năng. Về phương diện tổng số, sự phân bổ chi

phí bộ phận phục vụ không thay đổi. Tuy nhiên, khi đánh giá thành quả hoạt động của từng bộ
phận, việc phân bổ chi phí sản xuất của từng bộ phận. Cho nên, việc phân bổ chi phí sản xuất bộ
phận phục vụ được quan tâm nhiều hơn trong mục đích cung cấp thông tin phục vụ cho nhà quản
trị sản xuất.
Ngày nay, với sự tiến bộ của trình độ quản lý, trình độ kế toán, phân bổ chi phí sản xuất bộ phận
phục vụ có thể tiến hành theo nhiều phương pháp khác nhau. Tuy nhiên, trong lĩnh vực kế toánchi
phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, các phương pháp phân bổ chi phí sản xuất của hoạt động
phục vụ cho các hoạt độngsản xuất chức năng có thể tiến hành theo những phương pháp phổ biến
như: phân bổ theo phương pháp trực tiếp, phân bổ theo phương pháp bậc thang và phân bổ theo
phương pháp phân bổ lẫn nhau.
Phương pháp phân bổ trực tiếp:
Với phương pháp này, điều quan tâm khi phân bổ chi phí sản xuất của từng bộ phận phục vụ là sản
phẩm, dịch vụ các bộ phận phục vụ cung ứng cho các bộ phận chức năng. Chi phí sản xuất của bộ
phận phục vụ chỉ phân bổ cho các bộ phận chức năng. Vì vậy, tính chính xác của mức chi phí sản
xuất của bộ phận phục vụ phân bổ cho các bộ phận chức năng phụ thuộc rất nhiều vào sản phẩm,
dịch vụ các bộ phận phục vụ cung ứng lẫn nhau. Nếu các bộ phận phục vụ có sự chuyển giao sản
phẩm dịch vụ lẫn nhau lớn thì mức phân bổ chi phí sản xuất không chính xác, phương pháp này
không còn thích hợ nữa.

Chi phí sản xuất bộ
phận phục vụ A
Chi phí sản xuất bộ
phận phục vụ C
Chi phí sản xuất bộ
phận phục vụ B
Bộ phận sản xuất chức
năng
Chi phí sản xuất
đơn vị sản
phẩm, dịch vụ

của bộ phận
phục vụ cần
phân bổ
=
Chi phí sản
xuất dở dang
đầu kỳ của bộ
phận phục vụ
+
Chi phí phát
sinh trong kỳ
của bộ phận
phục vụ
-
Chi phí sản xuất dở dang
cuối kỳ
của bộ phận
phục vụ
Số lượng sản phẩm,
dịch vụ sản xuất
trong kỳ của bộ
phận phục vụ
-
Số lượng sản phẩm, dịch tiêu
dùng nội bộ và cung ứng cho
các bộ phận phục vụ khác
Chi phí sản xuất
sản phẩm, dịch
vụ phân bổ cho
bộ phận

chức năng
=
Số lượng sản phẩm
dịch vụ của bộ phận
phục vụ cung ứng
cho bộ phận chức
năng
×
Chi phí sản xuất đơn vị sản
phẩm, dịch vụ của bộ phận
phục vụ cần
phân bổ
Ví dụ 2: Công ty ABC tổ chức sản xuất gồm 2 bộ phận phục vụ là phân xưởng điện và phân
xưởng sửa chữa, tính thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ, hạch toán hàng tồn kho theo
phương pháp kê khai thường xuyên. Theo tài liệu về chi phí sản xuất của 2 phân xưởng trong
tháng 9 năm 2001 như sau:
Tập hợp chi phí sản xuất trong kỳ:
Đơn vị đồng
Chi phí sản xuất
Phân xưởng điện Phân xưởng sửa chữa
Sản xuất sản
phẩm
Phục vụ,
quản lý
Sản xuất
sản phẩm
Phục vụ,
quản lý
• Giá thực tế NVL xuất dùng
3.000.000 100.000 5.200.000 150.000

• Giá thực tế công cụ sản xuất
- - - -
+ Loại phân bổ 1 lần
- 200.000 - -
+ Loại phân bổ 2 lần
- 150.000 - 250.000
• Tiền lương phải trả
600.000 200.000 1.000.000 200.000
• Các khoản trích theo lương
144.000 38.000 190.000 38.000
• Khấu hao tài sản cố định
1.000.000 - 1.700.000
• Dịch vụ thuê ngoài
200.000 - 140.000
• Chi phí khác bằng tiền
118.000 - 172.000
Kết quả sản xuất của từng phân xưởng:
Phân xưởng điện: Thực hiện 12.000 kwh điện, trong đó dùng ở phân xưởng điện 600 kwh, thắp
sáng phân xưởng sửa chữa 1.400 kwh, cung cấp phân xưởng sản xuất chính 5.000 kwh, cung cấp
cho bộ phận bán hàng 3.000 kwh, cung cấp bộ phận quản lý doanh nghiệp 2.000 kwh.
Phân xưởng sửa chữa: Thực hiện 440 giờ công sửa chữa, trong đó máy móc thiết bị ở phân xưởng
sửa chữa 10 giờ, sửa chữa máy móc thiết bị ở phân xưởng điện 3o giờ, sửa chữa thường xuyên
máy móc thiết bị ở phân xưởng sản xuất 100 giờ, sửa chữa lớn máy móc thiết bị ở bộ phận bán
hàng 200 giờ, sửa chữa sản phẩm bảo hành trong kỳ 80 giờ, sửa chữa thường xuyên máy móc thiết
bị ở bộ phận quản lý doanh nghiệp 20 giờ.
Cho biết định mức chi phí 500đ/kwh điện, 25.000đ/ giờ công sửa chữa.

×