BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
PHẠM VĂN TUÂN
TÌM HIỂU TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP
MÔN TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG CỦA SINH VIÊN
HỆ ĐẠI HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
PHẠM VĂN TUÂN
TÌM HIỂU TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP
MÔN TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG CỦA SINH VIÊN HỆ
ĐẠI HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH
Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60 31 80
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. TRẦN TUẤN LỘ
Thành phố Hồ Chí Minh - 2011
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết
quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, được các đồng tác giả cho phép sử
dụng và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Tác giả luận văn
LỜI CẢM ƠN
Để có được kết quả như hôm nay, tôi xin gửi đến Phòng Sau đại học; Khoa Tâm
lý – Giáo dục trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh và toàn thể quý Thầy,
Cô đã tham gia gảng dạy lớp Cao học Tâm lý học khóa K19 lời cảm ơn chân thành!
Xin gửi đến PGS.TS Trần Tuấn Lộ, người đã tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành
đề tài này lòng biết ơn sâu sắc!
Luận văn được hoàn thành với sự nỗ lực, cố gắng hết mình nhưng không tránh
khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tôi chân thành cảm ơn và ghi nhận những ý kiến đóng
góp của quý Thầy, Cô giáo và bạn bè!
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn
MỤC LỤC
1TLỜI CAM ĐOAN1T 3
1TLỜI CẢM ƠN1T 4
1TMỤC LỤC1T 5
1TDANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT1T 7
1TMỞ ĐẦU1T 8
1T1. Lí do chọn đề tài1T 8
1T2. Mục đích nghiên cứu1T 9
1T3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu1T 9
1T4. Giả thuyết nghiên cứu1T 10
1T5. Nhiệm vụ nghiên cứu1T 10
1T6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu1T 10
1T7. Phương pháp nghiên cứu1T 10
1T8. Đóng góp của đề tài1T 13
1T9. Cấu trúc luận văn: Bao gồm 03 phần1T 13
1TCHƯƠNG 1: CƠ SỞ LỊCH SỬ VÀ LÝ LUẬN CHO VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ
TÀI
1T 15
1T1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu tính tích cực học tập môn Tâm lý học đại cương1T 15
1T1.1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề tính tích cực1T 15
1T1.1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề tính tích cực học tập1T 24
1T1.1.3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề tính tích cực học tập môn Tâm lý học đại cương ở
Việt Nam
1T 33
1T1.2. Những vấn đề lí luận về tính tích cực học tập môn Tâm lý học đại cương1T 34
1T1.2.1. Hoạt động học1T 34
1T1.2.2. Tính tích cực1T 36
1T1.2.3. Tính tích cực học tập1T 37
1T1.2.4. Tính tích cực học tập môn Tâm lý học đại cương1T 37
1T1.2.5. Những nguyên nhân của việc có và không có tính tích cực học tập1T 39
1TCHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP MÔN TÂM LÝ
HỌC ĐẠI CƯƠNG CỦA SINH VIÊN HỆ ĐẠI HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ
VINH
1T 44
1T2.1. Giới thiệu chung về trường Đại học Trà Vinh, về môn Tâm lý học đại cương và
việc giảng dạy môn Tâm lý học đại cương ở Trường Đại học Trà Vinh.
1T 44
1T2.1.1. Trường Đại học Trà Vinh1T 44
1T2.1.2. Môn Tâm lý học đại cương1T 44
1T2.1.3. Việc giảng dạy môn TLHĐC ở Trường Đại học Trà Vinh1T 45
1T2.2. Kết quả nghiên cứu về tính tích cực học tập môn Tâm lý học đại cương của sinh
viên hệ đại học trường Đại học Trà Vinh
1T 46
1T2.2.1. Nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng, ý nghĩa của việc học tập môn Tâm lý
học đại cương
1T 46
1T2. 2.2. Thái độ học tập môn Tâm lý học đại cương của sinh viên.1T 51
1T2.2.3. Hành động học tập môn Tâm lý học đại cương của sinh viên1T 61
1T2.2.4. Kết quả học tập môn Tâm lý học đại cương của sinh viên1T 71
1T2.2.5. Kết luận chung về tính tích cực học tập môn Tâm lý học đại cương của sinh viên1T
73
1T2.3. Kết quả điều tra nguyên nhân ảnh hưởng đến tính tích cực học tập môn Tâm lý
học đại cương của sinh viên
1T 73
1T2.3.1. Nguyên nhân chủ quan1T 73
1T2.3.2. Nguyên nhân khách quan1T 76
1TCHƯƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO TÍNH TÍCH
CỰC HỌC TẬP MÔN TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG CỦA SINH VIÊN HỆ ĐẠI
HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH
1T 79
1T3.1. Biện pháp nâng cao tính tích cực học tập môn TLHĐC của sinh viên1T 79
1T3.2. Kết quả thăm dò ý kiến của giảng viên và sinh viên về mức độ cần thiết và tính
khả thi của các biện pháp đã đề xuất
1T 83
1TKẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ1T 85
1T1. Kết luận1T 85
1T2. Kiến nghị1T 86
1TTÀI LIỆU THAM KHẢO1T 88
1TPHỤ LỤC1T 91
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT Chữ viết tắt Nghĩa đầy đủ
1 GV Giảng viên
2 SV Sinh viên
3 TLHĐC Tâm lý học đại cương
4 KT Kinh tế
5 XH Xã hội
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Sinh viên là đội ngũ tri thức tương lai của đất nước. Sự phát triển của đất nước đòi
hỏi phải có lực lượng lao động có trình độ khoa học, tay nghề cao, có đạo đức và có sức
khỏe tốt. Chính vì vậy, trong quá trình học tập, bên cạnh việc học tốt các môn cơ sở ngành,
các môn chuyên ngành, sinh viên còn cần phải học tập tốt các môn học đại cương. Việc học
tập tốt các môn học đại cương sẽ giúp cho sinh viên có được vốn tri thức cần thiết, làm nền
tảng quan trọng cho việc đi sâu nghiên cứu và dễ dàng nắm bắt nội dung của các môn học
chuyên ngành.
Hoạt động nhận thức hay quá trình lĩnh hội tri thức khoa học, kỹ năng kỹ xảo của con
người nói chung và của sinh viên nói riêng là một hoạt động có tính chất đặc biệt và bị chi
phối bởi nhiều yếu tố, trong đó tính tích cực học tập là yếu tố đóng vai trò quyết định. Tính
tích cực không chỉ là điều kiện để phát triển khả năng tư duy, tưởng tượng, năng lực sáng
tạo, thế giới quan và các phẩm chất nhân cách mà còn là điều kiện cần thiết và quan trọng
để nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách nhanh chóng và hiệu quả. Tính tích cực có
vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả học tập của người học, tạo ra sự thống
nhất giữa nội lực và ngoại lực. Vấn đề phát huy tính tích cực học tập của người học được
đặt ra trong nền giáo dục của nước nhà từ những năm 60 và trong cuộc cải cách giáo dục lần
2 năm 1980, phát huy tính tích cực của người học là một phương thức quan trọng nhằm đào
tạo những con người lao động sáng tạo, làm chủ tương lai đất nước.
Thực tiễn giáo dục ở các trường Cao đẳng, Đại học của nước ta nói chung và ở
trường Đại học Trà Vinh nói riêng cho thấy chất lượng đào tạo chưa cao. Sinh viên ra
trường chưa có được những tri thức; kỹ năng, kỹ xảo cần thiết; phần lớn chưa đáp ứng được
yêu cầu của nhà tuyển dụng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, một trong
những nguyên nhân cơ bản nhất là do sinh viên thiếu tính tích cực học tập, thiếu tính chủ
động, độc lập và sáng tạo trong quá trình học tập từ đó dẫn đến kết quả học tập không cao.
Môn Tâm lý học đại cương là môn học được tổ chức giảng dạy ở nhiều ngành học
khác nhau thuộc các trường Cao đăng, Đại học trong cả nước nhằm cung cấp cho người học
những kiến thức cơ bản nhất về tâm lý con người, làm cơ sở để nghiên cứu sâu hơn các môn
học chuyên ngành, vận dụng và nâng cao hiệu quả hoạt động thực tiễn, hoạt động nghề
nghiệp sau khi ra trường. Môn Tâm lý học đại cương có vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc cung cấp tri thức và nâng cao hiệu quả hoạt động nghề nghiệp đối với sinh viên tất cả
các ngành học. Tuy nhiên từ thực tế hoạt động giảng dạy tôi nhận thấy đa số sinh viên chưa
thực sự ý thức được tầm quan trọng của môn Tâm lý học đại cương trong chương trình
học, xem nó là môn học phụ, không có ý nghĩa và không cần thiết đối với nghề nghiệp
tương lai. Từ sự nhận thức sai lầm cùng với những yếu tố khó khăn từ môn học, từ giảng
viên… dẫn đến sinh viên chưa có nhu cầu, động cơ, hứng thú, thái độ và hành động học
tập đúng đắn nên dẫn đến kết quả không như chúng ta mong đợi. Từ đó cho thấy, muốn
nâng cao kết quả học tập môn Tâm lý học đại cương thì cần phải hình thành những nhận thức
đúng đắn về môn học, khơi gợi hứng thú, tính chủ động, tự giác và vun đắp niềm say mê trong
học tập, nghiên cứu môn học của sinh viên.
Tính tích cực học tập nói chung và tính tích cực học tập môn Tâm lý học đại
cương nói riêng là một vấn đề đã được nhiều tác giả quan tâm. Các đề tài, các bài báo khoa
học đã tập trung nghiên cứu và tìm ra nhiều giải pháp nhằm nâng cao tính tích cực học tập
của sinh viên tuy nhiên chưa đi sâu phân tích các biểu hiện tâm lý cụ thể của tính tích cực
học tập và các nguyên nhân ảnh hưởng đến nó. Việc nghiên cứu và chỉ ra các yếu tố tâm lý,
các biểu hiện tâm lý trong tính tích cực học tập cũng như những yếu tố ảnh hưởng đến tính
tích cực học tập có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc đưa ra những biện pháp tác động hiệu
quả nhằm phát huy tính tích cực học tập, góp phần nâng cao kết quả học tập của sinh viên.
Vì những lí do trên, đề tài ‘‘Tìm hiểu tính tích cực học tập môn Tâm lý học đại
cương của sinh viên hệ đại học trường Đại học Trà Vinh’’ được lựa chọn để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu tính tích cực học tập môn Tâm lý học đại cương của sinh viên hệ đại học
Trường Đại học Trà Vinh. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao tính tích cực học
tập của sinh viên, góp phần nâng cao hiệu quả công tác giáo dục và đào tạo ở Trường Đại
học Trà Vinh.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu:
Tính tích cực học tập môn Tâm lý học đại cương của sinh viên
3.2 Khách thể nghiên cứu:
- 205 sinh viên hệ đại học khóa 2009 các ngành Kế toán, Quản trị kinh doanh, Luật,
Sư phạm Ngữ văn.
- Giảng viên giảng dạy môn Tâm lý học đại cương ở Trường Đại học Trà Vinh và
trường Cao đẳng Sư phạm Trà Vinh
4. Giả thuyết nghiên cứu
Đa số sinh viên chưa tích cực trong giờ học, chưa chăm chỉ và chuyên cần trong việc
đào sâu nghiên cứu môn Tâm lý học đại cương, hành vi học tập các môn chuyên
ngành của sinh viên mới chỉ tập trung ở hoạt động lên lớp, nghe giảng và ghi chép,
còn các hoạt động khác như tự học, làm bài tập, đi thư viện rất hạn chế;
Nguyên nhân là do sinh viên chưa có phương pháp học tập hiệu quả, mặt khác phương
pháp giảng dạy của giáo viên, cách thức tổ chức hoạt động đào tạo của nhà trường chưa
phù hợp, chưa gây được hứng thú học tập cho sinh viên. Do vậy, kết quả học tập môn
Tâm lý học đại cương của sinh viên chưa cao.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu lịch sử nghiên cứu vấn đề và xác định cơ sở lí luận cho việc nghiên cứu đề
tài;
Khảo sát tính tích cực học tập môn Tâm lý học đại cương của sinh viên hệ đại học
Trường Đại học Trà Vinh;
Điều tra nguyên nhân ảnh hưởng đến tính tích cực học tập môn Tâm lý học đại
cương của sinh viên;
Đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao tính tích cực học tập của sinh viên.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
- Đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu tính tích cực học tập môn Tâm lý học đại cương
của sinh viên năm thứ nhất các ngành Kế toán, Quản trị kinh doanh, Luật, Ngữ văn Khmer
Trường Đại học Trà Vinh.
- Đề tài không đi sâu so sánh sự khác biệt về tính tích cực học tập môn Tâm lý học
đại cương của sinh viên từng ngành mà chỉ tiến hành so sánh theo giới tính (Nam, Nữ) và
theo khối ngành Kinh tế (Kế toán, Quản trị kinh doanh) và Xã hội (Luật, Ngữ văn Khmer)
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Mục đích: Nhằm xây dựng đề cương nghiên cứu và những vấn đề lí luận để làm cơ sở
công cụ cho các giai đoạn nghiên cứu sau này.
Nội dung:
- Xây dựng đề cương nghiên cứu.
- Nghiên cứu những vấn đề lí luận có liên quan và xây dựng được khái niệm công cụ
của đề tài từ đó xác định phương pháp nghiên cứu và công cụ nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tài liệu, các văn bản và các tạp chí chuyên ngành,
các công trình nghiên cứu khoa học, các luận văn, luận án về tính tích cực học tập nói chung và
tính tích cực học tập môn Tâm lý học đại cương nói riêng.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát, dự giờ
* Mục đích quan sát
Nhằm phát hiện, thu thập thêm những biểu hiện thể hiện tính tích cực trong giờ học
môn Tâm lý học đại cương của sinh viên.
* Nội dung quan sát
Những biểu hiện về nhận thức, thái độ, hành vi, cử chỉ, tính tích cực, tự giác
và thời gian học tập của sinh viên.
* Cách tiến hành
Tham dự một số giờ học, giờ thảo luận, thực hành,… và quan sát những giờ tự học
của sinh viên.
Trong quá trình thực hiện, chúng tôi đảm bảo sự tự nhiên, khách quan, trung thực
những biểu hiện của sinh viên như: chăm chú tri giác bài giảng, hăng hái phát biểu, hay nêu
thắc mắc, hỏi thêm những phần chưa rõ, trao đổi tích cực với bạn về vấn đề giáo viên nêu
ra, làm bài tập, cách giải quyết vấn đề, ghi chép bài. Ghi chép tỉ mỷ những nội dung cần
quan sát, sau đó tổng kết đánh giá chung về những biểu hiện của sinh viên.
7.2.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu thăm dò ý kiến
* Mục đích:
Nhằm tìm hiểu những biểu hiện trong tính tích cực học tập môn Tâm lý học đại
cương của sinh viên và tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng.
* Nội dung:
Chúng tôi tiến hành xây dựng bộ câu hỏi cho sinh viên và giảng viên.
Nội dung phiếu trưng cầu ý kiến được chia làm 7 phần:
Phần 1: Tìm hiểu nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng, sự cần thiết và ý nghĩa
của việc học tập môn Tâm lý học đại cương.
Phần 2: Tìm hiểu động cơ học tập môn Tâm lý học đại cương của SV.
Phần 3: Tìm hiểu hứng thú học tập môn Tâm lý học đại cương của SV.
Phần 4: Tìm hiểu về thái độ học tập môn Tâm lý học đại cương của SV.
Phần 5: Tìm hiểu hành vi học tập môn Tâm lý học đại cương của SV.
Phần 6: Tìm hiểu kết quả học tập môn Tâm lý học đại cương của SV.
Phần 7: Tìm hiểu những nguyên nhân ảnh hưởng đến tính tích cực học tập môn Tâm
lý học đại cương của sinh viên.
Phần 8: Thăm dò ý kiến của giảng viên và sinh viên về biện pháp nâng cao tính tích
cực học tập môn Tâm lý học đại cương của sinh viên.
* Cách tiến hành:
- Xây dựng phiếu trưng cầu ý kiến.
- Tiến hành khảo sát thử trên 30 sinh viên để kiểm tra tính hiệu quả của công cụ nghiên
cứu đã soạn thảo.
- Tiến hành khảo sát trên mẫu nghiên cứu đã chọn
- Thu thập và xử lý kết quả nghiên cứu thu được từ phiếu khảo sát
- Cách tiến hành được thực hiện một cách khoa học, khách quan.
7.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
* Mục đích
Sử dụng phương pháp này nhằm làm sáng tỏ thêm một số nội dung nghiên cứu hỗ trợ
các phương pháp khác trong quá trình đưa ra những kết luận.
* Nội dung
Chúng tôi chuẩn bị trước một số nội dung sẽ trao đổi, trò chuyện với sinh viên và
giảng viên như: nhu cầu, hứng thú, động cơ, thái độ, nhận thức của sinh viên về tính tích
cực học tập môn Tâm lý học đại cương của sinh viên.
* Cách thức tiến hành
+ Chọn ngẫu nhiên và tiến hành phỏng vấn một số sinh viên một số câu hỏi liên quan
đến tính tích cực học tập.
+ Phỏng vấn trực tiếp một số giảng viên đang tham gia giảng dạy các lớp được chọn
làm khách thể nghiên cứu nhằm tìm hiểu nhận xét của giảng viên về tính tích học tập cuả
sinh viên.
+ Ghi chép trung thực nội dung câu trả lời từ phía sinh viên và giảng viên
7.2.4. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
* Mục đích
Nhằm xác định mức độ tính tích cực học tập môn Tâm lý học đại cương của sinh
viên thông qua kết quả kiểm tra quá trình, kiểm tra hết môn của sinh viên.
* Nội dung nghiên cứu
Được thể hiện thông qua một số câu hỏi về kết quả học tập của sinh viên.
* Cách thức tiến hành
Phát phiếu trưng câu ý kiến đã được tổ chức một số câu hỏi có liên quan.
7.3. Nhóm phương pháp thống kê toán học:
* Mục đích
Nhằm xử lý các thông tin thu được từ các phương pháp nghiên cứu trên, đồng thời
kiểm định tính khách quan, độ tin cậy của các kết quả nghiên cứu.
* Công cụ sử dụng
Sử dụng phần mềm SPSS để xử lý số liệu.
8. Đóng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu và các biện pháp đề xuất của đề tài sẽ góp phần nâng cao tính
tích cực học tập, kết quả học tập môn Tâm lý học đại cương của sinh viên hệ Đại học
trường Đại học Trà Vinh.
9. Cấu trúc luận văn: Bao gồm 03 phần
Phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4. Giả thuyết nghiên cứu
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
7. Phương pháp nghiên cứu
8. Đóng góp của đề tài
Phần kết quả nghiên cứu
Chương 1: Cơ sở lịch sử và lý luận cho việc nghiên cứu đề tài
Chương 2: Thực trạng về tính tích cực học tập môn Tâm lý học đại cương của sinh viên hệ
đại học trường Đại học Trà Vinh
Chương 3: Một số biện pháp góp phần nâng cao tính tích cực học tập môn Tâm lý học đại
cương của sinh viên hệ đại học trường Đại học Trà Vinh
Phần kết luận và kiến nghị
1. Kết luận
2. Kiến nghị
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LỊCH SỬ VÀ LÝ LUẬN CHO VIỆC NGHIÊN
CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu tính tích cực học tập môn Tâm lý học đại cương
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề tính tích cực
1.1.1.1. Khái niệm tính tích cực:
Thuật ngữ tính tích cực tiếng La tinh là Activus, tiếng Anh là Activity dùng để chỉ 2
ý:
+ Trạng thái hoạt động.
+ Tính chủ động (đối lập với bị động).
Theo từ điển Tiếng Việt [Trần Kiều, Nguyễn Thị Lan Anh], tích cực là một trạng thái
tinh thần có tác dụng khẳng định và thúc đẩy sự phát triển.
Theo từ điển tiếng Việt [Nguyễn Như Ý, 1996], tính tích cực bao gồm 3 nghĩa:
+ Một là: Có ý nghĩa, có tác dụng khẳng định, tác dụng thúc đẩy sự phát triển, trái
với tiêu cực.
+ Hai là: Tính chủ động, có những hoạt động nhằm tạo ra sự biến đổi theo hướng
phát triển.
+ Ba là: Hăng hái, nhiệt tình với nhiệm vụ, với công việc .
Trước hết, với tư cách là một khái niệm cơ bản của triết học, tính tích cực được
các triết gia từ thời cổ đại cho đến nay xem xét có một quá trình lịch sử gắn liền với tên tuổi
các nhà triết học nổi tiếng [36] như: Khởi đầu là nhà triết học Ampeđôlơcơ (490-430), khi
nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa các vật thể và mối quan hệ giữa các vật thể với cơ quan
cảm giác đã cho rằng: Tính tích cực phản ánh tâm lý là sự bắt gặp giữa chủ thể và khách thể
trong quá trình nhận thức cảm tính.
Đêmôcrit (460-370TCN) cho rằng: Các trạng thái tâm lý bên trong cũng ảnh hưởng,
tác động đến tính tích cực của phản ánh tâm lý và đề cao tính tích cực của các vật thể trong
vật tạo ra linh hồn. Platon (428-348) đã đề cập đến tính tích cực, thậm chí tuyệt đối hóa tính
tích cực của yếu tố ý niệm.
Arixtôt (384-322TCN) đề cập đến một số luận điểm về Tính tích cực:
- Tính tích cực ở mức độ sơ khai ban đầu dường như có tính chất tự nhiên, được xuất
phát từ quá trình cơ thể, được thỏa mãn với khách thể bên ngoài.
- Ông đã dùng phương pháp quyết định luận để giải quyết và giải thích bản chất của
lý trí và tính tích cực lý trí.
- Ông đã đưa ra quan điểm của mình về tính tích cực: “Tính tích cực của chủ thể khi
hướng đến các sự vật thực tế có một cách cảm tính thể hiện ở việc cải tạo lại các hình thức
của các sự vật ấy” có ý nghĩa tính tích cực là tạo ra sự vật hiện tượng của thực tế khách
quan.
Lêônađơvanhxi (1588-1679) cho rằng tính tích cực là sáng tạo và được thể hiện trong
tính tích cực nhận thức. R.Đềcác (1596-1650) quan niệm tính tích cực của chủ thể thể hiện
trong bình diện trí tuệ và có ảnh hưởng, hướng dẫn cho trí tuệ phát triển.
T.Hôpcơ (1588-1679), Spinôda (1632-1677) cũng có những quan niệm riêng về tính
tích cực.
Các nhà triết học duy vật về sau như: CácMác, Ph.Ănghen, B.A.Bôrônôvic,
N.V.Phimôphecva, A.M.Kêrsynôv, khi bàn đến tính tích cực đều coi tính tích cực là thuộc
tính chung của vật chất, tạo thành điều kiện tiên quyết bên trong cho sự tự vận động và tự
biểu hiện của hoạt động.
Như vậy, nhìn nhận một cách khái quát trong lĩnh vực triết học, các nhà triết học duy
vật đều thống nhất tính tích cực thể hiện ở một số luận điểm:
Tính tích cực là thuộc tính chung của mọi vật chất, tạo thành điều kiện tiên quyết
bên trong của sự tự vận động của vật chất, tính tích cực có quá trình phát triển gắn liền với
sự phát triển của vật chất. Sự phát triển này trải qua 3 giai đoạn:
+ Giai đoạn đầu tiên của sự phát triển tính tích cực là sự chuyển tiếp từ tính tích cực
là thuộc tính chung của vật chất đến tính tích cực là đặc trưng của các sinh vật và được biểu
hiện trong mọi quá trình của hoạt động đời sống, đảm bảo sự ổn định, tồn tại của sự vật.
+ Tính tích cực gắn liền với sự xuất hiện của hoạt động loài người. Sự khác biệt cơ
bản giữa hoạt động này so với hành vi của động vật ở sự chuyển tiếp từ chỗ đơn thuần thích
nghi với thiên nhiên đến chỗ dựa trên cơ sở nhận thức tính tất yếu mà cải tạo, sáng tạo
khách thể cho phù hợp với mục đích của cá nhân và xã hội.
+ Tính tích cực là sự tự vận động của vật chất, sự vận động và biến đổi này có thể
nhận thấy ngay ở mức độ thấp nhất của vật chất và giúp cho sự vật khỏi trạng thái nằm yên,
quân bình, hoàn chỉnh tạm thời, hiện tại tạo ra những biến đổi của vật thể trong không gian,
thời gian nhất định. Vì thế mà thuật ngữ “Tính tích cực” thường được mô tả bằng các thuật
ngữ khác như tính tự trị, tính tự sinh, tính chủ động… tức nhấn mạnh tính bản thân của chủ
thể.
- Tính tích cực thể hiện trong sự tác động thay đổi các khách thể khác nhau có nghĩa
là tạo ra sự biến đổi nhất định ở các khách thể, các vật thể có quan hệ đối tác với mình .
- Tính tích cực là sự phát triển biến đổi các trạng thái bên trong dưới ảnh hưởng của
các tác động bên ngoài.
Các tác giả đều thống nhất tính tích cực là sự gặp gỡ giữa yếu tố bên trong và yếu tố
bên ngoài, trong đó yếu tố bên trong giữ vai trò động lực quyết định.
Như vậy, sự vật hiện tượng nào cũng có tính tích cực, chính tính tích cực của sự vật
hiện tượng làm cho chúng không ngừng phát triển.
Các nhà triết học Mácxit thừa nhận rằng con người có khả năng nhận thức được về
thế giới và con người có khả năng cải tạo thế giới tự nhiên, thế giới xã hội và chính bản thân
mình. Tính tích cực thể hiện ở sức mạnh của con người trong việc chinh phục, cải tạo thế
giới tự nhiên, thế giới xã hội và chính bản thân. V.Lênin khẳng định: “Tính tích cực là thái
độ cải tạo thế giới của chủ thể đối với khách thể, đối với đối tượng sự vật xung quanh, là
khả năng của mỗi người đối với việc tổ chức cuộc sống, điều chỉnh những nhu cầu, năng lực
của họ thông qua các mối quan hệ xã hội” [21].
Ở góc độ triết học, bàn về tính tích cực là nói đến tính tích cực của phạm trù vật chất
rộng lớn, nó là cơ sở để nhìn nhận vấn đề tính tích cực trong các khoa học khác nhau, đặc
biệt trong khoa học tâm lý .
Tính tích cực đồng thời là một vấn đề cơ bản của tâm lý học nên được đề cập rõ nét
trong các công trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn của khoa học tâm lý.
+ Quan điểm của thuyết Hành vi.
Thuyết hành vi quan niệm cứ có kích thích là có phản ứng, hành vi của con người cũng
như ở động vật đó là tổng số các cử động bên ngoài nảy sinh ở cơ thể nhằm đáp lại kích thích
nào đó. Họ tóm tắt toàn bộ hành vi, phản ứng của con người và động vật bằng công thức S -
R. Sau này, chủ nghĩa hành vi mới mà đại diện tiêu biểu là Skinơ đưa vào công thức trên biến
số trung gian như nhu cầu, trạng thái chờ đón, kinh nghiệm sống của con người hay hành vi
tạo tác nhằm đáp ứng những kích thích có lợi của cơ thể. Về cơ bản thuyết hành vi vẫn cho
rằng hành vi của con người mang tính máy móc, cơ học. Chủ nghĩa hành vi vô hình chung đã
loại bỏ tính có ý thức của con người trong việc lựa chọn, điều chỉnh hoạt động tích cực của
con người. Họ bỏ qua tính chủ thể trong hoạt động nhận thức cũng như ý chí vượt qua khó
khăn của điều kiện khách quan và chủ quan của con người để đưa ra phương án, kế họach
hoạt động có hiệu quả nhất [10].
+ Tâm lý học Xô Viết [36] có thể nêu lên thành 4 xu hướng về tính tích cực và các
thông số biểu hiện cơ bản của nó như sau :
- Xu hướng thứ nhất: Tính tích cực được xem xét từ góc độ chức năng ,vai trò của
chủ thể đối với thế giới bên ngoài. Đại diện là các tác giả như: S.Đsmirnôp, V.P.Dintrencô,
V.Ia.Rômanôp…theo hướng này sự phát triển tính tích cực là sự phức tạp hóa dần các chức
năng tính tích cực của chủ thể.
- Biểu hiện đầu tiên của tính tích cực là thể hiện tính chủ định của ý thức, tính chủ
định của chủ thể đối với thế giới bên ngoài. Nói đến tính tích cực là nói đến tính chủ động,
thước đo tính chủ động của chủ thể, giới hạn phía trên của nó là tính tích cực tuyệt đối, giới
hạn phía dưới là tính bị động hoàn toàn.
- Biểu hiện thứ hai: Tính tích cực là thông số đo sự chuyển động sự biến đổi, hoạt
động tâm lý của chủ thể gắn liền với việc tiêu hao năng lượng tâm lý và sinh lý. Tính tích
cực thể hiện chức năng chỉ báo hoạt động của con người, con người có tính tích cực là con
người hoạt động.
- Biểu hiện thứ ba: tính tích cực thực hiện chức năng không chỉ biểu hiện sự thích
nghi mà cao hơn là sự thích ứng, sự cải tạo, sáng tạo của chủ thể với thế giới bên ngoài. Khi
nói đến tính tích cực là phải nói đến khía cạnh chủ thể thích ứng, sáng tạo trong thế giới bên
ngoài như thế nào.
- Xu hướng thứ hai: Đại diện là các nhà tâm lý học như: P.Ia.Ganpêrin,
A.Aliublinxcaia, B.G.Iarôxepxki. Họ gắn tính tích cực với hành động và được thể hiện
trong các mức độ lĩnh hội hành động khác nhau, đó cũng chính là chỉ số đo mức độ phát
triển tính tích cực của chủ thể. Ở xu hướng này, xét theo mức độ phát triển chủng loại,
Ganpêrin sử dụng phạm trù hoạt động và nhận xét rằng các mức độ tiến hóa của hành động
đánh dấu, thể hiện mức độ phát triển tính tích cực. Gồm 4 mức độ của hành động vật chất:
1 - Mức độ hành động đầu tiên, sự tác động không có ảnh hưởng, không có ý nghĩa
gì với vật thể đã tác động sinh lý tạo ra kết quả đó.
2 - Mức độ hành động sinh lý học, kết quả hành động và sự tác động có ý nghĩa với
việc điều chỉnh thực hiện hành động và ảnh hưởng đến sinh vật sinh thành ra kết quả đó .
3 - Mức độ hành động của chủ thể là mức độ hành động tích cực theo kiểu riêng, ở
đây tồn tại sự thích nghi của hành động trước đó trong những điều kiện và hoàn cảnh mới.
Mức độ hành động này là đặc tính của các động vật có tâm lý
4 - Mức độ hành động của con người khi hành động dựa trên cơ sở nhận thức được ý
nghĩa, hoàn cảnh, phương tiện xã hội của hành động.
Ở góc độ phát sinh cá thể, A.A.Liublinxcaia đã cho rằng tính tích cực được thể hiện
trong hoạt động của trẻ nhỏ cho đến lớn. Theo Liublinxcaia có 3 mức độ thể hiện tính tích
cực :
1 - Các hành động bắt chước.
2 - Hành động theo mẫu của bạn bè và người lớn một cách có ý thức.
3 - Hành động độc lập và sáng tạo.
- Xu hướng thứ ba: Các tác giả như M.I.Lixina, A.N.Lêônchiev, V.S Iukevich, A.V.
Dapôrôzest khi nghiên cứu tính tích cực tiếp xúc của trẻ đã quan niệm và đánh giá tính tích
cực thông qua các biểu hiện, các thông số cơ bản:
+ Nói đến tính tích cực là nói đến tính tích cực của một hoạt động cụ thể, tính tích
cực là ở trạng thái hoạt động và được biểu hiện trong những hành động, hành vi cụ thể.
+ Tính tích cực để chỉ tính sẵn sàng, là nhu cầu đối với họat động. Ở đây nhu cầu vừa
là biểu hiện, vừa là thành tố tâm lý bên trong tạo nên nguồn gốc, động lực của tính tích cực.
Có thể nói rằng không có nhu cầu thì không có tính tích cực. Tất nhiên, nhu cầu ở đây-
nguồn gốc động lực của tính tích cực không phải là nhu cầu thuần túy sinh học, nhu cầu
mang tính bản năng như quan niệm của S.Freud, mà là các nhu cầu người: Nhu cầu lao động
- tính tích cực lao động, nhu cầu học tập - tính tích cực học tập, nhu cầu giao tiếp - tính tích
cực giao tiếp. Tính tích cực để chỉ tính chủ động , hành động một cách có ý thức theo chủ ý
của mình, đối lập với sự bị động, thụ động.
- Xu hướng thứ 4: Khi xem xét thuật ngữ tính tích cực, các tác giả như L.M
AcKhanghenxki (LXô), R.Minle (CHDCĐức), I.aNhetophilic (TKhắc), M.MiKhalich (Ba
lan), I Lich (Hunggari) khi đánh giá trình độ, tính chất của tính tích cực trong các lĩnh vực
hoạt động cụ thể như tính tích cực lao động, tính tích cực chính trị xã hội, các nhà tâm lý
học theo xu hướng này cho rằng tính tích cực bao gồm 4 chỉ số :
- Tính giá trị của hoạt động và tính tự nguyện.
- Tính hiệu quả của hoạt động mà tính tích cực hướng tới
- Tính sáng tạo trong hoạt động
- Tính phát triển.(tính tích cực hướng đến phát triển năng lực tâm lý, nhân cách của
chủ thể)
Căn cứ vào việc phân tích 4 xu hướng trong tâm lý học có thể thấy hạt nhân hợp lý
chung là tính tích cực có các dấu hiệu biểu hiện, đồng thời là các thành tố tâm lý cấu tạo
thành tính tích cực.
Tính tích cực bao hàm các dấu hiệu sau:
+ Nhu cầu tâm lý hoạt động của con người tồn tại như 1 thành tố tâm lý bên trong,
động lực của tính tích cực. Nhu cầu tồn tại như khát vọng, nguồn gốc bên trong của tính tích
cực hoạt động con người, thể hiện ở sự tự nguyện hoạt động tác động vào thế giới bên ngoài
nhằm thỏa mãn nhu cầu .
+ Tính chủ động trong hoạt động, đối lập với tính bị động.
+ Nói đến kết quả, hiệu quả của tính tích cực hoạt động, sự thích ứng tâm lý, sự cải
tạo thay đổi của chủ thể với thế giới xung quanh.
Cách giải thích, nhìn nhận nội hàm thuật ngữ tính tích cực ở trên hoàn toàn phù hợp
với cơ sở triết học duy vật về tính tích cực đã xem xét, tạo ra sự thống nhất giữa triết học và
tâm lý học về tính tích cực.
Các nhà tâm lý học Mácxít cho rằng tính tích cực được đề cập và nhấn mạnh như là
một đặc điểm chung của đời sống sinh vật, là động lực đặc biệt của mối liên hệ giữa sinh vật
sống và hoàn cảnh, là khả năng đặc biệt của tồn tại sống giúp cơ thể thích ứng với môi
trường. Tính tích cực gắn liền với hoạt động và hoàn cảnh bên ngoài được thể hiện như để
hoàn thành và thực hiện hóa hoạt động. Nó thể hiện tính chế ước, chế định trạng thái bên
trong của chủ thể, là sự thích ứng một cách chủ động với hoàn cảnh, môi trường sống bên
ngoài, tính tích cực mang tính chất vượt khó khăn, trở ngại trong mọi hoàn cảnh theo mục
đích của chủ thể, mang tính ổn định, bền vững của hoạt động tạo ra kiểu phản ứng đối với
môi trường bên ngoài [45].
Quan điểm của các nhà tâm lý học Mácxít đề cập đến tính tích cực với nhiều góc độ
khác nhau, nhưng tựu lại các quan điểm trên đều đề cập đến tính tích cực gắn liền với hoạt
động, được thể hiện trong hoạt động và được biểu hiện trong những hành vi cụ thể của con
người. Tính tích cực là sự sẵn sàng của chủ thể đối với hoạt động, là nhu cầu đối với hoạt
động. Chính nhu cầu là nguồn gốc của tính tích cực. Tính tích cực là sự chủ động, là những
hành động có ý thức 1 cách có chủ ý của chủ thể.
Tính tích cực có thể được xem như là một phẩm chất xã hội của con người. Là một
thuộc tính nhân cách của cá nhân được đặc trưng bởi sự chi phối mạnh mẽ của các hoạt
động đang diễn ra đối với đối tượng, tính trương lực của trạng thái bên trong chủ thể ở thời
điểm hành động, tính quy định của mục đích hành động trong hiện tại, tính bền vững tương
đối của hành động trong sự tương quan với mục đích đã được thông qua. Nó gắn liền với
trạng thái hoạt động , là năng lực thể hiện sự nỗ lực cố gắng ở sự chủ động sáng tạo có ý
thức tác động qua lại với môi trường của chủ thể, tính tích cực bắt nguồn từ lợi ích nhu cầu
của con người, được nảy sinh, hình thành và phát triển trong hoạt động.
1.1.1.2. Nguồn gốc và quá trình phát triển của tính tích cực
Qua quá trình tìm hiểu khái niệm tính tích cực, chúng ta có thể nhận thấy tính tích
cực của con người không tự nhiên mà có, đó không phải là năng lực vốn có khi con người
được sinh ra. CácMác và Ănghen đã nhấn mạnh hoàn cảnh sống xã hội là yếu tố quyết định
tính tích cực của cá nhân, nhưng đồng thời cũng cải tạo được hoàn cảnh đó : “Hoàn cảnh tạo
ra con người trong chừng mực con người tạo ra hoàn cảnh”[26].
Như vậy, những tác động bên ngoài, đặc biệt là hoàn cảnh sống đã gây nên một phản
ứng tâm lý tích cực hoặc phản ứng tiêu cực từ phía cá nhân. Tức là tác động đến nhân tố
bên trong của cá nhân đó, mà nhân tố bên trong lại tồn tại dưới dạng nhu cầu, hứng thú,
động cơ, phương hướng của sự hoạt động. Con người tồn tại và phát triển trong xã hội là do
“dòng hoạt động” liên tục. Trong đó, lao động là hoạt động cơ bản, lao động trước hết là do
nhu cầu của con người thúc đẩy mà có. Trong quá trình lao động sản xuất, chính lao động là
nhân tố vừa làm phát triển nhu cầu, đồng thời làm nảy sinh nhu cầu mới cao hơn. Vì thế,
nhu cầu là sự kích thích bên trong đầu tiên của bất cứ hoạt động nào. CácMác đã khẳng định
con người sẽ chẳng làm gì cả nếu không có những nhu cầu của mình kích thích hành động,
khi nó kết hợp với ý thức sẽ tạo nên động lực thúc đẩy hành vi của con người. V.I.LêNin đã
nhận xét về tính tích cực, sáng tạo, cải tạo của hoạt động nhận thức và lý luận nhận thức của
con người, ông đã diễn đạt nó bằng công thức “ Ý thức của con người không phải chỉ phản
ánh thế giới khách quan mà còn tạo ra thế giới khách quan” [21, tr.235]. Đứng trước tự
nhiên, trong cuộc sống xã hội, con người luôn tỏ thái độ và đưa ra một hành động khi đã
nhận thức được về nó. Quá trình phản ánh của cá nhân về thế giới tự nhiên và đời sống xã
hội là thông qua thái độ của cá nhân người đó. V.N.Miasixev là người đã phát triển khái
niệm thái độ và lấy đó làm nguyên tắc giải thích tính tích cực cá nhân. Ông xuất phát từ chỗ
cho rằng thái độ hình thành nên quá trình phản ánh và trên cơ sở quá trình phản ánh sẽ trực
tiếp biểu hiện ra mức độ hoạt động và ở số lượng, chất lượng của hiệu suất của hoạt động
[23]. Nếu trong cuộc sống, bất cứ hiện tượng nào tác động vào cá nhân mà có ý nghĩa đối
với cá nhân sẽ trở thành đối tượng của thái độ tích cực của cá nhân đó. Tính biện chứng
trong mối quan hệ qua lại giữa ý nghĩa xã hội và ý nghĩa cá nhân, giữa ý nghĩa chủ quan và
ý nghĩa khách quan đã được N.E.Đôbrưnin vạch rõ, tác giả cho rằng ý nghĩa khách quan của
những quan hệ nào đó khi đã trở thành ý nghĩa chủ quan của con người thì lúc đó chẳng
những nó không bị yếu đi mà trái lại trở thành một nguồn quan trọng thúc đẩy con người
hoạt động và đó chính là nhu cầu của con người.
Nhu cầu là cơ sở, là cái khởi đầu trong quá trình con người hoạt động. Trong hoạt
động con người nảy sinh nhu cầu cụ thể, rồi từ nhu cầu để tiến hành hoạt động tiếp theo
nhằm mục đích cuối cùng. Bởi vậy, nhu cầu không những biểu hiện vai trò quyết định các
điều kiện bên ngoài mà nó còn biểu hiện vai trò tính sáng tạo của ý thức trong sinh hoạt của
con người. Ngoài những nhu cầu vật chất, con người còn có nhu cầu tinh thần, xã hội, các
hứng thú, tình cảm, lý tưởng và những đòi hỏi của xã hội thúc đẩy con người hoạt động.
Như vậy, hoạt động của cá nhân không chỉ được quy định bởi những nhu cầu, hứng
thú mà còn bị quy định bởi những đòi hỏi và yêu cầu của xã hội. Việc đánh giá tốt của xã
hội, biểu thị dư luận của tập thể là một kích thích mạnh mẽ và đôi khi chính nó là nguồn
thúc đẩy tính tích cực hoạt động của cá nhân. Hình ảnh tương lai tươi sáng, ý thức về tính
hiện thực của tương lai sẽ tạo ra tính tích cực của cá nhân, sẽ tạo ra cho cá nhân khả năng
chịu đựng vượt qua những khó khăn để tiến tới mục đích đã định. Niềm tin hy vọng vào một
tương lai tươi đẹp là một trong những kích thích căn bản thúc đẩy con người sống, tích cực
hoạt động. Nhờ sự phác họa trước được hình ảnh của tương lai sẽ giúp con người hoạt động
một cách có ý thức và có kết quả cao.
Tính tích cực được tạo nên từ cái gốc của nhu cầu và đến lượt nó biểu hiện trong hoạt
động, thúc đẩy hoạt động đạt tới mục đích để thỏa mãn các nhu cầu của con người. Chính
việc thỏa mãn nhu cầu ấy lại hình thành và phát triển thành hứng thú. Như vậy hứng thú
được phát triển trên cơ sở của nhu cầu và bị chi phối bởi những nhu cầu đó. Mặt khác nhu
cầu và hứng thú lại là cơ sở hình thành nên động cơ. Động cơ chính là sức mạnh kích thích
tính tích cực của cá nhân
Tóm lại, nguồn gốc của tính tích cực là hứng thú, nhu cầu và động cơ nằm trong
hoạt động chủ đạo của cá nhân, chính chúng mang lại hiệu quả cao trong hoạt động của con
người. Cũng như tất cả mọi sự vật hiện tượng khác, tính tích cực của con người phát triển
theo một trình tự từ thấp đến cao, từ thụ động đơn giản đến chủ động sáng tạo. Đó là quá
trình tịnh tiến có chủ định nhưng không phải là sự phẳng lặng, chính nhờ hoạt động và
thông qua hoạt động đã giúp con người thích nghi với hoàn cảnh tự nhiên và những đòi hỏi
của đời sống xã hội. Đầu tiên là mức độ thích nghi, tức là sự biến đổi và phát triển của cơ
thể về mặt hình thái và phương diện chức năng cho phù hợp với hoàn cảnh tự nhiên, sau đó
sự xuất hiện của hệ thần kinh làm xuất hiện những phản ứng độc lập của cơ thể trước những
tác động từ bên ngoài. Đó là phản ứng một cách thích hợp, tiết kiệm và có hiệu quả hơn đối
với môi trường. Từ đó, hoạt động phản ứng lại với môi trường làm cho môi trường thích
nghi với đòi hỏi của chủ thể tức là cải tạo thế giới tự nhiên mà con người đang sống. Thông
qua hoạt động cải tạo tự nhiên bắt tự nhiên phục vụ mục đích của con người, thống trị tự
nhiên thông qua và bằng chính hoạt động lao động của con người.
Tính tích cực được hình thành và phát triển theo sự phát triển của lứa tuổi và theo sự
tác động của cá nhân đối với môi trường sống trong xã hội loài người. Mới đầu, tính tích
cực mờ nhạt, càng lớn tính tích cực và song song với nó là năng lực ý thức và tự ý thức
được phát triển mạnh. Tuy nhiên, tính tích cực phát triển không đồng đều. Ở từng lứa tuổi
và góc độ khác nhau tính tích cực phát triển khác nhau. Một cá nhân tích cực là một cá nhân
hoạt động ở mức độ cao nhất nhằm thỏa mãn những nhu cầu của bản thân. Hoạt động lao
động, nhất là hoạt động nhận thức là một trong những con đường phát triển mạnh mẽ nhất
của tính tích cực. A.G.Côvaliôp và P.A.Ruđich khẳng định: “Tính tích cực được phát triển
hoàn thiện nhất trong lao động, lao động tác động đến việc hình thành các phẩm chất của
tính cách như tính bền vững của ý chí, khả năng duy trì chú ý lâu dài vào một đối tượng
hoặc một hoạt động nào đó”[33].
Tóm lại, chúng ta có thể nhận thấy rằng quá trình hình thành và phát triển tính tích
cực là quá trình thích ứng và cải tạo của con người đối với môi trường. Điều này được thể
hiện trong hoạt động nhất là trong hoạt động nhận thức và trong việc cải tạo thế giới khách
quan của con người.
1.1.1.3. Các cấp độ của tính tích cực
Căn cứ vào việc huy động chủ yếu các chức năng tâm lý và dựa theo tính chất sáng
tạo hay tái tạo của kết quả hoạt động G.I.Shukina và Trần Bá Hoành chia tính tích cực gồm
3 loại sau:
- Tính tích cực tái hiện, bắt chước: Là do những yêu cầu từ bên ngoài tác động vào
và chính những yêu cầu đó làm hình thành nên hoạt động nhận thức ở sinh viên. Tính tích
cực tái hiện, bắt chước chủ yếu dựa vào trí nhớ, nhờ đó học sinh tái hiện, thể hiện lại những
gì đã nhận thức, tái tạo lại những kiến thức đã tiếp thu, thực hiện những thao tác, kỹ năng
mà giáo viên đã nêu.
- Tính tích cực tìm tòi: Được đặc trưng bởi bình phẩm, phê phán, tìm tòi tích cực về
mặt nhận thức, óc sáng kiến, lòng khát khao hiểu biết, hứng thú học tập. Tính tích cực tìm
tòi không bị hạn chế trong khuôn khổ mà giáo viên đưa ra.
- Tính tích cực sáng tạo: Được đặc trưng bởi sự khẳng định con đường riêng của
mình, không giống hoặc phát triển con đường mà mọi người đã thừa nhận, đã trở thành
chuẩn hóa để đạt được mục đích. Như vậy tính tích cực sáng tạo là mức độ cao nhất của tính
tích cực nhận thức.
Dựa vào hình thái của hoạt động, hành động, Skatkin, Đặng Thành Hưng đã chia tính
tích cực như sau:
- Một là, theo hình thái bên ngoài của tính tích cực học tập gồm có các hoạt động
quan sát, khảo sát, ứng dụng, thực nghiệm, đánh giá, thay đổi, dịch chuyển…, được thể hiện
ở nhịp độ, cường độ học tập cao, ở đó sinh viên rất năng động luôn hoạt động và hoàn thành
những công việc được giao.
- Hai là, theo hình thái bên trong học tập gồm các hoạt động trí óc như sự căng thẳng
về trí lực, những hành động và thao tác tư duy như phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát
hóa…các chức năng cảm xúc ý chí, các phản xạ thần kinh cấp cao, các biến đổi về cường độ
của nhu cầu, hứng thú, động cơ, tình cảm.
1.1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề tính tích cực học tập
1.1.2.1. Trên thế giới
Tính tích cực học tập của người học là một vấn đề đã đã được nhiều tác giả quan tâm
nghiên cứu và có mầm mống từ thời cổ đại. Nhà triết học Hylạp Xôcrat đưa ra phương pháp
vấn đáp Ơrístic trong dạy học: Người thầy giáo là người dẫn dắt, gợi mở để học sinh đi tìm
chân lý, hình thành tính tự lực và phát huy trí lực của họ.
Ngay từ trước công nguyên (551-479) nhà triết học, nhà văn hóa, nhà giáo dục
(Trung Quốc) Khổng Tử đã quan tâm đến dạy học làm sao phải phát huy được tính tích cực
suy nghĩ cho trò. Ông nói: “Vật có bốn góc, bảo cho biết một góc mà không suy ra ba góc
kia thì không dạy nữa. Hoặc ông yêu cầu học trò cố gắng tự suy nghĩ: “Học mà không suy
nghĩ thì uổng công vô ích, suy nghĩ mà không học thì nguy hiểm”.
Ở Châu Âu thế kỷ XVII (1592-1670) J.A Cômenki, trong tác phẩm “Lý luận dạy học
vĩ đại” của mình đã đề cập đến tính tự giác, tính tích cực với tư cách là một trong những
nguyên tắc dạy học quan trọng và cơ bản nhất.
A.Đixtecvec, nhà giáo dục người Đức hết sức nhấn mạnh đến phát triển tính tích cực
nhận thức của người học.
Khi nghiên cứu về tính tích cực học tập – nhận thức các tác giả L.X. Vưgôtxki,
X.L.Rubinxtêin, A.N.Lêônchiev, P.Ia.Galperin và Piaget cho rằng: Dựa trên quan điểm cá
nhân luôn hoạt động, không hoạt động thì cá nhân không tồn tại trong môi trường tự nhiên
và xã hội xung quanh mình. Chỉ có trong hoạt động thì tính tích cực cũng như tâm lý, ý thức
của con người mới bộc lộ, nảy sinh, hình thành và phát triển. X.L.Rubinxtêin khẳng định :
“Bất kỳ hoạt động nào của con người cũng xuất phát từ chỗ nó như một cá nhân, một chủ thể
của hoạt động đó” . Chỉ có trong hoạt động và bằng hoạt động thì tính tích cực cũng như tâm lý,
ý thức của con người mới bộc lộ, nảy sinh, hình thành và phát triển.
A.N.Lêônchiev cho rằng: Sự khác biệt cơ bản giữa các quá trình thích nghi theo đúng
nghĩa của nó và các quá trình tiếp thu, lĩnh hội là ở chỗ quá trình thích nghi sinh vật là quá
trình thay đổi các thuộc tính của loài và năng lực cơ thể cũng như hành vi loài của cơ thể.
Quá trình tiếp thu hay lĩnh hội thì khác, đó là quá trình mang lại kết quả là, cá thể tái tạo lại
được những năng lực và chức năng người đã hình thành trong quá trình lịch sử [3]. Như
vậy, chỉ bằng cách người thầy tổ chức cho học sinh tích cực học tập, khi đó học sinh mới
“chuyển” tri thức của nhân loại thành tri thức bản thân.
I.F.Kharlamôp trong tác phẩm “Phát huy tính tích cực của học sinh như thế nào” của
mình, ông đã nêu lên một loạt những phương pháp, những thủ thuật như phép tương tự,
phân tích - tổng hợp, quy nạp, tìm nguyên nhân gây ra hiện tượng, nhấn mạnh mâu thuẫn
chứa đựng trong tài liệu nhằm kích thích và phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh
[38].
V. Ôkôn trong cuốn “Những cơ sở của việc dạy học nêu vấn đề” cho rằng tính tích
cực là lòng ham muốn hành động được nảy sinh một cách không chủ định và gây nên những
biểu hiện bên ngoài hoặc bên trong của sự hoạt động, chủ thể đã ý thức được mục đích của
hành động [12].
Dựa vào tư tưởng trên các nhà tâm lý học, giáo dục học G.I.Sukina, Nizamov.R.A,
L.Aristôva, B.P. Exipop, I.I.Rodak… (Liên xô) đã nghiên cứu bản chất tính tích cực nhận
thức, mối quan hệ giữa tính tích cực và tính độc lập nhận thức, phân loại tính tích cực nhận
thức.
Các nhà Tâm lý học, Giáo dục học phương Tây tiếp thu thành tựu nghiên cứu sinh lý