Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

Ngân hàng trung ương và hiệu quả trong điều hành Chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (774.89 KB, 54 trang )

ĐỀ TÀI:
Ngân hàng trung ương và hiệu quả trong điều hành
Chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước Việt Nam
A/ NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
I/ Lịch sử hình thành
-

-

Ngân hàng trung ương đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử cùng với sự phát triển
của hệ thống ngân hàng. Theo một số tài liệu phổ biến hiện nay, trước thế kỷ
XV trong nền kinh tế xuất hiện những người làm nghề kinh doanh tiền tệ với
dịch vụ đầu tiên đơn giản chỉ đổi tiền, giữ tiền cho thương nhân và thực hiện
nghiệp vụ cho vay khi trong tay họ luôn có một lượng tiền nhàn rỗi nhất định
và đây được xem như là mầm mống cho công việc xuất ra các ngân hàng ở giai
đoạn sau.
Ngân hàng bắt đầu xuất hiện ở nhiều nước bắt đầu từ thế kỷ XV, trải qua:
+ Giai đoạn 1 - thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, xuất hiện các ngân hàng thực hiện
các nhiệm vụ như nhau và đơn giản như nhận tiền gửi và cho vay, phát hành
tiền thực hiện các dịch vụ ngân hàng như thanh toán, chuyển tiền, đổi tiền,...
+ Giai đoạn 2 - thế kỷ XVIII đến cuối thế kỷ XIX
Nhà nước các nước ban hành đạo luật hạn chế số lượng ngân hàng được phép
phát hành tiền, thậm chí, các nước có xu hướng chỉ cho phép một ngân hàng
duy nhất Tuy nhiên, ở một quốc gia, ngân hàng trung ương khơng hồn tồn
thuộc quyền sở hữu của nhà nước nhưng hoạt động vẫn mang tính chất như
một ngân hàng của nhà nước và cơ quan quản lý cao nhất của ngân hàng trung
ương là do nhà nước bổ nhiệm và miễn nhiệm.
Ví dụ: ở Anh năm 1844, Nhà nước cấm các ngân hàng tư nhân phát triển và
toàn bộ hoạt động này được tập trung vào ngân hàng Anh quốc. Ngân hàng cổ
phần tư nhân Pháp thành lập năm 1800, đến năm 1803 được độc quyền phát
hành giấy bạc ở Paris, đến năm 1948 độc quyền phát hành giấy bạc ngân hàng


trên toàn nước Pháp
+ Giai đoạn 3 - thế kỷ XX đến nay, nhà nước các nhà nước ngày càng nhận
thấy vai trò to lớn của ngân hàng phát hành đối với sự phát triển của nền kinh
tế đặc biệt sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929-1933. Đòi hỏi tất
yếu tố nhà nước cần nắm trong tay ngân hàng phát hành và công cuộc tiến
hành quốc hữu hóa hoặc thành lập ngân hàng phát hành mới thuộc sở hữu nhà
nước bắt đầu, cụ thể Canada quốc hữu hóa ngân hàng phát hành năm 1938,
Đức năm 1939, Pháp năm 1945, Anh năm 1946. Từ đó, tên gọi ngân hàng phát


hành được thay thế là ngân hàng trung ương, mỗi quốc gia chỉ có duy nhất một
ngân hàng trung ương, đảm nhiệm nhiều vai trò quan trọng như thực hiện phát
hành tiền, kiểm soát và điều tiết lượng tiền cung ứng, thực hiện nhiều nhiệm vụ
với chính phủ, ... Tuy nhiên, tại một cơ sở quốc gia, ngân hàng trung ương
khơng hồn tồn thuộc quyền sở hữu của nhà nước nhưng hoạt động vẫn mang
tính chất như một ngân hàng của nhà nước và cơ quan quản lý cao nhất của
ngân hàng trung ương là do nhà nước bổ nhiệm và miễn nhiệm.
Ví dụ: Ngân hàng Trung ương Nhật Bản là ngân hàng cổ phần theo luật năm
1942 trong đó cổ phần hoá nhà nước chiếm S5%, cổ phần thuộc sở hữu tư nhân
chiếm 45% nhưng cơ quan quản trị ngân hàng là Hội đồng chính sách có 7
thành viên do Chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm; ở Mỹ, hệ thống dự trữ Liên
bang Mỹ là ngân hàng cổ phần nhưng cơ quan lãnh đạo cao nhất của ngân hàng
này là Hội đồng thống đốc có 7 thành viên do Tổng thống bầu cử và Quốc hội
bổ nhiệm.
Bên cạnh đó, tên gọi của ngân hàng trung ương ở mỗi quốc gia cũng khác
nhau, có quốc gia tên gọi của ngân hàng trung ương mang tính chất kế thừa
lịch sử như Ngân hàng trung ương Nhật Bản (Bank of Japan), có quốc gia tên
gọi ngân hàng trung ương dựa theo tính chất sở hữu như Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam (State Bank of Vietnam), Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (People’s
Bank of China) hoặc cũng có thể gọi thẳng như Cục dự trữ Liên Bang Mỹ

(Federal Reverse System).
=> Tuy nhiên, dù có tên gọi như thế nào thì ngân hàng trung ương hoạt động nhằm
đáp ứng cho mục tiêu chung nhất đảm bảo hỗ trợ đối với sự tăng trưởng và ổn
định kinh tế.
II/ Mơ hình của ngân hàng trung ương
1. Ngân hàng trung ương trực thuộc chính phủ
Mơ hình ngân hàng trung ương trực thuộc chính phủ là mơ hình trong
đó ngân hàng trung ương nằm trong nội các chính phủ và chịu sự chi phối trực
tiếp của chính phủ về nhân sự, về tài chính và đặc biệt về các quyết định liên
quan đến việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ. Các nước áp dụng mơ
hình này phần lớn là các nước Đơng Á (Hàn quốc, Đài loan, Singapore,
Indonesia, Việt Nam ...) hoặc các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa trước đây.


Theo mơ hình này, ngân hàng trung ương nằm trong cơ cấu bộ máy của
Chính phủ, chịu sự điều hành trực tiếp của Chính phủ. Chính phủ có quyền can
thiệp rất lớn, không chỉ trên phương diện tổ chức, điều hành mà cịn trong hoạt
động thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Ngân hàng trung ương được ví như
cơng cụ của Chính phủ trong việc điều tiết giá trị đồng tiền và huy động các
nguồn tài chính trong nền kinh tế. Mơ hình này được xác định dựa trên cơ sở:
Chính phủ là cơ quan hành pháp, thực hiện chức năng quản lý vĩ mô đối với
nền kinh tế. Do đó, Chính phủ phải nắm trong tay các cơng cụ kinh tế vĩ mơ để
sử dụng nó một cách đồng bộ và phối hợp các công cụ nhằm vận hành nền
kinh tế trôi chảy và hiệu quả, cũng là để thực thi tốt nhiệm vụ của mình, mà
thực chất là Chính phủ nắm ngân hàng trung ương và thơng qua ngân hàng
trung ương tác động đến chính sách tiền tệ quốc gia. Mơ hình này được xem là
phù hợp với yêu cầu cần tập trung quyền lực để khai thác tiềm năng xây dựng
kinh tế trong thời kỳ tiền phát triển.
Tiêu biểu cho mơ hình này là ngân hàng trung ương ở một số nước châu
Á như Trung Quốc, Việt Nam...

Điểm hạn chế chủ yếu của mơ hình là ngân hàng trung ương sẽ mất đi
sự chủ động trong việc thực hiện chính sách tiền tệ. Sự phụ thuộc vào chính
phủ có thể làm cho ngân hàng trung ương xa rời mục tiêu dài hạn của mình là
ổn định giá trị tiền tệ, góp phần tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, sự lớn mạnh
nhanh chóng của các nước thuộc nhóm NIEs như Singapore, Hàn quốc, Đài
loan... nơi ngân hàng trung ương là một bộ phận trong guồng máy chính phủ là
một bằng chứng có sức thuyết phục về sự phù hợp của mơ hình tổ chức này đối
với truyền thống văn hố Á Đơng.
Ví dụ: Luật về Ngân hàng nhân dân Trung Quốc năm 1995, được sửa
đổi, bổ sung năm 2003 quy định: “Ngân hàng nhân dân Trung Quốc là ngân


hàng trung ương của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Dưới sự lãnh đạo
của Quốc vụ viện, Ngân hàng nhân dân Trung Quốc hoạch định và thực thi
chính sách tiền tệ quốc gia, ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tài chính và duy trì sự
ổn đinh tài chính”(Điều 2); “Toàn bộ vốn của Ngân hàng nhân dân Trung Quốc
do nhà nước cấp và thuộc sở hữu của nhà nước” (Điều 8). Như vậy, Ngân hàng
Nhân dân Trung Quốc là cơ quan của Chính phủ và thuộc sở hữu nhà nước.
Lãnh đạo, điều hành ngân hàng trung ương ở Trung Quốc được thực hiện bởi
Thống đốc, một số Phó Thống đốc và Hội đồng Chính sách tiền tệ Quốc Gia.
Thống đốc Ngân hàng nhân dân Trung Quốc phải được Thủ tướng Quốc vụ
viện đề cử và Quốc hội quyết định. Khi chưa đến kỳ họp Quốc hội thì Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quyết định và do Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm. Các Phó Thống đốc do Thủ tướng
Quốc vụ viện bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm (Điều 10).
Ngân hàng trung ương ở Trung Quốc áp dụng hệ thống trách nhiệm tập
trung của Thống đốc. Thống đốc chịu trách nhiệm điều hành cơng việc chung
của tồn ngân hàng, các Phó Thống đốc trợ giúp Thống đốc hoàn thành trách
nhiệm (Điều 11).
Hội đồng chính sách tiền tệ quốc gia được thành lập bởi Ngân hàng

nhân dân Trung Quốc, có chức năng, nhiệm vụ tổ chức các thủ tục làm việc do
Quốc vụ viện quy định và báo cáo lên Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Hội đồng
chính sách tiền tệ quốc gia đóng vai trò quan trọng trong quản lý kinh tế vĩ mơ
cũng như hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia.
2. Ngân hàng trung ương độc lập với chính phủ
- Khái niệm: Mơ hình ngân hàng trung ương độc lập với chính phủ là mơ hình
trong đó ngân hàng trung ương khơng chịu sự quản lý của chính phủ mà là của
quốc hội. Quan hệ giữa ngân hàng trung ương và chính phủ là quan hệ hợp tác.
Theo mơ hình này, ngân hàng trung ương khơng nằm trong cơ cấu bộ máy của
Chính phủ, khơng chịu sự lãnh đạo, điều hành của Chính phủ. Chính phủ
khơng có quyền can thiệp vào hoạt động của ngân hàng trung ương mặc dù ban
lãnh đạo của ngân hàng do Tổng thống hay Thủ tướng bổ nhiệm. Chính quyền
khơng được phế truất thống đốc. Điển hình cho mơ hình này là ngân hàng
trung ương ở các nước như Hoa Kỳ, Đức, Nga.
Việc quy định ngân hàng trung ương độc lập với Chính phủ bởi ngân hàng
trung ương là cơ quan quản lý, điều tiết tiền tệ và phát hành tiền, hoạt động của
nó tác động trực tiếp tới sự phát triển của nền kinh tế, nếu xác định vị trí pháp
lý của nó thuộc Chính phủ thì khơng có gì bảo đảm rằng mọi quyết sách của
Chính phủ về tiền tệ sẽ phù hợp với chủ trương, giải pháp của ngân hàng trung
ương và phù hợp với nhu cầu thực tiễn của thị trường tiền tệ. Hơn nữa, nếu
ngân hàng trung ương thuộc Chính phủ khi có thâm hụt tài chính ngân sách,
việc phát hành tiền quá giới hạn và không phụ thuộc vào quy luật lưu thông


tiền tệ dễ xảy ra, gây ra tình trạng lạm phát, ảnh hưởng tới sự phát triển của
nền kinh tế và đời sống của nhân dân. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường
hiện nay, việc trao cho ngân hàng trung ương vị trí pháp lý độc lập là vơ cùng
cần thiết, là yếu tố then chốt để đảm bảo tính hiệu quả trong điều hành chính
sách tiền tệ quốc gia ở mỗi nước.


-

-

-

Mục tiêu:
+ Duy trì mức giá cả ổn định
+ Tăng trưởng kinh tế
+ Tạo công ăn việc làm
Ưu điểm:
+ Tăng hiệu quả của mục tiêu kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế, giảm
thâm hụt ngân sách và ổn định hệ thống tài chính
+ Được giao quyền lựa chọn mục tiêu mà không chịu sự can thiệp chỉ đạo từ
Chính phủ hay cơ quan liên quan khác.
+ Quyết định trong việc thực thi các chính sách nên tăng tính chủ động và giảm
độ trễ của chính sách tiền tệ.
+ Trách nhiệm giải trình đầy đủ và minh bạch.
+ Tự chủ về cơ chế tổ chức và cơ chế tài chính nhân sự.
Nhược điểm: Ngân hàng vẫn phải chịu sự chi phối chính trị và sự thực hiện hài
hịa giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa.
Ví dụ: Ở Hoa Kỳ, năm 1908 Đạo luật Aldrich - Vreeland được Quốc hội Hoa
Kỳ thông qua đã xác định rõ sự cần thiết phải quy định hệ thống ngân hàng độc
lập với Chính phủ. Sau đó, năm 1913, Đạo luật về Cục dự trữ Liên bang Hoa
Kỳ khẳng định ngân hàng trung ương Hoa Kỳ (Cục Dự trữ liên bang Hoa Kỳ FED) có vị trí độc lập với Chính phủ, trực thuộc Quốc hội, độc lập trong việc
quyết định cung ứng tiền tệ và thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Lấy dẫn chứng là Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED): FED có một cấu trúc tổ
chức rất lớn và phức tạp với nhiều bộ phận, gần giống với bộ máy hành chính
của chính phủ. Trung tâm ra quyết định, đồng thời có quyền lực lớn nhất trong
hệ thống dự trữ liên bang là Hội đồng thống đốc có trụ sở tại Washington, DC.

Theo luật, số lượng thành viên của cơ quan quản lý này không vượt quá 7


người, với tổng nhiệm kỳ của mỗi người không vượt quá 14 năm. Mỗi người
trong hội đồng sẽ do Tổng thống đề cử và thượng viện thông qua. Chủ tịch hội
đồng và phó chủ tịch sẽ do tổng thống chỉ định trong số 7 người với nhiệm kỳ
4 năm một lần. Hội đồng thống đốc sẽ giám sát và quản lý hoạt động của 12
ngân hàng dự trữ thành viên và các chi nhánh của chúng.
Các thành viên của Hội đồng dự trữ liên bang là những thành viên bỏ phiếu
chính của Ủy ban thị trường mở liên bang (FOMC). Những thành viên bỏ
phiếu còn lại là 5 trong số 12 chủ tịch của các ngân hàng dự trữ liên bang được
chọn theo phương thức luân phiên hàng năm. Nhiệm vụ chính của FOMC là
lập ra các chính sách hoạt động của thị trường mở – Việc mua, bán chứng
khoán của các ngân hàng Dự trữ liên bang. Tuy nhiên trên thực tế tổ chức này
tham gia vào tất các các chính sách và hoạt động của hệ thống Dự trữ liên bang
nhằm tác động vào nền kinh tế và hệ thống ngân hàng. Hệ thống dự trữ liên
bang được chia thành 12 vùng, mỗi vùng có 1 ngân hàng dự trữ liên bang hoạt
động với mục đích giám sát và giúp đỡ các ngân hàng thành viên. Để trở thành
các ngân hàng thành viên, các ngân hàng này cần được Cục quản lý tiền tệ
quốc gia cấp phép hoặc phải đồng ý chịu sự giám sát và quản lý của FED, các
tổ chức thành viên phải mua cổ phiếu của ngân hàng dự trữ liên bang khu vực
phát hành (loại cổ phiếu không thể mua bán, chuyển nhượng) và chịu sự kiểm
tra hoạt động toàn diện của FED. Tuy nhiên, hầu hết các ngân hàng của Mỹ và
thậm chí ngoài lãnh thổ nước Mỹ vẫn chấp nhận gia nhập hệ thống của cục dự
trữ liên bang Mỹ bởi lẽ họ tin rằng việc trở thành thành viên sẽ gia tăng tính an
tồn, nhờ đó có thể thu hút nhiều tiền gửi với quy mơ lớn.
 Có thể nói, mơ hình ngân hàng trung ương độc lập chính phủ thường được
thiết lập ở những nước có nền kinh tế phát triển và chính sách tiền tệ quốc
gia được coi là động lực của mọi sự phát triển. Để đảm bảo tính hiệu quả
trong hoạt động quản lý của ngân hàng trung ương thì ngân hàng này phải

có vị trí pháp lý độc lập, tức là mối quan hệ giữa ngân hàng trung ương với
Quốc hội và Chính phủ phải được làm rõ và tính độc lập, tự chủ phải được
đề cao. Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Ban lãnh
đạo ngân hàng trung ương có quyền tự quyết, chứ không phải là quyết định
của Quốc hội hay Chính phủ. Vị thế này được thể hiện rõ nét nhất trong
việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Đây là một trong
những nhân tố quyết định sự thành công của hoạt động quản lý kinh tế vĩ

III/ Chức năng của ngân hàng trung ương
1. Phát hành tiền và điều tiết lượng tiền cung ứng
a) Phát hành tiền


-

-

Ngân hàng trung ương là cơ quan duy nhất phát hành đồng tiền quốc gia. Giấy
bạc do ngân hàng trung ương phát hành là phương tiện thanh toán hợp pháp,
làm chức năng phương tiện thanh tốn và lưu thơng. Do đó, việc phát hành tiền
của ngân hàng trung ương có tác động trực tiếp đến tình hình lưu thơng tiền tệ
của đất nước. Để giá trị đồng tiền được ổn định, nó địi hỏi việc phát hành tiền
phải tn theo những nguyên tắc nghiêm ngặt
Các nguyên tắc cơ bản cho việc phát hành tiền được đặt ra là:
+ Phát hành tiền phải có vàng đảm bảo: yêu cầu giấy bạc ngân hàng phát hành
vào lưu thông phải được đảm bảo bằng vàng (hoặc phải được đảm bảo bằng
hàng hoá) (bản vị tiền). Trên thực tế, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị,
xã hội của mỗi quốc gia mà việc xây dụng chế độ phát hành tiền có mức bảo
đảm khác nhau. Có thể khảo sát ba chế độ phát hành mang tính chất điển hành:
Theo chế độ phát hành tiền ở Anh, năm 1844 không quy định khối lượng phát

hành tiền vào lưu thông, lần đầu tiên được phép phát hành 14 triệu GBP khơng
cần có bảo đảm vàng, ngồi mức pháp định đó tiền phát hành vào lưu thơng
phải có 100% vàng bảo đảm.
Theo chế độ phát hành tiền ở Pháp, luật năm 1870 quy định: hạn mức khống
chế lượng tiền phát hành lần đầu là 1,8 tỷ FRE. Trong khn khổ hạn mức đó,
ngân hàng Pháp được phép tự điều chỉnh tỷ lệ lượng tiền cần có vàng bảo đảm
và lượng tiền khơng cần vàng đảm bảo.
Theo chế độ phát hành tiền ở Mỹ, luật năm 1913 quy định: Nhà nước không
quy định tổng khối lượng tiền được phát hành, luật đòi hỏi trong tổng số lượng
tiền phát hành phải có ít nhất 40% vàng đảm bảo, số còn lại phải được đảm bảo
bằng giá trị kỳ phiếu thương mại do Quỹ Dự trữ Liên bang nắm giữ. Nếu vàng
khơng đủ đảm mức quy định thì phải nộp thuế chênh lệch thiếu đó theo tỷ lệ
luỹ tiến.
+ Phát hành tiền căn cứ vào tốc độ phát triển của GDP: Sự tăng trưởng của
GDP chứng tỏ có một lượng hàng hoá dịch vụ tăng thêm. Vậy 1% tăng lên
trong GDP sẽ có lớn hơn 1% tăng lên mức cung tiền tệ.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học tân cổ điển, tốc độ lưu thông tiền tệ
tăng trưởng phù hợp với tăng trưởng kinh doanh hàng hoá dịch vụ, do vậy 1%
tăng lên trong GDP tương ứng 1% tăng lên của mức cung tiền tệ.
Theo quan điểm của Milton Friedman, các nước đều có lạm phát vì vậy phát
hành tiền vào lưu thơng thì phải + % lạm phát, do vậy 1% tăng lên trong GDP
tương ứng lớn hơn 1% tăng lên của mức cung tiền tệ. Ở Việt Nam, 1% tăng
trưởng GDP có 4,6% tăng trưởng mức cung tiền tệ, nguyên nhân với những
nước đang phát triển như Việt Nam do năng lực về thuế thấp, ngân sách nhà
nước luôn bội chi do vậy mà phát hành tiền nhiều.
+ Phát hành tiền căn cứ vào lượng tài sản rộng di chuyển từ nước ngoài vào:
nguyên tắc này được thiết lập nhằm mục tiêu cần đối thị trường ngoại hối ổn


định giá vàng, ổn định tỷ giá. Do vậy, để phát hành tiền vào lưu thông ngân

hàng trung ương cần tính tốn thêm khối lượng tiền cần thiết để mua vàng, đô
la nhằm ổn định thị trưởng ngoại hối.

-

+ Phát hành tiền trên cơ sở tín dụng: nguyên tắc phát hành tiền trên cơ sở tín
dụng được bảo đảm bằng giá trị hàng hoá và dịch vụ. Theo nguyên tắc này,
việc phát hành giấy bạc khơng nhất thiết phải có vàng bảo đảm, mà phát hành
thơng qua cơ chế tín dụng ngắn hạn, trên cơ sở có bảo đảm bằng giá trị hàng
hố, cơng tác dịch vụ, thể hiện trên kỳ phiếu thương mại và các chứng từ nợ
khác có khả năng hốn chuyển thành tiền theo luật định. Đó là tín dụng của
ngân hàng trung trong, được thực hiện bằng phương thức tái cấp vốn đối với
các ngân hàng thương mại. Việc phát hành giấy bạc ngân hàng theo nguyên tắc
này, một mặt xuất phát từ nhu cầu tiền tệ phát sinh do sự tăng trưởng kinh tế;
mặt khác tạo ra khả năng đề ngân hàng trung ương thực hiện việc kiểm soát
lượng tiền cung ứng theo yêu cầu chính sách tiền tệ. Ngày nay, trong điều kiện
lưu thơng giấy bạc ngân hàng không được tự do chuyển đổi ra vàng theo luật
định, các nước trên thế giới đều chuyển sang chế độ phát hành giấy bạc thông
qua cơ chế tái cấp vốn cho các ngân hàng và hoạt động trên thị trưởng mở của
ngân hàng trung ương. Đồng thời, trên cơ sở độc quyền phát hành tiền, ngân
hàng trung ương thực hiện việc kiểm soát lượng tiền cung ứng được tạo ra từ
các ngân hàng thương mại, bằng quy chế dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu....
+ Phát hành tiền trên cơ sở cho ngân sách nhà nước vay: một nguyên tắc cơ
bản trong quan hệ với ngân sách nhà nước là ngân hàng trung ương không cho
nhà nước vay để bù đắp thiếu hụt ngân sách hàng năm mà chỉ ủng vốn để giải
quyết nhu cầu tạm thời trong một giới hạn nhất định khi mà ngân sách nhà
nước chưa thực hiện được các khoản thu theo như dự kiến. Ở Việt Nam, ngân
hàng nhà nước Việt Nam chỉ cho ngân sách nhà nước và vốn trong trường hợp
ngân sách nhà nước chưa thực hiện được kế hoạch thu đã ân định nhưng phải
chi theo kế hoạch. Tổng mức ứng trước và cho vay của Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam kể cả mức trái phiếu kho bạc mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
mua của các tổ chức tín dụng khơng được vượt q mức Quốc hội quyết định.
Nếu phát hiện có thể vượt quá giới hạn này, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
phải báo cáo kịp thời và kiến nghị biện pháp giải quyết lên Thủ tướng Chính
phủ.
Dựa trên cơ sở nguyên tắc phát hành tiền nêu trên, điều quan trọng tiếp theo là
ngân hàng trung ương sẽ cân nhắc, lựa chọn trong số các kênh sau để phát
hành tiền vào nền kinh tế: qua kênh của ngân sách nhà nước, tín dụng, thị
trường mở, thị trường vàng và ngoại tệ.
Các kênh phát hành tiền:
+ Cho vay, tạm ứng cho ngân sách nhà nước khi cần thiết


+ Cho vay các ngân hàng trung gian (chủ yếu sử dụng)
+ Mua vàng, ngoại tệ trên thị trường ngoại hối
+ Phát hành qua hoạt động thị trường
b) Điều tiết lượng tiền cung ứng
Ngân hàng trung ương thực hiện việc quản lý và điều tiết lượng tiền cung ứng
thông qua việc điều hành chính sách tiền tệ thường được các nước sử dụng gồm
có:
- Chính sách dự trữ bắt buộc
- Chính sách chiết khấu và tái chiết khấu
- Nghiệp vụ thị trường mở
- Chính sách hạn mức tín dụng
- Kiểm sốt lãi suất chính sách tỷ giá
2. Ngân hàng của các ngân hàng
Ngân hàng trung ương không tham gia kinh doanh tiền tệ, tín dụng trực tiếp với
các chủ thể trong nền kinh tế mà chỉ thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng với các
ngân hàng trung gian. Bao gồm:
a) Mở tài khoản và nhận tiền gửi của các ngân hàng trung gian

Ngân hàng trung ương nhận tiền gửi từ các ngân hàng trung gian dưới hai dạng
sau:
- Tiền gửi dự trữ bắt buộc:
+ Là khoản tiền dự trữ mà các ngân hàng thương mại bắt buộc phải lưu lại
trong kho tiền mặt của ngân hàng hay kí gửi tại ngân hàng trung ương,
không được cho vay hết. Tiền dự trữ bắt buộc được tính tốn trên cơ sở số
dư tiền gửi huy động bình quân trong kỳ tại ngân hàng trung gian nhân với
tỷ lệ dự trữ bắt buộc được ngân hàng trung ương quy định trong từng thời
kỳ. Khoản tiền gửi này không được ngân hàng trung ương trả lãi. Ngân
hàng trung ương là ngân hàng quản lý dự trữ bắt buộc của hệ thống ngân
hàng trung gian. Khi tỉ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên, cung ứng tiền ngân hàng
của hệ thống ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính cũng giảm ngay
tức khắc và ngược lại. Bằng cách việc quy định tỉ lệ dự trữ bắt buộc ngân
hàng trung ương quản lý một cách chặt chẽ tốc độ và cung ứng tiền ngân
hàng của hệ thống ngân hàng trung gian.
+ Trên thực tế, các ngân hàng có thể duy trì mức dự trữ lớn hơn yêu cầu của
ngân hàng trung ương, do điều kiện kinh doanh cụ thể của ngân hàng, do
không cho vay hết hoặc khơng tìm kiếm được cơ hội đầu tư an toàn. Phần
dự trữ này gọi là dự trữ vượt mức và có thể gửi tại NHTW hoặc để ở két sắt
của ngân hàng trung gian. Sự tăng lên hay giảm xuống của lượng dự trữ
vượt mức này phản ánh tình trạng thừa hay thiếu vốn khả dụng của hệ
thống ngân hàng và là chỉ tiêu định hướng điều hành chính sách tiền tệ của
ngân hàng trung ương.


-

Tiền gửi thanh tốn: Ngồi khoản dự trữ bắt buộc, các ngân hàng trung
gian cịn phải duy trì thường xun một lượng tiền gửi trên tài khoản tại
ngân hàng trung ương cho các nhu cầu chi trả trong thanh toán với các ngân

hàng khác trong cùng hệ thống hoặc đáp ứng các nhu cầu giao dịch với
ngân hàng trung ương, chẳng hạn các khoản chi trả liên quan đến các khoản
vay từ ngân hàng trung ương.
b) Cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian
- Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian dưới hình
thức chiết khấu lại (tái chiết khấu) các chứng từ có giá ngắn hạn do các
ngân hàng trung gian nắm giữ. Thông qua hành vi mua lại này, ngân hàng
trung ương đã làm tăng lượng vốn khả dụng cho hoạt động của ngân hàng
trung gian, tạo điều kiện cho các ngân hàng này mở rộng các hoạt động tín
dụng. Việc cấp tín dụng của ngân hàng trung ương cho các ngân hàng trung
gian không chỉ giới hạn ở nghiệp vụ tái chiết khấu các chứng từ có giá mà
cịn bao gồm cả các khoản cho vay ứng trước có đảm bảo bằng các chứng
khoán đủ tiêu chuẩn, các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ tại ngân hàng trung
ương.
Do việc cấp tín dụng của ngân hàng trung ương gắn trực tiếp với việc phát
hành ra một lượng tiền giấy mới nên các điều kiện tín dụng thường là chặt
chẽ, được giới hạn bởi hạn mức tái chiết khấu, thời hạn và chủng loại
chứng từ có giá được chấp nhận chiết khấu.
- Ngồi ra, Ngân hàng trung ương cịn góp phần quan trọng trong việc đảm
bảo cho sự an toàn của hệ thống ngân hàng thơng qua hoạt động cấp tín
dụng khi đóng vai trò "Người cho vay cuối cùng" của các ngân hàng. Trong
trường hợp một ngân hàng có nguy cơ phá sản, Ngân hàng trung ương có
thể sẽ cung cấp những khoản tín dụng khơng hạn chế nhằm giúp cho ngân
hàng đó tránh khỏi sự đổ vỡ. Ngân hàng trung ương cho ngân hàng trung
gian vay với phương thức gọi là cho vay chiết khấu. Đó là hình thức cho
vay qua cửa sổ chiết khấu. Lãi suất của sự cho vay này là lãi suất chiết
khấu.Tuy nhiên không phải mọi ngân hàng đều nhận được sự hỗ trợ của
Ngân hàng trung ương để thoát khỏi nguy cơ phá sản. Chỉ khi sự sụp đổ của
ngân hàng đó có ảnh hưởng lớn tới sự tồn tại và an toàn của cả hệ thống
ngân hàng thì Ngân hàng trung ương mới can thiệp. Mức lãi suất cho vay

của Ngân hàng trung ương khi đó cũng thường là lãi suất phạt và ngân hàng
nhận hỗ trợ phải chịu nhiều qui định ngặt nghèo của Ngân hàng trung ương.
c) Là trung tâm thanh toán bù trừ cho hệ thống ngân hàng trung gian
Vì các ngân hàng trung gian đều mở tài khoản và ký gửi các khoản dự
trữ bắt buộc và dự trữ vượt mức tại Ngân hàng trung ương nên chúng có thể
thực hiện thanh tốn khơng dùng tiền mặt qua Ngân hàng trung ương thay vì


thanh tốn trực tiếp với nhau. Khi đó, Ngân hàng trung ương đóng vai trị là
trung tâm thanh tốn bù trừ giữa các ngân hàng trung gian.
Thông qua dịch vụ thanh tốn bù trừ, Ngân hàng trung ương góp phần
tiết kiệm được chi phí thanh tốn cho các ngân hàng trung gian và toàn xã hội,
đảm bảo vốn luân chuyển nhanh chóng trong hệ thống ngân hàng và phản ánh
chính xác quan hệ thanh toán giữa các chủ thể kinh tế trong xã hội. Mặt khác,
thông qua hoạt động này Ngân hàng trung ương có thể kiểm tra sự biến động
vốn khả dụng của từng ngân hàng trung gian, là cơ sở để có những kiến nghị
kịp thời.
3. Ngân hàng của chính phủ
Là một định chế tài chính cơng cộng, Ngân hàng trung ương đã được xác định
ngay từ khi ra đời là ngân hàng của chính phủ. Với chức năng này, Ngân hàng
trung ương có nghĩa vụ cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho chính phủ, đồng thời
làm đại lý, đại diện và tư vấn chính sách cho chính phủ.
a) Làm đại lý phát hành trái phiếu chính phủ
Dịch vụ đại lý mà Ngân hàng trung ương cung cấp thường xun và có hiệu quả
cho chính phủ là đại lý trong việc phát hành chứng khốn chính phủ khi chính phủ
có nhu cầu bù đắp thiếu hụt ngân sách. Ngân hàng trung ương thực hiện một dịch
vụ đại lý toàn phần cho các hoạt động phát hành chứng khốn chính phủ, gồm:
- Thơng báo việc phát hành chứng khoán mới về loại chứng khoán, mệnh
giá, số lượng, thời hạn, lãi suất, phương thức phát hành
- Nhận đơn và tổ chức đầu thầu.

- Thông báo kết quả đấu thầu, Ngân hàng trung ương tổ chức đấu thầu chứng
khốn chính phủ thường xuyên,
VD: có thể hàng ngày như Cục dự trữ liên bang Mỹ, 3 ngày một lần như Ngân
hàng trung ương Pháp và Ngân hàng dự trữ liên bang Đức hoặc 10 ngày một
lần như của Việt Nam.
b) Quản lý chi tiêu của chính phủ
Tuỳ theo đặc điểm tổ chức của từng nước, chính phủ có thể uỷ quyền
cho Bộ tài chính hoặc Kho bạc đứng tên chủ tài khoản tại Ngân hàng trung
ương. Hàng ngày, các khoản thu của nhà nước dưới dạng thuế, lợi nhuận hoặc
khoản thu khác được gửi vào tài khoản này. Ngân hàng trung ương có trách
nhiệm theo dõi, chi trả, thực hiện thanh toán và cấp vốn theo yêu cầu của kho
bạc và sử dụng số dư đó khi nhàn rỗi tương tự như tài khoản của khách hàng
tại một ngân hàng trung gian.
Tuy nhiên Ngân hàng trung ương không phải là nơi duy nhất thực hiện
vai trị thủ quỹ cho chính phủ. Ở một số nước, đặc biệt là các nước áp dụng mơ
hình Ngân hàng trung ương độc lập với chính phủ thì một bộ phận lớn vốn của
kho bạc được gửi ở các ngân hàng tư nhân bởi sự hấp dẫn của lãi suất tiền gửi.
Mặc dù vậy, ở phần lớn các nước Ngân hàng trung ương tỏ ra thích hợp với vai
trò này hơn cả bởi bên cạnh việc giữ và quản lý tài khoản cho chính phủ, Ngân


c)

d)

e)

f)

hàng trung ương còn thực hiện chức năng đại lý và cấp tín dụng cho chính phủ

khi cần thiết. Hơn nữa để đảm bảo nguyên tắc quản lý nguồn dự trữ quốc gia,
kho bạc buộc phải gửi vàng, ngoại tệ và chứng chỉ có giá bằng ngoại tệ tại
Ngân hàng trung ương.
Quản lý dự trữ quốc gia
- Dự trữ quốc gia bao gồm những dự trữ chiến lược cho những trường hợp
khẩn cấp như can thiệp vào điều tiết kinh tế, nhập khẩu hàng khẩn cấp để
chống khan hiếm và chống lạm phát, khi có thiên tai, chiến tranh… Dự trữ
bao gồm: vàng, tiền tệ… Với tư cách là ngân hàng của chính phủ, ngân
hàng trung ương được giao phó nhiệm vụ quản lý dự trữ quốc gia. Dự trữ
quốc gia không phải là loại tài sản tĩnh. Về nguyên tắc, Ngân hàng trung
ương chỉ cần giữ cho dự trữ không rơi xuống dưới mức tối thiểu mà luật qui
định. Cịn trong q trình hoạt động của mình, Ngân hàng trung ương hồn
tồn có thể sử dụng dự trữ quốc gia để phục vụ cho thao tác trong chính
sách tiền tệ.
- Khi nắm trong tay công cụ này ngân hàng trung ương có thể can thiệt bất kì
lúc nào vào thị trường ngoại tệ để giữ giá đồng tiền trong nước, hay tăng
hoặc giảm giá. Ngân hàng trung ương với nghiệp vụ mua bán trên thị
trường vàng và ngoại tệ, nó tạo ra hai tác động quan trọng là thay đổi cung
ứng tiền và thay đổi tỉ giá hối đoái của đồng tiền trong nước. Hai điều này
tác động đến tổng cầu, sản xuất, thu nhập và giá cả và đương nhiên điều
này có tác động đến kinh tế vĩ mơ.
Cấp tín dụng cho chính phủ
Ngân hàng trung ương có thể cấp cho chính phủ các khoản tín dụng nhằm
bù đắp thiếu hụt tạm thời trong năm tài chính hoặc bội chi ngân sách vào cuối năm
tài chính. Tuy nhiên do việc cho ngân sách vay trực tiếp sẽ làm tăng lượng tiền
cung ứng, có thể dẫn đến nguy cơ lạm phát nên ngày nay các Ngân hàng trung
ương rất hạn chế các khoản tín dụng trực tiếp cho chính phủ. Phần lớn các khoản
tín dụng được cấp gián tiếp thông qua việc tái chiết khấu các trái phiếu kho bạc do
các ngân hàng trung gian nắm giữ.
Thay mặt chính phủ thực hiện quản lý hoạt động của hệ thống ngân hàng về

mặt pháp luật
- Xem xét cấp và thu hồi giấy phép hoạt động của ngân hàng thương mại và
các tổ chức tín dụng
- Quy định về nghiệp vụ hệ số an toàn đối với ngân hàng thương mại và tổ
chức tín dụng.
- Thanh tra iểm sốt các hoạt động của hệ thống ngân hàng. Áp dụng các chế
tài trong các trường hợp vi phạm pháp luật nhằm đảm bảo hệ thống ngân
hàng hoạt động ổn định an toàn và hiệu quả.
Ngân hàng trung ương đại diện cho chính phủ


Ngân hàng trung ương cịn đại diện cho chính phủ tại các tổ chức tài chính
tiền tệ quốc tế, ký kết các điều ước quốc tế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo
sự uỷ quyền của chính phủ. Ở hầu hết các nước, chính phủ giao cho bộ Tài chính
làm đại diện tại các tổ chức như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), ngân hàng thế giới
(WB), ngân hàng phát triển châu Á (ADB). Tuy nhiên, một số nước trong đó có
Việt Nam, vai trị này được giao cho Ngân hàng trung ương. Vai trò này được qui
định cụ thể tại điều 3, khoản 10 Pháp lệnh ngân hàng nhà nước năm 1990 và được
khẳng định lại tại điều 5 luật Ngân hàng nhà nước.
 Kết luận: Ngân hàng trung ương hoạt động với tư cách là ngân hàng của
chính phủ khơng chỉ bởi nó có lợi thế kinh tế để hồn thành tốt chức năng
này mà cịn bởi mối liên hệ giữa các vấn đề về tài chính cơng cộng với các
vấn đề tiền tệ. Nhà nước ở bất cứ quốc gia nào cũng là chủ thể có khoản thu
nhập lớn nhất và đồng thời cũng là chủ thể có nhu cầu vay lớn nhất. Các
khoản chi của nó đóng một vai trị quan trọng trong đời sống kinh tế của đất
nước. Ngân hàng trung ương thì có trách nhiệm trong việc kiểm sốt khối
lượng tiền cung ứng và thực hiện chính sách tiền tệ. Trong nhiều trường
hợp, các chính sách tài khố có ảnh hưởng rất mạnh đến khả năng kiểm
soát lượng tiền cung ứng của Ngân hàng trung ương. Vì thế, việc tập trung
các hoạt động ngân hàng cho chính phủ vào Ngân hàng trung ương sẽ tạo

cơ hội tốt cho Ngân hàng trung ương để điều chỉnh tình trạng tài chính
chung và tư vấn cho chính phủ khi cần thiết.
IV/ Một số ngân hàng trung ương
1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
a) Lịch sử hình thành và phát triển
- Trước Cách mạng tháng 8/1945, Việt Nam là nước thuộc địa nửa phong
kiến dưới sự thống trị của thực dân Pháp. Hệ thống tiền tệ, tín dụng ngân
hàng được thiết lập và hoạt độngchủ yếu phục vụ chính sách thuộc địa của
Pháp ở Việt Nam. Trong suốt thời kỳ thuộc địa, sự hình thành và phát triển
của hệ thống tiền tệ, tín dụng đều do Chính phủ Pháp xếp đặt, bảo hộ thơng
qua Ngân hàng Đông Dương. Thực chất, Ngân hàng Đông Dương hoạt
động với tư cách là một Ngân hàng phát hành Trung ương, đồng thời là một
ngân hàng kinh doanh đa năng bao gồm các nghiệp vụ ngân hàng thương
mại và nghiệp vụ đầu tư.
- Sau Cách mạng tháng 8, một trong những nhiệm vụ trọng tâm của chính
quyền cách mạng là phải từng bước xây dựng nền tiền tệ độc lập, tự chủ,
cơng cụ quan trọng của chính quyền để xây dựng và bảo vệ đất nước. Sự
chuyển biến của cục diện cách mạng địi hỏi cơng tác kinh tế, tài chính phải
được củng cố và phát triển theo yêu cầu mới.


-

Trên cơ sở chủ trương chính sách mới về tài chính- kinh tế mà Đại hội
Đảng tồn quốc lần thứ II (tháng 02/1951) đề ra, ngày 6 tháng 5 năm 1951,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc
gia Việt Nam với các nhiệm vụ chủ yếu là: Quản lý việc phát hành giấy bạc
và tổ chức lưu thông tiền tệ, quản lý Kho bạc nhà nước, thực hiện chính
sách tín dụng để phát triển sản xuất, phối hợp với mậu dịch để quản lý tiền
tệ và đấu tranh tiền tệ với địch.

 Sự ra đời của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam là một bước ngoặt lịch sử, là
kết quả nối tiếp của quá trình đấu tranh xây dựng hệ thống tiền tệ, tín dụng
độc lập, tự chủ, đánh dấu bước phát triển mới, thay đổi về chất trong lĩnh
vực tiền tệ, tín dụng ở nước ta.
- Ngày 26/10/1961, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được đổi tên thành Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN).
- Thời kỳ 1975 - 1985 là giai đoạn khôi phục kinh tế sau chiến tranh. Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam đã thực hiện thanh lý hệ thống Ngân hàng của
chế độ cũ ở miền Nam; thu hồi tiền cũ ở cả hai miền Nam - Bắc; phát hành
các loại tiền mới của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
- Tháng 3/1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 53/HĐBT với định
hướng cơ bản là chuyển hẳn hệ thống ngân hàng sang hoạt động kinh
doanh. Tháng 5/1990, Hội đồng Nhà nước thông qua và công bố Pháp lệnh
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín
dụng và cơng ty tài chính. Sự ra đời của 2 Pháp lệnh ngân hàng đã chính
thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ một
cấp sang hai cấp.
b) Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
Theo Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng Trung ương
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
là pháp nhân, có vốn pháp định thuộc sở hữu Nhà nước, có trụ sở chính tại Thủ
đơ Hà Nội.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện chức năng quản lý nhà nước
về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối, thực hiện chức năng của Ngân
hàng Trung ương về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và
cung ứng tiền tệ cho Chính phủ.
Để thực hiện các chức năng nêu trên, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có
nhiệm vụ và quyền hạn chủ yếu sau: (1) Ổn định giá trị đồng tiền, bảo đảm an
toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự an

tồn, hiệu quả của hệ thống thanh tốn quốc gia; góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa; (2) Tham gia xây dựng
chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. (3) Xây dựng


chiến lược phát triển ngành ngân hàng: (4) Ban hành hoặc trình cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về tiền tệ và ngân
hàng; tuyên truyền, phổ biến và kiểm tra theo thẩm quyền văn bản quy phạm
pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; (5) Xây dựng chi tiêu lạm phát hằng năm để
Chính phủ trình Quốc hội quyết định và tổ chức thực hiện; (6) Tổ chức điều
hành và phát triển thị trưởng tiền tệ: (7) Tổ chức hệ thống thống kê, dự báo về
tiền tệ và ngân hàng; công khai thông tin về tiền tệ và ngân hàng theo quy định
của pháp luật; (8) Tổ chức in, đúc, bảo quan, vận chuyển tiền giấy, tiền kim
loại; thực hiện nghiệp vụ phát hành, thu hồi, thay thế và tiêu huỷ tiền giây, tiền
kim loại; (9) Cấp, sửa đổi, bổ sung, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động
của tổ chức tín dụng giấy phép thành lập chi nhánh ngân hàng. nước ngồi,
giấy phép thành lập văn phịng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngồi, tổ
chức nước ngồi khác có hoạt động ngân hàng; cấp, thu hồi giấy phép hoạt
động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán cho các tổ chức không phải là
ngân hàng; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ thông tin tín
dụng cho các tổ chức; chấp thuận việc mua, bán, chia, tách, hợp nhất, sáp nhập
và giải thể tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật; (10) Thực hiện đại
diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tổ chức tín dụng có vốn nhà
nước theo quy định của pháp luật; được sử dụng vốn pháp định để góp vốn
thành lập doanh nghiệp đặc thù nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; (11) Kiểm
tra, thanh tra, giám sát ngân hàng; xử lý vi phạm pháp luật về tiền tệ và ngân
hàng theo quy định của pháp luật; (12) Quyết định áp dụng biện pháp xử lý đặc
biệt đối với tổ chức tín dụng vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật

về tiền tệ và ngân hàng, gặp khó khăn về tài chính, có nguy cơ gây mất an toàn
cho hệ thống ngân hàng, gồm mua cổ phần của tổ chức tín dụng; đình chỉ, tạm
đình chi, miễn nhiệm chức vụ người quản lý, người điều hành của tổ chức tín
dụng; quyết định sáp nhập, hợp nhất, giải thể tổ chức tín dụng, đặt tổ chức tín
dụng vào tình trạng kiểm sốt đặc biệt; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
mình theo quy định của pháp luật về phá sản đối với tổ chức tín dụng: (13) Chủ
trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng chính sách, kế hoạch và tổ
chức thực hiện phịng, chống rửa tiền; (14) Thực hiện quản lý nhà nước về bảo
hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật; (15) Chủ trì lập, theo dõi, dự báo và
phân tích kết quả thực hiện cán cân thanh toán quốc tế; (16) Tổ chức, quản lý,
giám sát hệ thống thanh toán quốc gia, cung ứng dịch vụ thanh toán cho các
ngân hàng; tham gia tổ chức và giám sát sự vận hành của các hệ thống thanh
toán trong nền kinh tế; (17) Quản lý nhà nước về ngoại hối, hoạt động ngoại
hối và hoạt động kinh doanh vàng; (18) Quản lý dự trữ ngoại hối nhà nước;
(19) Quản lý việc vay, trả nợ, cho vay và thu hồi nợ nước ngoài theo quy định


của pháp luật; (20) Chủ trì, phối hợp với cơ quan có liên quan chuẩn bị nội
dung, tiến hành đàm phán, ký kết điều ước quốc tế với tổ chức tài chính, tiền tệ
quốc tế mà Ngân hàng Nhà nước là đại diện và là đại diện chính thức của
người vay quy định tại điều ước quốc tế theo phân cơng, uỷ quyền của Chủ tịch
nước hoặc Chính phủ; (21) Tổ chức thực hiện hợp tác quốc tế về tiển tệ và
ngân hàng: (22) Đại diện cho Nhà nước tại các tổ chức tiền tệ và ngân hàng
quốc tế; (23) Tổ chức hệ thống thơng tin tín dụng và cung ứng dịch vụ thơng
tin tín dụng; thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các tổ chức hoạt
động thơng tin tín dụng, (24) Làm đại lý và thực hiện các dịch vụ ngân hàng
cho Kho bạc Nhà nước: (25) Tham gia với Bộ Tài chính về việc phát hành trái
phiếu Chính phủ, trái phiếu do Chính phủ bảo lãnh; (26) Tổ chức đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ về tiền tệ và ngân hàng. nghiên cứu, ứng dụng khoa học và
công nghệ ngân hàng. (27) Nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp

luật.
c) Mơ hình tổ chức
Theo Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương
của nước Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối;
thực hiện chức năng Ngân hàng trung ương về phát hành tiền, ngân hàng của
các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. Hoạt động của
Ngân hàng Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền; bảo đảm sự an toàn hoạt
động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo đảm sự an tồn, hiệu
quả của hệ thống thanh tốn quốc gia; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước 2010, Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 16/2017/NĐ-CP ngày 17/02/2017 quy định cụ thể chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có 26 đơn vị trực thuộc, trong
đó 20 đơn vị giúp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản
lý nhà nước và chức năng Ngân hàng trung ương, 6 đơn vị là tổ chức sự
nghiệp.
Trên cơ sở Nghị định số 16/2017/NĐ-CP, Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước đã ban hành các Quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước như sau:
- Vụ Chính sách tiền tệ: Tham mưu, giúp Thống đốc xây dựng chính sách
tiền tệ Quốc gia và sử dụng các cơng cụ chính sách tiền tệ theo quy định
của pháp luật.


-

-


-

-

-

-

-

-

-

-

Vụ Quản lý ngoại hối: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện chức năng
quản lý Nhà nước về ngoại hối, hoạt động ngoại hối và hoạt động kinh
doanh vàng theo quy định của pháp luật.
Vụ Thanh toán: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện quản lý Nhà nước về
lĩnh vực thanh toán trong nền kinh tế quốc dân theo quy định của pháp luật.
Vụ Tín dụng các ngành kinh tế: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện quản
lý Nhà nước về lĩnh vực tín dụng ngân hàng và điều hành thị trường tiền tệ
theo quy định của pháp luật.
Vụ Dự báo thống kê: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện công tác dự
báo, thống kê theo quy định của pháp luật.
Vụ Hợp tác quốc tế: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện quản lý nhà
nước về hợp tác và hội nhập quốc tế thuộc phạm vi quản lý của ngân hàng
nhà nước theo quy định của pháp luật.

Vụ Ổn định tiền tệ - tài chính: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện công
tác ổn định hệ thống tiền tệ, tài chính thuộc phạm vi quản lý nhà nước của
ngân hàng nhà nước.
Vụ Kiểm toán nội bộ: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện kiểm toán nội
bộ và kiểm soát nội bộ hoạt động của các đơn vị thuộc ngân hàng nhà nước.
Vụ Pháp chế: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện quản lý Nhà nước
bằng pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối.
Vụ Tài chính - Kế tốn: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện cơng tác tài
chính, kế tốn, đầu tư xây dựng cơng trình của ngân hàng nhà nước; quản lý
Nhà nước về kế tốn, đầu tư xây dựng cơng trình của ngành Ngân hàng.
Vụ Tổ chức cán bộ: Tham mưu, giúp Thống đốc, Ban Cán sự Đảng ngân
hàng nhà nước thực hiện công tác tổ chức và biên chế; quản lý, sử dụng cán
bộ, công chức, viên chức và người lao động; chế độ tiền lương và các chế
độ khác thuộc phạm vi quản lý của ngân hàng nhà nước theo quy định của
pháp luật.
Vụ Thi đua - Khen thưởng: Tham mưu, giúp Thống đốc quản lý Nhà nước
về công tác thi đua, khen thưởng trong ngành Ngân hàng theo quy định của
pháp luật.
Vụ Truyền thông: Tham mưu, giúp Thống đốc quản lý và tổ chức thực hiện
hoạt động truyền thông ngành Ngân hàng liên quan đến chức năng quản lý
nhà nước của ngân hàng nhà nước
Văn phòng: Tham mưu, giúp Thống đốc trong công tác chỉ đạo và điều
hành hoạt động ngân hàng; thực hiện công tác cải cách hành chính của ngân
hàng nhà nước; quản lý hoạt động văn thư, lưu trữ của ngành Ngân hàng
theo quy định của pháp luật.
Cục Công nghệ thông tin: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện nhiệm vụ
quản lý Nhà nước chuyên ngành về lĩnh vực công nghệ thông tin trong


-


-

-

-

-

-

phạm vi toàn ngành Ngân hàng và triển khai, ứng dụng công nghệ thông tin
trong ngân hàng nhà nước.
Cục Phát hành và Kho quỹ: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện chức
năng quản lý Nhà nước và chức năng Ngân hàng Trung ương về lĩnh vực
phát hành và kho quỹ theo quy định của pháp luật.
Cục Quản trị: Giúp Thống đốc thực hiện chức năng quản lý về tài sản công
(không bao gồm tài sản đã giao đơn vị sự nghiệp tự chủ) được Thống đốc
giao và công tác quản trị, phục vụ hậu cần của ngân hàng nhà nước trên địa
bàn thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh gồm: quản lý tài sản, tài
chính, cơ sở vật chất kỹ thuật, bảo vệ, an ninh, trật tự an toàn cơ quan,
chăm lo đời sống, sức khỏe cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao
động.
Sở Giao dịch: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện các nghiệp vụ Ngân
hàng Trung ương.
Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng: Cơ quan trực thuộc ngân hàng
nhà nước thực hiện chức năng thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành
và giám sát chuyên ngành về ngân hàng trong các lĩnh vực thuộc phạm vi
quản lý Nhà nước của ngân hàng nhà nước; Tham mưu, giúp Thống đốc
quản lý Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính quy mơ

nhỏ, hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác; thực hiện phòng, chống rửa
tiền theo quy định của pháp luật.
Ngân hàng nhà nước Chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Là
các đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của ngân hàng nhà nước, có chức năng
tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động
ngân hàng và ngoại hối trên địa bàn và thực hiện một số nghiệp vụ Ngân
hàng trung ương theo ủy quyền của Thống đốc.
Viện Chiến lược ngân hàng: Đơn vị sự nghiệp Nhà nước trực thuộc ngân
hàng nhà nước, có chức năng nghiên cứu và xây dựng chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển ngành Ngân hàng; tổ chức nghiên cứu khoa học
và phát triển công nghệ ngân hàng phục vụ cho yêu cầy quản lý Nhà nước
của ngân hàng nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo quy định
của pháp luật.
Trung tâm Thơng tin tín dụng Quốc gia Việt Nam: Đơn vị sự nghiệp công
lập trực thuộc ngân hàng nhà nước; thực hiện chức năng thu thập, xử lý, lưu
trữ thông tin tín dụng, đăng ký tín dụng; chấm điểm, xếp hạng tín dụng
pháp nhân và thể nhân trên lãnh thổ Việt Nam; cung ứng sản phẩm dịch vụ
thơng tin tín dụng nhằm mục đích phịng ngừa rủi ro tín dụng và phục vụ
cho yêu cầu quản lý nhà nước của ngân hàng nhà nước theo quy định của
pháp luật.


-

Thời báo Ngân hàng: Đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc ngân hàng nhà
nước; là cơ quan ngôn luận, diễn đàn về xã hội và hoạt động ngân hàng, có
chức năng tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước và hoạt động của ngành Ngân hàng theo quy
định của ngân hàng nhà nước và của pháp luật.
- Tạp chí Ngân hàng: Đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc ngân hàng nhà

nước; là cơ quan ngôn luận và diễn đàn về lý luận nghiệp vụ, khoa học và
công nghệ ngân hàng, có chức năng tuyên truyền, phổ biến đường lối chủ
trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, hoạt động ngân
hàng và những thành tựu về khoa học, công nghệ của ngành Ngân hàng và
lĩnh vực liên quan theo quy định của ngân hàng nhà nước và của pháp luật.
- Trường bồi dưỡng cán bộ ngân hàng: Đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc
ngân hàng nhà nước, có chức năng đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức,
kỹ năng và chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức, viên chức và
người lao động của ngân hàng nhà nước và của ngành Ngân hàng.
- Học viện Ngân hàng: Đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc ngân hàng nhà
nước, có chức năng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực ở trình độ cao đẳng,
đại học, sau đại học; nghiên cứu khoa học về lĩnh vực kinh tế, tài chính –
ngân hàng và các ngành, chuyên ngành khác khi được cấp có thẩm quyền
quyết định.
2. Ngân hàng Trung ương ở các quốc gia phát triển
a) Cục Dự trữ Liên Bang Mỹ
Cục Dự trữ Liên bang (tiếng Anh: Federal Reserve System – Fed) hay
Ngân hàng Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ là ngân hàng trung ương của Hoa Kỳ.
Bắt đầu hoạt động năm 1913 theo "Đạo luật Dự trữ Liên bang" của Quốc hội
Hoa Kỳ thông qua ngày 23 tháng 12 năm 1913, chủ yếu là để phản ứng với
một loạt các hoảng loạn tài chính, đặc biệt là đợt hoảng loạn nghiêm trọng năm
1907
Theo thời gian, các vai trò và nhiệm vụ của Fed đã được mở rộng và cấu
trúc của nó đã thay đổi. Các sự kiện như Đại suy thoái thập niên 1930 là các
nhân tố chính dẫn đến các thay đổi hệ thống.
Quốc hội Hoa Kỳ thiết lập 3 mục tiêu chính cho chính sách tiền tệ trong
Đạo luật dự trữ Liên bang: Việc làm tối đa, giá cả ổn định, và lãi suất dài hạn
vừa phải. Hai mục tiêu đầu đôi khi được gọi là nhiệm vụ kép của Cục dự trữ
liên bang. Nhiệm vụ của cơ quan này đã được mở rộng trong những năm qua,
và đến thời điểm năm 2009 cũng bao gồm việc giám sát và điều tiết ngân hàng,

duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính và cung cấp các dịch vụ tài chính cho
các tổ chức lưu ký, Chính phủ Hoa Kỳ, và các tổ chức chính thức nước ngoài.
Fed tiến hành nghiên cứu nền kinh tế và phát hành các ấn phẩm, chẳng hạn như
sách Beige.


-

Lịch sử ra đời:
Trong khoảng thời gian từ 1862 đến 1913, hệ thống ngân hàng trung
ương của Hoa Kỳ được hình thành theo Đạo luật Ngân hàng quốc gia 1863.
Một loạt các biến động trong lĩnh vực ngân hàng ở Hoa Kỳ vào các năm
1873, 1893 và 1907 cho thấy một hệ thống ngân hàng trung ương là cần
thiết để điều phối thị trường.
Sau cuộc khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng năm 1907, Quốc
hội Hoa Kỳ thành lập "Ủy ban tiền tệ quốc gia" với nhiệm vụ xây dựng kế
hoạch cải cách hệ thống ngân hàng. Nelson Aldrich – người đứng đầu đảng
Cộng hòa ở quốc hội đồng thời là chuyên gia tài chính, được chỉ định là
Chủ tịch Ủy ban. Ông chỉ đạo một cuộc khảo sát tường tận các ngân hàng
trung ương Châu Âu và nhận thấy rằng Anh và Đức là hai nước có các ngân
hàng trung ương ưu việt hơn hẳn. Năm 1910, Nelson Aldrich tìm kiếm sự
giúp đỡ từ các ngân hàng hàng đầu của Hoa Kỳ với mong muốn dự thảo
một kế hoạch hoàn chỉnh, xây dựng cho Hoa Kỳ một hệ thống tài chính tiên
tiến như của Anh và Đức. Ơng cùng các chuyên viên đại diện của các định
chế tài chính lớn khi đó là J.P. Morgan, Rockefeller, và Kuhn, Loeb và
Công ty, dành riêng một tuần thảo luận tại đảo Jekyll (ngoài khơi bang
Georgia). Đại diện của Kuhn, Loeb và Cơng ty là Paul Warburg (chun gia
tài chính gốc Đức) chủ trì việc xác lập những ý cơ bản của Đạo luật Dự trữ
liên bang. Aldrich sau đó giới thiệu kế hoạch của ông về ngân hàng trung
ương với tên "dự luật Aldrich", đề xuất thành lập "Tổ chức Dự trữ liên

bang" (Federal Reserve Association). Dự luật này trở thành một phần trong
chính sách của đảng Cộng hịa ở Quốc hội nhưng không được phê chuẩn
năm 1911 khi đa số quốc hội thuộc về đảng Dân chủ.
Năm 1913, Tổng thống đảng Dân chủ Woodrow Wilson phải tác
động để kế hoạch của Aldrich được thông qua dưới sự đỡ đầu của thế lực
đảng Dân chủ với tên mới là "Đạo luật Dự trữ liên bang". Frank Vanderlip,
người đã tham gia hội nghị ở đảo Jekyll và là chủ tịch National City Bank
viết trong tự truyện của mình rằng "mặc dù kế hoạch về Quỹ dự trữ liên
bang của Aldrich đã không được thơng qua với cái tên của chính ơng,
nhưng những điểm cơ bản của nó đều nằm trong dự luật sau này được
thông qua". Tổng thống Wilson đã giành ưu thế trước William Jennings
Bryan, người đứng đầu phe ủng hộ nơng nghiệp trong đảng. Những người
thuộc phe này muốn có ngân hàng trung ương của chính phủ mang đặc
quyền in ấn và phát hành giấy bạc mỗi khi Quốc hội cần. Woodrow Wilson
thuyết phục rằng giấy bạc của Cục dự trữ liên bang chính là nghĩa vụ của
chính phủ, do đó chương trình này phù hợp mong muốn của họ. Những
nghị sĩ đại diện miền nam và miền tây được tổng thống thuyết phục rằng hệ
thống mới ra đời sẽ phân tán ở 12 vùng và sẽ giảm quyền lực của New


-

York, tăng quyền lực cho các vùng nội địa. (Trên thực tế, Ngân hàng dự trữ
liên bang chi nhánh New York trở thành "số một" trong các Ngân hàng dự
trữ liên bang. Ví dụ, nó có đặc quyền tiến hành các hoạt động trên thị
trường (phát hành trái phiếu, v.v..) dưới sự chỉ đạo của Ủy ban thị trường
của Fed). Carter Glass, nghị sĩ đảng Dân chủ ủng hộ nhiệt liệt dự luật và
mang về cho Richmond, Virginia quê ông một Ngân hàng dự trữ liên bang
khu vực. Bang Missouri có tới hai Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực nhờ
James A. Reed (đảng Dân chủ).

Quốc hội thông qua "Đạo luật Dự trữ liên bang" cuối năm 1913.
Paul Warburg và các chuyên gia xuất sắc khác được chỉ định điều hành hệ
thống non trẻ. Fed đi vào hoạt động năm 1915 và đóng vai trị chủ chốt tài
trợ các nỗ lực chiến tranh của Mỹ và phe liên minh trong Chiến tranh thế
giới thứ nhất.
Tháng 07 năm 1979, Paul Volcker được tổng thống Jimmy Carter chỉ
định là Chủ tịch Hội đồng thống đốc của Cục dự trữ liên bang khi lạm phát
đang gia tăng trầm trọng. Dưới sự lãnh đạo của Paul Volcker, các biện pháp
kiểm soát lạm phát đã có hiệu quả và tỷ lệ lạm phát đã giảm nhanh chóng
trước năm 1986.
Tháng 01 năm 1987, khi chỉ số lạm phát hàng tiêu dùng chỉ là 1%,
Fed tuyên bố khơng cịn sử dụng tổng cung tiền tệ M2 làm định hướng
kiểm soát lạm phát nữa mặc dù phương pháp này đã rất thành công từ 1979.
Trước 1980, lãi suất được sử dụng làm định hướng và lạm phát khi đó rất
cao. Việc sử dụng chỉ số tổng cung tiền tệ M2 thay thế lãi suất làm định
hướng rất thành cơng, nhưng Paul Volcker cho rằng nó dễ gây nhầm lẫn.
Tháng 08 năm 1987, 07 tháng sau khi thay đổi chính sách tổng cung
tiền tệ, Alan Greenspan thay thế Volcker trên cương vị Chủ tịch Hội đồng
thống đốc. Và rồi sau 19 năm lãnh đạo Fed rất thành công, huyền thoại của
ngành tài chính thế giới, Alan Greenspan nghỉ hưu và chỉ định người kế tục
mình, Ben Bernanke.
Hội đồng thống đốc
Đứng đầu FED là Hội đồng thống đốc gồm 7 người, có trụ sở chính
tại Washinton, DC. Mỗi thống đốc đều do Tổng thống Mỹ bổ nhiệm và
thượng viện phê chuẩn. Nhằm hạn chế sự kiểm soát cá nhân của Tổng
thống đối với FED và tách FED khỏi những áp lực chính trị khác, các thống
đốc làm việc với thời hạn 14 năm không được phép tái hạn, mỗi nhiệm kỷ
thống đốc kết thúc vào tháng Giêng. Các thống đốc (nhiều người là những
chuyên gia kinh tế) phải là những người đến từ các vùng dự trữ liên bang
khác nhau, nhằm mục đích tránh việc các giới kinh doanh của một vùng có

quá nhiều đại diện. Chủ tịch của Hội đồng thống đốc được lựa chọn trong
số 7 thành viên và làm việc trong thời hạn 4 năm được phép tái bổ nhiệm.


-

Khi một chủ tịch mới được chọn thì chủ tịch cũ phải rút ra khỏi Hội đồng
thống đốc ngay cả khi thời hạn trong Hội đồng thống đốc còn nhiều năm.
Hội đồng thống đốc chịu trách nhiệm quyết định về chính sách tiền
tệ theo những cách sau:
+ 7 thống đốc đều là thành viên của FOMC và biểu quyết về việc chỉ đạo
nghiệp vụ thị trường mở. Do trong ủy ban chỉ có 12 thành viên có quyền
biểu quyết (7 thống đốc và 5 chủ tịch của ngân hàng dự trữ liên bang khu
vực) nên Hội đồng thống đốc chiếm đa số phiếu.
+ Hội đồng thống đốc ấn định tỷ lệ trữ bắt buộc (trong giới hạn của luật).
+ Kiểm sốt lãi suất chiết khấu thơng qua q trình “kiểm sốt lại và quyết
định”, Hội đồng có quyền thơng qua hoặc không thông qua lãi suất chiết
khấu được xây dựng bởi các ngân hàng khu vực
+ Chủ tịch của hội đồng thống đốc tư vấn cho Tổng thống về chính sách
kinh tế, điều trần tại Quốc hội và phát ngôn cho FED trên các phương tiện
truyền thông đại chúng.
Ủy ban thị trường mở
FOMC thường họp 8 lần trong 1 năm (khoảng 6 tuần 1 lần) và ra các
quyết định về việc chỉ đạo các nghiệp vụ thị trường mở xây dựng chính
sách lãi suất, lãi suất liên bang (the federal funds rate) - lãi suất của các
khoản vay qua đêm khi ngân hàng này cho ngân hàng khác vay. Trên thực
tế, nói đến FOMC thực chất là nói đến FED khi phát ngôn trên các phương
tiện thông tin đại chúng. Ví dụ, khi nói FED tổ chức họp, nghĩa là FOMC tổ
chức họp. Ủy ban thị trường mở gồm 7 thành viên của Hội đồng thống đốc,
Chủ tịch Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York và các chủ tịch của 4 ngân

hàng dự trữ liên bang khu vực khác.
Nghiệp vụ thị trưởng mở là công cụ quan trọng nhất mà FED có
trong tay để kiểm sốt khối lượng tiền cung ứng, do vậy FOMC trở thành
tiêu điểm cho việc hoạch định chính sách tiền tệ của FED, ngay cả tỷ lệ dự
trữ bắt buộc và lãi xuất chiết khấu trên thực tế cũng hoạch định tại đây.
FOMC là cơ quan có quyền ra quyết định OMOs. Tuy nhiên, cơ quan thực
sự tiến hành các hoạt động của thị trường mở là phòng kinh doanh tại Ngân
hàng Dự trữ Liên bang New York. Hàng ngày, giám đốc bộ phận kinh
doanh phân tích tình hình thực tế dựa trên cơ sở báo cáo đánh giá tổng số
tiền dự trữ trong hệ thống ngân hàng của đêm hôm trước, mức lãi suất liên
bang hiện hành, kết hợp với thông tin từ Kho bạc Mỹ, sau đó đổi chiếu với
thơng tin từ FOMC cho biết tỷ lệ tăng trưởng của khối lượng tiền cung ứng
và mức vốn liên bang mà Ủy ban muốn đạt được. Sau khi đã có đầy đủ
thơng tin, giám đốc bộ phận kinh doanh sẽ tiến hành cuộc họp bằng điện
thoại thường ngày với các thành viên của FOMC và vạch ra chiến lược hoạt
động. Khi kế hoạch được thơng qua, phịng kinh doanh tiến hành liên lạc


-

với các nhà kinh doanh chính để thực hiện quá trình bơm/hát lượng tiền
cung ứng. Một cách thơng thường, trong trường hợp cân đối được lượng
tiền cung ứng trong dài hạn. FOMC sẽ can thiệp trên thị trường mở bằng
nghiệp vụ mua hoặc bán hẳn. Những trường hợp việc điều tiết lượng tiền
cung ứng chỉ trong ngắn hạn do mức độ thâm hụt hay nhu cầu vốn chỉ
mang tính chất tạm thời, FOMC sử dụng nghiệp vụ mua lại hoặc hợp đồng
mua lại đảo ngược.
Ngân hàng dự trữ liên bang
Mỗi vùng trong 12 vùng dự trữ liên bang có một ngân hàng dự trữ
liên bang chính, một vài ngân hàng này có chi nhánh ở các thành phố khác

trong vùng. Ba ngân hàng dự trữ lớn nhất xét về tổng tài sản là New York,
Chicago và San Francisco - gộp chung 3 ngân hàng này chiếm tới 50% tổng
tài sản (cho vay chiết khẩu, chứng khoán và khoản nắm giữ khác) của hệ
thống dự trữ liên bang. Ngân hàng New York chiếm 3% tổng tài sản là ngân
hàng quan trọng nhất trong các ngân hàng dự trữ liên bang này.
Mỗi ngân hàng dự trữ khu vực gần như một tổ chức cơng (một phần
là tư nhân, một phần là Chính phủ) do các ngân hàng thương mại tư nhân
trong khu vực làm chủ mà những ngân hàng này là thành viên của FED.
Những ngân hàng thành viên đó đã mua cổ phiếu tại ngân hàng dự trữ liên
bang khu vực của họ (một yêu cầu đối với thành viên) và lãi cổ phiếu trả
cho các cố phiếu đó bị giới hạn theo luật chi tới 6%/năm. Các ngân hàng
thành viên bầu ra 6 giám đốc cho mỗi ngân hàng dự trữ liên bang khu vực,
3 người nữa được chỉ định bởi Hội đồng thống đốc. Những giám đốc của
một ngân hàng khu vực được chia ra làm 3 loại: A, B và C. 3 giám đốc loại
A (được bầu bởi các ngân hàng thành viên) là những người làm nghề ngân
hàng chuyên nghiệp, 3 giám đốc loại B (cũng do các ngân hàng thành viên
bầu) là những lãnh đạo quan trọng từ các ngành công nghiệp, lao động,
nông nghiệp hoặc khu vực tiêu dùng. 3 giám đốc loại C (những người được
chỉ định bởi Hội đồng thống đốc), đại diện cho quyền lợi công chúng không
được phép là viên chức, những người làm thuê hoặc cổ đông của các ngân
hàng. Những giám đốc này kiểm soát hoạt động của ngân hàng liên bang
khu vực, tuy nhiên, hoạt động quan trọng nhất của họ là chỉ định ra chủ tịch
của ngân hàng khu vực theo sự phê chuẩn của Hội đồng thống đốc. Cho tới
năm 2010, cả 9 giám đốc này đều được phép tham gia vào quyết định này
(quyết định bầu ra chủ tịch ngân hàng khu vực), nhưng Luật the Dodd Frank vào tháng 7/2010 đã loại 3 giám đốc loại A ra khỏi hội đồng bầu ra
chủ tịch ngân hàng khu vực.
12 ngân hàng dự trữ liên bang khu vực tham gia vào chính sách tiền
tệ bằng nhiều cách:



-

+ Các giám đốc “ấn định” lãi suất chiết khấu (mặc dù lãi suất chiết khẩu
mỗi khu vực được xem xét lại và quyết định bởi Hội đồng thống đốc).
+ Quyết định ngân hàng nào là thành viên hoặc không là thành viên có thể
được vay chiết khấu từ ngân hàng dự trữ khu vực.
+ Các giám đốc chọn ra một người trong ngân hàng thương mại từ mỗi khu
vực tham gia vào Ủy ban tư vấn liên bang. Ủy ban này có nhiệm vụ từ vấn
cho Hội đồng thống đốc và cung cấp những thông tin giúp cho việc thực thi
chính sách tiền tệ
+ 5 chủ tịch của 12 ngân hàng dự trữ khu vực, mỗi người có 1 phiếu bầu tại
FOMC. Chủ tịch của Ngân hàng dự trữ New York ln là thành viên
thường trực của FOMC vì vậy chủ tịch này ln có phiếu bầu tại FOMC,
điều này đã khiến Ngân hàng dự trữ New York trở thành ngân hàng khu vực
quan trọng nhất trong các ngân hàng dự trữ khu vực, 4 phiếu bầu khác được
chỉ định luân phiên cho các ngân hàng khu vực khác theo từng năm trong
số 11 chủ tịch còn lại.
12 ngân hàng dự trữ liên bang có những chức năng sau:
+ Thanh toán séc
+ Phát hành tiền mới và thu hồi những tiền hỏng khỏi lưu thông.
+ Quản lý và cho vay chiết khấu đối với ngân hàng trong khu vực của họ
+ Đánh giá một số yêu cầu sát nhập cho các ngân hàng để mở rộng hoạt
động của các ngân hàng này.
+ Trung gian liên hệ giữa giới kinh doanh và FED.
+ Thanh tra các ngân hàng nắm giữ các công ty và các ngân hàng thành
viên liên bang.
+ Thu thập dữ liệu về điều kiện kinh doanh từng vùng. - Sử dụng đội ngũ
các nhà kinh tế học chuyên nghiệp để nghiên cứu những vấn đề liên quan
đến việc thực hiện chính sách tiền tệ.
Các ngân hàng thành viên

Tất cả các ngân hàng quốc gia (những ngân hàng thương mại được
thành lập bởi Viện giám sát tiền tệ) đều phải là thành viên của hệ thống dự
trữ liên bang. Các ngân hàng thương mại do các bang thành lập khơng địi
hỏi phải là thành viên của hệ thống dự trữ liên bang, nhưng họ có quyền
chọn làm thành viên. Hiện nay khoảng 1/3 những ngân hàng thương mại ở
Mỹ là thành viên của hệ thống dự trữ liên bang (FED), đã giảm đi từ con số
cao nhất khoảng 49% vào năm 1947.
Trước năm 1980, chỉ có ngân hàng thành viên mới phải gửi dự trữ
tại các ngân hàng dự trữ liên bang khu vực. Các ngân hàng không phải
thành viên bắt buộc phải gửi dự trữ theo quy định của các bang của họ, cho
phép họ giữ phần dự trữ dưới dạng chứng khốn có lãi. Bởi vì khoản dự trữ
tại các ngân hàng dự trữ liên bang khu vực không được hưởng lãi, làm một


thành viên của hệ thống là thiệt thòi và khi lãi suất tăng lên, sự thiệt thòi
này càng tăng lên và ngày càng có nhiều ngân hàng rời bỏ hệ thống.
Việc giảm thành viên trong FED là mối lo ngại lớn nhất của Hội
đồng thống đốc, một lý do làm giảm sút sự kiểm soát của FED đối với khối
lượng tiền cung ứng, khiến FED khó khăn hơn trong việc thực hiện chính
sách tiền tệ. Chủ tịch Hội đồng thống đốc kêu gọi nhiều lần việc phải có
một thể chế mới bắt buộc tất cả các ngân hàng thương mại phải là thành
viên của FED. Một kết quả của áp lực của FED lên Quốc hội là một điều
khoản trong Luật Kiểm soát tiền tệ và nới lỏng những định chế nhận tiền
gửi năm 1980: mọi ngân hàng bị bắt buộc phải (năm 1987) gửi dự trữ tại
FED như nhau, do đó ngân hàng thành viên hay khơng phải là thành viên sẽ
bình đẳng về dự trữ bắt buộc. Ngồi ra các định chế nhận tiền gửi đều có
thể tiếp cận các kênh hỗ trợ của FED và được thanh tốn séc tại FED một
cách cơng bằng như nhau. Những điều khoản này đã chấm dứt tình trạng
giảm sút thành viên trong FED và đã thu hẹp sự khác biệt giữa các ngân
hàng thành viên và không thành viên.

b) Ngân hàng Trung ương Canada
- Lịch sử ra đời
Ngân hàng trung ương Canada tiếng Anh là Bank of Canada, viết tắt
là BOC, được thành lập năm 1934 theo Đạo luật Ngân hàng Canada. Đạo
luật tuyên bố rằng Ngân hàng trung ương Canada được tạo ra để thúc đẩy
phúc lợi kinh tế và tài chính của Canada. BOC và Thống đốc của BOC chịu
trách nhiệm thiết lập các chính sách tiền tệ, in tiền và xác định lãi suất của
các ngân hàng Canada.
- Đặc điểm
BOC có 4 lĩnh vực trách nhiệm chính: quy định chính sách tiền tệ
(tức quy định việc cung ứng tiền lưu thông trong nền kinh tế Canada), tạo
lập và quản lí tiền tệ, thiết kế và phát hành tiền giấy, và quản lí quỹ. BOC
quản lí nợ cơng và dự trữ ngoại hối của chính phủ Canada.
Thống đốc BOC chịu trách nhiệm cho nhiều chức năng của ngân
hàng. Thống đốc đầu tiên, Graham F. Towers, đã hoạt động trong suốt 20
năm. Thống đốc BOC do hội đồng quản trị bầu ra phục vụ nhiệm kì 7 năm.
Thống đốc Stephen Poloz đã giữ chức vụ này từ năm 2013 và là thống đốc
thứ 9 của ngân hàng. Các thành viên của hội đồng quản trị được bổ nhiệm
bởi Bộ trưởng Bộ Tài chính Canada và phục vụ trong nhiệm kì 3 năm.
Thiết lập lãi suất là một trong những vai trị quan trọng nhất của
BOC. Khung chính sách tiền tệ của Canada được thiết kế để giữ lạm phát
thấp và ổn định. Lãi suất được thay đổi 8 lần/năm. Trong năm 2007, lãi suất
đã ở mức trên 4% trước khi được hạ xuống, theo thời gian, xuống còn 1%
vào năm 2010. Tỉ lệ này đã bị cắt giảm hai lần trong năm 2015 xuống còn


×