Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

sự cần thiết phải đổi mới cơ chế chính sách đối với dnvvn ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.46 KB, 39 trang )

Đề án kinh tế chính trị Ngô Anh Dũng
A.Lời nói đầu
ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, dù là nớc công nghiệp phát triển hay
quốc gia đang phát triển hoặc các nớc nghèo thì DNVVN có vị trí, vai trò,
chức năng rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của mỗi nớc. Đi vào cơ
chế thị trờng với nhiều thành phần kinh tế, sự gia tăng số DNVVN là một xu
thế có tính quy luật nhất định. Với những u thế vợt trội mà các DNVVN đa lại
và tầm quan trọng của nó đối với nền kinh tế quốc dân nên các DNVVN phù
hợp với những quy luật của thị trờng, quy luật của sự phát triển kinh tế xã hội.
Đối với Việt Nam, một nớc đang phát triển, nghèo nàn, lạc hậu với hơn
80% dân số đang sống ở nông thôn, diện tích bình quân đầu ngời thấp, lao
động nhàn rỗi, d thừa nhiều. Bên cạnh các doanh nghiệp lớn thuộc sở hữu nhà
nớc giữ vai trò chủ chốt thì chúng ta còn có một hệ thống DNVVN có vai trò
đặc biệt quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội. Cùng với nông nghiệp
và kinh tế nông thôn thì DNVVN phát huy hết nguồn lực còn tiềm ẩn trong
dân c, Các DNVVN ở Nhà nớc đợc phát triển một cách chính thức kể từ khi có
sự ra đời của luật doanh nghiệp t nhân, luật Công ty áp dụng từ năm 1990 và
sửa đổi năm 1994. Chính vì vậy, số lợng các doanh nghiệp đã tăng lên rất
nhanh, đạt 18750 doanh nghiệp và 7100 công ty và số công ty cổ phần là 170
công ty. Tuy nhiên các DNVVN trong quá trình phát triển đang gặp phải
không ít khó khăn, hạn chế, vớng mắc, kinh doanh không ổn định và kém hiệu
quả. Đồng thời, để thúc đẩy sự phát triển của các DNVVN nói riêng và nền
kinh tế nói chung thì Đảng và Nhà nớc cần có những chính sách hỗ trợ, đổi
mới cơ chế nhằm đa các DNVVN phát triển, hoà nhập với quốc tế.
Đây là lần đầu tiên em tiếp xúc với việc trình bày một đề án nên không
thể tránh khỏi những sai sót và hạn chế nào đấy. Em kính mong thầy chỉ bảo
và hỡng dẫn để đề án của em hoàn thành tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Sinh viên
Ngô Anh Dũng
B. Phần nội dung


I. Sự hình thành, tồn tại và phát triển của các DNVVN ở nớc ta
1. Sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của các DNVVN
Lịch sử ra đời và phát triển nền sản xuất hàng hoá gắn liền với sự hình
thành và phát triển của các doanh nghiệp thuộc sở hữu t nhân hoặc thuộc sở
hữu nhà nớc. Trong giai đoạn tiền sử còn gọi là sản xuất hàng hoá giản đơn
không có sự phân biệt giữa giới chủ và ngời thợ, Ngời sản xuất hàng hoá vừa
là ngời chủ sở hữu các t liệu sản xuất, vừa là ngời trực tiếp lao động, vừa là
Đề án kinh tế chính trị Ngô Anh Dũng
ngời quản lý công việc của mình, của gia đình mình, vừa là ngời trực tiếp
mang sản phẩm của mình ra trao đổi trên thị trờng. Đó là loại doanh nghiệp cá
thể, doanh nghiệp gia đình, còn gọi là doanh nghiệp cực nhỏ.
Trong thời kỳ hiện đại, thông thờng đại đa số những ngời khi mới trởng
thành để đi làm việc đợc, đều muốn thử sức mình vào một lĩnh vực nào đấy
phù hợp với sức học, trình độ chuyên môn và nguồn lực của mình bỏ ra trong
đó có nghề kinh doanh. Với một số vốn trong tay ít ỏi, với một trình độ tri
thức nhất định, học tập, tiếp thu đợc trong các trờng chuyên nghuệp bắt đầu
khởi nghiệp công nghiệp kinh doanh của mình. Phần lớ những ngời này đều
thành lập doanh nghiệp nhỏ chỉ của riêng mình, tự sản xuất kinh doanh tự điều
hành mọi hoạt động. Trong sản xuất, kinh doanh có một số ngời gặp vận may,
gặp thời cơ và bất chấp lấy những cơ hội, có sáng kiến cải tiến kỹ thuật, khéo
léo điều hành và tổ chức sắp xếp công việc, cần cù, chịu khó tiết kiệm đặc biệt
là nhờ tài ba, năng lực quản lý tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh tốt nên
đã thành công và đạt đợc nhiều thành đạt, chính nhờ sự thành công này mà họ
ngày càng quan tâm tích luỹ đợc nhiều của cải, tiền vốn, kinh nghiệm nên họ
đã thờng xuyên mở rộng quy mô sản xuất, quy mô kinh doanh với số lợng
ngày càng nhiều, chất lợng ngày càng đợc nâng cao đến một giai đoạn nào đó,
lực lợng lao động của gia đình không thể đảm đơng các công việc mà họ
không thể làm đợc và họ đã trở thành những ông chủ kinh doanh thực thụ. Ng-
ợc lại, một bộ phận lớn ngời sản xuất hàng hoá khác hoặc không do gặp vận
may trong sản xuất kinh doanh và đời sống hoặc do kém cỏi không biết chớp

thời cơ, không có sáng kiến cải tiến kỹ thuật, không biết tính toán quản lý và
điều hành công việc hoặc thiếu cần cù, chiụ khó, nhng lại hoang phí trong chi
tiêu, đã không tích luỹ đợc của cải, tiền bạc đã dẫn đến thua lỗ triền miên,
buộc phải bán t liệu sản xuất của mình cho ngời khác và trở thành ngời đi làm
thuê cho ngời khác. Nhng trong giai đoạn đầu, các ông chủ kinh doanh và
những ngời thợ cùng trực tiếp lao động với nhau và những ngời thợ làm thuê
thờng là bà con họ hàng và láng giềng của ông chủ, có quan hệ quen biết với
ông chủ. Về sau các ông chủ mở rộng ra đến những ngời hàng xứ và ở xa đến.
Các doanh nghiệp này chính là các DNVVN.
Trong quá trình sản xuất và kinh doanh của mình, các ông chủ thành đạt
đã phát triển doanh nghiệp của mình bằng cách mở rộng quy mô sản xuất kinh
doanh và nh vậy nhu cầu về vốn sẽ đòi hỏi nhiều hơn. Nh cầu về vốn ngày
càng tăng, nhằm nâng cao công suất và hiệu quả sản xuất kinh doanh đã thôi
thúc các nhà doanh nghiệp hoặc một số ngời cùng nhau góp vốn thành lập xí
Đề án kinh tế chính trị Ngô Anh Dũng
nghiệp liên doanh, các công ty cổ phần. Họ huy động nguồn vốn bằng cách
phát hành cổ phiếu hoặc phát hành trái phiếu dài hạn để vay vốn của dân.
Bằng các hình thức liên kết ngang dọc hoặc hôn hợp, nhiều tập đoàn kinh
tế lớn đợc hình thành và phát triển chi phối rất lớn đến nền kinh tế quốc dân.
Nền kinh tế quốc dân của một quốc gia là do tổng thể các doanh nghiệp
lớn, bớc tạo thành phần đông các doanh nghiệp lớn trởng thành từ các
DNVVN là thông qua việc liên kết của các DNVVN với nhau. Quy luật đi từ
bé đến lớn là con đờng tất yếu về sự phát triển bền vững mang tính chất phổ
biến của đại đa số các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trờng. DNVVN có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình phát triển kinh tế của một đất
nớc. Đồng thời, sự tồn tại đan xen và kết hợp các loại quy mô doanh nghiệp
làm cho nền kinh tế của mỗi nớc khắc phục đợc tính đơn điệu, xơ cứng, tạo
nên tính đa dạng, phong phú linh hoạt, vừa đáp ứng xu hớng phát triển đi lên
lẫn những biến đổi nhanh chóng của thị trờng trong điều kiện của cuộc cách
mạng- khoa học - công nghệ hiện đại, đảm bảo tính hiệu quả chung của nền

kinh tế. Vì vậy, công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nớc không thể
không có các doanh nghiệp với quy mô lớn, vốn nhiều, kỷ luật trên thị trờng
quốc tế. Ngoài việc xây dựng các doanh nghiệp lớn thật cần thiết, chúng ta
còn phải thực hiện những biện pháp để tăng cờng khả năng tích tụ, tập trung
vốn của các DNVVN tạo điều kiện cho chúng có thể nhanh chóng vơn lên trở
thành những doanh nghiệp lớn. Sự kết hợp các loại quy mô doanh nghiệp
trong từng ngành, trong từng lĩnh vực cũng nh trong toàn bộ nền kinh tế, trong
đó nhấn mạnh đến phát triển các DNVVN là phù hợp với xu thế chung và phù
hợp với điều kiện xuất phát triển về kinh tế - xã hội ở nớc ta hiện nay.
Trong tơng lai, DNVVN sẽ phát triển rộng khắp nh một yếu tố phụ trợ
cho các khu công nghiệp tập trung. DNVVN sẽ là cầu nối giữa công nghiệp
với nông thôn, nông nghiệp sản xuất với tiêu dùng theo xu hớng xã hội. Nền
kinh tế cùng một lúc sẽ phát triển theo hai hớng : Âu hoá và tập đoàn hoá hai
xu hớng đó không biệt lập mà sâu chuỗi, hợp tác thành một hệ thống mà
DNVVN là hạ tầng cơ sở trong cấu trúc nền sản xuất xã hội. Sự co giãn và
chuyển động xen kẽ của các DNVVN và doanh nghiệp lớn là biện pháp cả cho
sự trì trệ lẫn sự phát triển quá nóng của nền kinh tế.
Chính vì vậy, DNVVN là động lực quan trọng thúc đẩy nền kinh tế phát
triển hình thành những tụ điểm, cụm công nghiệp để tác động chuyển hoá sản
xuất nông nghiệp theo hớng công nghiệp hoá - hiện đại hoá mà đất nớc đã
chọn.
Đề án kinh tế chính trị Ngô Anh Dũng
2.Vị trí và vai trò của các DNVVN đối với sự phát triển kinh tế xã
hội ở nớc ta.
Bất cứ một nền kinh tế nào, dù là ở những nớc có nền kinh tế phát triển,
đều có các DNVVN và các DNVVN này đóng một vai trò hết sức quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân. ở hầu hết các quốc gia, số lợng các DNVVN
chiếm trên 90% tổng số các doanh nghiệp và tạo công ăn việc làm cho trên
50% lực lợng lao động của mỗi quốc gia : Canada 42%, Đức : 50%, Pháp :
47% Các DNVVN cũng đóng góp từ 1/4 đến 1/3 giá trị GDP hàng năm.

Để thấy rõ vai trò giải quyết việc làm của các DNVVN, chúng ta xem tỷ
trọng lao động làm việc trong các doanh nghiệp ở các nớc.
Tên nớc Tỷ trọng DNVVN trong
tổng số doanh nghiệp
Tỷ trọng lao động làm
việc trong các DNVVN
Đài Loan 97% 70%
Hồng Kông 98% 62%
Hàn Quốc 98% 66%
Xingapo 97% 70%
Nhật Bản 98% 76%
Mỹ 98% 70%
Từng tại khu vực Châu á Thái Bình Dơng thì các DNVVN đóng gó từ
30% đến 60% GDI, trên 30% giá trị hàng xuất khẩu và sử dụng từ 40% đến
78% lực lợng lao động. ở hầu hết các nớc trên thế giới, khu vực DNVVN đợc
đánh giá là những hạt nhân của những hoạt động công nghiệp có tính chất
đổi mới và đóng vai trò quan trọng trong một cơ cấu năng động : Trờng hợp
điển hìnhnh bangladét : Với 109 triệu dân, 90% dân số sống ở nông thôn, nên
công nghiệp nớc này chủ yếu là khu vực công nghiệp nhỏ truyền thống. Kế
hoạch 5 năm 1980 - 1985 nhấn mạnh đến yêu cầu phát triển công nghiệp hoá
nông thôn, thực hiện chơng trình này cơ sở hạ tầng đợc cải thiện. Một uỷ ban
gọi là ủy ban phát triển công nghiệp nhỏ thuộc Bộ công nghiệp đợc thành lập
để chăm lo sự phát triển của DNVVN. Bên cạnh đó, Chính phủ Banglađét cho
phép thành lập hội giúp đỡ phát triển sản xuất nhỏ (MIDAS). Từ năm 1982 -
1991 MIDAS cho vay gần 8 triệu USD, mức cho vay trung bình là 80.000USD
- MIDAS giúp đỡ doanh nghiệp nhỏ thu hút lao động, tạo việc làm mới trong
ngành nghề là 1000USD. MIDAS còn tài trợ cho chơng trình đào tạo chủ
doanh nghiệp, thực hiện t vấn, dịch vụ mở rộng khối hợp đồng phụ giữa doanh
nghiệp nhỏ với các doanh nghiệp lớn. Chính vì vậy, Bănglađét đã tận dụng đợc
lực thế và vị trí của các DNVVN, các DNVVN phát triển ngày càng mạnh.

Đối với Việt Nam là quốc gia nghèo, lạc hậu, gần 80% dân số và khoảng
70% số lao động sống ở nông thôn, lạc chủ yế sống bằng nghề nông, lao động
Đề án kinh tế chính trị Ngô Anh Dũng
nhàn rỗi và chủ thừa nhiều, lại đang trong quá trình công nghiệp hoá, thì phát
huy tiềm lực của các DNVVN đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc
phát triển kinh tế - xã hội đóng góp vào tổng sản phẩm xaz hội, tạo công ăn
việc làm và thu nhập cho ngời lao động, cân đối cơ cấu công nghiệp. DNVVN
ở Việt Nam hiện nay chiếm khoảng 90% trong tổng số các loại hình doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đóng góp khoảng 25% GDP, giải quyết
việc làm cho gần 8 triệu lao động, chiếm khoảng 79,2% tổng số lao động phi
nông nghiệp và chiếm khoảng 22,5% học lợng lao động trong cả nớc, đóng
góp 32% giá trị tổng sản lợng công nghiệp. Hơn thế nữa, mỗi DN đợc xem là
những tế bào cơ bản của nền kinh tế quốc gia. Trong đó các DNVVN đợc xem
nh là những các rễ nhỏ nám vào đất giúp thân cây đứng vững hơn. Đất nớc
đang phát triển, với nguồn lực hạn chế nhng chúng ta lại có lợi thế của ngời
đi sau trong việc phát triển loại hình DNVVN, nó còn đảm bảo cho sự phát
triển bền vững của nền kinh tế mà lại không phụ thuộc vào bên ngoài.
+ Giữa DNVVN và các doanh nghiệp lớn có mối quan hệ gồm hai mối
quan hệ chủ yếu :
Thứ nhất, mối quan hệ trong đó các doanh nghiệp là những đối thủ cạnh
tranh, cùng bán và cùng mua trong cùng một thị trờng.
Thứ hai, mối quan hệ trong đó một bên là ngời bán và một bên là ngời
mua.
Trong trờng hợp thứ nhất có thể dẫn đến khi các doanh nghiệp lớn nhảy
vào một lĩnh vực mà các doanh nghiệp đều là ngời mua, cùng tìm kiếm lao
động, tài chính, công nghệ nguyên vật liệu thì các DNVVN sẽ là thế bất lợi.
Trờng hợp thứ hai là các giao dịch buôn bán giữa các DNVVN với các
doanh nghiệp lớn thì các doanh nghiệp có thể chi phối thị trờng.
Tuy nhiên các DNVVN có lợi thế so với các doanh nghiệp lớn :
DNVVN có những lợi thế rõ ràng, đó là khả năng thoả mãn nhu cầu có

hạn trong những thị trờng chuyên môn hoá, khuynh hớng sử dụng nhiều lao
động với trình độ kỹ thuật trung bình thấp đặc biệt là sự mềm mại và nhanh
chóng thích nghi với các nhu cầu và thay đổi của kinh tế thị trờng, DNVVN
có thể bớc vào các thị trờng mới mà không thu hút sự chú ý của các doanh
nghiệp lớn và sẵn sàng phục vụ ở những nơi xa xôi nhất hoặc các khoảng
trống vừa và nhỏ của thị trờng DNVVN là loại hình sản xuất lấy quyền sở hữu
phân tán thay cho địa điểm sản xuất tập trung tổ chức bộ máy chỉ đạo gọn
nhẹ, do vậy nó có nhiều điểm mạnh.
Đề án kinh tế chính trị Ngô Anh Dũng
+ Dễ dàng khởi sự và năng động nhạy bén với thị trờng : DNVVN chỉ
cần một số vốn hạn chế, một mặt bằng nhỏ hẹp đã có thể tiến hành sản xuất
kinh doanh vòng quay sản phẩm nhanh do đó có thể sử dụng vốn tự có, hoặc
vay bạn bè, tổ chức quản lý gọn nhẹ dễ quyết định, khi nhu cầu thị trờng thay
đổi hoặc doanh nghiệp gặp khó khăn thì dễ dàng thay đổi tình hình, nội bộ dễ
thống nhất.
+ Để phát huy bản chất hợp tác, DNVVN chỉ tiến hành một hoặc một vài
công đoạn trong quá trình sản xuất một sản phẩm hoàn chỉnh, mà các công
đoạn sản xuất phải kết hợp với nhau để hoàn thành một sản phẩm hoàn chỉnh
đa ra tiêu thụ trên thị trờng, do đó các doanh nghiệp phải tự hoàn thiện bản
thân mình và tiến hành hợp tác sản xuất.
+ Thu hút nhiều lao động hoạt động có hiệu quả với chi phí cố định thấp :
Các DNVVN do nguồn vốn ít vì vậy đầu t vào tài sản cố định cũng ít, họ th-
ờng tận dụng lao động thay thế cho vốn, đặc biệt là các nớc có lực lợng lao
động dồi dào và giá gia công thấp nh nớc ta, để tiến hành sản xuất kinh doanh
phục vụ dân sinh và thờng họ đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
+ Không có hoặc ít có xung đột giữa ngời sử dụng lao động và ngời lao
động :
Do quy mô vừa và nhỏ, sự ngăn cách giữa ngời sử dụng lao động và ngời
lao động không lớn, và bản thân ngời chủ, ngời sử dụng lao động luôn sát với
công việc của ngời lao động, do vậy nếu có xung đột, mâu thuẫn cũng dễ giải

quyết không đi đến hậu quả nghiêm trọng.
+ Có thể duy trì sự tự do cạnh tranh : Các DNVVN thờng không có tình
trạng độc quyền, họ dễ dàng và sẵn sàng chấp nhận tự do cạnh tranh. Tự do
cạnh tranh là con đờng tốt nhất để phát huy mọi tiềm lực, nguồn lực của xã
hội.
+ Có thể phát huy tiềm lực thị trờng trong nớc : Sự phát triển DNVVN ở
giai đoạn ban đầu là phơng thức tốt để sản xuất thay thế các mặt hàng nhập
khẩu. Các nớc đang phát triển nh nớc ta chỉ cần lựa chọn một số mặt hàng để
sản xuất thay thế nhập khẩu với sức mua của dân, từ đó nâng cap năng lực sản
xuất và sức mua của thị trờng.
+ Dễ dàng tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng : DNVVN có thể
phát triển khắp mọi nơi mọi vùng của đất nớc, lấp vào khoảng trống và thiếu
vắng của các doanh nghiệp lớn tạo nên sự phát triển cân bằng giữa cacá vùng,
đây là một chiến lợc kinh tế xã hội quan trọng của đất nớc.
Đề án kinh tế chính trị Ngô Anh Dũng
+ DNVVN là nơi đào luyện các nhà doanh nghiệp và là cơ sở kinh tế ban
đầu để phát triển thành doanh nghiệp lớn : Qua thực tế hoạt động sản xuất
kinh doanh, một mạng lới DNVVN trên mọi miền của đất nớc đã đào tạo sàng
lọc các nhà doanh nghiệp, có thể nói đây là nơi đào tạo hữu hiệu nhất. Mặt
khác, quá trình phát triển DNVVN cũng là quá trình tích tụ vốn, tìm kiếm mở
mang thị trờngđể trở thành doanh nghiệp lớn. Riêng ở Việt Nam, DNVVN
còn có một lợi thế là mới phát triển quy mô nhỏ bé, tồn tại ở mọi thành phần
kinh tế và đang trong quá trình vận động chuyển hoá, do đó có nhiều thuận lợi
để phát triển, nó chứa chục nhiều ảnh hởng lớn của độc quyền và cạnh tranh
quyết liệt với nhau.
Sự trình trễ, thua lỗ, phá sản của các DNVVN có ảnh hởng rất ít hoặc
không gây nên khủng hoảng kinh tế xã hội, đồng thời ít chịu ảnh hởng bởi các
cuộc khủng hoảng kinh tế dây chuyền.
Dù các DNVVN có những thế bất lợi nhất định so với các doanh nghiệp
lớn nh : Nguồn vốn cơ sở vật chất, trình độ thiết bị công nghệ thờng yếu kém,

lạc hậu, trình độ quản lý ở các DNVVN còn bị hạn chế song nó có vai trò hết
sức to lớn đối với nền kinh tế của các nớc đặc biệt là ở Việt Nam. Do đặc
điểm, tính chất và lợi thế của chúng, nên cá DNVVN có vai trò và tác động
kinh tế xã hội rất lớn.
Thứ nhất, các DNVVN có vũ khí quan trọng ở chỗ : Chúng chiếm đa số
về mặt số lợng trong tổng số các cơ sở sản xuất kinh doanh và ngày càng gia
tăng mạnh. Từ năm 1991 đến năm 1998 số lợng các doanh nghiệp t nhân đã
tăng từ con số không đáng kể đến 18750 doanh nghiệp, số công ty trách
nhiệm hữu hạn đến năm 1998 là 7100 công ty và số công ty cổ phần 171công
ty. Nên đến cuối những năm 1998, số DNVVN đã chiếm trên 90% mong tổng
số các doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, cha kể đến khoảng
110000 trang trại gia đình kinh doanh nông lâm ng nghiệp đều là quy mô nhỏ.
Tính đến năm 1996, nớc ta có khoảng 2,2 triệu hộ cá thế sản xuất kinh doanh.
Đề án kinh tế chính trị Ngô Anh Dũng
Năm
Tiêu chí
1992 1994 1995 1996
Tổng số doanh nghiệp 1514615 1558627 2078125 2245558
DNVVN 7060 6264 5873 5790
Tập thể 3231 2275 1867 1760
DN vốn đầu t nớc ngoài 515 1054 1399 1648
DNvà công ty t nhân 51.398 15.893 18.727 21.360
Cá thể 1498661 1533141 2050259 2210000
Các loại hình doanh nghiệp từ 1992 -1996
+ Thứ hai, các DNVVN có vai trò quan trọng sự tăng trởng của nền kinh
tế chúng đóng góp phần quan trọng vào sự gia tăng thu nhập quốc dân.
DNVVN của cả nớc chiếm khoảng 24% GDP, trong đó DNVVN ngoài quốc
doanh chiếm khoảng 19% GDP, DNVVN thuộc khu vực Nhà nớc chiếm
khoảng 5% GDP. Năm 1996 toàn bộ khu vực DNVVN trong và ngoài quốc
doanh và các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài đã tạo ra khoảng 31% giá

trị tổng sản lợng công nghiệ chiếm 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng lợng vận
chuyển hàng hoá trong một số ngành nh đồ mộc, chiếu có, mây tre đan, mỹ
nghệ.
DNVVN với mạng lới rộng khắp đã có truyền thống gắn bó với nông
nghiệp và kinh tế xã hội nông thôn sẽ là động lực thúc đẩy sản xuất nông
nghiệp. Sẽ hình thành những tụ điểm cụm công nghiệp để tác động chuyển
hoá sản xuất nông nghiệp theo hớng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nớc.
Hệ thống công nghiệp chế biến và sản xuất đồ gia dụng sẽ phát triển, các làng
nghề sẽ hiện đại hoá.
+ Thứ ba : Tác động kinh tế - xã hội lớn nhất của các DNVVN và giải
quyết một số lợng lớn chỗ làm việc cho dân c, làm tăng thu nhập cho ngời lao
động, góp phần xoá đói giảm nghèo.
- Hiện nay cả nớc có khoảng trên 1.000.000doanh nghiệp vừa và nhỏ,
giải quyết việc làm cho 3,5 -4 triệu lao động chiếm khoảng 10 -12% lực lợng
lao động xã hội. Nhng chủ yếu tập trung ở một số ngành dịch vụ, thơng mại,
công nghiệp nhẹ, cơ khí, tiểu thủ công nghiệp. Trong đó, các đơn vị kinh tế cá
thể trong công nghuệp và thơng mại thu hút đợc 3,5 triệu lao động, các công
ty và doanh nghiệp t nhân thu hút đợc gần nửa triệu lao động. Để làm sáng tỏ
ý nghĩa quan trọng của vai trò tạo công ăn việc làm của doanh nghiệp vừa và
nhỏ ta dùng hệ số mở rộng việc làm : Là tỷ số giữa lao động thực tế tạo đợc
việc làm do phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ với lao động làm việc thờng
xuyên trong các DNVVN.
Đề án kinh tế chính trị Ngô Anh Dũng
K
DN
+ L
AH
L
TT


K = =
L
DN
L
DN
Trong đó :
L
DN
: Lao động làm việc thờng xuyên ở các DNVVN
L
AH
: Lao động tạo đợc việc làm ngoài doanh nghiệp do ảnh hởng phát
triển DNVVN.
L
TT
: lao động thực tế tạo đợc việc làm do phát triển DNVVN
ý nghĩa quan trọng của hệ số K là khi ta biết đợc số lao động làm việc
thờng xuyên trong các DNVVN qua báo cáo, thống kê và biết đợc hệ số K qua
điều tra chọn mẫu, chúng ta có thể tính đợc số lao động thực tế tạo đợc việc
làm cho từng ngành khu vực, toàn lãnh thổ. Điều đó có ý nghĩa quan trọng
trong việc hoạch định chính sách phát triển nguồn nhân lực cũng nh chính
sách phát triển thị trờng lao động ở Việt Nam.
Trong thực tế, qua điều tra nghiên cứu 1000 DNVVN ở hai miền Nam -
Bắc, cả vùng thành thị và nông thôn đều cho thấy cho các doanh nghiệp phát
triển đã thu hút rất nhiều lao động ngoài doanh nghiệp tạo đợc việc làm.
Thông qua các hoạt động cung ứng đầu vào, tiếp nhận đâù ra và phục vụ sản
xuất kinh doanh, cũng nh làm việc không thờng xuyên ở các doanh nghiệp, thì
có tới 30% tổng số những công việc trên do cá nhân và các hộ gia đình chuyên
đảm nhận, đặc biệt đối với vùng nông thôn, vùng ven đô thị có nghề thủ công
truyền thống nh Phú Xuyên, thờng Tín. Lịch sử phát triển kinh tế cuả các nớc

công nghiệp phát triển cũng nh thời kỳ đầu đổi mởi của Việt Nam đã chỉ ra
rằng : Khi nền kinh tế suy thoái, các doanh nghiệp lớn phải giảm lao động để
giảm chi phí sản xuất đến mức có thể tồn tại và phát triển đợc, vì cầu của thị
trờng thấp hơn cung của thị trờng. Nhng đối với DNVVN do đặc tính linh
hoạt, uyển chuyển dễ thích ứng đối với thay đổi của thị trờng nên nó vẫn có
thể hoạt động đợc. Do đó, các doanh nghiệp không những không giảm lao
động mà vẫn có thể thu hết thêm lao động. Hội đồng doanh nghiệp nhỏ thế
giới cho rằng DNVVN là liều thuốc cuối cùng chữa trị bệnh thất nghiệp khi
mà nền kinh tế suy thoái. Điều này đợc chứng minh vào thời kỳ 1987 - 1990
trong khi các doanh nghiệp lớn và vừa tiến hành tổ chức lại sản xuất, giảm bớt
lực lợng lao động, thì các DNVVN bung rađã thu hút phần lớn lực lợng lao
động dôi d, góp phần quan trọng giảm bớt tình trạng căng thẳng về việc
làm. Qua đây, cho thấy rằng tầm quan trọng của các DNVVN trong việc tạo
việc làm, thu hút đợc nhiều lao động trong toàn lãnh thổ một quốc gia.
Đề án kinh tế chính trị Ngô Anh Dũng
- DNVVN góp phần tạo ra thu nhập đảm bảo đời sống của ngời lao động.
Các DNVVN có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế của đất nớc
và giải quyết các vấn đề xã hội. Chỉ tính riêng trong lĩnh vực công nghiệp, thủ
công nghiệp, thơng mại, dịch vụ, du lịch, nhập tải, xây dựng thì các DNVVN
thu hút đợc 4150 tỷ đồng trong tổng số 9100 tỷ đồng đầu t của khu cực này.
Giá trị sản lợng công nghiệp do các doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo ra trong năm
1993 là 5315 tỷ đồng, chiếm 26% giá trị tổng sản lợng toàn ngành công
nghiệp và 54% giá trị sản lợng công nghiệp điạ phơng.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
năm 1992, các DNVVN trong cả nớc đã vận chuyển đợc một khối lợng hàng
hoá là 32,2 triệu tấn và khối lợng hàng hoá luân chuyển là 2978triệu tấn,
chiếm 64% khối lợng hàng hoá vận chuyển và 56% khối lợng hàng hoá luân
chuyển của địa phơng.
Kết quả điều tra 1000 doanh nghiệp vừa và nhỏ trên phạm vi toàn quốc
thì chi phí trung bình để tạo ra một chỗ làm việc trong các DNVVN khoảng

740 ngành đồng, chỉ bằng 5% so với các doanh nghiệp lớn trong cả nớc. Trong
khi đó thì nớc thu nhập của các lao động làm việc trong các DNVVN thì chỉ
có mức thu nhập trung bình từ 200 ngàn - 300ngàn/tháng gấp 3 mđến 4 lần
thu nhập của lao động nông nghiệp. Điều này phản ánh năng suất lao động và
hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNVVN cao hơn sản xuất cá thể hộ gia
đình nông nghiệp thuần tuý.
Thứ t, các DNVVN góp phần làm năng động nền kinh tế trong cơ chế thị
trờng. Số lợng các DNVVN khá lớn, lại thờng xuyên tăng lên, nên đã làm tăng
khả năng cạnh tranh trên thị trờng và làm giảm bớt mức độ rủi ro cho các
doanh nghiệp, đồng thời tăg số lợng chủng loại hàng hoá, dịch vụ, thoả mãn
nhu cầu đa dạng của ngời tiêu dùng. Các DNVVN thông qua các hợp đồng gia
công chế biến hoặc làm đại lý phục vụ sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, cung cấp
nguyên liệu - thâm nhập vào từng ngõ ngách của thị trờng mà các doanh
nghiệp lớn không thể làm đợc. Sự phát triển của các DNVVN đã làm cho việc
phân bố các DNVVN hợp lý hơn về mặt lãnh thổ ở cả nông thôn và thành thị,
miền núi và đồng bằng, giảm sức ép về dân số đối với các thành phố lớn. Các
DNVVN cũng giống với các doanh nghiệp lớn đều chịu sự chi phối từ hai
phía :Quan hệ cung cầu, giá cả thị trờng và vai trò điều tiết của Nhà nớc. Sự
tự điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNVVN rất phù hợp
với pháo luật, chính sách của Nhà nớc và nhu cầu của thị trờng. Làm cho sự
tác động của Nhà nớc lên các DNVVN có hiệu quả và hiệu lực.
Đề án kinh tế chính trị Ngô Anh Dũng
Thứ năm, khu vực DNVVN thu hút đợc khá nhiều vốn ở trong dân. Do
tính chất nhỏ, lẻ, dễ phân tán đi sâu vào các ngõ, ngách, bản, làng :
- Về tiền vốn : Nhờ đờng lối, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành
phần của Đảng và Nhà nớc hàng năm các DNVVN đã thu hút một lợng vốn
đáng kể của dân c, đa nguồn vốn đó vào chu chuyển, khắc phục một nghịch lý
đã tồn tại trong nhiều năm là các DNVVN thiếu vốn trầm trọng trong khi lợng
vốn trong dân còn nhiều khả năng tiềm ẩn cha đợc khai thác. Do dễ khối sự
bằng nguồn vốn ít ỏi, nên DNVVN dễ đợc đông đảo nhân dân tham gia hoạt

động, qua đó thu hút ddợc nguồn vốn trong dân vào sản xuất kinh doanh. ớc
tính với trên 400.000 doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế thuộc lĩnh vực
công nghiệp đã thu hút đợc khoảng 25000 tỷ đồng vào năm 1993. Nhng đến
năm 1996 lợng vốn thu hút vào sản xuất kinh doanh của hộ cả thể, doanh
nghiệp về công ty t nhân là 53.000 tỷ đồng, cha kể đến phần thu hút hàng
chục nghìn tỷ đồng nhàn rỗi của các thành viên trong xã hội phục vụ cho nhu
cầu ngắn hạn về vốn của các doanh nghiệp.
Tuy lợng vốn thu hút vào một doanh nghiệp không nhiều, thờng có vốn
đầu t ban đầu và dới 5 tỷ đồng, nhng nhờ số lợng các DNVVN khá lớn nên
tổng lợng vốn thu hút vào sản xuất kinh doanh ngày càng tăng và sự gia tăng
này đợc thể hiện ở bảng sau :
Năm
Tiêu chí
1992 1994 1995 1996
Tổng vốn kinh doanh
(tỷ đồng)
121308 227.033 272.831 311.945
DN Nhà nớc 74.831 120.552 136.564 141.000
DN tập thể 2890 2112 2147 2.200
DN có vốn đầu t nớc ngoài 22.238 65.419 90.066 121.130
DN và công ty t nhân 7449 18.750 19.964 26500
Cá thể 14400 20.200 24.090 26.500
Lợng vốn thu hút vào các doanh nghiệp từ 1992 - 1996
Mặt khác các DNVVN còn huy động nguồn vốn của mình thông qua
việc đi vay của các NHTM, các tổ chức tín dụng, các tổ chức tài chính trung
gian làm cho hoạt động trên thị trờng tài chính sôi nổi hơn, linh hoạt hơn,
đồng thời là nguồn quỹ chia sẻ rủi ro cho các NH khi các doanh nghiệp lớn
mất khả năng trả nợ thì các NH có thể thu hồi nợ từ các DNVVN. Bên cạnh
đó, các DNVVN còn có thể huy động đợc nguồn vốn đầu t thông qua các dự
án hoặc giúp đỡ của các phân nhân Việt Kiều. Riêng nguồn vốn Việt Kiều đầu

t về đất nớc thông qua việc liên daonh với các DNVVN ở Việt Nam hàng năm
đạt tới 200 - 300 triệu USD.
Đề án kinh tế chính trị Ngô Anh Dũng
- Về mặt kỹ thuật, doanh nghiệp vừa và nhỏ thờng dựa vào việc lựa chọn
kỹ thuật phù hợp với trình độ lao động và khả năng về vốn của nó. Họ kết hợp
kỹ thuật thủ công với kỹ thuật mà quảng đại quần chúng lao động có thể
nhanh chóng tiếp thu và làm chủ trong sản xuất, ít sử dụng kỹ thuật tiên tiến
hiện đại, đòi hỏi vốn lớn, đào tạo sử dụng làm mặt bằng rộng tốn kém kinh
phí. Do đó phần lớn trang thiết bị của các DNVVN là sản xuất trong nớc.
- Về nguyên vật liệu : DNVVN với nguồn vốn ít, lao động thủ công là
chủ yếu, do vậy nguồn nguyên liệu, vật liệu đợc sử dụng cũng chủ yếu là tại
chỗ, thuộc phạm c địa phơng, dễ khai thác sử dụng qua đó cũng tạo điều kiện
để giải quyết việc làm. Trong khu cuộc, rất ít DNVVN sử dụng nguyên liệu
nhập ngoại. Cuộc khảo sát 1000 DNVVN trong cả nớc cho chúng ta thấy 80%
nguồn nguyên liệu, vật liệu cung ứng cho các DNVVN là ở tại địa phơng làm
giảm chi phí vận chuyển từ nơi cung ứng đến nơi sản xuất và tận dụng đợc
nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có. Nói tóm lại DNVVN là khu vực mới cho
việc thực hiện có kết quả vấn đề huy động nguồn lực của dân c trong đó quan
trọng nhất nguồn vốn phục vụ nhu cầu ngắn hạn về vốn của các DNVVN đảm
bảo cho việc hoạt động sản xuất kinh doanh đợc thuận lợi và đạt hiệu quả cao.
Thứ sáu, các DNVVN có vai trò to lớn đối với quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, đặc biệt đối với khu vực nông thôn.
Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế,
các DNVVN đã tập trung thúc đẩy doanh nghiệp của mình phát triển theo h-
ớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đặc biệt là trong những năm cuối thể kỷ 20
và đầu thế kỷ 21, có nghĩa là từng bớc chuyển đổi căn bản toàn diện phơng
thức sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp từ lao động thủ công, lao động
bằng máy móc lạc hậu sang lao động bằng máy móc, thiết bị hiện đại là chủ
yếu, tạo ra năng suất lao động cao sự phát triển của các DNVVN nói chung và
sự phát triển của các DNVVN ở nông thôn nói riêng đóng vai trò chủ yếu thu

hút lao động d thừa và lao động nông dân, đã góp phần thúc đẩy nhanh quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông thôn theo hớng công
nghiệp hoá và hiện đại hoá làm cho công nghiệp phát triển mạnh thúc đẩy các
ngành thơng mại và dịch vụ phát triển, đồng thời hỗ trợ tích cực cho sản xuất
nông nghiệp, bảo tồn duy trì các ngành nghề truyền thống, phát triển, mở
mang nhiều ngành nghề mới, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho ngời lao
động. Sự phát triển của các DNVVN ở thành thị cũng góp phần làm tăng tỷ
trọng khu vực công nghiệp dịch vụ và làm thu hẹp dần tỷ trọng khu vực nông
Đề án kinh tế chính trị Ngô Anh Dũng
nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Các DNVVN còn đóng vai trò quan
trọng trong việc làm thay đổi và đa dạng hoá cơ cấu công nghiệp.
Thứ bảy, các DNVVN còn góp phần quan trọng đáng kể vào việc thực
hiện đô thị hoá tập trung và thực hiện đợc phơng châm ly nông bất ly hơng.
Do số lợng các DNVVN là rất lớn và sự phát triển ngày càng nhanh của các
DNVVN đều biết là ở nông thôn. Sự phát triển của các DNVVN ở nông thôn
sẽ thu hút những ngời lao động thiếu hoặc cha có việc làm và có thể thu hút số
lợng lớn lao động thời vụ trong các kỳ nông nhàn vào hoạt động sản xuất kinh
doanh, rút dần lực lợng lao động trong các ngành nông nghiệp chuyển sang
làm công nghiệp và dịch vụ, nhng vẫn sống tại quê hơng bản quán, không phải
di chuyển đi xa, thực hiện đợc phơng châm ly uông bất ly hớng. Đồng hành
với nó là diễn ra xu hớng hình thành những khu cuộc khá tập trung các cơ sở
công nghiệp nhỏ ngay ở trong nông thôn, xây dựng cacá cơ sở hạ tầng đảm
bảo hoạt động sản xuất và kinh doanh, tiến dần lên hình thành các tụ vốn, hình
thành các đô thị nhỏ đen xen giữa những làng quê. Với lợi thế là tài nguyên
thiên nhiên dồi dào, lực lợng lao động chiếm đại đa số và có sự hỗ trợ quản lý
của nhà nớc nên ở những khu vực này sẽ càng hình thành nhiều DNVVN làm
cho quá trình đô thị hoá ngày càng diễn ra mạnh mẽ, quy mô lớn.
Thứ tám các DNVVN là nơi ơm mầm các tài năng kinh doanh, là nơi đào
tạo rèn luyện các nhà doanh nghiệp làm quen với môi trờng kinh doanh. Hệ
thống này bao gồm các trung tâm dạy nghề và các trung tâm đào tạo bồi dỡng

chủ doanh nghiệp - các trung tâm có thể xen ghép và hệ thống các trờng đại
học. Phơng pháp, hình thức tổ chức đào tạo rất đa dạng, phong phú và linh
hoạt nhằm đáp ứng tốt nhu cầu về lao động và các chủ doanh nghiệp cho các
DNVVN. Hình thức này đợc bắt đầu từ kinh doanh quy mô nhỏ, một số nhà
doanh nghiệp sẽ trởng thành lên thành những nhà doanh nghiệp lớn tài ba, biết
đa doanh nghiệp của mình nhanh chóng phát triển có tài năng kinh doanh sẽ
đợc ơm mầm từ trong các DNVVN, thông qua hoạt động của mình tại các
DNVVN từ các chủ doanh nghiệp có thể tiếp cận đợc các cuộc hội thảo với sự
tham gia của các chuyên gia nớc ngoài và chuyên gia giỏi trong nớc về các
chủ để thiết thực nh chuyển giao công nghệ, kỹ thuật đàm phán hợp đồng xuất
nhập khẩu, hệ thống kế toán mới, thuế thị trờng khu vực và thế giới về ngành,
lĩnh vực kinh doanh để đa các DNVVN ngày càng lớn mạnh.
3. Các đặc điểm của DNVVN
Xét từ góc độ vi mô, theo hai cuộc điều tra DNVVN do Bộ lao động th-
ơng binh xã hội tiến hành năm 1991 và 1997 và cuộc điều tra tháng 1/1999
Đề án kinh tế chính trị Ngô Anh Dũng
của dự án phát triển thành công với nghiên cứu là các DNVVN đã đa lên và
phác hoạ một bức tranh tơng đối tỉ mỉ về DNVVN ở Việt Nam theo đó các đặc
điểm chủ yếu có thể thấy :
- Chủ doanh nghiệp : Chủ doanh nghiệp là những ngời đứng đầu và quản
lý doanh nghiệp họ đầu t kinh doanh mong tìm kiếm đợc lợi nhuận. Bên cạnh
đó Nhà nớc là ngời làm ra luật, chính sách tạo điều kiện cho chủ doanh nghiệp
làm giàu. Nhng qua các cuộc điều tra cho thấy hầu hết các chủ doanh nghiệp
có trình độ học vấn và phổ thông trung học hoặc là cao hơn, đã từng đảm nhận
các vai trò quan trọng và làm việc trong khu vực quốc doanh. Trong đó, số đợc
đào tạo về quản trị kinh doanh là rất ít, nhng do doanh nghiệp lại đợc thành
lập thời kỳ bao cấp vì vậy các giám đốc hoặc cán bộ quản lý lại chủ yếu đợc
đào tạo và vận hành theo cơ chế cũ, kiến thức về kinh doanh và quản trị kinh
doanh trong môi trờng cạnh tranh còn rất hạn chế. Trong tổng số các chủ các
DNVVN thì phụ nữ chiếm 20%, có rất ít các chủ doanh nghiệp dới 29 tuổi.

Hầu hết các chủ doanh nghiệp t nhân đều có kinh nghiệm hoạt động kinh
doanh cùng loại chiếm tới 42% và một số lớn khacs đã từng làm thuê cho các
doanh nghiệp khác và các chủ DNVVN còn hạn chế với việc cập nhật các hoạt
động t vấn của các tổ chức t vấn. Đây là một đặc điểm nổi bật của các
DNVVN ở Việt Nam.
- Lý do phát triển doanh nghiệp : Có ba lý do thành lập doanh nghiệp đợc
các chủ doanh nghiệp nêu ra theo thứ tự u tiên.
+ Có kinh nghiệm trong lĩnh vực hoạt động : Các chủ doanh nghiệp là
ngời có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực hoạt động về các chủ doanh nghiệp
học hỏi kinh nghiệm qua các tổ chức t vấn, qua công việc làm thuê tại các
doanh nghiệp lớn.
+ Có sẵn mối quan hệ với các kênh cung ứng hoặc với thị trờng : Các
DNVVN là các doanh nghiệp sản xuất chủ yếu các mặt hàng phục vụ trong n-
ớc, phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nớc. Các DNVVN là các doanh nghiệp
rất nhạy bén với thị trờng, sự thay đổi của thị trờng kéo theo sự thay đổi của
các DNVVN để đáp ứng nhu cầu của thị trờng.
+ Dựa vào truyền thống địa phơng hoặc theo hớng dẫn của các viên chức
Nhà nớc địa phơng, các DNVVN đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết
nạn thất nghiệp và khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên ngay tại địa ph-
ơng. Các DNVVN đợc sự giúp đỡ của các viên chức Nhà nớc tại dịa phơng sẽ
tạo ra đợc nguồn kinh phí, tạo ra đợc tổ chức tài chính tiêu dùng, hệ thống tổ
Đề án kinh tế chính trị Ngô Anh Dũng
chức đào tạo, hệ thống thông tin, hệ thống tổ chức hỗ trợ đổi mới công nghệ,
đảm bảo đợc quá trình sản xuất và kinh doanh.
- Vốn đầu t ban đầu và nguồn vốn : Các doanh nghiệp đợc thành lập sau
năm 1990 có quy mô vốn đầu t lớn hơn so với các DNVVN đợc thành lập trớc
đó. Vốn ban đầu của các doanh nghiệp ở nông thôn rất thấp so với thành thị.
Năm 1992 ở nông thôn vốn sản xuất bình quân của doanh nghiệp hộ gia đình
là 1010USD, của doanh nghiệp t nhân là 2500 USD, ở thành thị tơng ứng là
4200USD và 15140USD. Hầu hết các doanh nghiệp ban đầu đều dựa vào

nguồn vốn tự có, vốn huy động ngoài rất ít, với 2% DNVVN có vay không trả
lãi và trên 2% vay từ các ngân hàng thơng mại. Ngay bản thân các DNVVN là
các đối tợng có thể tiếp cận dễ dàng với các u đãi, chính sách, hỗ trợ về đầu t,
nguồn vốn cũng chỉ đạt đợc, tỷ lệ rất khiêm tốn : Năm 1998 giải quyết đợc
124 dự án, năm 1999 là 165 dự án cho 83 DNVVN trong tổng số khoảng 2000
doanh nghiệp do trung ơng quản lý, con số này sẽ giúp chúng ta đa ra hai kết
luận.
+ Thứ nhất : Sự phát triển các DNVVN đã thực sự là công cụ huy động
mọi nguồn vốn trong dân, vốn vay từ nớc ngoài, vốn hỗ trợ của Chính phủ
+ Thứ hai : Việc không sử dụng các nguồn vốn tín dụng đã hạn chế quy
mô của doanh nghiệp đó là : các DNVVN thiếu tài sản thế chấp và không xác
định giá trị tài sản thế chấp, các DNVVN không đủ khả năng lập dự án kinh
doanh và vay vốn, do đó càng khó khăn hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn
ngân hàng. Chính vì vậy, Nhà nớc phải có những chính sách u đãi, hỗ trợ cho
các DNVVN để các doanh nghiệp này đảm bảo đợc nguồn vốn của mình để
quá trình sản xuất - kinh doanh diễn ra nhanh chóng và đạt hiệu quả cao.
II. Sự cần thiết phải đổi mới cơ chế chính sách đối với DNVVN ở Việt
Nam.
Đổi mới cơ chế quản lý là đòi hỏi khách quan của nền kinh tế và bản
thân bất cứ một nền kinh tế nào cũng có xu hớng vận động phát triển theo xu
hớng xoáy trôn ốc ngày một cao hơn. Vì vậy, đổi mới hoàn thiện cơ chế quản
lý nền kinh tế nói chung, quản lý doanh nghiệp nói riêng là việc phải thờng
xuyên làm.
Đối với nớc ta, một thời gian dài vai trò nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung tơng ứng với nó là cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp. Khi
chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trờng có sự quản lý của Nhà nớc, đòi hỏi phải chuyển từ cơ chế quản lý tập
trung quan liêu bao cấp sang cơ chế quản lý thị trờng. Muốnpt1 nền kinh tế
đất nớc, trớc hết phải dựa vào các DNVVN, từ DNVVN mà đi lên doanh
Đề án kinh tế chính trị Ngô Anh Dũng

nghiệp lớn. Xuất phát từ vai trò của DNVVN rất thấp so với các nớc trong khu
vực và các nớc trên thế giới, đòi hỏi cần thiết phải có cơ chế quản lý mới phù
hợp có hiệu quả cao, tạo ra đợc hành lang pháp lý và môi trờng kinh tế - xã
hội thuận lợi, để thúc đẩy DNVVN phát triển.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng cơ chế quản lý cũ
không tự mất đi, cơ chế quản lý mới không tự nhiên hình thành mà nó phải
trải qua một quá trình đấu tranh để cơ chế quản lý mới từng bớc loại bỏ cơ chế
quản lý cũ. Thực tế hơn 8 năm chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều
thànhphần, vận hành theo cơ chế thị trờng, cha đủ thời gian, kinh nghiệm để
hoàn thiện cơ chế quản lý mới, ảnh hởng của cơ chế cũ vẫn còn dai dẳng đan
xen và đấu tranh với các cơ chế quản lý mới.
Nền kinh tế thị trờng với những quy luật kinh tế khách quan vốn có của
nó, chính những quy luật ấy điều chỉnh nền kinh tế phát triển và phát triển một
cách bền vững. Song không phải không có những hạn chế, vớng mắc, khó
khăn, trái ngợc với mục tiêu phát triển của xã hội, đó là sự độc quyền cá ớn
nuốt cá bé, sự phân hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp Trong điều kiện nớc ta
hiện nay, với xu hớng nền kinh tế mở, bên cạnh sự tồn tại hàng trăm nghìn
DNVVN là hàng ngàn doanh nghiệp lớn của mọi thành phần kinh tế, đặc biệt
là doanh nghiệp lớn t nhân, kể cả t nhân trong nớc và t nhân nớc ngoài. Mà
các doanh nghiệp đều có quyền tự chủ sản xuất - kinh doanh sản xuất cái gì ?
sản xuất nh thế nào ? sản xuất cho ai là do doanh nghiệp tự định đoạt. Điều đó
dẫn đến sự bất lợi với nguồn vốn lớn, công nghệ, kỹ thuật hiện đại sẽ tạo ra
sản phẩm mới chi phí thấp, ngợc lại các DNVVN mà đặc biệt là các doanh
nghiệp nhỏ, với nguồn vốn hạn hẹp, công nghệ, kỹ thuật lạc hậu, lao động thủ
công là chủ yếu, sẽ tạo ra cùng loại sản phẩm, với chi phí lớn hơn mà chi phí
của ccs doanh nghiệp lớn bỏ ra.
Để thực hiện đợc mục tiêu dân giàu nớc mạnh, xã hội công bằng, văn
minh, thì trớc hết phải phát triển sản xuất. Nớc ta cũng nh một số nớc đang
phát triển khác, nguồn vốn hạn hẹp, nhân lực dồi dào, công nghệ kỹ thuật lạc
hậu, thị trờng cha phát triển, do vậy việc phát triển DNVVN là phù hợp nhất,

đáp ứng đợc mục tiêu công ăn việc làm nâng cao thu nhập cho ngời lao động,
đáp ứng nhu cầu cấp bách của đất nớc. Về lâu dài, sự phát triển của DNVVN
sẽ đóng góp một tỷ trọng lớn trong thu nhập quốc dân. Nhng thực tế hơn 8
năm đổi mới, DNVVN gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là DNVVN thuộc sở
hữu của Nhà nớc và các doanh nghiệp siêu nhỏ.
1. Thực trạng của các DNVVN.
Đề án kinh tế chính trị Ngô Anh Dũng
Theo ớc tính của việc quản lý kinh tế trung ơng, nếu xét theo tiêu chí về
vốn đợc 5 tỷ đồng thì có 88,2% trong tổng số các DNVVN. Trong đó, đối với
khu vực doanh nghiệp thuần túy Việt Nam thì tỷ lệ này là 89,8% và khu vực
doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài là 33,6%.
Nếu xét theo quy mô lao động trung bình đợc 200 ngời thì 96% trong
tổng số các doanh nghiệp Việt Nam kể cả doanh nghiệp có vốn đầu t của nớc
ngoài, là các DNVVN. Nh vậy xét theo hai tiêu chí (vốn, lao động) thì khoảng
88 - 90% doanh nghiệp ở Việt Nam là các DNVVN. Trong đó có khoảng gần
400 doanh nghiệp thuộc sở hữu của Nhà nớc và khoảng trên 35000 doanh
nghiệp ngoài quốc doanh. Trong đó, ngành thơng mại, dịch vụ sửa chữa chiếm
một số lợng rất lớn là 40,2%, gần 18% số DNVVN của cả nớc hoạt động
trong các ngành công nghiệp và xây dựng, khoảng 10% DNVVN hoạt động
trong các lĩnh vực vận tải, dịch vụ kho tải. Riêng Đông Nam Bộ và khu vực
Đồng Bằng Sông Hồng chiếm 18,1% và Duyên Hải Miền Trung là 10,1%.
Thách thức lớn nhất đối với các DNVVN ở nớc ta và các nhà quản lý kinh tế
Việt Nam, đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế đang trong quá trình chuyển
đổi theo xu hớng, lộ trình AFTA và WTO và làm thế nào để các DNVVN có
thể cạnh tranh đợc với các Công ty, các tập đoàn xuyên quốc gia khi chúng ta
thực hiện cam kết của các tổ chức này. Trong khi đó, các DNVVN gặp phải
nhiều khó khăn, hạn chế và vớng mắc một phần do xuất phát từ chính bản thân
các DNVVN, do các yếu kém về tổ chức, quản lý điều hành và một phần từ cơ
chế, chính sách, đờng lối và quan điểm của Nhà nớc đối với các DNVVN. Nó
cha đợc các DNVVN phát triển một cách có hiệu quả mà còn cản trở, hạn chế

sự phát triển của các DNVVN theo cơ chế thị trờng. Mặt khác, cơ chế quản lý
DNVVN cha dựa trên nền tảng lý luận về quản lý doanh nghiệp nói chung,
cha biết thừa kế tinh hoa của nhân loại, có sự mặc cảm t bản và chủ nghĩa
trong khoa học quản lý. Do đó, trong quá trình hình thành và phát triển của
mình các DNVVN đã gặp phải những khó khăn, thách thức lớn.
a) Về tình hình sản xuất - kinh doanh :
Theo số liệu thống kê năm 1992, trong phạm vi cả nớc công nghiệp nông
thôn đã thu hút trên một triệu lao động, thu hút khoảng 1000 tỷ đồng trong
dân, tăng thêm cho thu ngân sách Nhà nớc 70 - 80 tỷ đồng, thu nhập của ngời
lao động hàng tháng tăng hơn 20-60% so với lao động thiếu nông nghiệp.
Trong công nghiệp chế biến nông sản sơ chế, sản xuất - vật liệu xây dựng
thông thờng (gạch ngói, đá, sỏi), hàng mộc dân dụng, thì sản xuất của công
nghiệp nông thôn kém u thế gần nh tuyệt đối.
Đề án kinh tế chính trị Ngô Anh Dũng
Tuy công nghiệp và dịch vụ nông thôn đã có những mốc phát triển đáng
kể, kết quả đạt đợc có ý nghĩa rất to lớn ở nhiều mặt cả kinh tế và xã hội, nhng
hiệu quả còn thấp. Năm 1992 so với khu vực thành thị, tổng doanh thu bình
quân của một DNVVN ở nông thôn chỉ bằng 30%. Trung bình một doanh
nghiệp t nhân ở thành thị tạo ra đợc giá trị tăng thêm lớn hơn 2 lần so với loại
DNVVN này ở nông thôn, đối với doanh nghiệp hộ gia đình mức chênh lệch
này tới 3 lần. Đây là sự chênh lệch rất lớn giữa các DNVVN ở nông thôn so
với thành thị, làm cho một số DNVVN ở nông thôn sản xuất - kinh doanh kém
hiệu quả, nhiều lúc còn dẫn tới phá sản, không có khả năng thanh toán.
Sản phẩm của các DNVVN ở thành thị nói chung và ở khu vực nông thôn
nói chng mới chỉ đáp ứng đợc một cách hạn chế nhu cầu tiêu dùng liên tục
chất lợng cha ổn định, quy cách mẫu mã, chậm thích ứng với thị hiếu của ngời
tiêu dùng, nên chủ yếu phục vụ cho thị trờng tại chỗ : 66% tiêu thụ tại huyện;
21% tại xã, 12% tại làng. Chính vì vậy, mà sản phẩm làm ra kém sức cạnh
tranh, thị trờng tiêu thụ hạn chế, cuối cùng là hiệu quả sản xuất - kinh doanh
thấp, hoạt động chủ yếu là tự phát, không ổn định. Số DNVVN hoạt động

không thu đợc lãi hoặc bị phá sản trong những năm gần đây là 60% -
70%trong tổng số các DNVVN.
Điều này cho thấy, nhiều DNVVN đang ở trong tình trạng khó khăn. Bên
cạnh các yếu tố trợt giá do chất lợng sản phẩm thấp và tăng tỷ giá ngoại tệ và
việc phát triển chậm của nền kinh tế nói chung các DNVVN còn thiếu chủ
động trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tìm kiếm thị trờng tiêu thụ cũng
nh nguồn lực đầu vào.
b) Về vốn tài chính và tín dụng :
Trong những năm gần đây, tuy nguồn vốn chính thức ngày càng tăng,
năm 1991 : 7% trên tổng số vốn, năm 1995 : 50% trên tổng số vốn. Riêng
DNVVN ngoài quốc doanh chỉ đáp ứng 25% so với nhu cầu chủ yếu là vốn
ngắn hạn, khó có khả năng đầu t, chuyển hớng sản xuất - kinh doanh. Mọi
hoạt động sản xuất kinh doanh đều cần có vốn là chính. Qua sự vận động, luân
chuyển của vốn có thể bắt mạch đợc trạng thái hoạt động của các DNVVN.
Điều kiện về vốn của các DNVVN Việt Nam đang rất hạn hẹp và gặp rất
nhiều khó khăn có trên 58% DNVVN thiếu vốn điều kiện sự thiếu vốn của các
DNVVN đều rất khó, hạn hẹp, không đủ sức tài trợ cho các hoạt động sản
xuất - kinh doanh có chất lợng và hiệu quả đặc biệt đối với các DNVVN muốn
mở rộng, phát triển quy mô và đổi mới nâng cấp chất lợng công nghệ, sản
phẩm. Hạn chế tài chính đối với các DNVVN đợc bộc lộ qua sự không hoàn
thiện, không linh hoạt của thị trờng tài chính ở nớc ta, đặc biệt là hoạt động
Đề án kinh tế chính trị Ngô Anh Dũng
của hệ thống ngân hàng, các tổ chức tín dụng, khả năng hạn hẹp về tích tụ vốn
bên trong và huy động nguồn vốn ngoài doanh nghiệp. Phần lớn các DNVVN,
cơ sở sản xuất cá thể để đáp ứng nhu cầu tín dụng của mình, các DNVVN
phải vay vốn từ các tổ chức phi tài chính, thông t bạn bè, ngời thân với mức lãi
suất vay không chính thức gấp từ 3 đến 6 lần lãi suất của ngân hàng. Nớc ta
cha có những hình thức tín dụng chuyên cho các DNVVN nh ở Hàn Quốc,
Nhật Bản, Singapore, Inđônêxia, lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp còn
có sự phân biệt lớn. Năm 1991, lãi suất cho vay áp dụng thông thờng với

doanh nghiệp ngoài quốc doanh khoảng 4%, với doanh nghiệp Nhà nớc chỉ
khoảng 2,7%. Điều này cho ta thấy còn có sự u tiên, u đãi quá nhiều đối với
các DNVVN thuọc sở hữu Nhà nớc. Đến nay, lãi suất cho vay đối với tất cả
các DNVVN nói riêng và ccs doanh nghiệp nói chung đã thống nhất nhng các
DNVVN vay khó khăn hơn các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp ngoài quốc
doanh tức là doanh nghiệp không thuọc sở hữu của Nhà nớc vay khó khăn hơn
đối với các doanh nghiệp thuôcj sở hữu Nhà nớc. Do đó các DNVVN nói
chung có doanh nghiệp t nhân, hộ gia đình, cá thể có nguồn vốn rất nhỏ, trong
đó vốn cố định chiêm quá 2/3 tổng số vốn. Thiếu vốn là một khó khăn rất lớn
đối với các DNVVN, thiếu vốn dẫn tới hạn chế sản xuất - kinh doanh, chiếm
dụng vốn của nhau, nợ vòng vo, khó có khả năng thanh toán đúng hạn, làm
mất cả quyền mà cơ chế đề ra, thậm chí phải đóng cửa doanh nghiệp.
Khó khăn lớn nhất là vẫn cha tìm đợc tiếng nói chung giữa các ngân
hàng với các DNVVN. Về phía ngân hàng, vì mục tiêu lợi nhuận cao, an toàn,
ngân hàng thờng cho vay đối với các doanh nghiệp lớn có hiệu quả. Các thủ
tục xin vay vốn ngân hàng phải có thế chấp bằng tài sản cố định, nhng không
thừa nhận đất thuê mà phải là nhà cửa hoặc công trình xây dựng trên mảnh đất
đó, trong khi đó thủ tục về chuyển nhợng quyền sử dụng đất đai lại quá phức
tạp. Bên cạnh đó là yêu cầu về luận chứng kinh tế kỹ thuật chi tiết về phơng án
mà các DNVVN đầu t nên thời gian chờ đợi xét duyệt là rất lâu từ 3 tháng - 6
tháng. Nhng các DNVVN phần lớn thiếu tài sản thế chấp và khó xác định giá
trị của tài sản thế chấp nh : máy móc, thiết bị nhà xởng lạc hậu, lâu đời. Bên
cạnh đó, các DNVVN thờng yếu kém về tài chính, cha đủ những khoản vay có
bảo đảm chở cho một số ít các DNVVN vay. Nguyên nhân chính là các thủ
tục tín dụng ngân hàng trung hạn, dài hạn và ngắn hạn của ngân hàng và các
tổ chức tín dụng chính thức rất phức tạp, dẫn đến chi phí giao dịch cao, làm
cho những khoản tín dụng này trở nên quá tốn kém đối với DNVVN. Bên
cạnh đó, những quy chế về việc ký quỹ và các dự án đầu t quá cứng nhắc làm
Đề án kinh tế chính trị Ngô Anh Dũng
cho nhiều doanh nghiệp trong hệ thống DNVVN không thể đáp ứng đợc khi

muốn vay tín dụng từ các tổ chức tài chính, trong khi các DNVVN lại đợc
muốn việc ký quỹ.
Một tình trạng không kém phần quan trọng là thị trờng vốn dài hạn, thị
trờng chứng khoán về cơ bản ở nớc ta cha có. Và nếu có thì điều kiện tham gia
thị trờng chứng khoán của các DNVVN Việt Nam là hết sức khó khăn, hiếm
hoi và các DNVVN sẽ bị loại ra khỏi cuộc chơi. Đồng thời, khả năng và điều
kiện tiếp cận các nguồn vốn trên thị trờng tín dụng đối với các DNVVN ở nớc
ta còn bị hạn chế và gặp khó khăn lớn là do: không đủ tài sản thế chấp, mức
lãi suất cho vay còn quá cao so với lợi nhuận mà các DNVVN thu đợc khối l-
ợng mà các DNVVN vay đợc là rấ ít, thời gian cho vay quá ngắn. Đặc biệt đối
với khu vực nông thôn còn nghèo nàn và đơn điệu và thực hiện pháp lý không
cao thì tình trạng này lại diễn ra mạnh hon và càng làm cho DNVVN ở nông
thôn ảnh hởng lớn đến việc huy động nguồn vốn cố định và nguồn vốn lu
động. Những khó khăn đó rất cần đợc giải quyết tháo gỡ để tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh và phát triển cuả các DNVVN.
c. Về thị trờng :
Một vấn đề nan giải chung đối với các cơ sở sản xuất - kinh doanh quy
mô nhỏ và luôn đặc biệt là đối với quy mô nhỏ là thiếu chiến lợc về thị trờng,
kế hoạch sản xuất - kinh doanh không bài bản vì các doanh nghiệp này đã
quen theo kiểu hoạt động đánh quả nền văn minh kinh doanh với nền kinh
doanh chân chính cha đợc tập lập. Điều này phụ thuộc vào tình hình phát triển
của đất nớc vào nhận thức của các chủ doanh nghiệp, ở đây còn có khả năng
yếu tố vợt quá khả năng của các chủ doanh nghiệp và họ thiếu thông tin về thị
trờng, thiếu các tổ chức dịch vụ, dịch vụ t vấn về thông tin thị trờng, thiếu các
hiệp hội t vấn và hỗ trợ của chính họ sản xuất và gắn liền với nó là thực hiện
nửa cơ khí, cơ khí hoà toàn phần, toàn bộ quá trình sản xuất. Nhng do nguồn
vốn tài chính bị giới hạn không cho phép các doanh nghiệp có thể tự mình, đỏi
mới cũng nh áp dụng mạnh mẽ công nghệ kỹ thuật tiên tiến. Vì vậy, tỉ lệ đổi
mới trang thiết bị cũng rất thấp, chỉ khoảng 10%/năm tính theo vốn đầu t.
Điều này cho thấy trình độ về thiết bị công nghệ, kỹ thuật của các DNVVN

vẫn thấp và còn lạc hậu so với trung bình của thế giới. Lý do xuất phát từ việc
vốn đầu t của các DNVVN rất thấp so với các DNVVN, các DNVVN rất khó
có thể vay đợc một khoản tín dụng trung và dài hạn cần thiết để đầu t nâng
cấp công nghệ. Chính vì những nguyên nhân đó nên khoảng gần 50% sô
doanh nghiệp nhỏ ở nông thôn chỉ sử dụng công cụ cầm tay ; 15,8% sử dụng
công cụ nửa cơ giới, hơn 35,5% có sử dụng máy chạy điện. ở miền Bắc tỷ lệ
Đề án kinh tế chính trị Ngô Anh Dũng
số doanh nghiệp nhỏ sử dụng công cụ cầm tay cao hơn ở miền Nam. Gần đây
một số cơ sở có vốn đã nhập máy móc, thiết bị của nớc ngoài nhng chủ yếu là
máy do công nghiệp địa phơng của Trung Quốc sản xuất trình độ công nghệ
và kỹ thuật sản xuất còn hạn chế, nên các doanh nghiệp vẫn chủ yếu dựa vào
nguồn máy móc thải loại của công nghiệp thành thị hoặc tự chế tự dùng.
Ngoài khó khăn về khả năng đầu t của bản thân các doanh nghiệp, sự bất hợp
lý trong hệ thống đầu t, cung ứng và quản lý điện ở nông thôn cũng là một
trong những nguyên nhân trực tiếp làm cản trở quá trình phát triển của các
doanh nghiệp nhỏ. Nhiều doanh nghiệp có điều kiện sử dụng điện nhng vẫn
dùng công cục cầm tay hoặc nửa cơ giới. Ví dụ : ở Hải Phòng qua điều tra số
DNVVN có điện chiếm tới 87% nhng số doanh nghiệp sử dụng máy chạy điện
chỉ có 43,5%, nguyên nhân chủ yếu alf do không ổn định về giá và chất lợng
điện.
Nhìn chung, trình độ kỹ thuật và công nghệ sản xuất của các DNVVN
nói chung và đặc biệt là các DNVVN ở nông thôn còn đang ở mức rất thấp,
phần lớn đang nằm trong giai đoạn chuyển từ lao động thủ công sang sản xuất
cơ giới và chủ yếu nhận chuyển giao những thiết bị và công nghệ truyền thống
hoặc thải loại của công nghiệp quốc doanh, của công nghiệp đo thị hoặc công
nghệ lạc hậu của nớc ngoài mà chủ yếu là của Trung Quốc ; hiệu quả và trình
độ sử dụng thiết bị nói chung còn thấp, hệ số sử dụng nguyên liệu thấp, năng
suất của các thiết bị máy móc và lao động, chất lợng sản phẩm thấp hơn so với
các nớc trong khu vực và trên thế giới.
Do sự bất lợi rất lớn đối với các doanh nghiệp lớn nên so với các doanh

nghiệp lớn trong nớc cũng nh các doanh nghiệp liên doanh thì các DNVVN
rất khó tiếp cận với thị trờng công nghệ máy móc và thiết bị quốc tế do họ
thiếu thông tin về thị trờng này thiếu vốn để đổi mới công nghệ. DNVVN
cũng khó tiếp cận với những dịch vụ t vấn hỗ trợ của các tổ chức,Nhà nớc
trong việc xác định công nghệ, máy móc, thiết bị thích hợp và hiệu quả, giúp
họ cải tiến sản xuất và nâng cao sức cạnh tranh và phù hợp với cơ chế thị trờng
trong nớc và ngoài nớc.
e. Về kiến thức và tay nghề của lực lợng lao động.
Trình độ tri thức và tay nghề của lực lợng lao động làm việc trong các
doanh nghiệp cũng rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của chúng.
Những ngời có tri thức, tay nghề cao, kỹ năng thành thạo, lao động lành nghề
sẽ sử dụng tốt các loại thiết bị công nghệ, có trình độ cao, phức tạp, tiếp thu áp
dụng tốt các loại thiết bị công nghệ tiên tiến hiện đại, làm ra những sản phẩm
đẹp, có chất lợng, với năng suất và hiệu quả cao.
Đề án kinh tế chính trị Ngô Anh Dũng
Nhng đội ngũ lao động hiện có trong các DNVVN, phần đông có trình
độ văn hoá cấp IV chiếm từ 40 - 45%, số có trình độ văn hoá phổ thông trung
học cũng chiếm một tỷ trọng khá từ 20 - 30% và số có trình độ tiểu học và cha
biết chữ còn chiếm tỷ trọng khá lớn (25 - 30%). Nhng về trình độ tay nghề, kỹ
thuật của những ngời lao động trong các DNVVN hiện rất thấp, đặc biệt ở khu
vực nông thôn. Số lao động có tính chất phổ thông, có trình độ tay nghề giản
đơn, cha đợc đào tạo qua các trờng dạy nghề, bình quân chiếm khoảng 60 -
70% trong tổng số lực lợng lao động của các DNVVN. Do tỷ lệ lực lợng lao
động trong các DNVVN có trình độ tay nghề thấp nên sản phẩm sản xuất ra
có chất lợng không cao, số lợng sản phẩm không nhiều, mẫu mã ít, khó cạnh
tranh với các mặt hàng của các doanh nghiệp lớn.
Bên cạnh đó trình độ tay nghề của lực lợng lao động thấp sẽ làm cho việc
sử dụng máy móc công nghệ không có hiệu quả cao, hạn chế năng suất tạo ra
sản phẩm. Đặc biệt là đối với lực lợng lao động làm việc trong các DNVVN ở
nông thôn, đa sốđợc đào tạo nghề chính quy chỉ chiếm khoảng 10% nên gặp

rất nhiều khó khăn và hạn chế trong việc sử dụng máy móc thiết bị và công
nghệ của doanh nghiệp. Đó cũng là một khó khăn đối với việc phát triển mạnh
mẽ các DNVVN hiện nay ở nớc ta.
f. Về kiến thức và tay nghề của lực lợng quản lý.
Sự hoạt động sản xuất kinh doanh trên thơng trờng với sự cạnh tranh
khốc liệt đầy cam go, đòi hỏi các chủ doanh nghiệp phải có trình độ kiến thức
cao, năng lực quản lý giỏi mới có thể thành đạt trong điều kiện, đa doanh
nghiệp của mình ngày một phát triển. Mỗi chủ doanh nghiệp phải biết thu
thập, tổng hợp, phân tích, đánh giá các loại thông tin kinh tế, kỹ thuật biết đề
ra những chiến lợc đúng đắn và đa ra những quyết định sán suốt, kịp thời.
Đồng thời chủ doanh nghiệp phải biết quản lý, giám sát, điều khiển công việc
của những ngời lao động làm việc cho mình một cách hợp lý, có hiệu quả,m
biết đánh giá, động viên, khuyến khích, thởng phạt và trả công chính xác, tơng
xứng với những đóng góp của họ vào kết quả chung của doanh nghiệp.
Nhìn lại đội ngũ các chủ DNVVN ở nớc ta hiện nay cho thấy họ còn có
nhiều bất cập, khó khăn, hạn chế với đòi hỏi của kinh doanh trong thơng trờng
hiện đại. Đại đa số các chủ doanh nghiệp chỉ có trình độ kiến thức văn hoá
phổ thông cấp II chiếm từ 45 - 50%, một số không ít nhiều có trình độ văn hoá
phổ thông trung học, cao đẳng và đại học (30 - 35%), còn một bộ phận đáng
kể có trình độ văn hoá cấp tiểu học chiếm từ 10 - 15%. Chỉ có rất ít chủ doanh
nghiệp (2 - 3%) của các DNVVN đợc đào tạo kiến thức quản lý chính quy,
một sôits từ 20- 30% đợc tập huấn, đào tạo ngắn hạn đợc 6 tháng tại các trung
Đề án kinh tế chính trị Ngô Anh Dũng
tâm kinh tế, tài chính, thơng mại, còn đại bộ phận các chủ doanh nghiệp chỉ
quản lý và điều hành doanh nghiệp của mình bằng kinh nghiệm học hỏi đợc.
Việc phân cấp quản lý các doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói
riêng, theo ngành và địa phơng tỏ ra không phù hợp với xu thế vận động của
nền kinh tế thị trờng, dẫn đến việc bất bình đẳng trong việc huy động vốn và
lựa chọn lĩnh vực sản xuất - kinh doanh. Việc quản lý các DNVVN ngoài
quốc doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ thì vừa buông lỏng vừa phức tạp

và tùy thuộc vào từng địa phơng. Cơ quan quản lý và cán bộ quản lý cha thật
sự đổi mới kịp với quá trình phát triển của DNVVN, kinh nghiệm quản lý theo
định hớng thị trờng hiện đại vẫn còn thiếu. Cha có sự hỗ trợ tài chính của Nhà
nớc trong việc đào tạo công nhân cho các doanh nghiệp. Các trờng đào tạo
quản lý kinh doanh, quản lý và pháp luật thiên hẳn về việc tiếp cận lý thuyết
hơn là thực hành.
g. Về mặt bằng kinh doanh của các doanh nghiệp :
Điều kiện mặt bằng cho sản xuất - kinh doanh của các DNVVN nhìn
chung hiện đang rất chật hẹp và gặp nhiều khó khăn trong việc tập lập và mở
rộng mặt bằn, do cơ chế chính sách cha thích hợp và khả năng tài chính hạn
chế của các doanh nghiệp. Đa số các doanh nghiệp phải thuê mợn lại mặt
bằng của các doanh nghiệp Nhà nớc, hoặc phải dùng nơi ở để cấp cho các
DNVVN không đảm bảo chất lợng, thờng hay có sự cố. Hệ thống xử lý nớc và
chất thải khác của các DNVVN hầu nh không có, nếu có thì rất thô sơ, lạc
hậu, gây tác hại rất lớn tới môi trờng sống xung quanh nói riêng và môi trờng
tự nhiên nói chung.
Các điều kiện về kho bãi, đờng xá trong và ngoài doanh nghiệp, nhất là
hệ thống giao thông công cộng phục vụ cho sản xuất - kinh doanh, giao lu
hàng hoá của các doanh nghiệp trong cả nớc nói chung, ở khu vực nông thôn
nói riêng (khu vực mà các DNVVN đang và sẽ có địa bàn hoạt động chiếm u
thế) đang rất hạn chế về mật độ và độ rộng của lòng đờng, thấp kém về chất l-
ợng cầu cống, nền và mặt đờng, cũng nh sự thiếu thốn về bến bãi. Chúng ảnh
hởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và của
hệ thống DNVVN nói riêng của nớc ta.
Bên cạnhđó các DNVVN gặp nhiều khó khăn trong việc đợc cấp quyền
sử dụng đất hoặc họ gặp khó khăn khi thuê đất làm trủ và nhà máy để sản
xuất. Nguyên nhân là các thủ tục để đợc cấp quyền sử dụng đất là không rõ
ràng và thờng không công nhận đối với các DNVVN. Đặc biệt, trong trờng
hợp đất công nghiệp, các quyền bán, mua, chuyển nhợng và cầm cố quyền sử
dụng đất để ký quỹ vẫn còn cha đợc chấp nhận. Trong cuộc điều tra 452 dự án

Đề án kinh tế chính trị Ngô Anh Dũng
đầu t mới năm 1997 chỉ có 17 dự án thuộc khu vực t nhân, cũng do những khó
khăn trong việc chứng nhận quyền sử dụng đất hợp háp nên còn tồn tại một thị
trờng đất đai đáng kể hoạt động một cách không chính thức và bất hợp pháp
làm ảnh hởng tới quá trình hình thành các DNVVN mới với quy mô lớn hơn.
h. Về khả năng tiếp cận thông tin của hệ thống thông tin.
Hệ thống thông tin và khả năng tiếp cậnthông tin, nhất là thông tin về thị
trờng, giá cả công nghệ, sản phẩm là hết sức quan trọng đối với hoạt động sản
xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và các doanh
nghiệp nói chung. Hệ thống thông tin ở nớc ta hiện nay mặc dù đã phổ biến
rộng rãi hơn trớc, các phơng tiện thông tin tơng đối phong phú và hiện đại ph-
ơng pháp thu thập và cung cấp thông tin có nhiều tiến bộ. Song nhìn chung,
tính chất nhanh nhạy, kịp thời, chính xác và đầy đủ, hoàn thiện của hệ thống
thông tin cha đáp ứng đợc những yêu cầu của sản xuất - kinh doanh trong điều
kiện của thị trờng và cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đặc biệt
đối với các DNVVN. ở khu vực nông thôn và doanh nghiệp ở những khu vực
không thuận lợi về thông tin các DNVVN không có bộ phận chuyên trách về
thu thập và xử lý thông tin. Nguồn vốn tài chính có hạn, chúng không đủ kinh
phí để mua sắm các thiết bị phục vụ công tác thông tin nhanh chóng kịp thời
nói riêng và chi phí cho các hoạt động tiếp cận, thu thập và xử lý thông tin nói
chung. Trình độ tri thức và năng lực thu thập, xử lý thông tin của các chủ
DNVVN còn rất hạn chế và gặp nhiều khó khăn. Chính sự khó khăn của việc
cập nhật - thông tin của các DNVVN đã làm ảnh hởng tới quá trình sản xuất
và kinh doanh của các DNVVN, đặc biệt là thông tin về thị trờng sản phẩm
quá trình tạo lập vốn và quá trình tìm kiếm thị trờng.
i. Về hệ thống chính sách và pháp luật Nhà nớc.
Hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà nớc tác động tới toàn bộ mọi
mặt hoạt động trong đời sống xã hội, trong đó có sự hình thành và phát triển
của các DNVVN. Tuy nhiên, hệ thống chính sách và văn bản pháp luật cha
đồng bộ, một số văn bản pháp luật đã ban hành nhng cha đợc thực hiện tốt.

Mặc dù đã có Luật khuyến khích đầu t trong nớc nhng quá trình thực hiện còn
gặp rất nhiều khó khăn, điều đó ảnh hởng không nhỏ đến sự phát triển của các
doanh nghiệp, đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thực tiễn chỉ ra
rằng khi Nhà nớc ban hành luật đầu t nớc ngoài tại Việt Nam vào năm1988 thì
số dự án đợc thực hiện nhiều hơn trớc nhng còn nhiều hạn chế, khó khăn về
vốn, công nghệ.
Một số chính sách tay đã ban hành, nhng vẫn cha đi vào cuộc sống, vì có
sự mâu thuẫn hoặc thiếu đồng bộ giữa các khâu, điều đó không những ảnh h-
Đề án kinh tế chính trị Ngô Anh Dũng
ởng đến sự phát triển của DNVVNmà còn ảnh hởng đến sự giám sát, kiểm
soát của Nhà nớc.
Một văn bản pháp luật, chính sách ra đời đều xuấ phát từ tình hình thực
tiễn của đất nớc, từ những vấn đề vĩ mô để điều chỉnh hoạt động sản xuất -
kinh doanh của vi mô, theo hớng tích cực của các quy luật - kinh tế thị trờng.
Nhng không ít văn bản, pháp luật, chính sách ra đời đã không thực hiện tốt nh
pháp lệnh, kế toán và thống kê pháp lệnh bảo hộ lao động có nhiều lý do
khác nhau để giải thích vấn đề trên, nhng có thể khái quát thành 3 lý do chủ
yếu sau đây :
+ Luật pháp chính sách còn có nhiều điểm xa vời với điều kiện thực tế
của các DNVVN nếu thực hiện một cách nghiêm túc, DNVVN khó có điều
kiện tồn tại và phát triển. Nh luật thuế các luật thuế đánh chồng chéo nhau,
không có sự phân biệt theo quy mô lớn, nhỏ.
+ ý thức tự giác trong cuộc thực hiện luật lệ, chế độ, chính sách của Nhà
nớc đối với DNVVN điển hình là doanh nghiệp t nhân, còn hạn chế, hiện tợng
đăng ký kinh doanh một đằng sản xuất - kinh doanh một nẻo.
+ Tổ chức thực hiện pháp luật cha tốt, Nhà nớc đã ban hành luật, chế độ,
chính sách tuy cha thật hoàn chỉnh, đồng bộ song cũng đã tạo ra đợc môi tr-
ờng pháp lý cần thiết, tối thiểu, nhng không ít DNVVN tồn tại và phát triển là
nhờ các hoạt động ngoài khuôn khổ pháp luật. Rõ ràng là thiếu một bộ máy tổ
chức thực hiện có hiệu lực.

Chính sách bảo hộ mậu dịch của Nhà nớc có những bất hợp lý, thể hiện ở
thuế xuất nhập khẩu. Trong quá trình tìm kiếm thị trờng, DNVVN luôn ở tình
thế bất lợi hơn các doanh nghiệp lớn nhng với chính sách xuất, nhập hiện nay
quy định doanh số 2 triệu USD/năm, đối với xí nghiệp và 20 triệu USD/năm
đói với Công ty mới đợc trực tiếp xuất, nhập khẩu thì các DNVVN khó có thể
đủ vốn để thực hiện xuất, nhập khẩu trực tiếp, đặc biệt là khu vực ngành nghề
truyền thống.
Bên cạnh đó hệ thống tổ chức quản lý kiểm soát của Nhà nớc đã không
có sự thống nhất chồng chéo lên nhau, nhiều khi còn đổ lỗi cho nhau làm ảnh
hởng tới các hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNVVN nói riêng và hệ
thống doanh nghiệp nói chung. Điều này đòi hỏi phải có sự đổi mới, hoàn
thiện hơn nữa hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà nớc để tạo điều kiện
thúc đẩy mạnh mẽ sự hình thành và phát triển của các DNVVN.
III. Đổi mới cơ chế chính sách đối với DNVVN.
1. Cần hoàn thiện hơn nữa hệ thống các văn bản pháp luật hiện
hành có liên quan tới loại hình kinh doanh này.

×