Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

thực trạng và thách thức của việt nam trong việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.07 KB, 22 trang )

A - Phần mở bài
I. Tình hình Việt Nam nói chung và nền kinh tế nói riêng.
Trải qua mấy nghìn năm lịch sử xây dựng và bảo vệ, đất nớc ta đã có
những bớc thăng trầm trên con đờng phát triển. Gần đây nhất hai cuộc
chiến tranh chống Pháp, Mỹ và chiến tranh biên giới 1979 của dân tộc ta
diễn ra hết sức khốc liệt. Tuy đã đổi mới song hậu quả của nó để lại không
nhỏ : tái tạo cơ sở vật chất, chế độ bao cấp bất ổn, thơng binh, trình độ tri
thức N ớc ta hội nhập kinh tế là xuất phát từ mục tiêu kinh tế - xã hội
trong quá trình phát triển, bao gồm sự lựa chọn chế độ xã hội theo định h-
ớng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện bằng đờng
lối, chính sách và hệ thống pháp luật chặt chẽ, theo phơng châm : dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra hay dân giàu, nớc mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Tình hình chính trị hiện nay khá ổn định tuy có
một vài vụ rắc rối nhỏ, nhng chúng ta không đợc chủ quan khi mà bọn phản
động cấu kết âm mu lật đổ thờng trực. Sự tồn tại của một quốc gia không
thể thiếu yếu tố kinh tế. Tình hình đất nớc ta hiện nay đã thoát khỏi chế độ
bao cấp, nền kinh tế lạc hậu và chuyển sang nền kinh tế thị trờng. Do đó nó
mang tính cạnh tranh cao, công cụ quản lý nền kinh tế của chính phủ cũng
rất đa dạng phù hợp với thời kỳ mở cửa. Thực tiễn của công cuộc đổi mới
cơ chế kinh tế và cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, cũng nh mở cửa để hội
nhập quốc tế trong gần 15 năm qua cho thấy nền tảng của độc lập, tự chủ,
an ninh xã hội và thực hiện định hớng XHCN. Có thể liệt kê : tốc độ tăng tr-
ởng kinh tế khá cao, bình quân GDP hàng năm (thời kỳ 1991 - 1995) là
8,2%, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu cao gấp 2 - 3 lần tốc độ tăng GDP,
du lịch và dịch vụ quốc tế tăng nhanh chóng, Chúng ta đang b ớc vào giai
đoạn quá độ lên XHCN từ điểm xuất phát thấp, nền kinh tế nhỏ, tự cấp tự
túc, tình trạng phổ biến của tái sản xuất giản đơn, lực lợng sản xuất lạc
hậu cản trở tới sự phát triển và tăng tr ởng kinh tế. Tuy nhiên chúng ta
cũng đợc sự giúp đỡ tích cực của bạn bè quốc tế về vốn, công nghệ, quản lý,

II.Tình hình thế giới.


Mặt khác cả thế giới vừa thoát khỏi hai cuộc chiến tranh (chiến tranh
thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai) và nguy cơ một cuộc chiến tranh hiện
đại, công nghệ cao : chiến tranh hạt nhân, vũ khí sinh học, chiến tranh ảo,
Đặc biệt là chiến tranh sắc tộc (nh cuộc chiến sắc tộc tôn giáo ở ấn Độ,
Inđônêxia ) và âm m u can thiệp nội bộ, đứng đầu là đế quốc Mỹ. Có một
số vấn đề phải giải quyết đối với thế giới đó là gì ? dân số, nớc sạch, thu
nhập, rất nhiều điều phải làm. Hãy xem xét thuận lợi và khó khăn sau :
thuận lợi là xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá phát triển ngày càng nhanh,
khoa học công nghệ phát triển tác động rất lớn đến kinh tế. Còn khó khăn
đó là nạn suy thoái môi trờng đe dọa đời sống con ngời và thiên nhiên,
bùng nổ dân số (Trung Quốc và ấn Độ, hai quốc gia đứng đầu thế giới về
dân số), nghèo đói, sự lộng hành của các tập đoàn kinh tế lớn (ban đầu sở
tài chính ) có ảnh h ởng rất lớn đến kinh tế và chính trị các nớc (tỷ lệ phát
triển kinh tế không đồng đều, bất ổn định).
Sự tiến bộ khoa học không chỉ một gia hay một khu vực đợc hởng thụ
mà toàn thể nhân loại đợc hởng, có điều sự phân phối lợi ích không đồng
đều và không công bằng. Nhiệm vụ đặt ra cho chúng ta là phải tạo ra sự
công bằng, đa tiến bộ khoa học và sự hởng thụ văn hoá tinh thần đến tất cả
mọi ngời mà vẫn đảm bảo đợc bản sắc dân tộc. Đó là một số vấn đề cần lý
luận trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của mỗi quốc gia, trong đó có
Việt Nam.
B - Phần thân bài
I. Một số vấn đề lý luận về hộinhập kinh tế quốc tế.
1. Nói đến kinh tế quốc tế phải đề cập đến vấn đề toàn cầu hoá.
Vậy toàn cầu hoá là gì ? Nó có phải là quá trình tất yếu khách quan
không ?
Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan. Trong hơn một thập
kỷ lại đây xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới có sự gia tăng mạnh mẽ
gắn liền với sự phát triển của khoa học - công nghệ sự chấm dứt chiến tranh
lạnh, thế giới chuyển sang thời kỳ mới hoà bình, hợp tác xã phát triển. Sự

gia tăng này đặt ra yêu cầu khách quan đòi hỏi các quốc gia phải có chiến l-
ợc hội nhập phù hợp vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Trong bối cảnh
này không thể phát triển nếu nh không mở cửa hội nhập. Tuy vậy hội nhập
cũng có mặt đợc, mặt mất : Cơ hội phát triển kinh tế cho các nớc nghèo nh-
ng cũng kéo theo hàng loạt rắc rối, khó khăn trong xu thế ấy. Việt Nam
đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN. Việc hội
nhập vào trào lu nền kinh tế thế giới và khu vực là một nội dung quan trọng
trong công cuộc đổi mới hiện nay. Do vậy việc tìm hiểu, nghiên cứu bản
chất của toàn cầu hoá có ý nghĩa cả lý luận lẫn thực tiễn. Sự nhìn nhận,
đánh giá về toàn cầu hoá trên nhiều phơng diện thông tin trong những năm
gần đây cha hoàn toàn thống nhất, thậm chí trái ngợc nhau. Có rất nhiều
quan điểm khác nhau về tên gọi : thế giới hoá, quốc tế hoá, hội nhập vào
nền kinh tế toàn cầu, Điều này cho thấy những cách lý giải và thái độ
không giống nhau đối với xu thế này. Có quan điểm cho rằng toàn cầu hoá
chỉ mới xuất hiện gần đây, là chính sách của Mỹ nhằm bành trớng quyền
lực và thống trị thế giới theo kiểu Mỹ. quan điểm này không chỉ tồn tại ở
các nớc đang phát triển mà còn ở chính các nớc phát triển : Nhật, Sau
chiến tranh lạnh, thế giới vận động theo trật tự đa cực với một siêu cờng là
Mỹ. Với sức mạnh của mình, Mỹ đang đóng vai trò chi phối bàn cờ thế
giới. Điều này đợc chứng minh rất rõ : suốt những thập kỷ sau chiến tranh
thế giới thứ hai Mỹ luôn chiếm 30% GDP thế giới, là một trong hai siêu c-
ờng hạt nhân thế giới hay một sự kiện điển hình : cuộc khủng hoảng kinh tế
1933 làm giảm tỷ lệ tăng trởng GDP của Mỹ mất 2% (tơng đơng với thiệt
hại 200 tỷ USD, trong đó tổng GDP của Mỹ khoảng 10.000 tỷ USD) bằng
tổng GDP của mấy chục nớc đang phát triển. Trong lĩnh vực kinh tế, Mỹ
thao túng các định chế kinh tế toàn cầu, đòi các quốc gia phải mở rộng thị
trờng. Toàn cầu hoá là chính sách của Mỹ, là Mỹ hoá bởi Mỹ đang giữ vai
trò bá chủ chi phối phần quan trọng trong các hoạt động quan hệ kinh tế
quốc tế. Toàn cầu hoá biểu hiện trớc mắt hết ở sự gia tăng của tự do hoá
trong lu chuyển các loại hàng hoá, vốn, công nghệ và lao động. Nguyên

nhân của sự vợt quá cản trở hàng rào biên giới này chính là sự phát triển
mạnh mẽ của lực lợng sản xuất. Việc giao lu giữa các vùng đặt ra nhiều cơ
hội cho phát triển sản xuất kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận, đặc biệt là mở
rộng giao tiếp và mở rộng thị trờng. Sự phát triển của chủ nghĩa t bản
(CNTB) nh Mác đã chỉ ra luôn bị giới hạn bởi thị trờng và nguyên liệu.
Việc phát triển vợt bậc của lực lợng sản xuất trong CNTB so với các xã hội
trớc đó cũng chính là cơ sở, điều kiện cho quá trình bành trớng ra bên
ngoài. Sự hình thành và phát triển của CNTB mà dẫn đến nảy sinh quan
niệm về quốc tế hoá trớc kia và toàn cầu hoá ngày nay là xu thế lớn của sự
vận động của nền kinh tế thế giới do các nớc t bản đứng đầu là Mỹ. Nguồn
gốc này là do sự cạnh tranh lợi ích, sự chiếm lĩnh độc quyền trong lĩnh vực
nào đó. Quốc tế hoá, toàn cầu hoá thực chất không phải là chủ trơng của
một quốc gia nào. Thực ra nhu cầu về tự do hoá và hội nhập đợc đẩy đến
bởi sự phát triển của lực lợng sản xuất do chính CNTB tạo ra. Cũng có loại
quan điểm thừa nhận tính tất yếu khách quan của quốc tế hoá, toàn cầu hoá.
Toàn cầu hoá, xét về bản chất, là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối
liên hệ, sự ảnh hởng, tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các
khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên toàn thế giới
(1)
. Toàn cầu hoá nh
(1)
Tạp chí cộng sản số 22
vậy là một quá trình phản ánh sự phát triển mạnh mẽ của lực lợng sản xuất,
kéo theo đó là sự gia tăng các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau ở cấp độ
toàn cầu. Có ý kiến nhấn mạnh khía cạnh phát triển của lực lợng sản xuất,
xem toàn cầu hoá là giai đoạn cao của quá trình phát triển lực lợng sản xuất
thế giới. Toàn cầu hoá ngày nay về bản chất chính là sự tăng trởng của hoạt
động kinh tế nói chung đã vợt khỏi biên giới quốc gia. Nói cách khác toàn
cầu hoá mang nội dung chủ đạo là toàn cầu hoá kinh tế. Thực tế cha một
quốc gia nào thực sự tự do hoá nền kinh tế toàn cầu, bởi toàn cầu hoá là

hiện tợng cực kỳ phức tạp, đầy mâu thuẫn. Toàn cầu hoá là một trong
những biểu hiện, một bộ phận tổ thành của quá trình tự nhiên đi tới chủ
nghĩa cộng sản - cộng đồng toàn thế giới của những ngời lao động tự do và
phát triển toàn diện
(2)
.
Bản chất của toàn cầu hoá là hệ thống kinh tế thị trờng, không bị giới
hạn bởi các đờng biên giới, ranh giới dân tộc, tôn giáo Phải chăng toàn
cầu hoá chính là phơng cách, con đờng, một giai đoạn tất yếu phải qua để đi
lên CNXH. Điều này có liên quan mật thiết đối với Việt Nam mối quan hệ
phụ thuộc lẫn nhau bởi : Toàn cầu hoá là sự gia tăng mạnh mẽ các mối quan
hệ gắn kết tác động phụ thuộc lẫn nhau, là quá trình mở rộng quy mô và c-
ờng độ hoạt động giữa các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên phạm vi
toàn cầu trong sự vận động phát triển. Quốc tế hoá, toàn cầu hoá là một quá
trình, vì vậy mà khác với các vấn đề toàn cầu. Sự tham gia vào quá trình
quốc tế hoá, toàn cầu hoá chính là thực hiện hội nhập quốc tế. Toàn cầu hoá
là một xu hớng bao gồm nhiều phơng diện : kinh tế, chính trị, văn hoá, xã
hội. Quốc tế hoá, toàn cầu hoá đó phải là phản ánh quy mô các hoạt động
liên quốc gia, song toàn cầu hoá có thực sự theo một chiều hớng tốt ? có
đảm bảo một cuộc sống mới, tốt đẹp hơn cho cộng đồng thế giới ? bởi bản
chất của các hoạt động kinh tế này ra sao, chúng ta cha hiểu rõ ?
Toàn cầu hoá (về kinh tế) là tự do hoá kinh tế và hội nhập quốc tế : th-
ơng mại, dv, Vậy thì toàn cầu hoá kinh tế là gì ? Có ý kiến nêu toàn cầu
(2)
Tạp chí Kinh tế thế giới sô 2
hoá kinh tế là những mối quan hệ kinh tế vợt qua biên giới quốc gia, vơn tới
quy mô toàn thế giới, đạt trình độ và chất lợng mới. Các quốc gia dù muốn
hay không dần dần đều buộc phải hội nhập vào các tổ chức kinh tế khu vực
và toàn cầu, phải có chiến lợc và chính sách tích ứng với quá trình toàn cầu
hoá. Vấn đề đặt ra từ quan niệm này là tự do hoá kinh tế kiểu nào, trên cơ

sở nào ? Hội nhập và cam kết với ai, cam kết cái gì ? Phải chăng chúng ta
cứ chấp nhận, cam kết những điều kiện đang tồn tại, có bảo đảm hội nhập
mà không bị hoà tan, Có rất nhiều quan niệm về vấn đề này, nh OECD
cho rằng : Toàn cầu hoá kinh tế là sự vận động tự do của các yếu tố sản
xuất hay quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cho rằng : Toàn cầu hoá là sự gia tăng
không ngừng các luồng mậu dịch, vốn, kỹ thuật, Chúng ta có thể đúc kết
qua nhận định của một số chuyên gia kinh tế : Toàn cầu hoá kinh tế chính
là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vợt qua mọi biên giới
quốc gia, khu vực, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong
sự vận động phát triển hớng tới một nền kinh tế thế giới thống nhất. Sự gia
tăng của xu thế này đợc thể hiện ở sự mở rộng mức độ và quy mô mậu dịch
thế giới, sự lu chuyển của các dòng vốn và lao động trên phạm vi toàn cầu.
Sự thực toàn cầu hoá là hiện tợng phức tạp, chứa đựng rất nhiều mâu thuẫn
trong nó.
2. Chúng ta thử đi sâu phân tích cơ sở khách quan của xu thế toàn
cầu hoá.
Trớc hết đó là sự phát triển cao của lực lợng sản xuất : thời phong kiến
lực lợng sản xuất và giao thông kém phát triển cho nên hoạt động trao đổi,
sản xuất chỉ giới hạn trong phạm vi hẹp. Mác và Ăngghen viết Đại công
nghiệp đã tạo ra thị trờng thế giới
Trong thời kỳ đầu quá trình quốc tế hoá, các hoạt động kinh tế giữa
các quốc gia mang nặng tính chất phụ thuộc một chiều. Các quóc gia phát
triển hơn thờng đàn áp các nớc kém (Anh, Mỹ, Pháp ) và giành cho
mìnhmột khu vực và thị trờng kinh tế riêng. Tuy vậy sự phát triển mạnh mẽ
của lực lợng sản xuất cùng với ý thức độc lập đã đa lại sự phát triển mới của
phân công lao động. Các quốc gia trớc kia vốn phụ thuộc, là thuộc địa của
các đế quốc, nay giành đợc độc lập đã tham gia vào quá trình phân công lao
động quốc tế. Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai gắn liền với sự phát triển
của phong trào giải phóng dân tộc là hiện tợng khoa học phát triển mạnh
mẽ và ngày càng trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp. Nó đã đợc nhanh

chóng áp dụng vào sản xuất, thúc đẩy phân công lao động phát triển lên
một bớc mới. Dới sự tác động của khoa học công nghệ các ngành kinh tế
truyền thống dần những bớc cho các ngành đại diện cho tiến bộ khoa học
kỹ thuật : mạng máy tính quốc tế Internet, truyền hình cáp, khám phá vũ
trụ, tóm lại chính sự phát triển nh vũ bão của khoa học kỹ thuật đã làm
phá vỡ hàng rào ngăn cản địa giới, thúc đẩy quốc tế hoá kinh tế lên một thời
kỳ mới. Thứ hai là sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trờng : quá trình
quốc tế hoá, toàn cầu hoá có sự gắn bó chặt chẽ với tiến trình phát triển
kinh tế thị trờng. Kinh tế thị trờng càng phát triển thì phân công lao động
càng sâu sắc. Sự phát triển của kinh tế thị trờng đã mở ra điều kiện cho sự
phát triển mạnh mẽ của sức sản xuất, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hớng công nghiệp hoá. Lợi ích đem lại của kinh tế thị trờng
: tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của lực lợng sản xuất và đa lại cơ chế thống
nhất cho xử lý các mối quan hệ kinh tế, đó là cơ chế thị trờng. Mô hình Đức
đợc gọi là mô hình kinh tế thị trờng xã hội, của Mỹ là nền kinh tế thị trờng
phân tán. Nhà nớc thông qua các công cụ phát triển bảo đảm cạnh tranh thị
trờng. Nhiều quốc gia vốn trớc đây từ chối nền kinh tế thị trờng đã thực
hiện mở cửa cải cách. Có thể nói ngày nay nền kinh tế thế giới thống nhất ở
cơ chế vận hành : cơ chế thị trờng. Đây chính là cơ sở cho sự gia tăng của
xu thế toàn cầu hoá kinh tế. Sự phát triển của nền kinh tế thị trờng không
chỉ ở sự mở rộng quy mô về không gian, về sự xâm nhập ràng buộc lẫn
nhau giữa các thị trờng mà còn thể hiện ở sự phát triển của thị trờng tài
chính gắn liền với sự xuất hiện của một loạt công cụ mới trong thanh toán
giao dịch. Nhìn chung các quốc gia trên toàn thế giới ngày nay đều dựa trên
cơ chế thị trờng, sử dụng các phơng tiện và công cụ của kinh tế thị trờng
trong hoạt động kinh doanh, đa lại một không gian rộng lớn, không gian
toàn cầu cho các hoạt động sản xuất và lu chuyển các yếu tố của chính quá
trình sản xuất ấy.
Thứ ba là sự gia tăng của các vấn đề toàn cầu trong bối cảnh thế giới
kết thúc chiến tranh lạnh, bớc vào thời kỳ hoà bình, hợp tác và phát triển.

Tình hình chạy đua vũ trang khốc liệt điển hình là các quốc gia với tiềm lực
kinh tế mạnh : Mỹ, Nga, Pháp, Đức,
Trong suốt mấy thập kỷ chạy đua vũ trang, nhất là vũ khí hạt nhân.
Các bên đều nhận thấy một cuộc chiến tranh hiện đại nổ ra sẽ không có ng-
ời chiến thắng. Nhìn chung các vấn đề toàn cầu đều có quan hệ nhân quả
với nhau cho nên phải có quan hệ tổng thể khi giải quyết và đòi hỏi phải có
sự nỗ lực của mọi quốc gia. Các vấn đề toàn cầu là liên quan mọi quốc gia,
tác động trên phạm vi thế giới. Trong bối cảnh chiến tranh lạnh thị trờng thế
giới bị chia cắt không cho phép các quốc gia thống nhất hành động, liên kết
sức mạnh. Sự kết thúc chiến tranh lạnh, sự phân chia thế giới thành hai cực
đối lập đã và đang chuyển sang trật tự theo hớng đa cực, thế giới vận động
trong xu thế hoà dịu hợp tác và phát triển. Đây cũng xem là cơ sở quan
trọng cho sự gia tăng mạnh mẽ xu thế quốc tế hoá lên một trình độ mới, đó
là toàn cầu hoá.
3. Xét vai trò của các chủ thể trong xu hớng toàn cầu hoá, ta thấy
có hai vai trò chính.
Thứ nhất : là sự bành trớng của các công ty xuyên quốc gia (TNC). Sự
phát triển mạnh mẽ của các Công ty xuyên quốc gia trong những thập niên
qua vừa phản ánh đặc điểm của quá trình toàn cầu hoá, vừa là nhân tố thúc
đẩy quá trình quốc tế hoá gia tăng mạnh mẽ lên một bớc mới toàn cầu hoá.
Quá trình phát triển mạnh mẽ của sản xuất trong CNTB tất yếu dẫn đến sự
tập trung sản xuất và dẫn đến độc quyền. Nếu vào cuối những năm 60 có
khoảng 7000 Công ty xuyên quốc gia, thì đến những năm 80 có khoảng 20
nghìn. Với một mạng lới rộng khắp đối với Việt Nam ngày 27/11/2001, Bộ
Chính trị đã ban hành nghị quyết về hội nhập kinh tế quốc tế. Mục tiêu của
hội nhập là mở rộng thị trờng, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, để đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hớng XHCN. Quán triệt chủ
trơng đợc xác định tại Đại hội IX, hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của
toàn dân, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh,
đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý và kết hợp chặt chẽ quá trình họi nhập

kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh quốc phòng. Có nh vậy chính
phủ và toàn dân ta mới có điều kiện tiếp cận với hình thức độc quyền, đối
phó với sự bành trớng của nó. Việc gia tăng các hoạt động TNC ở các quốc
gia đang phát triển còn đóng góp quan trọng vào việc đào tạo nguồn nhân
lực, nâng cao trình độ quản lý và chuyển giao các công nghệ hiện đại. Đây
là những mặt rấ quan trọng để các quốc gia đang phát triển nâng cao trình
độ phát triển của mình từng bớc rút ngắn khoảng cách phát triển. Các TNC
đã dựa vào vốn, kỹ thuật, nguồn thông tin để thiết lập các chi nhánh khác
nhau ở các nơi có điều kiện thuận lợi nhất cho việc sản xuất gia công, lắp
ráp. Sự phát triển và xâm nhập ngày càngmạnh mẽ của các Công ty xuyên
quốc gia vào các nền kinh tế dân tộc đã góp phàan xoá bỏ sự ngăn cách,
biệt lập trong phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới. Các quốc gia dân
tộc từng bớc tham gia, thích ứng với các chuẩn mực của nền kinh tế quốc tế,
đồng thời nó cũng đem lại nét mới từ những bản sắc riêng của các quốc gia
bổ sung vào nền kinh tế toàn cầu, làm gia tăng tính đa dạng của nó.
Thứ hai, là vai trò cua các định chế kinh tế toàn cầu và khu vực. Các
định chế kinh tế toàn cầu ra đời nhằm đáp ứng đòi hỏi của xu thế quốc tế
hoá, toàn cầu hoá kinh tế. Trong các tổ chức kinh tế - thơng mại - tài chính
toàn cầu và khu vực có ảnh hởng lớn tới quá trình toàn cầu hoá và khu vực
hoá về kinh tế : WTO, IMF, WB, liên hợp quốc, các tổ chức khu vực : EU,
ASEAN
Ngoài những lý do chủ yếu đã nêu thúc đẩy mạnh mẽ quá trình toàn
cầu hoá trong những thập kỷ gần đây, chúng ta có thể kể một số lý do
khác : sự phát triển về dân chủ, về văn hoá
4. Bây giờ ta xét các tác động của toàn cầu hoá đối với kinh tế -
chính trị.
Trên phơng diện kinh tế nó đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế
thế giới. Thực chất của những tác động đợc biểu hiện trên một số điểm :
Thứ nhất toàn cầu hoá kinh tế thúc đẩy rất nhanh, mạnh sự phát triển và xã
hội hoá lực lợng sản xuất, đa tốc độ tăng trởng của thế giới lên mức cao.

Toàn cầu hoá kinh tế góp phần làm chuyển biến cơ cấu kinh tế thế giới, đặc
biệt làm tăng mạnh tỷ trọng hàng chế tạo, dịch vụ. Thứ hai dới tác động của
toàn cầu hoá, các thị trờng thế giới từng bớc đợc thống nhất và ngày càng
phát triển. Với xu thế đó nó sẽ tạo nên một sự loại bỏ các rào cản và có sự
điều chỉnh trong sự vận hành. Khi thị trờng thế giới thống nhất và phát triển
thì các rào cản thơng mại sẽ từng bớc bị loại bỏ, một trong những thành
công của phơng diện này là sự ra đời của các hiệp định buôn bán thông th-
ờng (hiệp định thơng mại ký kết giữa Việt Nam - Mỹ là một điển hình trong
quan hệ buôn bán song phơng). Trong Hội nghị tổ chức thơng mại thế giới,
thơng mại, dịch vụ là một trong ba đề tài lớn. Trên phơng diện chính trị,
nguy cơ can thiệp nội bộ, trong đó can thiệp chính trị đợc thấy rất rõ (Mỹ
can thiệp vào Nam T là một ví dụ điển hình trong thập kỷ 90 vừa qua). Sự
can thiệp này đợc tổ chức rất quy củ theo những điều kiện ràng buộc, đặc
biệt của các nớc có tiềm lực kinh tế lớn (Mỹ, Pháp, ) và các tập đoàn
xuyên quốc gia. Về cơ bản có hai hình thức can thiệp chính trị thờng thấy
trong quá trình toàn cầu hoá : Thứ nhất, mợn chiêu bài duy trì chuẩn mực
và quy tắc quốc tế để can thiệp vào công việc nội chính và ngoaị giao của n-
ớc khác. Thứ hai, lấy lý do bảo vệ an ninh quốc tế và thực thi chủ nghĩa
nhân đạo để thực hiện can thiệp xuyên quốc gia đối với các nớc khác, bất
chấp cả việc có vi phạm chuẩn mực và nguyên tắc quốc tế hiện hành hay
không ?
Thực chất, can thiệp chính trị trong quá trình toàn cầu hoá là hành vi
phản ánh rõ nét đặc trng của lợi ích nớc lớn (tính cờng quốc, bá chủ). Mợn
danh nghĩa là ngời nắm vai trò chủ đạo trong tiến trình phát triển toàn cầu
hoá, các nớc lớn, tập đoàn kinh tế mạnh đã dựa vào u thế kinh tế, chính trị
va sức mạnh quân sự của mình để thực hiện lợi ích bản thân. Biểu hiện cụ
thể của toàn cầu hoá kinh tế đối với chính trị gồm nhiều mặt : cán cân sức
mạnh của các nớc lớn, các tập đoàn kinh tế mạnh sẽ quyết định cục diện
chính trị toàn cầu hoá. Bởi họ dựa vào sức mạnh của họ mà chi phối phần
lớn thị trờng thế giới, nắm vị trí chủ chốt trong sản xuất kinh doanh (phân

phối, giao lu, ). Hai đại diện lớn Mỹ và ph ơng Tây luôn hô hào toàn cầu
hoá, thông thoáng thị trờng thế giới song Mỹ và một số nớc khác lại lôi kéo,
đồng loã các nớc khác rong việc sử dụng các chính sách và vũ khí kinh tế
(cấm vận, ). Ví dụ, có 75 n ớc dân số chiếm 52% dân số thế giới chịu sự
cấm vận của Mỹ. Do đó nhiều nhà nghiên cứu về vũ khí kinh tế rút ra kết
luận Kinh tế là một công cụ bạo lực
Quá trình quốc tế hoá mà đỉnh cao là TCH kinh tế, vậy thì các đặc trng
cơ bản của nó là gì ?
Có 6 đặc trng cơ bản, đặc trng thứ nhất là giai đoạn phát triển cao của
quốc tế hoá kinh tế. Hiện nay ta thấy CNTB đã tạo ra sự phát triển sản xuất
mà cha nền văn minh nào trớc đó đạt đợc. Các cuộc chiến tranh giành giật
thị trờng không ngừng bùng nổ : Anh mạnh trong kinh tế hàng hải,
Vào thế kỷ XIX đế quốc Anh có sự phát triển mạnh, khống chế gần
nh toàn bộ thế giới. Vào nửa sau thế kỷ XIX, mậu dịch giữa các nớc trở
thành một hệ thống nhất. Từ nửa sau thế kỷ XIX cho đến nay quá trình
quốc tế hoá đã trải qua ba thời kỳ : Làn sóng đầu tiên diễn ra trong khoảng
50 năm trớc chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Trong thời kỳ này, những sự
trao đổi quốc tế và liên lục địa đã phát triển nhanh hơn cả sự sản xuất trên
toàn thế giới, những dòng tài chính tăng lên nhanh hơn nhiều trên quy mô
thế giới so với sự tăng trởng của việc trao đổi và sự sản xuất trên toàn thế
giới. Làn sóng thứ hai của quốc tế hoá diễn ra vào những năm 50,60 và 70
của thế kỷ XX. ở giai đoạn này đã có một sự tăng trởng về trao đổi quốc tế
lớn hơn nhiều so với sản xuất trên thế giới, đã có sự bùng nổ thực sự những
dòng tài chính trên phạm vi toàn cầu, đã có sự bùng nổ hoạt động của các
Công ty quốc gia. Làn sóng thứ ba bắt đầu từ cuối những năm 80 trở đi và
lúc này thuật ngữ TCH đợc sử dụng phổ biến.
Đặc trng thứ hai là trong thời kỳ TCH kinh tế hiện nay hội nhập kinh
tế quốc tế gắn liền với tự do hoá các hoạt động kinh tế. Trớc đây giai đoạn
quốc tế hoá chỉ là sự bành trớng kinh tế ra khỏi khuôn khổ biên giới, không
gắn với việc tự do hoá. Ví nh Nhật Bản mãi tới nửa sau của thập kỷ 70 Nhật

mới hoàn thành quá trình tự do hoá thị trờng vốn và thị trờng gạo (vì sau
chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật mới khôi phcụ kinh tế và tiến tới bành tr-
ớng). Sự tách rời giữa tự do hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là đặc điểm của
giai đoạn quốc tế hoá trớc đây. Trong giai đoạn mới, TCH, việc hội nhập
quốc tế gắn liền với quá trình tự do hoá. Không hể hội nhập quốc tế mà
không có tự do hoá nền kinh tế dân tộc. Đây là điểm mới của quá trình
TCH. Quá trình TCH gắn với phân công lao động quốc tế làm cho quá trình
TCH gắn bó chặt chẽ với nhau. Điều này cho thấy không thể có hội nhập
mà lại không có tự do hoá và ngợc lại, hai mặt này của quá trình TCH thống
nhất gắn bó chặt chẽ với nhau. Thử tìm hiểu Hàn Quốc, Quốc gia này chính
thức bắt đầu hội nhập vào nền kinh tế quốc tế từ đầu thập kỷ 60. Vào cuối
thế kỷ XIX, Hàn Quốc đứng trớc yêu cầu phải cải cách, chấm dứt sự cô
lập Trong lĩnh vực thơng mại, đầu những năm 60 Chính phủ Hàn Quốc đã
có cải cách theo hớng hoà nhập vào nền thơng mại quốc tée. Nhìn chung
cho đến nay Hàn Quốc đã đạt tỷ lệ tự do hoá nhập khẩu 99,9% theo kế
hoạch đến 1/2001, Hàn Quốc sẽ tự do hoá 100%. Văn hoá và t cách t duy
phải đợc TCH. Ngời Hàn Quốc phải phát huy sự phong phú vốn có của nền
văn hoá truyền thống của mình. Ngoài ra chúng ta có thể tham khảo thêm
nền kinh tế Trung Quốc. Đối với các quốc gia này thay vì hội nhập một
cách triệt để và toàn diện với nền kinh tế thế giơí, họ chỉ hội nhập có mức
độ và theo những hớng nhất định có lợi cho sự phát triển của nền kinh tế
trong suốt tiến trình công nghiệp hoá. Đó chính là kiểu hội nhập có tính
chiến lợc và trong quá trình này vai trò của nhà nớc đợc chú trọng với t cách
là ngời điều tiết nhịp độ hội nhập. Đặc trng thứ ba là TCH kinh tế là xu thế
khách quan nhng đang chịu tác động lớn từ Mỹ và một số nớc t bản phát
triển. Quá trình TCH gắn liền với sự phát triển của CNTB. Họ lợi dụng
những thành tựu của khoa học kỹ thuật tạo ra sự phát triển sản xuất
mạnh mẽ. Với mục tiêu lợi nhuận các tổ chức độc quyền cạnh tranh với
nhau gay gắt. Kết quả là hình thành những liên minh độc quyền không chỉ
trong phạm vi quốc gia mà cả trên phạm vi quốc tế (Sự hình thành các tập

đoàn độc quyền, bọn đầu sỏ tài chính). Với sự thắng lợi của cách mạng
tháng Mời Nga và tiếp sau đó là sự ra đời của các quốc gia XHCN đã thu
hẹp phạm vi thống trị và chi phối của CNTB. Vì lý do chính trị, nhiều nớc
TBCN đã sử dụng các biện pháp hạn chế quan hệ với các nớc XHCN (nh ở
Việt Nam ta trớc đây đã từng bị cấm vận bởi Mỹ gây thiệt hại về kinh tế rất
nhiều ). Cấu trúc mô hình XHCN bị sụp đổ (điển hình là sự tan rã của Liên
Bang Nga, các quốc gia còn lại đang đẩy mạnh quá trình đổi mới, cải cách
nhằm tìm ra phơng thức mới xây dựng CNXH. Các nớc TBCN tìm mọi cách
trong quá trình TCH để loại bỏ các nớc XHCN. Rõ ràng là xét về lôgic và
lịch sử toàn cầu hoà là một xu thế tất yếu, là kết quả của sự phát triển lực l-
ợng sản xuất, của kinh tế thị trờng song cũng cần thấy toàn cầu hoá kinh tế
hiện nay không phải không có tính chất chính trị do việc tham gia vào toàn
cầu hoá xuất phát từ lợi ích khác nhau, đôi khi đối nghịch nhau giữa các
chủ thể của chính quá trình toàn cầu hoá.
Toàn cầu hoá chính là Mỹ hoá, bởi u thế của Mỹ thể hiện trên một số
nét : Mỹ là quốc gia có nền kinh tế thị trờng và khoa học phát triển cao, sức
mạnh kinh tế và quân sự thì Mỹ đóng vai trò lãnh đạo trong khối các nớc t
bản (cụ thể là NATO), các TNC của Mỹ trong nền kinh tế toàn cầu hoá đã
khống chế một tỷ phần lớn mậu dịch - đầu t và tài chính quốc tế, trong
nhiều năm qua Mỹ vẫn dẫn đầu về các phát minh và triển khai chúng (đặc
biệt là công nghệ thông tin), cuối cùng đó là sự chi phối về an ninh, quân sự
đối với các cờng quốc. Tuy nhiên sự ảnh hởng và thống trị này chủ tạm thời
bởi nhân loại đang trên con đờng phát triển vũ bão của khoa học không chỉ
riêng ở Mỹ và đặc biệt là sự đoàn kết dân tộc ngày càng cao. Chính trong
TCH chủ nghĩa t bản (CNTB) sẽ phải biến đổi. Tham gia vào quá trình TCH
không chỉ có Mỹ và các nớc t bản phát triển mà còn có hàng loạt các quốc
gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Do vậy quá trình TCH không phải
đơn giản là sự phổ biến các giá trị, luật chơi của CNTB, mà là quá trình đấu
tranh thoả thuận, sàng lọc, trong đó các giá trị văn minh nhân đạo của
loài ngời sẽ đợc chấp nhận. Cũng không thể xem quá trình TCH hiện nay

thuần tuý mang tính chất TBCN. Sự đan xen các lợi ích trong quá trình
tham gia hội nhập của các chủ thể phản ánh tính phức tạp và đầy mâu thuẫn
của chính quá trình này. Đặc trng thứ t : TCH kinh tế là quá trình mang tính
hai mặt, nó cũng đặt ra những thách thức đối với các quốc gia. Toàn cầu
hoá là quá trình tất yếu. Việc hội nhập tham gia vào toàn cầu hoá kinh tế sẽ
tạo cho các bên tham gia những cơ hội, đồng thời nó cũng đặt ra những
thách thức. Có ý kiến cho rằng :
TCH là thanh gơm hai lỡi, có thể tạo ra những đòn bẩy làm tăng tốc
độ phát triển kinh tế, đa lại kỹ thuật mới làm nâng cao mức sống của ngời
dân hoặc có thể làm xói mòn văn hoá dân tộc. Có thể đa ra những tác động
của TCH nh sau : Thứ nhất sự phát triển của toàn cầu hoá kinh tế phá bỏ
những cản trở, hàng rào ngăn cách giữa các quốc gia, mở ra những điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển quan hệ kinh tế quốc tế, từ đó có thể tận
dụng từ thị trờng bên ngoài.
Thứ hai : Toàn cầu hoá kinh tế mở ra cơ hội cho các quốc gia chậm
phát triển nhanh chóng hội nhập vào phân công lao động quốc tế, từ đó hình
thành một cơ cấu kinh tế xã hội hiệu quả, rút ngắn quá trình hiện đại
hoá. Hình thức này đem lại hiêun quả khi phân công lao động theo chiều
dọc chuyển sang phân công lao động theo chiều ngang (phân công theo bộ
phận cấu thành sản phẩm).
Thứ ba : Quá trình TCH tạo ra cơ hội cho các quốc gia tiếp cận với
nguồn vốn và công nghệ kỹ thuật, công nghệ quản lý.
Thứ t : Nó cho phép các quốc gia thành viên đợc hởng những u đãi về
thuế quan, hàng hoá có thể nhanh chóng tiếp cận.
Thứ năm : Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra sự tiếp nhận những thông tin, tri
thức mới, góp phần nâng cao trình độ dân trí, tạo nền tảng cho dân chủ phát
triển.
Thứ sáu : Nó mở ra khả năng phối hợp nguồn lực của các quốc gia dân
tộc để giải quyết những vấn đề có tính toàn cầu : Hoà bình, môi trờng Đó
là những cơ hội trong quá trình này, còn các thách thức của nó ?

Thứ nhất toàn cầu hoá làm gia tăng tình trạng bất công, sự phân hoá
giàu nghèo, thứ hai là cạnh tranh gay gắt giữa các khu vực, công ty thuộc
quốc gia hay nảy sinh vấn đề phá sản, thất nghiệp. Thứ ba hạn chế khả năng
phát huy nguồn nội lực do mải tranh thủ nguồn lực bên ngoài. Thứ t là hậu
quả về môi trờng xã hội, không bền vững trong phát triển. Thứ năm nó đặt
ra những hậu quả mang tính chất phi kinh tế. Đại dịch (HIV/AIDS, văn hoá
ngoại lai (đặc biệt là mạng Internet )
Tóm lại TCH tạo cơ hội cho phát triển song cũng có nhiều thách thức
đối mặt : kinh tế, chính trị, xã hội và môi trờng.
Đặc trng thứ năm là : Toàn cầu hoá kinh tế là quá trình mở rộng sự
hợp tác kinh tế đồng thời với sự gia tăng cạnh tranh ngày càng quyết liệt.
Quá trình toàn cầu hoá bắt buộc các quốc gia phải hợp tác, phụ thuộc lẫn
nhau sự hợp tác kinh tế quốc tế trở thành điều kiện tồn tại và phát triển. Đặc
tính mở rộng sự hợp tác sự gắn bó của nền kinh tế toàn cầu vừa là điều kiện
bảo đảm cho sự phát triển bền vững của kinh tế toàn cầu cũng nh kinh tế
các quốc gia. Sự mở rộng trong quá trình TCH đa đến sự cạnh tranh quyết
liệt cả bề rộng lẫn chiều sâu trở thành động lực cho phát triển. Sự phát triển
của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là tin học đã và đang làm thay đổi vai trò
của các nguồn lực tăng trởng, hớng vào thoả mãn tốt nhất nhu cầu con ngời.
Điểm mới trong cạnh tranh của quá trình này là cạnh tranh trong một khuôn
khổ đợc quản lý.
Đặc trng thứ sáu đó là TCH kinh tế hiện nay đang gia tăng mạnh mẽ
gắn liền với xu thế khu vực hoá diễn ra cũng không kém phần nhộn nhịp.
Nét mới trong quá trình TCH là xu thế khu vực hoá. Đó là bớc chuẩn bị cho
TCH và nó phản ánh sự co cụm nhằm bảo vệ lợi ích tơng đồng của một vài
nớc. Khu vực hoá có nhiều mức độ khác nhau , từ một vài nớc đến nhiều n-
ớc tham gia thành một tổ chức. Ví dụ Liên Minh Châu Eu, khu vực mậu
dịch tự do ASEAN (AFTA), diễn đàn hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình d-
ơng (APEC), khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Nh vậy có thể
thấy xu thế TCH và những đặc trng của nó hết sức phong phú, nhạy cảm.

Nó là xu hớng tất yếu, vấn đề đặt ra là hội nhập ra sao ? tiến trình và cách
thức thế nào để tận dụng đợc những mặt tích cực, hạn chế tác động tiêu cực.
Đây quả là vấn đề hết sức bức xúc với Việt Nam hiện nay.
II. Thực trạng và thách thức của Việt Nam trong việc chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế.
Với Việt Nam, một đất nớc còn nghèo và đang trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá thì vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế là một thách
thức lớn. Nó lớn bởi do nhiều yếu tố : trình độ dân trí còn thấp, dân số
đông nhng đa phần hoạt động trong nông nghiệp, các chính sách còn cha
phù hợp với tốc độ hội nhập, .Tr ớc tiên chúng ta thử nhìn lại quá trình hội
nhập và nhiệm vụ trớc mắt. Hội nhập kinh tế quốc tế đã gõ cửa tất cả các
ngành, các lĩnh vực kinh tế, các địa phơng và từng doanh nghiệp. Cùng với
việc thực hiện cơ chế kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN, Đảng ta chủ
trơng phát huy nội lực, thu hút các nguồn lực bên ngoài. Vào những năm 80
nớc ta đã hội nhập quốc tế với t cách là thành viên của Hội đồng tơng trợ
kinh tế của các nớc XHCN (SEV). Ta chủ trơng chuyển hớng các hoạt động
kinh tế đối ngoại theo phơng châm độc lập, tự chủ, đa dạng và đa phơng
hoá. Cùng với việc mở rộng quan hệ song phơng trong buốn bán và đầu t
với nhiều nớc, từ năm 1989, Việt Nam đã nối lại quan hệ với IMF,WB.
Tháng 7/1995 nớc ta gia nhập ASEAN và từ 11/1996 bắt đầu thực hiện cam
kết với AFTA. Tháng 11/1998 là thành viên của Diễn đàn hợp tác kinh tế
Châu á - Thái Bình Dơng (APEC) và đang xúc tiến tham gia vào WTO.
Thực ra TCH và hội nhập kinh tế Quốc tế không chỉ riêng một nớc nào dù
Mỹ với GDP cao nhất, Trung Quốc dân số đông nhất thế giới thì vẫn phải
tham gia vào vòng xoáy này. Nếu ở cuối thập kỷ 70, nớc ta lâm vào tình
trạng khó khăn, suốt thập kỷ 80 chúng ta tìm cách khắc phục nhng không
thành công. Kết thúc năm 1999, năm thứ 9 của chiến lợc 10 năm (1991
2000) thế và lực đã đợc nâng lên rõ rệt : Tốc độ tăng trởng kinh tế khá cao,
bình quân GDP hàng năm trong thời kù 1991 1995 là 8,2%, giá trị sản l-
ợng công nghiệp tăng trên 10% và nông nghiệp tăng trên 4%, tốc độ tăng

kim ngạch xuất khẩu cao gấp 2 đến 3 lần tốc độ tăng GDP. Du lịch và dịch
vụ quốc tế đã đợc phát triển nhanh chóng, hàng năm khách sạn, nhà hàng,
trung tâm du lịch đã hình thành một mạng lới có thể thu hút hàng năm
nhiều triệu khách quốc tế. Đã thu hút đợc hơn 2400 dự án đầu t trực tiếp n-
ớc ngoài với vốn đăng ký 36 tỷ USD. Nổi trội lên đó là hoạt động của các
doanh nghiệp. Nhà nớc và các ngân hàng Việt Nam Hội nhập buộc các
doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh, một cuộc đua khốc liệt trên thơng
trờng. Số lợng các doanh nghiệp Nhà nớc (DNNN) tăng nhanh, chất lợng và
loại hình ngày càng đa dạng. Vốn đầu t nớc ngoài vào các doanh nghiệp
tăng dần theo mức độ mở cửa của nền kinh tế, độ thông thoáng của Luật
Đầu t nớc ngoài. Các doanh nghiệp t nhân phát triển mạnh nhng đa phần là
các doanh nghiệp nhỏ, trình độ hạn chế, sức cạnh tranh yếu. Sau nhiều năm
đổi mới số lợng đã giảm song đã chuyển biến quan trọng trong việc thích
ứng với cơ chế kinh tế mới. Cho đến nay DNNN vẫn nắm giữ những ngành,
lĩnh vực then chốt, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật cho công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đảm bảo cho sự phát triển của nền kinh tế theo định hớng
XHCN. Tỷ trọng GDP phần lớn nằm trong tay các DNNN (hơn 40%), các
dự án đầu t và hợp tác với nớc ngoài chiếm phần lớn số vốn đổ vào trong n-
ớc. Nh thế DNNN chẳng những có vai trò nòng cốt của nền kinh tế mà còn
giữ vai trò là lực lợng chủ yếu tham gia cạnh tranh quốc tế hiện nay . Tuy
nhiên DNNN còn nhiều hạn ché trong việc thích ứng với hội nhập thị trờng
Quốc tế. Nhiều DNNN bị lỗ, số nợ lớn, tồn đọng từ nhiều năm. Cơ cấu
ngành và sản phẩm còn dàn trải, cha tập trung vào ngành then chốt. Cha tạo
sự đổi mới mạnh mẽ trong tổ chức quản lý, phân công và hiệp tác theo cả
chiều dọc và chiều ngang. Một số cán bộ quản lý doanh nghiệp yếu kém
chuyên môn, thoái hoá, biến chất. Phần lớn các DNNN cha nhận thức đầy
đủ về yêu cầu cấp bách của hội nhập thị trờng, còn thờ ơ chờ đợi sự bảo bảo
trợ của Nhà nớc. Tình hình chung của DNNN ở Việt Nam là thế, vậy thì các
ngân hàng Việt Nam hiện nay ra sao ?
Hệ thống này đã trải qua một quá trình phát triển, bao gồm nhiều loại

hình ngân hàng thơng mại, với những hình thức sở hữu khác khau và hoạt
động dới một hành lang pháp lý với văn bản quy phạm pháp luật cao nhất là
Luật các tổ chức tín dụng (TCTD). Các loại hình tổ chức ngân hàng ở Việt
Nam : Ngân hàng quốc doanh (100% sở hữu nhà nớc), ngân hàng liên
doanh, ngân hàng Cổ phần, chi nhánh Ngân hàng nớc ngoài, ngân hàng hợp
tác. Đối với Ngân hàng Quốc doanh, chúng hoạt động đa năng, phục vụ mọi
ngành, mọi lĩnh vực (ngân hàng công thơng Việt Nam ) Chính phủ đã cấp
thêm vốn nên vốn điều lệ tăng, làm tăng khả năng tài chính và bảo đảm độ
an toàn. Sự phụ thuộc lẫn nhau của các quốc gia trong quá trình toàn cầu
hoá kinh tế là không tránh khỏi. Các nớc kém phát triển phụ thuộc vào vốn,
công nghệ của các nớc phát triển, tiềm lực kinh tế mạnh, ngợc lại các nớc
đã phát triển cũng phải nhập khẩu các tài nguyên từ các nớc thuộc thế giới
thứ ba. Việt nam thuộc một trong các nớc nghèo nhng tài nguyên lại khá
phong phú, song nếu không biết khai thác thì sẽ lãng phí và cạn kiệt dần.
Đảng và Nhà nớc đã có những chủ trơng, chính sách nhất quán cho việc chủ
động tham gia vào tiến trình này. Đờng lối ở tầm vĩ mô thực sự có ý nghĩa
to lớn trong quá trình hội nhập của Việt Nam. Điều này đợc xác thực bằng
những bớc chuyển đổi trong chính sách phát triển kinh tế nói chung, chính
sách kinh tế đối ngoại nói riêng. Tham gia toàn cầu hoá chính là tranh thủ
những điều kiện quốc tế để khai thác các tiềm năng kinh tế đất nớc phục vụ
cho việc nâng cao đời sống nhân dân. Về địa lý nớc ta tiếp giáp với biển và
các nớc thuộc khu vực Đông Nam á (Lào, Thái Lan ) và Trung Quốc, điều
này thuận lợi cho giao thơng. Tuy là nớc chậm phát triển, nhng lại đợc đánh
giá cao về chỉ số nguồn nhân lực (dân số : 80 triệu ngời, t duy trí tuệ con
ngời Việt Nam rất đáng nể). Hội nhập tạo điều kiện cho nguồn nhân lực
giao lu với thế giới bên ngoài. Chúng ta đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế trong điều kiện đất nớc hoà bình, chính trị xã hội ổn định. Đây là
điều kiện thuận lợi để mở rộng quan hệ đối ngoại. Đảng ta đã đợc củng cố
về chính trị và tổ chức, vai trò lãnh đạo của Đảng đợc tăng cờng trong xã
hội. Trong những năm qua Việt Nam cũng gia tăng quan hệ với Liên hợp

quốc, IMF, WB. Sự tham gia này cho phép Việt Nam đợc sự giúp đỡ trong
nhiều lĩnh vực, đồng thời cũng giúp cho tổ chức này phát triển. Hơn 10 năm
đổi mới là quãng thời gian cha dài nhng đó là khoảng thời gian cho những
bài học kinh nghiệm.
Xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển đã và đang là chủ đề chính của
thời đại ngày nay. Xu thế này giúp cho Việt Nam hội nhập, hợp tác và cạnh
tranh nhau để cùng tồn tại. Những khó khăn cũng là thách thức khá lớn đối
với quá trình hội nhập này. Biểu hiện dễ thấy đầu tiên là trình độ phát triển
kinh tế so với quốc tế còn lạc hậu. Có tới trên 70% lao động làm việc trong
nông nghiệp vì thế nớc ta thờng xếp thứ hạng cao về xuất khẩu gạo. Nhng
xét đến cùng thì gạo không phải là sản phẩm mang giá trị cao, bởi nó chỉ
phục vụ cho nhu cầu tự nhiên của con ngời.
Hệ thống thiết bị kỹ thuật ở hầu hết các doanh nghiệp lạc hậu so với
mức trung bình của thế giới hiện nay từ 2-3 thế hệ, rồi cơ cấu mặt hàng xuất
khẩu không có tính cạnh tranh cao . Nền kinh tế thị tr ờng đã phát triển
trên toàn cầu trong khi chúng ta mới chuyển sang kinh tế thị trờng. Hy vọng
bắt kịp các nớc phát triển về trình độ, vốn không thể ngày một ngày hai
đợc. Các luật chơi chúng ta cha thông thạo, cán bộ quản lý yếu kém làm
ảnh hởng đến tiến trình chung. Kế đó là bộ máy Nhà nớc quá cồng kềnh,
thừa công chức mà không hiệu quả : nạn tham nhũng gây thất thu cho ngân
sách nhà nớc. Hệ thống luật lệ còn phức tạp, cha thống nhất và phù hợp với
thế giới : Quy định về thuế quan và phi thuế quan còn phức tạp, hay sửa đổi
bổ sung gây chán nản cho đối tác. Chiến lợc về hội nhập còn chậm, đôi lúc
lại do dự. Sự nhất trí toàn dân cha thực sự đáp ứng đợc yêu cầu hội nhập vì
có nhiều ngời cho rằng hội nhập gây ra ngoại hoá đất nớc, các tệ nạn xã
hội (đua xe, ma tuý, cờ bạc .thực sự phổ biến gây mất trật tự an ninh đất
nớc. Do đó nếu đẩy mạnh hội nhập mà không có cơ chế chính sách đi kèm
thì hội nhập cha hẳn đã hiệu quả và thành công.
Vì vậy cần phải quán triệt một số điểm chủ yếu khi đẩy mạnh quá
trình hội nhập :

Hội nhập là tất yếu, không thể phát triển mà không hội nhập. Đã tham
gia phải chịu tác động cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Thứ hai : Hội nhập
chủ động sẽ là phơng châm hợp lý bảo đảm cho chúng ta hoà nhập với cộng
đồng thế giới mà vẫn không bị hoà tan.
Thứ ba : Vấn đè then chốt để hội nhập có hiệu quả là phải nâng cao
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế dân tộc. Muốn vậy phải đẩy mạnh quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thứ t : Khắc phục yếu kém trong khâu quản lý, đảm bảo tính nhất
quán của hệ thống, đơn giản hoá các thủ tục.
Thứ năm : Phải tranh thủ kết hợp tất cả các hình thức từ song phơng
đến đa phơng.
Thứ sáu : Luôn cảnh giác, tránh thua thiệt trong hội nhập.
Chúng ta hội nhập trên cơ sở hợp tác, nhng phải đấu tranh cho sự bình
đẳng và mục tiêu tiến bộ nhân loại.
Thứ bảy : Chú trọng tổ chức hệ thống thông tin, coi quá trình hội nhập
không chỉ của các cơ quan nhà nớc mà là sự nghiệp toàn dân, các doanh
nghiệp và đoàn thể xã hội.
Thứ tám : Tranh thủ sự ủng hộ của khu vực, tạo thế cân bằng cho chiến
lợc của chúng ta.
Thứ chín : Hội nhập vào ASEAN là một hớng đi đúng, một cửa mở
đúng ra thế giới bên ngoài phù hợp với thực lực của ta. Cuối cùng : Thực sự
chủ động (nói nh Thủ tớng Phan Văn Khải) tham gia vào quá trình toàn cầu
hoá. Ví dụ minh hoạ : Phát biểu của đồng chí Nông Đức Mạnh về việc
quán triệt và triển khai thực hiện nghị quyết của Bộ chính trị về hội nhập
kinh tế quốc tế (Tạp chí cộng sản ).
Với việc đẩy nhanh quá trình toàn cầu hoá thì bên đó Đảng và Nhà nớc
ta cần phải quan tâm đến lơị ích thực sự của hội nhập, bảo tồn nền văn hoá
dân tộc, vấn đề công bằng xã hội và rất nhiều vấn đề khác liên quan.
III. Một số giải pháp sau đây đợc coi là hữu hiệu qua thử thách
trớc bối cảnh thế giới của Việt Nam.

Giải pháp một : Nhà nớc đóng vai trò quyết định trong việc thực hiện
hội nhập quốc tế có hiệu quả. Một mặt, Nhà nớc cần hoàn chỉnh hệ thống
các công cụ quản lý vĩ mô, tạo môi trờng thuận lợi nhất cho hoạt động kinh
doanh và đầu t của tất cả các doanh nghiệp cá nhân, mặt khác thực hiện
quản lý Nhà nớc đối với hoạt động kinh doanh và đầu t trong khuôn khổ
một hệ thống pháp luật phù hợp với nền kinh tế thị trờng.
Giải pháp hai : Tạo lập đồng bộ nèn kinh tế thị trờng trong nớc,
khuyến khích cạnh tranh, chống độc quyền, gắn bó hữu cơ hội nhập quốc tế
với chiến lợc kinh tế xã hội của đất nớc, tạo ra các đột phá chiến lợc. Tổ
chức công tác nghiên cứu khoa học và hệ thống thông tin về thị trờng thế
giới, hình thành cơ cấu tổ chức hợp lý về kinh tế đối ngoại, chuẩn bị nguồn
nhân lực cho tơng lai.
Giải pháp ba : Nh đã nói ở trên về nguồn nhân lực đất nớc, đó là nhân
tố quyết định sự phát triển bền vững đất nớc. Cần có giải pháp thích hợp với
hệ thống giáo dục đào tạo : Giáo dục để hình thành một đội ngũ công chức,
cán bộ khoa học kỹ thuật có đủ bản lĩnh chính trị và trình độ chuyên môn,
đội ngũ công nhân lành nghề đáp ứng đợc nhu cầu về lao động của công
cuộc cải cách đất nớc trong xu thế toàn cầu hoá.
Giải pháp thứ t có thể là : Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học và
khả năng phản ứng nhanh. Đây là vấn đề có tính nhạy cảm và trình độ quản
lý của các cán bộ chuyên trách. Một trung tâm nghiên cứu khoa học chất l-
ợng có thể là cầu nối cho các ngành khoa học khác nhau. Cần hợp tác quốc
tế trong các lĩnh vực khác nhau của khoa học : Toán học, vật lý, sinh học
bởi đó là cơ sở cho một nền kinh tế vững chắc. Ngày nay khi thế giới đã
phát triển mạnh mẽ các ngành khoa học : nhân bản vô tính (sinh học), công
nghệ vật liệu mới (vật lý) Hơn nữa sự phản ứng nhanh với thông tin thị tr -
ờng là một bằng chứng về trình độ khoa học của quốc gia đó. Thông tin kịp
thời giúp nhà quản lý hoạch định chính xác đờng lối phát triển đất nớc,
tránh gây tổn thất kinh tế do thiếu thông tin gây ra. Trong kinh tế thì quy
luật cung cầu là một trong những quy luật quan trọng vì thế thông tin nhạy

bén có khả năng gây đột biến cho việc thu lợi nhuận của các Công ty,
hoàn chỉnh hơn vào thị trờng thế giới và đặc biệt là bắt kịp tốc độ tiến độ
thế giới.
C. Phần kết bài
Đề tài toàn cầu hoá một bớc phát triển cao của quốc tế hoá. Vợt ra
khỏi ranh giới quốc gia với Việt Nam, tuy quá trình hội nhập toàn cầu hoá
chậm song các kết quả phân tích ở trên làm chúng ta có nhiều niềm tin hơn.
Đặc biệt là dân số trẻ và phẩm chất cao đẹp của con ngời Việt Nam. Khả
năng canh tranh có thể cha theo kịp với các nớc đã phát triển, đi trớc chúng
ta rất nhiều năm, nhng trong khu vực thì hoàn toàn có thể bắt kịp và phát
triển vợt trội. Sắp tới chúng ta phá bỏ hàng rào thuế quan với các nớc trong
khu vực ASEAN đây là điều kiện thuận lợi cho sự cạnh tranh công bằng. Từ
hội nhập khu vực chúng ta tiến tới hội nhập toàn cầu. Lúc đó sẽ có nhiều
điều kiện phát triển kinh tế, giao lu văn hoá của nhiều nền văn hoá khác
nhau. Chúng ta có khả năng thu đợc nhiều ích lợi, hạn chế đợc nhiều mặt
tiêu cực do có chuẩn bị trớc. Phơng hớng thực hiện, đó là : Hoà nhập
không hoà tan, tức là nền kinh tế theo định hớng xã hội chủ nghĩa, phát
triển theo đúng nghĩa của nó, nền văn hoá dân tộc có giao lu nhng không
mất đi bản sắc vốn có. Điều này có ý nghĩa rất lớn của sự tạo lập đoàn kết
trong nhân dân (cơ sở cho ổn định chính trị, nền tảng cho nền kinh tế hội
nhập) và góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
Đây là một đề tài em thấy rất hay và ý nghĩa đối với sinh viên, đặc biệt
các sinh viên thuộc khối kinh tế. Qua tìm hiểu về quá trình toàn cầu hoá
giúp chúng em mở rộng tầm nhìn thế giới mà trớc đây ít có điều kiện tìm
hiểu. Cốt lõi nhất của quá trình toàn cầu hoá kinh tế là cách nhìn, cách suy
nghĩ của nhân loại về một thế giới hoà bình và phát triển.
Chúng em thành thực cảm ơn thầy !
Tài liệu tham khảo
1. Toàn cầu hoá kinh tế
NXB Khoa học xã hội

2. Tạp chí kinh tế thế giới số 2
3. Tạp chí cộng sản số 22
4. Xu thế TCH kinh tế và vấn đề hội nhập quốc tế của các nớc đang
phát triển
GS.TS. Đỗ Thế Tùng
5. Hội nhập kinh tế với thế giới :
Vân đề và giải pháp
Nguyễn Mại
6. Thực tiễn vĩ đại, kinh nghiệm thành công
Nhìn lại và tổng kết công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc
GS.TS. Lý Thiết ánh
7. Toàn cầu hoá và những tác động
Phạm Thị Tuý
8. Thực trạng và khả năng cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam tr-
ớc xu thế hội nhập quốc tế
TS. Đào Minh Phúc Ngân hàng TW
9. Văn kiện đại hội
10. Các tài liệu khác
Mục lục
A - Phần mở bài 1
I. Tình hình Việt Nam nói chung và nền kinh tế nói riêng 1
II.Tình hình thế giới 2
B - Phần thân bài 3
I. Một số vấn đề lý luận về hộinhập kinh tế quốc tế 3
1. Nói đến kinh tế quốc tế phải đề cập đến vấn đề toàn cầu hoá. Vậy
toàn cầu hoá là gì ? Nó có phải là quá trình tất yếu khách quan
không ? 3
2. Chúng ta thử đi sâu phân tích cơ sở khách quan của xu thế toàn cầu
hoá 6
3. Xét vai trò của các chủ thể trong xu hớng toàn cầu hoá, ta thấy có

hai vai trò chính 8
4. Bây giờ ta xét các tác động của toàn cầu hoá đối với kinh tế - chính
trị. 10
II. Thực trạng và thách thức của Việt Nam trong việc chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế. 16
III. Một số giải pháp sau đây đợc coi là hữu hiệu qua thử thách trớc
bối cảnh thế giới của Việt Nam. 21
C. Phần kết bài 23
Tài liệu tham khảo 24

×