Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

NHẬN_DIỆN_VỀ_TRUYỆN_TRINH_THÁM_VIỆT_NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.95 KB, 9 trang )

NHẬN DIỆN VỀ TRUYỆN TRINH THÁM VIỆT NAM
Nguyễn Văn Hùng
Xuất hiện từ những năm đầu thế kỉ XX, truyện trinh thám Việt Nam đã để lại nhiều
dấu ấn và thành tựu quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Khơng ít
tác giả đã thành danh với những tác phẩm có sức lan tỏa trong đời sống tinh thần người
Việt một thời. Cùng với những biến động của đời sống chính trị, lịch sử, xã hội, và sự
giao lưu văn hóa đa phương, đa chiều, thể loại này đã có lúc trở nên nhạt nhịa, thậm chí
vắng bóng trong dịng chảy văn học nước nhà. Những nỗ lực của một vài cây bút những
năm gần đây là chưa đủ để tìm lại một thời vàng son của thể loại. Nhận diện về dấu ấn,
thành tựu cũng như giới hạn của truyện trinh thám Việt Nam là bước khởi đầu trong việc
góp phần kiếm tìm hướng đi mới cho thể loại nhằm đa dạng hóa nền văn học Việt Nam
hiện đại.
Từ sự xuất hiện đầy ấn tượng nửa đầu thế kỉ XX
Cùng với việc hình thành chữ Quốc ngữ, văn học nửa đầu thế kỉ XX chịu sự tác
động đa chiều của nhiều yếu tố: sự xuất hiện của báo chí, nghề in, xuất bản; phong trào
dịch thuật, phiên âm; ảnh hưởng từ tiểu thuyết Trung Hoa, tiểu thuyết/văn hóa phương
Tây... Kể từ đây, nền văn học Việt Nam bước vào tiến trình hiện đại hóa và vận động đổi
mới mạnh mẽ. Song hành với nền văn học mới là công chúng độc giả mới và nhu cầu
thưởng thức thẩm mỹ khác. Đây cũng là lúc các nhà văn bắt đầu thể nghiệm với những
thể loại và lối viết mới phù hợp với tâm lý, thị hiếu, nhu cầu thẩm mỹ của người đọc
đương thời.
Trước khi truyện trinh thám ra đời, một loại truyện gần cận với thể loại này cũng
hấp dẫn bạn đọc bằng việc khám phá những vụ án bí hiểm, li kì, đó là truyện công án của
Trung Quốc. Loại truyện này du nhập vào nước ta khá sớm, ngay từ đầu thế kỉ đã có bản
dịch tiếng Việt như Long đồ kì án (1906), Bao cơng kì án (1925)... Cùng với đó, từ những
năm 20 - 30 của thế kỉ XX, tiểu thuyết trinh thám phương Tây được biết đến rộng rãi ở
Việt Nam. Truyện trinh thám của Edgar Allan Poe, Conan Doyle, Gaston Leroux,
Maurice Leblanc, Georges Simenon... được dịch và in theo dạng sách ba xu (in bằng giấy


nhật trình, giá bán ba xu, bỏ túi, đọc bất kỳ đâu), được bày bán rộng khắp ở các đô thị và


hút về một lượng độc giả lớn. Với tinh thần cầu thị và khoa học luận chứng, tiểu thuyết
trinh thám phương Tây được nhiều thế hệ tri thức mới ở Việt Nam nhiệt liệt hoan nghênh.
Từ những yếu tố nội sinh và ngoại sinh ấy, truyện trinh thám Việt Nam có cơ hội
trỗi dậy và trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của độc giả ở các đơ thị. Người có
cơng mở đầu cho truyện trinh thám ở Việt Nam chính là Biến Ngũ Nhy. Từ khoảng năm
1917, ông đã giữ mục “Mật thám truyện” trên Công Luận báo, chuyên dịch các tác phẩm
trinh thám nước ngoài ra tiếng Việt. Song song với việc dịch thuật, tác phẩm hoàn chỉnh
đầu tiên về truyện trinh thám được viết bằng tiếng Việt (chữ Quốc ngữ) là Kim thời dị sử
- Ba Lâu ròng nghề đạo tặc (khởi in trên Công Luận báo từ 1917 đến 1920). Ngay lập tức
tác phẩm thu hút sự quan tâm đón nhận nồng nhiệt của công chúng do phù hợp với thị
hiếu thẩm mỹ người Việt, và được văn giới đánh giá rất cao bởi tính hiện đại của nó. Sau
dấu ấn này, văn đàn miền Nam chứng kiến sự nở rộ của tiểu thuyết trinh thám, đặc biệt là
giai đoạn 1930 - 1945 với các tên tuổi như: Nguyễn Chánh Sắt (Gái trả thù cha), Nam
Đình Nguyễn Thế Phương (Khép cửa phịng thu, Chén thuốc độc, Giọt lệ má hồng), Sơn
Vương (Bát cơm chan máu, Chén cơm lạt, Tướng cướp hào hoa), Bửu Đình (Mảnh trăng
thu, Cậu Tám Lọ), Lê Hoằng Mưu (Lá huyết thư, Người bán ngọc), Đức Phú (Châu về
Hiệp Phố)... Có thể thấy truyện trinh thám của các cây bút miền Nam ảnh hưởng đậm nét
truyện võ hiệp, truyện công án của Trung Quốc và truyện trinh thám phương Tây. Đồng
thời, các tác giả đã biết đan cài nhiều yếu tố truyền thống văn hóa của cư dân vùng sơng
nước khiến cho tiểu thuyết trinh thám dung hợp chất võ hiệp/nghĩa hiệp - ái tình - vụ án.
Dù ra đời sau truyện trinh thám miền Nam, truyện trinh thám ở miền Bắc lại nhanh
chóng đạt được nhiều thành tựu rực rỡ trên bình diện chủ đề, tư tưởng lẫn hình thức nghệ
thuật. Thế Lữ với tập truyện đầu tay Vàng và máu (1934) được đánh giá là người có cơng
mở đầu cho thể loại văn học trinh thám ở miền Bắc. Ngay từ khi mới ra đời, tác phẩm của
Thế Lữ nhanh chóng trở thành “hiện tượng mới lạ” trên văn đàn, gây tị mị và xúc động
cho cơng chúng đương thời bởi lối kể chuyện hấp dẫn, cốt truyện gay cấn, tình tiết li kì,
giọng văn thanh thốt, ngơn ngữ tự nhiên, giàu cảm xúc. Sau dấu ấn này, Thế Lữ tiếp tục
trình làng những tác phẩm quan trọng khác, đặc biệt là series truyện về thám tử Lê



Phong: Lê Phong phóng viên (1937), Những nét chữ, Lê Phong và Mai Hương, Địn hẹn
(1939), Gói thuốc lá (1940). Nếu như Thế Lữ được ghi nhận là người mở đầu cho thể loại
trinh thám miền Bắc thì Phạm Cao Củng lại được mệnh danh là “Vua truyện trinh thám
Việt Nam” với nhiều tác phẩm đặc sắc như Vết tay trên trần (1936), Cái gia tài nhà họ
Đặng, Máu đỏ lòng son, Chiếc tất nhuộm bùn (1938), Người một mắt (1940), Nhà sư
thọt, Kỳ Phát giết người (1941), Đám cưới Kỳ Phát (1942)... Sáng tác của Phạm Cao
Củng được giới phê bình đương thời đánh giá rất cao bởi “những nhân vật và khung cảnh
do ơng sáng tạo đều có tính chất Việt Nam, hợp với trình độ người Việt” (Vũ Ngọc Phan Nhà văn Việt Nam). Thám tử Kỳ Phát (truyện của Phạm Cao Củng) cùng thám tử Lê
Phong (truyện của Thế Lữ) trở thành những nhân vật trứ danh được nhắc đến nhiều nhất
trong thể loại trinh thám miền Bắc. Cùng với Thế Lữ, Phạm Cao Củng, trên văn đàn lúc
bấy giờ còn xuất hiện Bùi Huy Phồn với các tác phẩm tiêu biểu như Lá huyết thư (1931),
Mối thù truyền kiếp (1942), Gan dạ đàn bà (1942), Tờ di chúc (1943); Lê Văn Trương,
người được mệnh danh là “Người khổng lồ” trong văn học đại chúng với tập truyện
Trước cảnh hoang tàn Đế Thiên Đế Thích (1934) và hàng chục tiểu thuyết trinh thám.
Những sáng tác của Thế Lữ, Phạm Cao Củng, hay Bùi Huy Phồn, Lê Văn Trương đã góp
phần làm nên diện mạo thể loại trinh thám miền Bắc.
Có thể nói đây, nửa đầu thế kỉ XX, đặc biệt là giai đoạn 1930 - 1945 được coi là
“mùa vàng” của truyện trinh thám Việt Nam. Với lực lượng sáng tác đông đảo, số lượng
tác phẩm gia tăng, sự đa dạng trong lối viết và hình thức thể hiện, sự vượt thốt khỏi mơ
hình truyện võ hiệp, công án Trung Quốc cũng như thể loại trinh thám phương Tây, thể
loại này ln duy trì được một lượng độc giả tương đối lớn ở các đô thị, trở thành dòng
văn học nổi bật bên cạnh thơ Mới, văn xi Tự lực văn đồn, tiểu thuyết lịch sử. Kể từ
đây văn chương trinh thám của người Việt khẳng định được chân diện và bản sắc của
mình.
Đến sự vắng bóng và đánh mất vị thế trên văn đàn
Sau “mùa vàng” ở cả hai miền, truyện trinh thám bắt đầu vắng bóng và khơng để lại
nhiều dấu ấn về số lượng người viết cũng như chất lượng nghệ thuật. Từ năm 1945, tình
hình lịch sử, chính trị ở nước ta có nhiều biến động. Cả dân tộc bước vào hai cuộc kháng



chiến trường kì chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Ở miền Bắc, một thời đại mới trong
văn học xuất hiện, những thành tựu trước đó của Thơ Mới, văn xi Tự lực văn đồn,
tiểu thuyết lịch sử, truyện trinh thám hoặc là đến hồi cáo chung hoặc là nhường vai trò
lịch sử cho nền văn học cách mạng. Thể loại tiểu thuyết, trong đó có tiểu thuyết trinh
thám vốn nặng về chức năng giải trí, đăng dài kì trên báo chí tỏ ra khơng hợp với u cầu
của thời đại. Lúc này các nhà văn bắt đầu chuyển sang sáng tác các thể loại và đề tài có
tính thời sự và mang hơi thở thời đại. “Câu chuyện cảnh giác”, “Chuyện vì an ninh tổ
quốc” phục vụ cho nhiệm vụ trước mắt của cách mạng có cơ hội phát triển.
Ở miền Nam, nền văn học đô thị ra đời và phát triển theo nhiều khu vực, bộ phận,
trào lưu, khuynh hướng mới: khuynh hướng phong tục, khuynh hướng luân lý, khuynh
hướng luận đề, khuynh hướng xã hội, khuynh hướng tôn giáo... (khu vực truyền thống);
khuynh hướng hiện sinh, khuynh hướng phân tâm học, khuynh hướng tiểu thuyết mới,
khuynh hướng lãng mạn... (khu vực cách tân). Trong đó, khu vực cách tân ngày càng
triển nở và chiếm vị trí quan trọng trên văn đàn. Chính sự thay đổi thị hiếu, nhu cầu cơng
chúng độc giả một phần nào đó khiến truyện trinh thám, vốn trỗi dậy mạnh mẽ một thời,
nay trở nên nhạt nhòa, lạc lõng và đánh mất vị thế.
Từ 1945 đến trước Đổi mới 1986, văn đàn Việt chứng kiến “sự đứt gãy” của văn
học trinh thám. Sự xuất hiện của X30 phá lưới (Đặng Thanh), Ván bài lật ngửa (Nguyễn
Trương Thiên Lý), Ông cố vấn (Hữu Mai), Ơng tướng tình báo và hai bà vợ (Đặng Trần
Thiết)... là những nỗ lực mang tính cá nhân của mỗi nhà văn ở cả hai miền, chưa trở
thành một dòng riêng. Những nhà văn vốn đã thành danh với thể loại trinh thám trước
đây nay sáng tác không nhiều, các tác phẩm không đủ hấp dẫn, không thu hút được sự
quan tâm của công chúng.
Sau Đổi mới (1986), đời sống văn học nước nhà có sự chuyển mình mạnh mẽ. Với
tinh thần dân chủ, tự do, nhiều mảng văn học được phục sinh cũng như xuất hiện nhiều
cảm hứng, lối viết, phong cách mới. Những năm đầu Đổi mới, văn đàn Việt Nam chứng
kiến sự trỗi dậy mạnh mẽ của truyện tình báo, phản gián - một tiểu loại của văn học trinh
thám. Nổi bật nhất là Đặng Thanh, tác giả của hàng loạt tác phẩm “ăn khách” với số
lượng phát hành ấn tượng: Tấm bản đồ thất lạc (1983) - 30.000 cuốn, Đọ sức (1986) -



30.320 cuốn, Lần theo chuỗi hạt (1987) - 20.300 cuốn, Nữ điệp viên sao Chăm-pa (1988)
- 20.000 cuốn, Đi tìm thần chết (1989) - 5.000 bản, Lá thư vĩnh biệt của Jacqueline
(1990) - 3.000 cuốn... Tuy vậy đây lại là hiện tượng cá biệt được lí giải bởi nhiều nguyên
nhân trong đó có một phần khơng nhỏ do thời kì này truyện tình báo, hình sự, phản gián
của Liên Xơ và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu được dịch, xuất bản ồ ạt ở Việt Nam.
Và những thành cơng của Đặng Thanh một phần nào đó có sự giúp sức từ làn sóng này.
Để rồi sau đó, văn học trinh thám tiếp tục vắng bóng.
Đến những năm gần đây, thể loại văn học trinh thám bắt đầu có được quan tâm trở
lại với khơng ít tác phẩm nổi tiếng đầu thế kỉ XX được tái bản (Túy Hoa Đình, Lửa phiền
cháy gan - Nam Đình Nguyễn Thế Phương). Bên cạnh đó, những sân chơi dành cho các
nhà văn đam mê và có sở trường về thể loại trinh thám - hình sự cũng được mở ra, thu
hút đơng đảo các nhà văn tham gia như: cuộc thi viết về truyện trinh thám do các báo tổ
chức hay cuộc thi viết tiểu thuyết, truyện và kí về đề tài “Vì an ninh Tổ quốc và bình yên
cuộc sống” do Bộ Công an phối hợp Hội Nhà văn Việt Nam phát động (3 năm một lần,
đến nay là lần thứ IV (2017 - 2010). Những dấu hiệu tích cực trên đây phần nào thể hiện
sự trở lại của thể loại trinh thám trong đời sống văn học Việt Nam đương đại. Thế nhưng
soi về quá khứ, nhìn vào thực tại, chúng ta khơng khỏi phải chạnh lịng, lo lắng.
Hiện nay, số người chuyên tâm/chuyên nghiệp với đề tài cũng thật hiếm hoi, đa
phần những tác phẩm tiêu biểu đều đi ra từ các cuộc thi hoặc những đơn đặt hàng và
khơng phải tất cả đều có thể neo đậu lâu dài trong lịng độc giả. Ở một khía cạnh khác,
những sáng tác vốn đã ít ỏi, chất lượng nghệ thuật lại chưa cao thật khó lịng có thể cạnh
tranh với dịng văn học trinh thám được dịch từ nước ngồi. Mặc dù vẫn cịn đó những
vấn đề liên quan đến việc cách chọn tác giả, tác phẩm hay chất lượng dịch thuật, song
trên thực tế nó đã trở thành làn sóng mạnh tác động khơng nhỏ đến đời sống văn học
nước nhà. Những tác giả nổi tiếng, những tác phẩm đoạt giải, những bestseller liên tục
“đổ bộ” khiến truyện trinh thám Việt Nam bị lép vế, mất hút, ngậm ngùi nhìn những sản
phẩm ngoại chất lượng ồ ạt đến tay độc giả trong nước. Nhu cầu của độc giả là có, thậm
chí nhiều và ngày càng cao; trong khi thị trường nội dường như không đủ sức đáp ứng,
họ đành hướng về tác phẩm nước ngoài. Bên cạnh các tác phẩm trinh thám kinh điển



được tái bản liên tục, những sáng tác mới nhất của các nhà văn trinh thám nổi tiếng hay
mới nổi được các nhà xuất bản “săn lùng” và cập nhật ngay khi mới xuất bản. Đó cịn
chưa kể đến dịng truyện tranh trinh thám dịch từ tiếng Nhật cũng thu về một lượng độc
giả nhí tương đối lớn. Có thể nói, truyện trinh thám dịch từ các nền văn học có truyền
thống như Anh, Mỹ, Pháp, Đức, Nga, Nhật Bản, Trung Quốc... đã “bành trướng” thống
ngự thị trường khiến truyện trinh thám Việt Nam bị lép vế, mất hút, đánh mất vị thế ngay
trên “sân nhà” của mình.
Sự hồi vọng về một thế hệ cầm bút mới ở Việt Nam
Mặc dù bị lép vế, đánh mất vị thế, song bức tranh văn học trinh thám Việt Nam
đương đại không phải khơng có những gam màu sáng. Thơng qua các cuộc thi được tổ
chức định kì, xuất hiện thêm nhiều gương mặt mới và những tác phẩm có giá trị nghệ
thuật được cơng chúng độc giả đón nhận: Đêm n tĩnh (Hữu Mai), Một thế giới khơng
có đàn bà (Bùi Anh Tấn), Sát thủ online (Nguyễn Xuân Thủy), Bão ngầm (Đào Trung
Hiếu), Phạm Xuân Ẩn - Tên người như cuộc đời (Nguyễn Thị Ngọc Hải), Hồ sơ một tử
tù, Phiên bản, Cơ mặc sầu (Nguyễn Đình Tú), Ổ bn người (Giản Tư Hải)... Điều đáng
mừng là sau cuộc thi, các nhà văn vẫn tiếp tục theo đuổi đề tài và cho ra mắt những sản
phẩm chất lượng như Nguyễn Xuân Thủy với Có tiếng người trong gió, Bùi Anh Tấn với
Thám tử yêu, Giản Tư Hải với Mật mã Cham-pa, Minh Mạng mật chỉ... Bên cạnh một
vài cây bút đã thành danh với thể loại như Đặng Thanh, Hữu Mai, hay một số cây bút dần
khẳng định được phong cách của mình qua các cuộc thi như Nguyễn Đình Tú, Giản Tư
Bải, Nguyễn Xuân Thủy..., trên văn đàn Việt Nam xuất hiện thêm những cây bút lựa chọn
thể loại trinh thám để theo đuổi và nhanh chóng đạt được những thành tựu bước đầu như
Di Li với Trại Hoa Đỏ, Câu lạc bộ số 7, Quang Vinh với Biến mất, Bùi Chí Vinh với
Những hiệp sĩ Zmen... Trong số này Di Li là gương mặt sáng giá nhất. So với các nhà văn
cùng thời, tiểu thuyết của nữ nhà văn này được đánh giá đậm chất trinh thám, giàu chất
nghệ thuật hơn cả. Từ Trại Hoa Đỏ (2007) đến Câu lạc bộ số 7 (2015), tác giả ln tự
làm mới mình bằng việc mở rộng biên độ đề tài trinh thám sang địa hạt tơn giáo, văn hóa,
tâm lý. Với lối kể chuyện thơng minh, biến hóa; cốt truyện gay cấn, kịch tính; sự đan cài

khéo léo chất hiện thực và tính ma mị; tác phẩm của chị khơng những đáp ứng thị hiếu


thẩm mĩ của công chúng độc giả đương thời mà cịn được giới nghiên cứu, phê bình đánh
giá cao. Khơng chỉ giàu tính nghệ thuật, tiểu thuyết của Di Li còn đậm giá trị nhân văn.
Những câu chuyện rùng rợn, kì bí, những mối quan hệ phức tạp, éo le, chỉ là cái cớ để Di
Li khám phá, đào bới tận cùng bản thể người; từ đó trình hiện, luận giải những câu
chuyện về cuộc đời và nhân tính, về cái ác và lòng thiện, về sự đa đoan và phức tạp trong
đời sống con người. Nhờ vậy những trang viết của Di Li khơng cịn cứng nhắc, khơ cứng,
mà trở nên mềm mại, giàu sức gợi, ám ảnh, tính đa thanh, đa nghĩa về một cuộc sống bộn
bề, phức tạp cùng thân phận, bi kịch con người từ quá khứ đến thực tại. Di Li đã thực sự
mở ra cho mình một lối đi riêng và cũng gián tiếp thúc đẩy văn học trinh thám Việt Nam
bước sang một giai đoạn mới. Song, chị và tác phẩm của mình được coi là “của hiếm”
tìm “vàng mắt” mới thấy đã phần nào nói lên sự thiếu hụt trầm trọng về lực lượng sáng
tác cũng như phẩm chất nghệ thuật ở thể loại này.
Từ thực trạng này cần hơn bao giờ hết sự đổi mới tư duy của người cầm bút và sự
vào cuộc mạnh mẽ của cả đời sống văn học để có thể đưa truyện trinh thám Việt trở lại vị
thế vốn có. Với các nhà quản lý văn hóa, cần tạo ra nhiều sân chơi, khuyến khích, động
viên những cây bút đam mê, có năng lực và sở trường về thể loại văn học trinh thám. Các
nhà xuất bản, đơn vị phát hành sách nên có sự quan tâm thích đáng đến mảng văn học
này bằng các chiến dịch đầu tư có quy mơ và chiều sâu với sáng tác của các nhà văn mới;
đồng thời cho tái bản những tác phẩm đặc sắc của giai đoạn trước. Nhà phê bình cần phải
phát huy vai trị phát hiện, nhận diện, giới thiệu cho công chúng độc giả những tác phẩm
mới, đồng thời định hướng thị hiếu thẩm mỹ của người đọc. Đặc biệt vai trò của nhà văn,
những người trực tiếp dấn thân sáng tạo là vô cùng lớn. Với đặc trưng riêng của thể loại
đòi hỏi nhà văn khơng chỉ trí tưởng tượng, sáng tạo, tài hư cấu, kể chuyện mà còn am
tường các lĩnh vực của đời sống xã hội, các kiến thức khoa học trên nhiều lĩnh vực, thuần
thục các thao tác phán đoán, phân tích, lập luận. Các tác giả phải tránh hai chiều hướng,
hoặc tác phẩm chỉ đơn thuần là những câu chuyện vụ án, kể án, kết án, rút ra bài học (vốn
nhan nhản các trên các mặt báo); hoặc quá thiên về “tả chân”, “nệ thực”, lấy sự li kì, rùng

rợn, quái đản của các chi tiết để lôi kéo độc giả hơn là đầu tư những cốt truyện có chiều
sâu nhằm phát huy trí tưởng tượng, tư duy logic, tâm thế đồng sáng tạo cùng đào xới,


nghiền ngẫm, suy luận. Không riêng các nhà văn viết về đề tài trinh thám, người sáng tạo
nói chung cần ý thức rõ, viết như một nhu cầu nội tại, một khát vọng vơ bờ bến nhằm
khai phóng tinh thần, vươn tới những câu chuyện có tầm tư tưởng, phổ qt về nhân sinh,
nhân tính, nhân tình; chứ khơng đơn giản là chạy theo thị hiếu độc giả, kể những câu
chuyện hời hợt, giật gân, hay theo đơn đặt hàng, chờ đợi phát động từ các cuộc thi để rồi
sau đó mất hút. Từ đó kiếm tìm, thể nghiệm những hình thức biểu đạt mới phù hợp với sự
phát triển của văn học thế giới, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của cơng chúng. Có như
vậy, truyện trinh thám Việt Nam mới có cơ may tìm lại độc giả của chính mình, trước khi
nói đến câu chuyện giành lại vị thế trên văn đàn Việt Nam.
Sẽ là quá sớm khi nói về sự hồi sinh hay hướng đi mới của văn học trinh thám Việt
Nam, nhưng với nỗ lực của các nhà văn, đặc biệt là những người trẻ như Di Li, Nguyễn
Đình Tú, Nguyễn Xuân Thủy..., độc giả có quyền hi vọng về những tác phẩm có chất
lượng nghệ thuật cao và mang tinh thần, văn hóa Việt.


MỘT SỐ THÔNG TIN CÁ NHÂN
1. Họ và tên: Nguyễn Văn Hùng.
2. Học vị: Tiến sỹ Lý luận văn học.
3. Đơn vị công tác: Khoa Ngữ văn, Đại học Khoa học, Đại học Huế.
4. Địa chỉ liên lạc:
Khoa Ngữ văn, Đại học Khoa học, Đại học Huế, số 77 Nguyễn Huệ, Tp. Huế.
5. Điện thoại liên hệ: 0983142845.
6. E-mail:




×