Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Yeu_to_dan_gian_trong_nghe_thuat_trang_tri_lang_Thieu_Tri1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (76.94 KB, 7 trang )

Yếu tố dân gian trong nghệ thuật trang trí lăng Thiệu Trị, Huế
NCS. Nguyễn Vũ Lân
Trường Đại học Nghệ thuật, Đại học Huế
ThS. Lê Minh Quang
Trường Đại học Đồng Tháp

Tóm tắt
Lăng Thiệu Trị là một trong những cơng trình hàm chứa nhiều giá trị nghệ thuật tạo
hình đặc sắc có sự ảnh hưởng từ yếu tố văn hóa dân gian. Trân quý và tiếp thu nhiều yếu tố
của nền nghệ thuật dân gian vốn có lịch sử lâu đời mang cốt cách, tinh thần của dân tộc, các
nghệ nhân bằng trí tuệ và tài năng đã sáng tạo nên những giá trị tạo hình độc đáo, giàu tính
thẩm mỹ và tính biểu cảm song rất đỗi gần gũi với đời sống ở cơng trình kiến trúc này. Những
giá trị nghệ thuật trang trí dân gian ở lăng Thiệu Trị khơng chỉ được thể hiện ở lối bố cục,
đề tài, chất liệu, màu sắc, kỹ thuật… mà còn ở cả tinh thần của cuộc sống được đưa vào kiến
trúc hết sức sinh động. Đó dường như là thơng điệp mà thế hệ nghệ nhân ở một thời kỳ lịch
sử đã để lại với một con đường riêng, một phong cách riêng của nghệ thuật thời Nguyễn.
Từ khóa: Nghệ thuật trang trí, lăng Thiệu Trị, yếu tố dân gian.

Trải qua hơn 200 năm lịch sử, các chúa Nguyễn (1558 - 1777) đã để lại những di sản
văn hóa vơ cùng phong phú và các giá trị đặc sắc về nghệ thuật tạo hình. Đến triều Nguyễn
(1802 - 1945), kinh đơ Huế đã thực sự thừa hưởng được nhiều di sản văn hóa quan trọng.
Đây là sự kết tinh cơng sức, trí tuệ và thành quả lao động sáng tạo của nhiều thế hệ tri thức,
nghệ nhân của cả nước, từ đó tạo nên một diện mạo kiến trúc cung đình, lăng tẩm rất đặc
trưng của triều Nguyễn trên đất Huế.
Để Huế có được diện mạo như ngày nay, công cuộc xây dựng kinh thành bắt đầu từ
thời Gia Long, qua gần hết thời Minh Mạng (1802 - 1840) mới cơ bản hoàn thiện. Vua Gia
Long đã cho xây dựng các cơng trình kiến trúc như Hoàng thành, Kinh thành, Đàn Nam
Giao, đàn Xã Tắc, Kỳ Đài, Văn Miếu… Sau khi vua Gia Long mất, vua Minh Mạng lên nối
ngôi, đã tiếp tục xây dựng các cơng trình do vua cha để lại, đồng thời cho xây dựng một số

1




cơng trình khác như: Ngọ Mơn, các vọng lâu trên cổng thành, Hổ Quyền, Võ Miếu, Hiếu
lăng (1840)…
Đến thời Thiệu Trị (1841 - 1847) và thời Tự Đức (1848 - 1883) tiếp tục cho xây dựng
bổ sung các cơng trình như điện Long An, Xương lăng, Khiêm lăng, một số cơng trình khác
ngồi kinh thành như chùa Diệu Đế, tháp Phước Duyên chùa Linh Mụ… Toàn bộ kiến trúc mà
các vị vua đầu triều Nguyễn đã cho xây dựng đều mang đậm bản sắc văn hóa phương Đơng
truyền thống.
Đến các cơng trình dưới thời vua Đồng Khánh, Khải Định và những giai đoạn trở về
sau, do ảnh hưởng của văn hóa phương Tây đã sử dụng vật liệu mới, các hoa văn trang trí
mạng đậm phong cách châu Âu như lăng Khải Định, cung An Định, lầu Kiến Trung. Chính
điều đó đã làm cho nghệ thuật kiến trúc cung đình thời Nguyễn trở nên phong phú, đa dạng,
khác biệt và đặc sắc. Đáng chú ý là việc tạo hình trang trí ở cung đình, lăng tẩm, cho dù sử
dụng các vật liệu, chất liệu, hoa văn, họa tiết, bố cục tạo hình nào đi chăng nữa cũng khơng
làm mất đi những quy định nghiêm ngặt và tất cả đều thực hiện theo quy chuẩn mà triều đình
ban hành.
Nhìn một cách bao quát chúng ta thấy nghệ thuật trang trí dân gian cũng có mặt hầu
hết ở khơng gian kiến trúc với các đề tài, mơ típ trang trí kiến trúc mang âm sắc dân gian bên
cạnh tính chất cung đình là rất phong phú và đa dạng. Các đề tài trang trí phải phù hợp, tương
ứng với mỗi cơng trình kiến trúc sử dụng cho nhà vua hay các phi tần, quan lại và các cơng
trình phụ khác trong cung đình, lăng tẩm… Đề tài trang trí chủ yếu mang tính chất biểu
trưng, nhằm thể hiện sự cao sang quyền quý của chốn cung đình và được kết hợp thành từng
nhóm một như: tứ linh (long, lân, quy, phụng); tứ thời (mai, lan, cúc, trúc ứng với 4 mùa
xuân, hạ, thu, đông); bát bửu (8 vật quý như: gậy như ý, đàn, bầu thái cực, cuốn thư, quạt,
sáo, pho sách, phất trần và kiếm) bố cục “nhất thi, nhất họa” (một ơ chữ, một ơ hình), ngồi
ra cịn có các hình tượng con vật được cách điệu… Đi sâu vào các mảng trang trí, người ta
khơng chỉ thấy những kiểu thức ấy với những giá trị nghệ thuật và đặc điểm tạo hình, ý nghĩa
biểu hiện tâm linh đặc sắc mà còn nhận ra các đề tài dân gian với những hình tượng đời
thường trong cuộc sống được đưa vào trang trí đã làm sinh động, phong phú và giàu tính thẩm

mỹ ở các cơng trình kiến trúc cung đình. Đây có thể xem là một điều khá đặc biệt trước sự
nghiêm ngặt trong điển chế quy định. Tuy nhiên, dù là yếu tố dân gian nhưng hệ thống các
công trình được trang trí cũng phải theo một ngun tắc nhất định, tất cả các yếu tố tạo hình ấy

2


đều chứa đựng những ẩn ý tại mỗi vị trí nào đó trong từng cơng trình và thể hiện ý nghĩa như:
sung túc, trường tồn, no ấm, hạnh phúc và cả ý nghĩa biểu hiện tâm linh. Về vấn đề này, tác giả
Trần Đức Anh Sơn trong “Huế - Triều Nguyễn một cái nhìn” đã nhận định rằng: “… về tính
dân gian trong trang trí cung đình thời Nguyễn mà lịch sử đã để lại trên những di tích, những
cổ vật cịn bảo lưu ở Huế... góp phần chứng minh rằng trang trí Nguyễn khơng dừng lại trong
khn mẫu nghiêm ngặt mà giai cấp phong kiến định chế…Nói cách khác, họ đã ‘dân gian hóa
tác phẩm cung đình” và đã tạo hiệu quả tốt, được giai cấp phong kiến chấp nhận” [5, tr.417].
Tính dân gian trong trang trí thời Nguyễn nói chung và lăng Thiệu Trị nói riêng hết
sức phong phú và đa dạng. Điều đó cho thấy, các nghệ nhân đã khéo léo truyền vào tác phẩm
những phẩm chất dân gian bình dị qua mỗi đề tài trang trí, hình tượng, họa tiết… cho đến xử
lý các chất liệu để tạo nên hiệu quả tạo hình, mang tính đặc trưng triều đại trên các cơng trình
kiến trúc thời Nguyễn. Các mơ típ trang trí, đề tài, hình tượng chữ triện, chất liệu có những
nét khác biệt và những cái riêng so với các thời kỳ trước. Nhiều đề tài dân gian được đưa vào
trang trí ở lăng khá nhiều như: chim, nai, hươu, thỏ, dơi, điệp, đề tài được mở rộng theo từng
bộ như tứ thời (4 mùa), bát bửu... ; các đề tài thực vật như cây liễu, cây mai, cây tùng, cây
trúc, hoa sen, hoa lan, hoa đào, trái cây đời thường như khế, chanh, mít tố nữ, bầu bí, dưa…
kết hợp với nhiều loại chất liệu mới, dân dã và rất đời thường như sành sứ, gốm đất nung ở
Long Thọ, chất liệu đồng ở Phường Đúc, pháp lam, đá, gỗ, nề vữa, nề đắp nổi, nề họa, nề đắp
nổi kết hợp với khảm sành sứ... Tất cả đều từng xuất phát từ đời sống dân gian và nay góp
mặt hầu hết trong nghệ thuật trang trí ở lăng. Tại lăng Thiệu Trị hình tượng bát bửu xuất hiện
khá dày đặc, và xét ở góc độ dân gian thì đây là một trong những đề tài hội đủ các yếu tố đối
với đời sống thường nhật của người dân qua các chủ đề như:
Chủ đề âm nhạc: Bên cạnh những đề tài như đôi sáo, đàn tì bà, đàn tranh, trống cá,

chng, loa ốc, cồng, cịn có những đề tài dân gian như tù và, phách nhịp, sanh tiền, xập
xõa...
Chủ đề hoa trái: Bên cạnh những đề tài cung đình như đào, na, mận, phật thủ, lựu,
bầu hồ lơ, hoa dây, sen, cịn có những trái cây dân gian như khế, mít, dưa quả.
Chủ đề khoa cử: Bên cạnh những đề tài cung đình như pho sách, bút, cuốn thư,
nghiên mài mực, kệ sách, cịn có cây bút, cuốn thư hình lá cây, sách tre, đĩa mực…
Chủ đề tâm linh: Nút huyền bí, vịng viên mãn, gậy như ý, kiếm, lá ngải, phất trần,
sanh tiền, hồ lô, lọng.

3


Chủ đề thiên nhiên: Lẵng hoa, sep búp, địa lan, nấm linh chi…
Ngồi ra cịn có một số đề tài dân gian khác cũng xuất hiện tại cơng trình này như:
quạt, bàn cờ, gương soi, ống hút(thuốc), lọ mực, dép rơm, gậy trúc… Điều khác biệt ở nhà
bia so với các cơng trình khác đó là, hệ thống trang trí bát bửu mang nét thô mộc của chất liệu
gỗ với một phong cách bình dị và gần gũi với thực tế đời sống con người. Với những bức chạm
gỗ có vẻ thô mộc không sơn son thếp vàng, không phủ bóng, có thể coi đây là sự phá cách về
chất liệu vốn mang màu sắc cung đình với sơn son thếp vàng đã tạo nên một tiền đề tốt cho
việc dân gian hóa trong sử dụng các chất liệu quý mà chúng ta thường thấy trên các cơng trình
kiến trúc. Phải chăng đây là một ranh giới đã được vượt qua trong nghệ thuật triều Nguyễn
thời Thiệu Trị?
Đề tài tứ thời cũng được trang trí trên một số cơng trình ở lăng, tuy không nhiều như
các đề tài khác, nhưng đây cũng là một đề tài mang đậm yếu tố dân gian khá đặc sắc qua các
chủ đề như: mai điểu, tùng lộc, lan điệp, cúc điệp. Ngồi ra, cịn có một số mơ típ trang trí
khá lạ mắt đó là: đôi ngựa kết hợp với hoa cúc, cây liễu với chất liệu chạm nổi, sơn son thếp
vàng được trang trí ở nội thất điện Biểu Đức, con thỏ kết hợp với cây lan chất liệu nề họa,
trên gờ mái hai bên Đơng, Tây phối điện.
Hình tượng rồng ở lăng Thiệu Trị có thể xem là linh vật quan trọng và được cụ thể
hóa bằng ngơn ngữ nghệ thuật tạo hình do chính sự tưởng tượng và bàn tay của nghệ nhân

dân gian. Mặc dù có rất nhiều hình tượng rồng ở lăng Thiệu Trị được các nghệ nhân truyền
tải, nhưng dù hình tượng đó được tả thực hay cách điệu, hung dữ hay uy nghiêm, thanh nhã
hay mập mạp, uốn lượn nhiều khúc hay ít khúc, thì con rồng ở lăng Thiệu Trị, qua bàn tay
nghệ nhân đã mang một dáng vẻ khác hẳn so với các thời kỳ trước. Hình tượng rồng với
nét mặt hiền lành, thân hình mềm mại, mập trịn hơn, qua đó đã tạo nên một sự khác biệt
trong biểu hiện nghệ thuật trang trí thời Nguyễn.
Hình tượng con dơi được đưa vào trang trí khá dày đặc trên các cơng trình kiến trúc ở
lăng Thiệu Trị. Đây là bộ đề tài mở rộng từ tứ linh cung đình kiểu bát linh với với 4 con dân
gian là cá - dơi - hổ - hạc. Dơi là con vật có thật trong đời sống dân gian đã đi vào bộ đề tài
bát linh, và là linh vật được sử dụng khá nhiều ở lăng. Hầu hết hình tượng con dơi được trang
trí ở các góc, ngách, đầu hồi, bình phong, hai bên mái… nhằm tạo sự mềm mại trên kiến trúc.
Với kỹ thuật điêu luyện của các nghệ nhân, hình tượng con dơi được cách điệu khá độc đáo và
mang nhiều ý nghĩa tâm linh qua các biểu tượng như: dơi ngậm đồng tiền, dơi ngậm chữ thọ,

4


dơi ngậm dải lụa, dơi kết hợp vân mây hay hoa lá… Tồn bộ được hình tượng hóa mang ý
nghĩa ấm no, đa phúc, giàu sang, phú quý, trở thành một trong tám con vật thiêng của nghệ
thuật trang trí. Hình tượng dơi được cách điệu phù hợp với mỗi vị trí khác nhau trong trang
trí kiến trúc và đóng vai trị hết sức quan trọng, tạo ra một khơng gian nhiều lớp, có chiều sâu
của hình khối và một không gian rộng lớn, sinh động và giàu sức sống. Qua đó cho thấy, dơi
- một con vật đời thường nhưng được sinh ra từ tư duy liên tưởng hữu thức của con người,
một sản phẩm tín ngưỡng đã được hình thành dần theo dịng lịch sử.
Rùa cũng là đề tài đáng chú ý, đây là con vật có thật và được đặt ở một vị trí quan
trọng khơng thể thiếu trong nghệ thuật trang trí cung đình. Hình tượng tứ linh, với bốn con
vật linh, nhưng đến ba con là khơng có thật. Vậy vì sao một con vật có thật lại được dân gian
gắn nó vào bộ tứ linh cũng là một câu hỏi được đặt ra mà các nhà nghiên cứu chưa có lời giải
thích thỏa đáng. Trong dân gian cịn có câu vè “gặp rắn thì đi, gặp rùa thì về” như hàm ý muốn
nhắc nhở rằng khi đi giữa đường gặp phải rùa là một điềm xấu, không nên tiếp tục đi mà nên

quay đầu trở về, vấn đề này cũng được tác giả L.Cadiere nhận định: “… người ta tin rằng con
rùa, luôn luôn chỉ có con cái, đã giao phối với một lồi rắn. Vì ngun nhân đó, con rùa được xem
như là biểu tượng của sự bất chính. Vẽ hình con rùa trên cửa nhà một người nào đó, chính là muốn
nói cho người đó họ có một hạnh kiểm xấu, tồi” [4, tr.274].
Tuy nhiên, ở một góc nhìn khác con rùa lại là biểu tượng cho sự trường tồn, vì theo
truyền thuyết nó sống đến hơn nghìn năm, mai rùa trên tròn dưới phẳng dẹt tượng trưng cho
trời và đất, trên mai có các hình lục giác, vì vậy dân gian hay sử dụng hoa văn mai rùa khi
trang trí móng nhà với ý nghĩa tượng trưng cho sự bền vững, chắc chắn. Ngồi ra, rùa cịn là
biểu tượng về ý chí học hành, thi cử đỗ đạt…
Trong quan niệm dân gian cho rằng rùa vừa có điềm xấu, vừa mang điềm tốt, vì vậy
trong nghệ thuật trang trí thời Nguyễn nói chung và lăng Thiệu Trị nói riêng ln gắn ghép
nó với một biểu tượng hay một hình tượng khác, rất ít khi thấy con rùa được trang trí đơn
nguyên trong các cơng trình kiến trúc. Các nghệ nhân ln sử dụng rùa kết hợp với một biểu
tượng khác như: rùa đội bia, rùa đội pho sách, chim hạc đứng trên lưng rùa, rùa ngậm bọt
biển… Tất cả đều mang ý nghĩa thẩm mỹ tâm linh, vì vậy nó đã được gắn trang trí trên các
cơng trình kiến trúc tiêu biểu. Ở lăng Thiệu Trị, các nghệ nhân đã sử dụng gị đồi hình mai
rùa trong việc tạo nên cơng trình lầu Đức Hinh. Tuy nhiên, do chiến tranh tàn phá nên cơng
trình này chỉ cịn lại phần móng với một số kiểu thức trang trí sót lại.

5


So với những con vật linh khác như rồng, phụng thì con nghê là một con vật được
nhắc đến cũng khá nhiều, đồng thời nó ln được đặt ở những vị trí khá quan trọng như hình
tượng nghê đồng oai vệ đứng chầu hai bên nhà bia lăng Thiệu Trị. Con nghê là linh vật biến
thể từ lân thành nghê hay long mã ở dân gian và được sử dụng một cách hết sức phổ biến
trong văn hóa cung đình. Đây là linh vật hư cấu nên nó khơng có hình dáng cố định mà tùy
vào thời kỳ lịch sử sẽ có những tạo hình con nghê khác nhau. Tùy vào vị trí chức năng sử
dụng mà các nghệ nhân tạo hình các biểu tượng nghê cho phù hợp. Chẳng hạn như nghê có
sừng hay khơng có sừng, nghê có bờm hay khơng có bờm, nghê có vảy hay có lơng xoắn,

nghê có móng vuốt hay nghê khơng có móng… Qua nghiên cứu, đối chiếu cho thấy, đôi nghê
bằng đá sa thạch chầu trước cổng bi đình lăng Minh Mạng so với đôi nghê bằng đồng chầu
hai bên nhà bia lăng Thiệu Trị là một điển hình mà qua đó chúng ta thấy được sự tương đồng
và khác biệt chất liệu của chúng một cách hiện hữu nhất.
Yếu tố dân gian trong nghệ thuật thời Nguyễn nói chung và trang trí ở lăng Thiệu Trị
nói riêng, ngồi tứ linh cho đến các biểu tượng trang trí khác như hoa lá, quả, động vật… đều
mang tính đời thường, dân dã được dân gian hóa, thể hiện ở họa tiết và thủ pháp trang trí
trong các cơng trình của lăng. Ngồi sự kết hợp giữa các mơ típ trang trí với chất liệu vốn có
ở dân gian, các nghệ nhân cịn sử dụng màu sắc để tô điểm sao cho phù hợp ứng với từng đề
tài trang trí, chính vì vậy đã tạo nên sự lộng lẫy, hồnh tráng trên các cơng trình kiến trúc ở
lăng Thiệu Trị. Đó cịn là sự thể hiện bàn tay tài hoa của các nghệ nhân khi tìm cách đưa
những hình tượng dân gian vào trong nghệ thuật trang trí một cách trật tự và liên kết. Các
biểu tượng không những mang ý nghĩa sâu sắc tạo nên giá trị thẩm mỹ tạo hình mà cịn chứa
đựng nhiều ý nghĩa triết lý nhân văn, tâm linh trên mỗi mơ típ trang trí kiến trúc của lăng. Từ
phong cách tạo hình, bố cục, khơng gian họa tiết đều được thể hiện một cách khá hồn thiện,
có hồn và gần gũi với đời sống, tạo được ấn tượng nghệ thuật có giá trị thẩm mỹ và độc đáo,
phong phú, khác lạ góp phần tăng thêm tính chất thẩm mỹ cung đình đặc trưng vốn có trong
trang trí ở lăng. Tuy nhiên, khi đưa yếu tố dân gian vào trang trí, các nghệ nhân vẫn khơng
vượt q xa những điển chế của mỹ thuật thời Nguyễn, khi mà việc sử dụng nhiều chất liệu
dân gian để trang trí trên các cơng trình trở nên phổ biến, thay thế dần những chất liệu “quý
tộc” như pháp lam, sơn son thếp vàng, vàng, bạc, đồng… Điều này góp phần minh chứng
rằng, trang trí thời Nguyễn khơng dừng lại trong khn mẫu quy định nghiêm ngặt của triều
đại phong kiến, đâu đó đã chấp nhận sự tồn tại của chất liệu dân gian trong trang trí mà lịch

6


sử đã để lại trên các cơng trình kiến trúc vô cùng phong phú và đặc sắc, thể hiện qua tính dân
gian trong họa tiết và thủ pháp trang trí, trong chất liệu, trong đề tài...
Có thể nói, nghệ thuật trang trí dân gian ở lăng Thiệu Trị đã phần nào tạo được ấn

tượng khá đặc sắc, làm phong phú thêm tính chất đặc trưng của nghệ thuật trang trí kiến trúc
thời Nguyễn trong dòng chảy nghệ thuật dân tộc.
Tài liệu tham khảo
1. Phan Thanh Bình (2010), “Bộ đề tài Tứ thời trên di sản mỹ thuật thời Nguyễn tại
Huế”, Tạp chí Di sản Văn hóa, Số 4(33), tr.89-91.
2. Phan Thanh Bình (2017), “Đề tài bát bửu trong trang trí kiến trúc thời Nguyễn ở
Huế”, Tạp chí Mỹ thuật và Nhiếp ảnh, Số 9(63), tr.52-56.
3. Nguyễn Tiến Cảnh (chủ biên) (1992), Mỹ thuật Huế, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố
đô Huế và Viện Mỹ thuật xuất bản, Huế.
4. Léopold Cadière (1998), “Mỹ thuật Huế”, Hà Xuân Liêm - Phan Xuân Sanh dịch,
Những người bạn Cố đô Huế, Tập VI, 1919, Nxb Thuận Hoá, Huế.
5. Trần Đức Anh Sơn (2018), Huế - Triều Nguyễn một cái nhìn, Nxb Dân trí, Hà Nội.
6. Viện Khoa học xã hội tại Tp. Hồ Chí Minh, Bảo tàng Lịch sử Tp. Hồ Chí Minh
(1995), Những vấn đề văn hóa - xã hội thời Nguyễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

7



×