Đánh giá tác động của đầu tư trực
tiếp nước ngoài đến sự phát triển các
ngành và lónh vực của Thành phố
Hồ Chí Minh
Nguyễn Thị Hồi Phương
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) có một vò trí đặc biệt quan trọng
cả về mặt chính trò, kinh tế, xã hội và giao lưu quốc tế, là một trung tâm
của khu vực phía Nam và cả nước. Với vò trí là một đô thò lớn nhất nước ta,
một trung tâm lớn về kinh tế, văn hoá, khoa học, công nghệ, đầu mối giao
lưu quốc tế quan trọng, Thành phố (TP) luôn chòu sự tác động sâu sắc bởi
bối cảnh chung của trong nước và quốc tế. Mỗi thuận lợi hay không thuận
lợi, mỗi thành công hay không thành công, mỗi bước đi nhanh hay chậm,
bền vững hay thiếu bền vững của TP đều có ảnh hưởng trực tiếp đến nhòp
điệu phát triển chung của khu vực và cả nước. Bên cạnh những thuận lợi cơ
bản từ những thành tựu đạt được, những kinh nghiệm trong quá trình thực
hiện đường lối đổi mới của Đảng, sự mở rộng quan hệ hợp tác và liên kết
quốc tế… Thành phố cũng đã gặp không ít khó khăn (chủ quan lẫn khách
quan).
Nhằm tiếp tục phát huy vò trí và vai trò của TP, Nghò quyết của Đại
hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ 7 đã khẳng đònh: “tiếp tục giữ vững
vai trò một trung tâm thương mại-dòch vụ-công nghiệp của khu vực phía
Nam và cả nước”[7, tr.3]. Trong thời gian qua, TPHCM đã đạt được những
thành công quan trọng trong việc thu hút nguồn vốn trung và dài hạn, trong
đó gồm thu hút đầu tư nước ngoài (ĐTNN). Do có ưu thế về vò trí đòa lý, hạ
tầng kỹ thuật, nguồn nhân công lành nghề nhất cả nước, TP không những là
đòa phương sớm thu hút được ĐTNN, mà còn liên tục nhiều năm dẫn đầu về
số dự án và nguồn vốn ĐTNN. Trước sức ép lộ trình giảm thuế quan,
TPHCM là cột mốc quan trọng của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, TP
phải bằng mọi cách tranh thủ tối đa ngoại lực, phát huy cao độ tiềm lực bên
trong, đẩy nhanh việc hoàn thiện môi trường chính sách, tạo điều kiện thu
hút ĐTNN hiệu quả nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược về phát triển
kinh tế - xã hội mà TP đặt ra.
Tình hình nghiên cứu trong nước: đã có nhiều nhà khoa học tiến hành
nghiên cứu. Một số trong đó là: đề tài “Đánh giá vai trò của Đầu tư trực
tiếp nước ngoài trong phát triển kinh tế - xã hội trên đòa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh” (do Th.s Nguyễn Văn Quang chủ nhiệm, Viện Kinh tế TPHCM
2004); đề tài “Khảo sát đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” (do Nguyễn
Thanh Hà, Nguyễn Võ Hưng, Viện Quản lý kinh tế Trung ương và Klaus
Meyer, trường kinh doanh London thực hiện, Hà Nội 2/2003); đề tài “Đầu
tư nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 1991-2000” (do TS.
Nguyễn Ngọc Thanh và Nguyễn Đình Mai cùng các cộng sự thực hiện, năm
2000); đề tài “Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Tthành phố Hồ Chí Minh - tình
trạng và giải pháp” (do TSKH. Trần Trọng Khuê, TS. Trương Thò Minh
Sâm, PGS.TS. Đặng Văn Phan và các cộng sự thực hiện); đề tài “Đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam từ 1988 đến nay” (của Trần Thò Hồng
Lê, ĐHSP TPHCM - 2004); đề tài “Tìm hiểu tình hình đầu tư nước ngoài tại
Thành Phố Hồ Chí Minh giai đoạn 1991-2003” (của Cao Văn Biên, ĐHSP
TPHCM)… Các nghiên cứu trên phần lớn đề cập đến ĐTNN tại TPHCM,
Việt Nam trong mối tương quan chung các với nước trong khu vực và trên
thế giới. Ngoài ra còn có một số các bài báo, phóng sự… nhưng chỉ dừng ở
cấp độ cung cấp thông tin, gợi mở các vấn đề mang tính khái quát.
Như vậy, ĐTNN đã và đang đóng một vai trò quan trọng trong sự
phát triển kinh tế của TPHCM về các mặt như giải quyết công ăn việc làm
cho người lao động, tạo ra sự chuyển dòch cơ cấu kinh tế của TP… Tuy
nhiên, nguồn vốn ĐTNN vào TP từ 1995-2004 có nhiều sự thay đổi, nhưng
so với một số nước trong khu vực thì khả năng thu hút vẫn còn hạn chế.
Trước tình hình đó đòi hỏi phải có một công trình nghiên cứu tổng thể
ĐTNN vào TP trong thời gian qua để tìm hiểu, đánh giá những mặt được và
chưa được từ đó đưa ra những biện pháp đúng đắn trong thời gian tới. Sự ra
đời của đề tài “Đánh giá tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến sự
phát triển các ngành và lónh vực của Thành phố Hồ Chí Minh” cũng nằm
trong lý do đó.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đánh giá hiện trạng ĐTNN tại TPHCM trong những năm gần đây,
đặc biệt là giai đoạn sau khi có chủ trương chủ động tích cực thu hút ĐTNN
1998-2005.
Phân tích và chỉ ra các mặt mạnh, mặt yếu và chỉ ra được các nhân tố
tác động đến các ngành và các lónh vực của quá trình ĐTNN tại TPHCM.
Việt Nam nói chung và TPHCM nói riêng quan tâm quá nhiều vào đến số
lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khi các nước lại chú trọng thu
hút chất lượng các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong quá trình
cạnh tranh thu hút đầu tư ta quá coi trọng sẽ lấy được bao nhiêu dự án
nhưng dường như xem nhẹ lợi ích của dự án, tác động của dự án đến nền
kinh tế. Đònh hướng đưa TPHCM trở thành một trung tâm thương mại, dòch
vụ, sản xuất công nghiệp sử dụng nhiều chất xám, công nghệ cao, vì thế
đòi hỏi phải có những giải pháp thu hút đầu tư mạnh mẽ mà các giải pháp
này phải quan tâm đến chất lượng các dự án.
Trên cơ sở đó đề tài đưa ra một số kiến nghò nhằm thu hút mạnh mẽ
hơn nữa nguồn ngoại lực, tăng cường các tác động tích cực và hạn chế các
tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài để phục vụ công cuộc xây
dựng và phát triển kinh tế - xã hội của TP trong thời gian tới.
Đưa ra một số kiến nghò nhằm thu hút mạnh mẽ hơn nữa nguồn ngoại
lực để phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển TP trong thời gian tới.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
-Về nội dung: luận văn chỉ giới hạn vào việc phân tích, đánh giá các yếu
tố:
+Số dự án được cấp phép.
+Số dự án phân theo ngành kinh tế và lónh vực đầu tư.
+Quy mô dự án, số vốn bình quân một dự án.
+Đối tác đầu tư chủ yếu.
+Thu hút và sử dụng lao động.
-Về thời gian: từ 1995-2004, đặc biệt là giai đoạn 2000-2004.
-Về không gian: phạm vi nghiên cứu TPHCM.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
-Thu thập và phân tích các tài liệu, văn bản, số liệu liên quan đến ĐTNN
trong phạm vi cả nước và TPHCM.
-Kế thừa các tư liệu có sẵn.
-Phương pháp phân tích liên ngành.
-Sử dụng phân tích thống kê và phương pháp so sánh.
-Sử dụng phương pháp hệ thống thông tin đòa lý (GIS), phần mềm
Photoshop.
5. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương chính sau:
Chương 1: Tầm quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự
phát triển cả nước và Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 2: Đánh giá tác động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành
và lónh vực kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3 : Các giải pháp thu hút và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG
Chương 1:
TẦM QUAN TRỌNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CẢ NƯỚC VÀ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
1.1. Các khái niệm và hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI:
Foreign Direct Investment)
1.1.1. Khái niệm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTTTNN) là một loại hình đầu tư
quốc tế, trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý
và điều hành hoạt động sử dụng vốn. Nói cách khác, đây là hình thức đầu
tư trong đó người bỏ vốn đầu tư và người sử dụng vốn là một chủ thể. Các
doanh nghiệp (DN), các cá nhân người nước ngoài (các chủ đầu tư) trực tiếp
tham gia vào quá trình quản lý, sử dụng vốn đầu tư và vận hành các kết quả
đầu tư nhằm thu hồi đủ vốn đã bỏ ra.
Về thực chất FDI là sự đầu tư của các công ty nhằm xây dựng các
cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó.
FDI chủ yếu được thực hiện từ nguồn vốn tư nhân, vốn của các
công ty nhằm mục đích thu được lợi nhuận cao hơn qua việc triển khai hoạt
động sản xuất kinh doanh ở nước ngoài.
1.1.2. Đặc điểm của FDI
- Các chủ ĐTNN phải đóng góp một số tối thiểu vào vốn pháp đònh,
tuỳ theo luật lệ mỗi nước.
- Quyền quản lý, điều hành đối tượng đầu tư tuỳ thuộc vào mức độ
góp vốn. Nếu góp 100% vốn thì đối tượng đầu tư hoàn toàn do chủ ĐTNN
điều hành và quản lý.
- Lợi nhuận từ hoạt động đầu tư phụ thuộc vào kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh và được phân chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp
đònh.
- FDI được xây dựng thông qua việc xây dựng doanh nghiệp (DN)
mới, mua lại toàn bộ hay từng phần DN đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu
để thôn tính hay sáp nhập các DN với nhau.
1.1.3. Các hình thức đầu tư
Có nhiều hình thức đầu tư nhưng phổ biến các hình thức sau:
- Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp tác kinh doanh
- Doanh nghiệp liên doanh
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Tuỳ theo điều kiện từng quốc gia, các hình thức đầu tư trên được áp
dụng ở mức độ khác nhau.
1.1.3.1. Hợp đồng hợp tác kinh doanh (Business Cooperation Contract)
Đây là một loại hình đầu tư, trong đó các bên tham gia hợp đồng
ký kết thoả thuận để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động sản xuất - kinh
doanh ở nước nhận đầu tư, trên cơ sở quy đònh rõ đối tượng, nội dung kinh
doanh, nghóa vụ, trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho các bên
tham gia.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh do đại diện có thẩm quyền của các bên
hợp doanh ký. Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng do các bên thoả thuận và
được cơ quan có thẩm quyền của nước nhận đầu tư chuẩn y.
Trong các loại hình ĐTTTNN, hợp đồng hợp tác kinh doanh rất đa
dạng, không đỏi hỏi vốn lớn, các bên tham gia hợp đồng vẫn là những pháp
nhân riêng, thời hạn hợp đồng thường ngắn. Các nhà ĐTNN có ít tiềm lực
thường thích loại này.
1.1.3.2. Doanh nghiệp liên doanh (Join Venture Company)
Do các bên nước ngoài và nước chủ nhà cùng góp vốn, cùng kinh
doanh, cùng hưởng lợi và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn. Doanh nghiệp
liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có
tư cách pháp nhân theo luật pháp nước nhận đầu tư. Mỗi bên liên doanh
chòu trách nhiệm đối với bên kia, với DN liên doanh trong phạm vi phần
vốn của mình trong vốn pháp đònh. Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài hoặc
của các bên nước ngoài do các bên liên doanh thoả thuận (theo Luật ĐTNN
của Việt Nam, vốn góp của bên nước ngoài không thấp hơn 30% vốn pháp
đònh của DN liên doanh và trong quá trình hoạt động không được giảm vốn
pháp đònh. Đối với các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng tại các vùng kinh tế
- xã hội khó khăn, các dự án đầu tư vào miền núi, vùng sâu, vùng xa, các
dự án trồng rừng tỷ lệ này có thể thấp hơn 20% nhưng phải được cơ quan
cấp giấy phép đầu tư chấp thuận).
Doanh nghiệp liên doanh là loại hình được nước chủ nhà ưa
chuộng vì có điều kiện để học tập kinh nghiệm quản lý, đào tạo lao động,
nhanh chóng có chỗ đứng trên thò trường thế giới. Tuy nhiên, áp dụng hình
thức này đòi hỏi DN của nước chủ nhà phải có khả năng góp vốn, có đủ
trình độ tham gia quản lý DN với người nước ngoài thì nước chủ nhà mới
đạt được hiệu quả mong muốn.
1.1.3.3. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà ĐTNN (tổ chức hoặc cá
nhân người nước ngoài) do nhà ĐTNN thành lập tại nước chủ nhà, tự quản
lý và tự chòu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm
hữu hạn có tư cách pháp nhân theo luật pháp của nước chủ nhà.
Đặc điểm chủ yếu của loại hình này là:
- Chủ ĐTNN bỏ ra toàn bộ vốn đầu tư, đi đủ để duy trì sản xuất,
kinh doanh tại Việt Nam (kể cả phần xây dựng cơ sở vật chất ban đầu).
- Chủ đầu tư thuê đất của chính phủ Việt Nam.
- Chủ đầu tư thuê và trả lương cho các chuyên gia Việt Nam và
nước ngoài.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài lúc đầu không được người
nước ngoài ưa thích vì họ muốn chia sẻ rủi ro với nước chủ nhà, còn nước
chủ nhà cũng không thích vì muốn được chia sẻ lợi ích, học tập kinh nghiệm
quản lý được hoạt động của DN. Tuy nhiên hình thức này ngày càng được
các chủ đầu tư ưa thích vì được tự mình quản lý và hưởng lợi nhuận do kết
quả đầu tư tạo ra (chủ đầu tư phải làm tròn nghóa vụ tài chính với nước chủ
nhà) còn nước chủ nhà không phải lúc nào cũng có thể tham gia góp vốn
thành lập DN liên doanh. Vì vậy đối với những dự án đầu tư vốn lớn, thời
hạn thu hồi vốn lâu, độ mạo hiểm cao và không đòi hỏi tham gia quản lý
sát sao quá trình vận hành các kết quả đầu tư (như dự án dầu khí, các dự án
xây dựng hạ tầng cơ sở kỹ thuật) thì thường buộc phải để nhà ĐTNN đầu tư
100%.
1.1.3.4. Các hình thức đầu tư khác
Ngoài 3 hình thức trên, các nước chủ nhà còn áp dụng các hình
thức khác như: hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (B.O.T), xây
dựng - chuyển giao - kinh doanh (B.T.O) và xây dựng - chuyển giao (B.T).
+Hình thức B.O.T (Built - Operate- Transfer): các chủ đầu tư
chòu trách nhiệm xây dựng, kinh doanh công trình trong một thời gian đủ để
thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý. Sau khi dự án kết thúc, toàn bộ
công trình sẽ được chuyển giao cho nước chủ nhà mà không thu bất kỳ một
khoảng tiền nào.
+Hình thức B.T.O (Built - Transfer - Operate) : sau khi xây dựng
xong, nhà đầu tư chuyển giao cho nước chủ nhà. Chính phủ nước chủ nhà
dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời gian
nhất đònh để thu hồi đủ vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.
+Hình thức B.T (Built - Transfer): sau khi xây dựng xong, chủ
đầu tư chuyển giao công trình đó cho nước chủ nhà, nước chủ nhà sẽ tạo
điều kiện cho nhà ĐTNN thực hiện dự án khác để thu hồi đủ vốn đầu tư và
có lợi nhuận hợp lý.
1.2. Bối cảnh quốc tế và trong nước
1.2.1. Xu thế hội nhập, toàn cầu hoá
Trong suốt thế kỷ XX, xu thế quốc tế hoá kinh tế trong quy mô
khu vực và toàn cầu diễn ra mạnh mẽ. Đặc biệt là khi xuất hiện nền văn
minh công nghiệp, mà trong đó khoa học và công nghệ đóng vai trò then
chốt đã thúc đẩy nền sản xuất mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu,
vượt ra khỏi ranh giới đòa - chính trò chật hẹp truyền thống, góp phần gia
tăng quy mô và tốc độ nền sản xuất xã hội. Vào những năm cuối thế kỷ XX
- đầu thế kỷ XXI này thì quốc tế hoá ngày càng sâu rộng, đã đạt tới một
quy mô mới lớn hơn, ở một trình độ cao hơn - đó là toàn cầu hoá. Đây là
một xu thế khách quan, một quy luật tất yếu trong sự phát triển của xã hội
loài người. Đồng thời đây cũng là một xu thế chứa đựng các cơ hội và các
thách thức to lớn đối với mọi quốc gia hiện nay, đặc biệt đối với các nước
đang phát triển như Việt Nam.
Các luồng thương mại, dòch vụ, ĐTTTNN và tài chính, công nghệ,
nhân lực giữa các nước gia tăng mạnh mẽ cả về tốc độ lẫn quy mô, trong
đó FDI phát triển với tốc độ nhanh hơn thương mại quốc tế.
Từ cuối thập niên 80 - đến đầu thập niên 90, Liên Xô sụp đổ, hệ
thống xã hội chủ nghóa bò tan rã đã phá vỡ toàn diện lưỡng cực cũ. Kết quả,
một trật tự thế giới mới đã được hình thành với những xu thế thay đổi lớn
về chất: từ đối đầu, xung đột, chạy đua chuyển sang ganh đua, cạch tranh
phát triển kinh tế, mở rộng giao lưu và đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối
ngoại; chính sách mở cửa thay cho đóng cửa; liên kết kinh tế khu vực đồng
thời với toàn cầu hoá thò trường và kinh tế (tiêu biểu là sự hình thành tổ
chức liên kết kinh tế mang tính toàn cầu như APEC, AFTA, NAFTA, G-8…
).
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các nước trong khu vực
đã và đang có những bước chuyển biến mạnh mẽ. Sự hợp tác giữa các
thành viên ASEAN trong hầu hết tất cả các lónh vực đầu tư, công nghiệp tài
chính, du lòch… phát triển nhanh chóng và thu được nhiều kết quả quan
trọng, góp phần phát triển kinh tế từng nước và cả khu vực. Đặc biệt, khu
vực mậu dòch tự do ASEAN (AFTA) được bắt đầu thực hiện từ ngày
1/1/1993 và thực hiện đầy đủ đối với các nước Việt Nam vào năm 2005,
Lào và Myanma vào năm 2007 và Campuchia vào năm 2009. Các nước
ASEAN thực hiện đầy đủ các nghóa vụ AFTA sẽ mở ra một thò trường rộng
lớn gồm khoảng 500 triệu người tiêu dùng với những mức thuế quan ưu đãi
và hàng rào phi thuế quan được giảm thiểu, hứa hẹn những cơ hội đầu tư,
kinh doanh hấp dẫn cho các nhà ĐTNN.
Nhận thức được tầm quan trọng của vai trò FDI đối với tăng
trưởng kinh tế và giải quyết vấn đề việc làm nên các nước công nghiệp
phát triển lẫn các nước đang phát triển đều chú trọng thu hút ĐTNN. Với
việc hình thành NAFTA, EU… môi trường đầu tư tại các khu vực này trở
nên hấp dẫn cạnh tranh hơn do được mở và tự do hoá ở mức cao hơn. Nhiều
nước đang tiếp tục mở cửa tạo điều kiện thuận lợi cho FDI thông qua các
hiệp đònh song phương và những chính sách ưu đãi đầu tư trong phạm vi khu
vực và từng nước để tạo đà đi lên.
Báo cáo đầu tư thế giới năm 2004 của Liên hiệp quốc cũng cho
thấy làn sóng FDI đang hướng về Châu Á với giá trò khoảng 107 tỷ USD
trong năm 2003, chấm dứt sự giảm sút của năm 2000, 2001, 2002 [7, tr.9].
FDI luôn phát triển với tốc độ nhanh và trở thành một loại hình quan hệ
kinh tế có vai trò quan trọng có tính tất yếu đối với sự phát triển nền kinh
tế thế giới và hầu hết các quốc gia, trong đó các nước công nghiệp phát
triển là lực lượng chi phối chủ yếu.
Nhiều ngành trước đây được xem như đóng cửa đối với FDI như
viễn thông, bảo hiểm… đã được mở ra cho FDI và tự do hoá hơn.
Theo các chuyên gia kinh tế thế giới, dòng vốn FDI chuyển sang
lónh vực dòch vụ rõ rệt (bưu chính viễn thông, điện, nước, các loại dòch vụ
thương mại). Trong khoảng thời gian từ 1990 đến 2002, ĐTNN đổ vào
ngành điện, ga và nước tăng từ 10 tỷ lên 144 tỷ USD; các lónh vực viễn
thông, kho bãi, vận tải đón nhận 476 tỷ USD so với con số ít ỏi 29 tỷ USD
trước những năm 1990 [7, tr.9].
Ngoài ra đồng vốn FDI còn đầu tư vào các lónh vực khác như chế
tạo máy, điện tử, sản xuất ôtô. Khả năng thu lợi nhuận của các công ty lớn
hơn sẽ khuyến khích các tập đoàn kinh tế đa quốc gia nâng mức đầu tư ở
nhiều nước.
1.2.2. Chủ trương đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Vài thập kỷ gần đây, dân tộc Việt Nam cùng cả nhân loại đang
đứng trước một hiện thực khách quan là toàn cầu hoá nền kinh tế và đời
sống xã hội, mà động lực của nó là sự phát triển nhanh chóng của cách
mạng khoa học và công nghệ. Những năm gần đây, nhiều quốc gia lớn, nhỏ
đều dành ưu tiên cho phát triển kinh tế và do đó, ngày càng tham gia nhiều
hơn vào quá trình liên doanh, liên kết, hợp tác song phương và đa phương,
khu vực và quốc tế… Đây là điều kiện thuận lợi để các dân tộc xích lại
gần nhau, trao đổi học tập kinh nghiệm và giúp đỡ lẫn nhau… Chúng ta chủ
trương “tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ,
rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế” với tinh thần
“Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển” [7, tr.11].
Từ Đại hội VI (1986) tới nay, chúng ta bước vào thời kỳ đổi mới
từng bước, toàn diện trong bối cảnh nền kinh tế - xã hội lâm vào khủng
hoảng nghiêm trọng và trong bối cảnh quốc tế biến động nhanh chóng,
phức tạp và gây cho chúng ta rất nhiều khó khăn. Cuộc khủng hoảng chủ
nghóa xã hội trên thế giới, đặc biệt là sự sụp đổ các nước xã hội chủ nghóa
Đông Âu và Liên Xô đã dẫn đến nguồn viện trợ ưu đãi, có tính “bao cấp”
về tài chính, vật tư, kỹ thuật từ bên ngoài và thò trường truyền thống tiêu
thụ nhiều loại sản phẩm của ta giảm đột ngột làm đảo lộn những cân đối
quan trọng trong kế hoạch ổn đònh và phát triển kinh tế - xã hội (1986-
1990) những năm đầu của sự nghiệp đổi mới. Cuộc khủng hoảng của nhiều
nước xã hội chủ nghóa trước đây ảnh hưởng lớn tới nhận thức tư tưởng, tâm
tư của đảng viên và nhân dân, cộng với khó khăn mới về các mối quan hệ
kinh tế, đồng thời Mỹ tiếp tục bao vây, cấm vận, các thế lực thù đòch tiếp
tục tấn công về nhiều mặt, trong đó có những biến động trong thời kỳ đổi
mới, xuất hiện lạm phát phi mã… những khó khăn đó tưởng chừng không
thể vượt qua (Kết thúc 5 năm 1986-1990, công cuộc đổi mới đã đạt được
những thành tựu bước đầu rất quan trọng, GDP tăng 4,4%/ năm. Việc thực
hiện tốt 3 chương trình mục tiêu phát triển về lương thực, thực phẩm, hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu được đánh giá là thành công bước đầu nhằm
cụ thể hoá nội dung của công nghiệp hoá xã hội chủ nghóa trong chặng
đường đầu tiên đã được Đại hội IV thông qua; Trong 5 năm 1991-1995 nền
kinh tế đã đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao liên tục và tương đối
toàn diện, thực hiện vượt mức hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5
năm, GDP bình quân hàng năm 1991-1995 tăng 8,2%, vượt mức kế hoạch
đề ra; 5 năm 2001-2005, kinh tế tiếp tục tăng trưởng nhanh theo hướng tích
cực, năm sau cao hơn năm trước. GDP tăng bình quân 7,5%, đạt mục tiêu
kế hoạch đề ra).
Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh, bình quân hàng năm thời
kỳ 1991-1995 tăng 17,8%/năm; thời kỳ 1996-2000 tăng 21%/năm; thời kỳ
2001-2005 tăng 17,5%/năm. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người
tăng từ 36,3 USD năm 1990 lên 390 USD năm 2005 [10].
Giai đoạn 1986-2000, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn
và có ý nghóa đặc biệt quan trọng cho bước phát triển tiếp theo. Tổng sản
phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân 7%/ năm. Nông nghiệp phát triển
liên tục, đặc biệt là sản xuất lương thực (Việt Nam trở thành nước xuất
khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới). Giá trò sản xuất công nghiệp bình quân tăng
13,5%/năm. Hệ thống kết cấu hạ tầng được tăng cường. Các ngành dòch vụ,
xuất khẩu và nhập khẩu đều tăng. Năm 2000, chúng ta đã chặn được đà
giảm sút mức tăng trưởng kinh tế, các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt hoặc vượt
mức kế hoạch đề ra. Mỗi năm khoảng 1,2 triệu người có việc làm. Công tác
xoá đói, giảm nghèo trên phạm vi cả nước đạt kết quả nổi bậc, được dư
luận thế giới đánh giá cao. Chế độ xã hội ổn đònh và phát triển theo đònh
hướng xã hội chủ nghóa, đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện rõ
rệt… Có thể nói 20 năm đổi mới đã làm thay đổi bộ mặt của đất nước và
đời sống của nhân dân, nền độc lập dân tộc và chủ nghóa xã hội được củng
cố, vò thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao.
Những năm cuối thế kỷ XX, Việt Nam đạt được những thành tựu
quan trọng, “hoá giải được những tác động kinh tế của sự tan vỡ chế độ xã
hội chủ nghóa ở Liên Xô và Đông Âu” [19, tr.259]. Quan hệ ngoại giao nói
chung và quan hệ kinh tế nói riêng giữa Việt Nam với các nước trên thế
giới ngày càng được củng cố và tăng cường, nhằm hướng đến hoà bình, ổn
đònh, hợp tác và phát triển. Việc tăng cường các cuộc tiếp xúc, tham gia các
tổ chức kinh tế khu vực và thế giới (APEC, AFTA… ); Hiệp đònh thương
mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, tích cực đàm phán gia nhập WTO… là
những biểu hiện cụ thể của xu hướng đó.
Đất nước đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, xây dựng nền kinh tế tự chủ, đưa đất nước trở thành nước công
nghiệp. Quá trình này đòi hỏi nguồn vốn rất lớn không những từ trong nước
mà còn từ nước ngoài. Ngày 1/1/1988, Luật ĐTTTNN tại Việt Nam chính
thức có hiệu lực, kể từ đó đến nay Việt Nam đã thu hút những kết quả to
lớn, tạo ra một động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế - xã hội Việt Nam
không ngừng phát triển. Để tăng cường hiệu quả của việc thu hút nguồn
vốn ĐTTTNN, Luật và Nghò đònh về ĐTNN đã được sửa đổi, bổ sung nhiều
lần vào tháng 6/1992; tháng 11/1996; tháng 6/2000… Ngoài ra có nhiều cơ
chế chính sách chủ trương liên quan đến ĐTNN được Chính phủ, Bộ ngành,
đòa phương ban hành. Tất cả các văn bản đó đều hướng tới xây dựng một
môi trường đầu tư hấp dẫn, thông thoáng, hiệu quả, tạo mọi điều kiện tốt
nhất cho các nhà ĐTNN yên tâm đầu tư và làm ăn lâu dài tại Việt Nam.
Điểm mới của ĐTNN đó là Nhà nước chủ trương chuyển sang loại hình
công ty cổ phần (Nghò đònh số 38/2003/ NĐ-CP ngày 24/5/2003 về chuyển
đổi một số DN có vốn ĐTNN sang hoạt động theo hình thức cổ phần). Như
vậy sau gần 18 năm thực hiện Luật ĐTNN, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN
đã không ngừng phát triển và cùng với khu vực kinh tế tư nhân trong nước
trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân.
Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cũng phát triển mạnh. ĐTNN đã
góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới và thúc đẩy tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam với khu vực và thế giới. Việc các nước và
vùng lãnh thổ tích cực đầu tư vào Việt Nam đã góp phần mở rộng quan hệ
kinh tế đối ngoại và sự tham gia phân công lao động quốc tế của các doanh
nghiệp Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình hội nhập kinh tế
của Việt Nam với khu vực và thế giới.
1.3. FDI đối với sự phát triển kinh tế cả nước
Từ khi công bố luật ĐTNN (12/1987), sau 3 lần sửa đổi - một đạo luật
đựơc đánh giá là rất thoáng và cởi mở - với những lợi thế về tài nguyên, lao
động, vò trí đòa lý, thò trường… ĐTNN vào nước ta đã và đang tăng nhanh
cả về số lượng và quy mô. Các số liệu sau đây chứng tỏ điều đó.
Bảng 1.1. Số dự án và vốn ĐTNN được cấp giấy phép tại Việt Nam
1988-2004
Năm Dự án Vốn đầu tư Vốn pháp đònh
Số
lượng
Mức
tăng(%)so
với năm
Tăng
vốn
(triệu
Mức
tăng(%)so
với năm
Số lượng
(triệu
USD)
Mức
tăng(%)so
với năm
trước USD) trước trước
1988
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
37
68
108
151
197
274
367
408
387
358
285
311
389
523
754
550
679
183,8
158,8
139,8
130,5
139,1
133,9
111,2
94,9
92,5
79,6
109,1
125,1
134,4
144,2
72,9
123,5
371,8
582,5
839,0
1322,0
2165,0
2589,0
3746,0
6848,8
8979,0
4894,2
4138,0
1568,0
2018,0
5536,0
1557,7
2592,0
2084,5
156,7
144,0
157,6
163,7
119,6
144,7
182,8
131,1
54,5
84,6
37,9
128,7
274,3
28,1
170,8
80,4
288,4
311,5
407,5
663,6
1418,0
1468,5
1899,0
3157,6
3280,3
2404,4
1976,0
693,3
1625,0
1044,1
721,4
1044,1
985,6
108,0
103,8
162,8
213,7
103,6
129,3
166,3
103,9
73,3
82,2
35,1
234,4
64,3
69,1
144,7
94,4
T.Số 5846 51.830
Nguồn: Niên giám Thống kê, Cục Thống kê TPHCM 1998-2004
Đầu tư nước ngoài thật sự trở thành một nguồn lực quan trọng, đảm
bảo duy trì sự tăng trưởng kinh tế trong nhiều năm ở mức 8,5 - 9,6%. Đến
nay đã có 58 quốc gia, vùng lãnh thổ với trên 700 công ty đầu tư vào Việt
Nam. Khi đi vào hoạt động, các DN có vốn nước ngoài đóng góp cho ngân
sách hàng năm 1510 tỷ đồng, thu hút 170.000 lao động trực tiếp, hàng vạn
chục lao động gián tiếp, kim ngạch xuất khẩu của các DN này đạt 600 triệu
USD; số hàng hoá Việt Nam đã đến được thò trường Âu, Mỹ, Nhật Bản.
Nhiều loại hình kinh tế mới như KCX, KCN xuất hiện, góp phần đẩy nhanh
sự chuyển dòch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Riêng 1996, tuy số lượng dự án giảm, nhưng tổng vốn ĐTTTNN vẫn
tăng trên 30%, xuất khẩu đạt 300 triệu USD (tăng gấp 1,5 lần năm 1995) và
chiếm 13% GDP cả nước [15]. Năm 1996 đánh dấu những thay đổi tích cực
về chất lượng trong hoạt động đầu tư.
Về cơ cấu lónh vực đầu tư, khác với các năm trước, năm 1996 số dự
án đầu tư vào lónh vực sản xuất vật chất chiếm tuyệt đại bộ phận (75-80%),
cung cách làm ăn ngắn hạn, chụp giật dường như không còn. Các lónh vực
trước đây thu hút nhiều FDI nhất như kinh doanh khách sạn, xây dựng văn
phòng cho thuê giảm 53-70% vì đã có xu hướng bão hoà. Trong khi đó,
ngoài 3 ngành viễn thông, vận tải, thăm dò và khai thác dầu khí không có
dự án nào, thì các lónh vực sản xuất khác tăng vượt bậc: “đầu tư vào ngành
công nghiệp tăng 90%; công nghiệp nhẹ tăng 81%; xây dựng tăng 154%;
nông-lâm-ngư tăng 40%. Tính bình quân mỗi dự án có số vốn nhiều hơn,
đạt 17,5 triệu USD (năm 1995 là 16,3 triệu USD)” [15].
Năm 1996, có nhiều dự án có quy mô tầm cỡ. Chẳng hạn như dự án
xây dựng đô thò Nam Thăng Long (Hà Nội) với số vốn 2,1 tỷ USD; dự án
xây dựng khu đô thò An Đònh (TPHCM) có số vốn đăng ký 940 triệu USD…
[14]. Đây là những dự án dài hạn, thực hiện phức tạp, qua nhiều giai đoạn
và khi hoàn thành sẽ đem lại một diện mạo mới cho các thành phố lớn.
Đến cuối năm 2005, cả nước đã thu hút được khoảng 50 tỷ USD vốn
đầu tư từ 70 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Vốn ĐTNN đã đóng
góp trên 15% tổng sản phẩm quốc nội; 37,5% giá trò công nghiệp và 54%
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Riêng năm 2005, Việt Nam đã thu hút
được hơn 6 tỷ USD vốn đăng ký, trong đó vốn thực hiện là khoảng 3,3 tỷ
USD, tăng 15% so với năm 2004, chiếm 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội;
nộp ngân sách từ khu vực ĐTNN là 1,29 tỷ USD, tăng 40% so với năm 2004
và chiếm 125 tổng thu ngân sách [4].
Về đối tác nước ngoài, ngoài các nước châu Á, tốc độ đầu tư của các
nước châu Âu, Mỹ gia tăng nhanh, nhiều công ty liên quốc gia đã được cấp
giấy phép hoạt động. Sự có mặt của các cường quốc kinh tế, các công ty
xuyên quốc gia sẽ góp phần thúc đẩy FDI tại Việt Nam đi vào chiều sâu,
nước ta có nhiều cơ hội để tiếp nhận các công nghệ tiên tiến, hiện đại, kinh
nghiệm quản lý và điều hành kinh tế vó mô. Tính đa dạng của các đối tác
nước ngoài càng làm cho hoạt động đầu tư thêm sôi động.
Những thay đổi trong đòa bàn phân bố các dự án là nét nổi bật, đặc
sắc nhất của hoạt động FDI năm 1996. Trước đây, FDI chỉ tập trung tại các
thành phố lớn như Hà Nội, TPHCM (thường chiếm 60 -70% số dự án và số
vốn đăng ký [15]). Năm 1996 đầu tư vào hai thành phố này đang chững lại.
Trong khi đó các tỉnh xung quanh, do có những ưu thế riêng về giá đất, lao
động rẻ, thò trường giàu tiềm năng, cơ sở hạ tầng được cải thiện đang trở
thành những điểm nóng thu hút FDI. Việc tăng nhanh số lượng các dự án và
số vốn FDI tại các tỉnh là một xu hướng phổ biến, đã từng thấy ở nhiều
nước trong khu vực như Thái Lan, Inđônêsia, Malaysia… có ý nghóa tích
cực, phù hợp với chương trình hoạch đònh phát triển kinh tế - xã hội, góp
phần thúc đẩy tăng trưởng nhanh kinh tế nông thôn, hạn chế và khắc phục
chênh lệch lớn giữa các vùng lãnh thổ, các miền đất nước.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996), tình hình chính trò
nước ta tiếp tục ổn đònh, hệ thống luật pháp từng bước được hoàn thiện,
tăng trưởng kinh tế cao tăng dần sức mua của dân chúng, mở rộng thò
trường nội đòa… tất cả các yếu tố đó cùng với nhiều tiềm năng đất nước
chưa được khai thác đã dẫn đến ĐTTTNN vào Việt Nam không những giữ
nguyên được tốc độ và nhòp điệu mà còn có tăng thêm.
Tuy nhiên, chúng ta cũng đang gặp phải những trở ngại, ách tắc cần
tháo gỡ. Theo đánh giá của các cơ quan tư vấn quốc tế và nhiều nhà đầu tư,
môi trường đầu tư của Việt Nam đã có nhiều cải thiện, nhưng vẫn còn hạn
chế, nhất là trong quản lý nhà nước và nguồn nhân lực có chất lượng cao,
đã qua đào tạo. Bộ máy nhà nước còn quá cồng kềnh, quan liêu, tham
nhũng, phải qua nhiều khâu vòng vèo, dễ làm nản chí các chủ dự án. Thông
thường con đường đầu tư phải qua 3 khâu chính: vận động thu hút đầu tư,
thẩm đònh và cấp giấy; triển khai thực hiện dự án. Trong 3 khâu đó, khâu
thứ 2 đã có chuyển biến tích cực, rút ngắn thời hạn cấp giấy phép xuống
còn 1 tháng hoặc 2 tuần theo cơ chế “một cửa, một con dấu”. Khâu cấp
giấy phép xây dựng, giải toả mặt bằng, đền bù thì vẫn hết sức rắc rối,
chậm, lắm nhiêu khê và thiếu sự chỉ đạo thống nhất (nhiều dự án mất khá
nhiều thời gian), trong khi đó nguồn nhân lực đông đảo Việt Nam đang mất
dần lợi thế. Số công nhân lành nghề, thạo việc thiếu hụt trầm trọng, hiện
tại rất khó tuyển dụng được số lượng lớn công nhân có chuyên môn cao,
giỏi ngoại ngữ, có năng lực quản lý, văn hoá công nghiệp…
Chương 2:
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI VÀO CÁC NGÀNH VÀ LĨNH VỰC KINH TẾ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Những nhân tố tác động đầu tư trực tiếp nước ngoài, thách thức và
cơ hội
2.1.1. Những thuận lợi
Thành phố Hồ Chí Minh có diện tích 2029 km², dân số 5.554.800
triệu người (2003), là khu vực đông dân nhất cả nước, có vò trí đòa lý thuận
lợi. Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm văn hoá, khoa học kỹ thuật lớn,
trung tâm công nghiệp - thương mại dòch vụ năng động nhất cả nước, dù chỉ
chiếm 0,6% dân số và 6,6% dân số nhưng đóng góp 19,3% GDP cả nước;
31,6% tổng thu ngân sách quốc gia. Theo báo cáo Chính trò tại Đại hội với
nội dung chủ yếu về kết quả 5 năm thực hiện Nghò quyết Đại hội Đảng bộ
TP lần VII (2001-2005) và nhòêm vụ xây dựng, phát triển và bảo vệ TP
trong 5 năm 2006-2010. “Đổi mới toàn diện và mạnh mẽ hơn nữa, phát huy
dân chủ và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, động viên mọi nguồn
lực, nắm bắt thời cơ, vượt qua thử thách, chủ động hội nhập kinh tế khu vực
và quốc tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững,
không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, giữ vững ổn đònh chính trò - xã
hội; xây dựng TP ngày càng văn minh, hiện đại, từng bước trở thành một
trung tâm công nghiệp, dòch vụ, khoa học công nghệ của khu vực Đông Nam
Á; góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới và bảo vệ tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghóa” [Báo người lao động, số 9985, tr.11].
Theo dự báo của các tổ chức kinh tế - tài chính quốc tế kinh tế thế
giới phát triển khả quan trong những năm tới. Các nền kinh tế là đối tác
chủ yếu về thương mại và đầu tư của Việt Nam đều tăng trưởng khá. Đặc
biệt, các nền kinh tế khu vực Đông Á, sau giai đoạn khủng hoảng trước
đây, nay đã phục hồi và phát triển mạnh. Đây là điểm thuận lợi để phát
triển ngoại thương và ĐTNN.
Với những thành tựu nổi bật trong công cuộc đổi mới, dư luận quốc
tế đánh giá cao tiềm năng phát triển kinh tế của Việt Nam và các nỗ lực
của Chính phủ Việt Nam trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển. Đây
là cơ sở thuận lợi để đẩy mạnh hợp tác quốc tế, quan hệ thương mại và xúc
tiến đầu tư. Thành phố Hồ Chí Minh còn được cộng đồng quốc tế biết đến
như là một đòa phương năng động, sáng tạo, đi đầu trong cả nước về việc
thử nghiệm các chính sách phát triển mới, đóng góp cho cả nước nhiều kinh
nghiệm thực tiễn quý báu.
Nét nổi bậc 2001-2005 là các ngành khu vực dòch vụ bắt đầu phát
triển khởi sắc hơn so với giai đoạn 1996-2000 (chỉ tăng 8,4%/năm). Điều
đáng quan tâm là tốc độ tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước (năm 2000
là 7%, năm 2001 là 7,4%, năm 2004 là 11,1%). Xét về cơ cấu các ngành
dòch vụ tài chính - ngân hàng có tốc độ tăng trưởng rất cao (12,2% năm
2001; 28,6% năm 2002; 20% năm 2003; 18,7% năm 2004); kế đến là lónh
vực vận tải, kho bãi và viễn thông (10,6% năm 2001; 12,8% năm 2002;
10,9% năm 2003; 9,4% năm 2004). Lónh vực thương mại, sau ảnh hưởng của
khủng hoảng kinh tế - tài chính các nước trong khu vực cũng đang trên đà
phục hồi (tăng 7% năm 2002; 9,4% năm 2003; 10,3% năm 2004) [10], thò
trường nội đòa phát triển ổn đònh, hàng hoá phong phú, đa dạng, nhiều sản
phẩm của TP đã chiếm lónh được thò trường, dành được thò phần vững chắc,
cơ sở vật chất hạ tầng ngành thương mại đã được quan tâm đầu tư xây
dựng, bước đầu phát huy tác dụng, góp phần tăng cường vai trò, vò trí trung
tâm của TP trong điều phối, cung ứng hàng hoá trong khu vực và ra nước
ngoài qua nhiều kênh phân phối đa dạng và ngày càng lớn mạnh.
Các loại dòch vụ khác như du lòch, giáo dục, y tế, khoa học - công
nghệ cũng tăng trưởng cao với tốc độ bình quân hơn 10%/ năm trong 5 năm
qua. Đây là những ngành mà TP thật sự có thế mạnh để phát triển phù hợp
với đònh hướng chuyển dòch cơ cấu kinh tế sang các ngành dòch vụ cao cấp.
Về cơ cấu nguồn vốn đầu tư, tỉ lệ đầu tư của khu vực kinh tế dân
doanh và kinh tế có vốn ĐTNN của cả nước thấp hơn của TP nhiều. Đối với
cả nước, giai đoạn 2001-2005 đầu tư khu vực dân doanh chiếm 26% (TP là
41%), ĐTNN là 16,4% (TP là 22%) [10]. Điều này cho thấy đầu tư trên đòa
bàn TP ít phụ thuộc hơn vào ngân sách và DN Nhà nước so với cả nước, thể
hiện sự năng động của TP trong việc thu hút các nguồn lực xã hội tham gia
đầu tư phát triển.
Thu ngân sách Nhà nước trên đòa bàn TP tăng bình quân
16,8%/năm giai đoạn 2001-2005, đóng góp 30,6% nguồn thu ngân sách Nhà
nước. Tốc độ này cao hơn mức tăng trưởng kinh tế và lạm phát cộng lại,
cho thấy mức độ huy động ngân sách trên tổng sản phẩm nội đòa (GDP)
ngày càng tăng.