Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

định hướng về phát triển cơ cấu đầu tư theo hướng ngày càng hợp lý hơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.52 KB, 48 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Đối với bất kỳ một nền kinh tế nào, để tạo ra tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững
đếu phải có sự đầu tư đúng hướng; trong đó, cơ cấu đầu tư phải phù hợp và phục vụ cho
chiến lược về cơ cấu kinh tế. Do đó, cần phải có một cơ cấu đầu tư hợp lý, cơ cấu đó phải
khai thác được lợi thế so sánh, đáp ứng được những yêu cầu thị trường chung cho cả
nước, phát huy nội lực và phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội.
Trong thời gian qua, tại các kỳ họp quốc hội, Đảng và Nhà nước ta cũng đã và đang đề
ra nhiệm vụ: Để đảm bảo thắng lợi nhiệm vụ phát triển của đất nước cần có sự chuyển
dịch cơ cấu đầu tư một cách hợp lý đó là: Chuyển dịch cơ cấu đầu tư gắn với mục tiêu
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo cho việc thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá- hiện
đại hoá đất nước; trong khi nhấn mạnh vai trò quan trọng bậc nhất của tích luỹ nội bộ
kinh tế, chúng ta phải coi vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng, kết
hợp hai nguồn lực này trong một thể thống nhất để đầu tư phát triển; đó còn là sự chuyển
đổi cơ cấu đầu tư cần đảm bảo sự phát triển hợp lý giữa các vùng, bên cạnh việc hình
thành nên những vùng kinh tế trọng điểm cần có sự quan tâm đến những vùng sâu, vùng
xa, vùng còn khó khăn.
Trên thực tế, cơ cấu đầu tư của nước ta trong những năm gần đây đã có sự dịch
chuyển khả quan, đáp ứng được những yêu cầu và mục tiêu trên. Tuy nhiên bên cạnh đó,
cơ cấu đầu tư hiện nay cũng còn thể hiện nhiều mặt hạn chế, bất cập. Do đó, việc nghiên
cứu cơ cấu đầu tư, sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư, và từ những thực trạng về cơ cấu đầu tư
của Việt Nam thời gian qua từ đó có thể đưa ra những giải pháp để cơ cấu đầu tư dịch
chuyển theo hướng hợp lý là đúng đắn và cần thiết.
Nhóm chúng em xin được chân thành cảm ơn thầy giáo Từ Quang Phương đã giúp
chúng em hoàn thành đề án này
1
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CẤU ĐẦU TƯ
1.1 Cơ cấu đầu tư
1.1.1 Khái niệm cơ cấu đầu tư
Cơ cấu đầu tư là cơ cấu các yếu tố cấu thành đầu tư như cơ cấu vốn, nguồn vốn cơ
cấu huy động và sử dụng vốn…quan hệ hữu cơ, tương tác qua lại giữa các bộ phận trong
không gian va thời gian, vận động theo hướng hình thành một cơ cấu đầu tư hợp lý và tạo


ra những tiềm lực lớn hơn về mọi mặt kinh tế - xã hội.
1.1.2 Phân loại cơ cấu đầu tư
1.1.2.1 Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn
Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn hay cơ cấu nguồn vốn đầu tư thể hiện tỉ lệ của từng
loại nguồn vốn trong tổng số vốn đầu tư xã hội hay nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp
va dự án. Cùng với sự gia tăng của vốn đầu tư xã hội, cơ cấu nguồn vốn ngày càng đa
dạng hơn, phù hợp với cơ chế xóa bỏ bao cấp trong đầu tư, với chính sách phát triển kinh
tế nhiều thành phần và chính sách huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển. Trên
phương diện vĩ mô, có một số loại nguồn vốn chủ yếu sau đây :
Vốn ngân sách nhà nước: Là nguồn vốn được trích lập từ ngân sách của Nhà nước
chi cho các hoạt động đầu tư. Đây là một nguồn vốn quan trọng trong chiến lược phát
triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia và thường được đầu tư cho các dự án kết cấu hạ
tầng kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh, hỗ trợ các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào
lĩnh vực cần sự tham gia của nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng, lãnh thổ quy hoạch xây dựng đô thị và
nông thôn.
Vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà nước : Nguồn vốn này có tác dụng tích cực
trong việc giảm đáng kể bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đơn
vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư là
người vay vốn nay phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng
đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát
vốn ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vón trực
tiếp.
Bên cạnh đó, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước còn phục vụ công tác quản lý
và điều tiết vĩ mô.Thông qua nguồn vốn tín dụng đầu tư, nhà nước thực hiện việc khuyến
khích phát triển kinh tế xã hội của ngành, vùng lĩnh vực theo dịnh hứong chiến lược của
mình. Đứng ở khía cạnh là công cụ điều tiết vĩ mô,nguồn vốn này không chỉ thực hiện
mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà còn thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.Việc
phân bổ và sử dụng vốn tín dụng đầu tư còn khuyến khích phát triển những vùng kinh tế
khó khăn, giải quyết các vấn đề xã hội như xóa đói, giảm nghèo. Và trên hết, nguồn vốn

tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước : Nguồn vốn này chủ yếu từ khấu tài
sản cố định và thu nhập giữ lại tại doanh nghiệp nhà nước. Theo Bộ Kế hoạch va Đầu tư,
thông thường nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước tự đầu tư chiếm 14-15% tổng
vốn đầu tư toàn xã hội, chủ yếu là đầu tư theo chiều sâu, mở rộng sản xuất, đổi mới thiết
bị hiện đại hóa dây chuyền công nghệ của doanh nghiệp.
2
Vốn đầu tư tư nhân và dân cư : Nguồn vốn tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân
cư, phần tích lũy của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo ước tính của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư ,tiết kiệm trong dân cư và các doanh nghiệp dân doanh chiếm bình
quân khoảng 15% GDP, trong đó phần tiết kiệm của dân cư tham gia đầu tư gián tiếp vào
khoảng 3,7% GDP, chiếm khoảng 25% tổng tiết kiệm của dân cư; phần tiết kiệm của dân
cư tham gia đầu tư trực tiếp khoảng 5% GDP và bằng 33% số tiết kiệm được. Đầu tư của
các doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình có vai trò quan trong đặc biệt trong việc phát
triển nông nghiệp va kinh tế nông thôn, mở mang ngành nghề, phát triển công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ, vận tải trên các địa phương. Ở mức độ nhất
định,các hộ gia đình cũng sẽ là một trong số những nguồn tập trung và phân phối vốn
quan trọng trong nền kinh tế.
Nguồn vốn trong dân cư còn phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia dình.
Quy mô của nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào: Trình độ phát triển của một nước (ở
những nước có trình độ phát triển thấp thường có quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp); tập
quán tiêu dùng của dân cư; chính sách động viên của nhà nước thông qua chính sách phát
triển thuế thu nhập và các khoản đóng góp của xã hội.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư
và phát triển. Nó có đặc điểm là tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước
nhận vốn. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào
nước nhận vốn nên nó có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những
ngành nghề đòi hỏi cao về kĩ thuật hay cần nhiều vốn. Vì thế, nguồn vốn này có tác dụng
cực kì to lớn đối với quá trình công nghiệp hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng

trưởng nhanh ở nước nhận đầu tư.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp vào việc bù đắp thâm hụt tài khoản vãng lai và
cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cho
ngân sách nhà nước cũng hết sức đáng kể. Đặc biệt nguồn vốn nước ngoài đã góp phần
tích cực vào việc hoàn chỉnh ngày càng đầy đủ và tốt hơn hệ cơ sở hạ tầng giao thông vận
tải, bưu chính viễn thông…hình thành lên các khu công nghiệp, khu chế xuất khu công
nghệ cao, hiện đại hóa các khu vực phát triển, hình thành các khu dân cư mới tạo việc
làm cho hàng vạn lao động tại các địa phương.
1.1.2.2 Cơ cấu vốn đầu tư
Cơ cấu vốn đầu tư thể hiên quan hệ tỉ lệ của từng loại vốn với tổng vốn đầu tư xã hội,
vốn đầu tư của một doanh nghiệp hay của một dư án. Cơ cấu vốn đầu tư cần được xem
xét như: cơ cấu kỹ thuật của vốn (vốn xây lắp và máy móc kĩ thuật trong tổng vốn đầu
tư); cơ cấu vốn đầu tư cho hoạt động XDCB, công tác nghiên cứu triể khai khoa học và
công nghệ vốn đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực, tái tạo tài sản lưu động và những chi
phí khác (chi phí quảng cáo tiếp thị…); cơ cấu vốn đầu tư theo quá trình lập và thực hiện
dự án như chi phí chuẩn bị đầu tư, chi phí thực hiên đầu tư…
1.1.2.3 Cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành
Đây là loại cơ cấu đầu tư quan trọng nhất vì nó trực tiếp tác động đến sự chuyển dịch
cơ cấu theo ngành. Cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành quy định tỉ lệ phân bổ vốn đầu tư
xã hội vào các ngành kinh tế, thực hiện đầu tư cho từng ngành kinh tế quốc dân cũng như
trong từng tiểu ngành thể hiện việc thực hiện chính sách ưu tiên phát triển, chính sách đầu
tư đối với từng ngành nhất định.
Có nhiều cách tiếp cận, nghiên cứu cơ cấu đầu tư theo ngành nhưng ta có thể chia theo
các cách sau:
3
* Chia theo hai nhóm ngành quan trọng: Ngành sản xuất sản phẩm xã hội và nhóm
ngành kết cấu hạ tầng. Mục đích là nghiên cứu tính hợp lí của đầu tư cho từng nhóm
ngành. Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phải đi trước một bước để tạo cơ sở phát triển
các ngành sản xuất sản phẩm xã hội, nhưng cần có tỉ lệ hợp lý vì nếu quá tập trung đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng, không chú ý dến sản xuất kinh doanh thì sẽ không có tăng

trưởng.
* Chia cơ cấu đầu tư theo 3 nhóm ngành: Ngành công nghiệp, nông nghiêp, dịch vụ.
Mục đích là đánh giá, phân tích tình hình đầu tư, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng,
trong đó ưu tiên phát triển công nghiệp và dịch vụ, chú ý đầu tư phát triển nông nghiệp
hợp lí ở nước ta hiện nay, nông dân chiếm tỉ trọng phần lớn và nông thôn có vị trí rất
quan trọng trong quá trình phát triển.
Ngành nông nghiệp: Đây là ngành sản xuất vật chất quan trọng nhằm đáp ứng nhu
cầu thiết yếu của nhân dân, là ngành chiếm tỉ trọng lớn trong tổng sản phẩm quốc dân,
cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu,đồng
thời cũng là ngành chiếm tỷ trọng lớn trong lực lượng lao động xã hội và dân cư ở nước
ta. Nông nghiệp phát triển sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Do năng sất lao động trong
nông nghiệp thấp hơn trong các ngành khác, nên nông nghiệp không phát triển nó sẽ trở
thành gánh nặng cho nền kinh tế, sẽ kéo toàn bộ mức tăng trưởng của nền kinh tế. Mặt
khác nông nghiệp phát triển sẽ tạo điều kiện thỏa mãn được nhu cầu tiêu dùng cho toàn
xã hội, đảm bảo sự ổn định kinh tế xã hội để phát triển.Nông nghiệp và nông thôn phát
triển sẽ mở rộng thị trường trong nước, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến,
công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, tích lũy vốn ban đầu và cung cấp lao động cho các
ngành sản xuất khác của nền kinh tế. Nhưng đây là ngành sản xuất phụ thuộc vào nhiều
yếu tố tự nhiên, tính bấp bênh cao, thu hồi vốn lâu, đòi hỏi vốn lớn cho các công trình
thủy lợi, máy móc trang thiết bị, phòng trừ sâu bệnh… Do vậy chính phủ phải có các
chính sách phát triển nông nghiệp, điều chỉnh cơ cấu ngành một cách thích hợp, sao cho
sự phát triển của nông nghiệp không ảnh hưởng đến đầu tư phát triển công nghiệp và dịch
vụ mà còn tạo điều kiện tốt hơn cho sự phát triển của hai ngành này cũng như toàn bộ nền
kinh tế quốc dân.
Ngành công nghiệp: Để đưa nước ta thoát khỏi một nước nghèo và rút ngắn khoảng
cách tụt hậu so với các nước khác trong khu vực cũng như trên thế giới, chúng ta không
thể chỉ phát triển nông nghiệp mà phải phát triển cả công nghiệp và dịch vụ. Công nghiệp
là ngành quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Ngành này
thu hút một lượng lao động lớn và năng suất lao đông trong ngành này rất cao và tạo ra
giá trị sản lượng công nghiệp tăng nhanh hơn trong các ngành khác, tạo ra lợi nhuận lớn.

Ngành công nghiệp phát triển sẽ cung cấp nhiều máy móc trang thiết bị cho nông nghiệp
phát triển, nhiều sản phẩm hàng hóa đa dạng cho dịch vụ phát triển. Chúng ta xuất phát từ
một nước nghèo, có nền công nghiệp lạc hậu so với các nước khác, do vậy phải tranh thủ
tiến trình mở cửa hội nhập quốc tế để thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài, học hỏi kinh
nghiệm, công nghệ từ họ để phát triển công nghiệp đất nước. Xây dựng công nghiệp nặng
làm nền tảng cơ sở, tận dụng sự chuyển giao công nghệ, thiết lập những ngành mũi nhọn
có lợi thế so sánh nhất. Ngành công nghiệp chiếm một tỉ trọng lớn trong tổng sản phẩm
quốc dân, do vậy nhà nuớc phải đặc biệt quan tâm, và có những chính sách mở cửa thu
hút vốn đầu tư nước ngoài, cung cấp vốn và phân bổ vốn một cách họp lí cho sự phát
triển công nghiệp.
4
Ngành dịch vụ: Dịch vụ là một lĩnh vực hoạt động tổng hợp của nền kinh tế quốc
dân, bao gồm tất cả các hoạt động phục vụ sản xuất và đời sống của dân cư. Hoạt động
dịch vụ bao gồm tất cả các hoạt động thương mại, giao thông vận tải, cung cấp điện nước,
bưu chính viễn thông, khách sạn du lịch và các loại hình phục vụ khác cho sản xuất và
đời sống xã hội. Nền kinh tế càng phát triển thì khu vực dịch vụ cũng càng phát triển.
Dịch vụ là cầu nối gắn liền sản xuất với sản xuất, sản xuất với tiêu dùng, gắn thị trường
trong nước với thị trường nước ngoài. Có thể nói dịch vụ vừa là kết quả vừa là nguyên
nhân của phát triển kinh tế. Sự phát triển của ngành dịch vụ làm cho cuộc sống thêm văn
minh hiện đại hơn. Để phát triển ngành dịch vụ cần phát triển về cơ sơ hạ tầng, đây là
nhiệm vụ hết sức cần thiết và quyết định cho sự phát triển của ngành. Ngoài ra chúng ta
cần phải đào tạo một nguồn nhân lực tốt, giư gìn bản sắc văn hóa, phát triển và truyền bá
nó. Ngày nay theo xu hướng hội nhập quốc tế, sự phát triển của ngành dịch vụ ngày càng
quan trọng và nó đóng góp ngày càng lớn vào tổng thu nhập quốc dân.
Cả nước ta đang chuyển dịch theo xu hướng giảm tỉ trọng ngành nông nghiệp và tăng tỉ
trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, đầy là một xu hướng đúng đắn tạo sự phát triển
bền vững và phù hợp với xu thế của thời đại
* Chia theo 2 khối ngành: Khối ngành chủ đạo và khối ngành còn lại. Đầu tư phải đảm
bảo tương quan hợp lý giữa hai khối ngành này để nền kinh tế vừa có những sản phẩm
chủ đạo, tạo thế và lực cho sự phát triển lâu dài, đồng thời phải đảm bảo sự phát triển

tổng hợp nhằm đáp ứng yêu cầu nhanh, bền vững hiệu quả.
1.1.2.4 Cơ cấu đầu tư phát triển theo địa phương vùng lãnh thổ
Cơ cấu đầu tư phát triển theo địa phương vùng lãnh thổ là cơ cấu đầu tư theo không
gian, phẩn ánh tình hình sử dụng nguồn lực địa phương và việc phát huy thế mạnh cạnh
tranh của từng vùng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Cơ cấu đầu tư phát triển
theo địa phương vùng lãnh thổ phải phù hợp với mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã
hội, khai thác sử dụng có hiệu quả về các nguồn lực lợi thế của vùng, dựa vào nhu cầu
của nền kinh tế, phù hợp xu thế phát triển thế giới. Xác định các vùng kinh tế trọng điểm
để ưu tiên phát triển đồng thời cũng tạo ra động lực để phát triển các vùng kinh tế lạc hậu
khó khăn. Có thể phân tích cơ cấu đầu tư giũa lãnh thổ phát triển (địa bàn là động lực
phát triển ) với lãnh thổ kém phát triển (lãnh thổ còn khó khăn) hoặc phân tích cơ cấu đầu
tư theo các vùng lãnh thổ kinh tế.
1.2 Chuyển dịch cơ cấu đầu tư và cơ cấu đầu tư hợp lý.
1.2.1. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu đầu tư:
Cơ cấu đầu tư phụ thuộc vào nhiều các yếu tố, các yếu tố này lại không cố định. Trong
từng giai đoạn cụ thể khác nhau, cơ cấu đầu tư luôn thay đổi để phù hợp với sự phát triển
với sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Để có sự chuyển đổi đó thì cần có sự chuyển dịch
cơ cấu đầu tư. Do vậy sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư là điều cần thiết nhằm hướng tới xây
dựng một cơ cấu đầu tư hợp lý.
Chuyển dịch cơ cấu đầu tư có thể hiểu là sự thay đổi của cơ cấu đầu tư từ mức độ này
sang mức độ khác, phù hợp với môi trường và mục tiêu phát triển.
Trước hết sự thay đổi cơ cấu đầu tư được thể hiện trên phương diện về vị trí ưu tiên. Từ
đó tuỳ theo từng loại cơ cấu đầu tư sự chuyển dịch sẽ tác động theo hướng ưu tiên cho
những mặt mạnh giúp phát triển một cách hợp lý giữa các mặt, các ngành sao cho đạt
hiệu quả cao nhất.
5
Sự chuyển dịch không chỉ bao gồm thay đổi về vị trí ưu tiên mà còn có sự thay đổi về
chất trong nội bộ cơ cấu và các chính sách áp dụng.
Về thực chất khi có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư thì cơ cấu vốn, vốn đầu tư, cơ cấu
huy động và sử dụng các loại vốn, nguồn vốn sẽ được điều chỉnh. Như vậy các nhân tố

nội bộ trong cơ cấu đầu tư sẽ được đổi mới để phù hợp với mục tiêu xác định của nền
kinh tế, ngành địa phương và các cơ sở trong từng thời kỳ phát triển.
1.2.2. Sự cần thiết của việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư:
Theo báo cáo chính trị trình Đại hội VIII của Đảng đã nhấn mạnh “ Nguy cơ tụt hậu xa
hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực vẫn là thách thức to lớn và gay gắt do điểm
xuất phát của ta quá thấp, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh quyết liệt”.
Để thoát khỏi một cách cơ bản tình trạng nghèo khổ và nguy cơ tụt hậu kinh tế, bên
cạnh việc giải quyết các vấn đề xã hội đang đặt ra cần phải tăng trưởng nhanh, ổn định và
liên tục đi liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Có như vậy mới cải thiện đời sống nhân dân, tạo tiền đề để nhanh chóng đưa đất nước ta
trở thành một nước phát triển. Theo nội dung của phát triển kinh tế, tăng trưởng cao cùng
với chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý là nội dung cơ bản có tính chất quyết định.
Một nền kinh tế có sự tăng trưởng là có sự tăng về quy mô sản lượng đầu ra được tính
bằng chỉ tiêu tổng sản phẩm trong nước (GDP). Tăng trưởng kinh tế cũng được hiểu là sự
nâng cao tiềm lực sản xuất của nền kinh tế quốc dân và được quyết định bởi mức gia tăng
quy mô cũng như hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào. Thực tế phát triển của các nước đi
trước với những điều kiện tương đồng cho thấy vốn đầu tư là một trong những yếu tố
quan trọng nhất. Đất nước ta còn nghèo, chính vì vậy sự thiếu thốn đầu tư cho phát triển
lại càng nổi lên như một cản trở chủ yếu đối với yêu cầu tăng trưởng kinh tế. Vì vậy
nhiệm vụ đặt ra là phải tranh thủ tối đa mọi nguồn vốn bên trong và bên ngoài, của Nhà
nước cũng như mọi thành phần kinh tế cho mục tiêu tăng trưởng. Sau đó phải quản lý và
sử dụng vốn một cách tiết kiệm và hiểu quả. Đồng thời phải tránh hậu quả nợ nần như
một số quốc gia gặp phải trong lịch sử. Nâng cao hiệu quả vốn đầu tư phụ thuộc vào
nhiều nhân tố khác nhau. Trên giác độ quản lý vĩ mô thì quan trọng là việc phân bố vốn
vào đâu, theo số lượng và tỉ lệ như thế nào. Như vậy cần sự dụng vốn theo một cơ cấu tối
ưu, hiệu quả nhất. Mặt khác đầu tư cơ bản với chức năng quan trọng là tác động trực tiếp
vào quá trình tái sản xuất xã hội. Do đó làm biến đổi cơ cấu kinh tế. Như vây cơ cấu đầu
tư có mối quan hệ mật thiết với cơ cấu kinh tế. Nếu cơ cấu kinh tế hướng vào mục đích
cần đạt được của nền kinh tế thì đầu tư chính là phương tiện đảm bảo cho cơ cấu kinh tế
được hình thành hợp lý theo mục đích hướng tới của nó. Vì vậy một cơ cấu đầu tư tối ưu

vừa cho phép nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, vừa là phương tiện để hình thành cơ cấu
kinh tế hợp lý đảm bảo tăng trưởng nhanh. Cơ cấu đầu tư phụ thuộc vào nhiều nhân tố và
các nhân tố đó lại luôn vận động và phát triển. Vì thế cơ cấu đầu tư cũng như cơ cấu kinh
tế không phải là cố định.
Sự thay đổi của cơ cấu đầu tư và sự tác động của nó đến cơ cấu kinh tế diễn ra một cách
thường xuyên, lặp đi lặp lại theo hướng tiến dần đến những cơ cấu kinh tế tối ưu. Nói
cách khác, chuyển dịch cơ cấu đầu tư có ảnh hưởng quan trọng đến đổi mới cơ cấu kinh
tế. Quá trình thay đổi đó mang tính chất khách quan, dưới tác động của các quy luật kinh
tế. Định hướng đầu tư để đổi mới cơ cấu kinh tế trên cơ sở sự tác động của yếu tố đầu tư
và có tính đến những nhân tố ảnh hưởng khác. Sự thay đổi và phát triển của các bộ phận
nền kinh tế cũng sẽ quyết định sự thay đổi số lượng cũng như chất lượng của các ngành
6
trong nền kinh tế quốc dân theo hướng xuất hiện nhiều ngành mới, giảm tỷ trọng những
ngành không phù hợp, tăng tỷ trọng những ngành lợi thế. Bên cạnh đó chuyển dịch cơ
cấu đầu tư cũng làm thay đổi mối quan hệ giữa các bộ phận của một ngành, của nền kinh
tế theo xu hướng ngày càng lợi thế hơn, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội cho từng bộ
phận cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Tóm lại, quá trình chuyển dịch cơ cấu đầu tư của một quốc gia, ngành, địa phương hay
cơ sở thông qua kế hoạch đầu tư là nhằm hướng tới xây dựng một cơ cấu đầu tư hợp lý
với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội một cách toàn diện hơn.
1.2.3. Cơ cấu đầu tư hợp lý:
1.2.3.1 Khái niệm
Cơ cấu đầu tư hợp lý là cơ cấu đầu tư phù hợp với các quy luật khách quan, với các điều
kiện kinh tế - xã hội, lịch sử cụ thể trong từng giai đoạn, phù hợp và phục vụ chiến lược
phát triển kinh tế xã hội của từng ngành, vùng, cơ sở và toàn bộ nền kinh tế. Cơ cấu đầu
tư hợp lý sẽ có tác động tích cực đến đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng hợp lý
hơn, khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn lực trong nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập,
phù hợp với xu thế kinh tế, chính trị của thế giới và khu vực.
1.2.3.2 Các tiêu chí để đánh giá cơ cấu đầu tư hợp lý
Một cơ cấu đầu tư hợp lý, trước hết phải phù hợp với quy luật khách quan, nghĩa là nó

phải phù hợp với các quy luật kinh tế xã hội, các quy luật tự nhiên. Nếu đi nguợc lại các
quy luật đó lập tức sẽ bị đào thải và không thể tồn tại, phát triển được.
Cơ cấu đầu tư phát triển hợp lý là cơ cấu có khả năng tạo ra quá trình tái sản xuất mở
rộng. Hay nói cách khác, cơ cấu đầu tư phát triển hợp lý là cơ cấu đầu tư vừa khai thác
hiệu quả các năng lực hiện tại, vừa bảo đảm là nền tảng bền vững cho sự phát triển mạnh
trong tương lai.
Trong mỗi giai đoạn, với những điều kiện khác nhau về kinh tế xã hội, về chiến lược
phát triển kinh tế xã hội khác nhau thì sẽ có cơ cấu đầu tư khác nhau cho phù hợp. Và
trong các ngành khác nhau cũng sẽ có cơ cấu đầu tư hợp lý khác nhau. Cơ cấu này là phù
hợp với quốc gia này nhưng lại không phù hợp với quốc gia kia, và ngay trong nền kinh
tế thì cơ cấu hợp lý cho mỗi ngành, mỗi lĩnh vực cũng khác nhau. Vấn đề cần đặt ra là
các nước phải xây dựng cho mình cơ cấu đầu tư hợp lý trong toàn bộ nền kinh tế cũng
như trong từng bộ phận của nền kinh tế để đạt được sự phát triển bền vững.
1.2.4. Các hình thức cơ cấu đầu tư hợp lý:
1.2.4.1. Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn hợp lý:
Như đã trình bày ở trên, cơ cấu nguồn vốn đầu tư thể hiện quan hệ tỷ lệ của từng loại
nguồn vốn trong tổng vốn đầu tư xã hội, nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp và dự án.
Trong giai đoạn hiện nay, cơ cấu nguồn vốn ngày càng đa dạng, phong phú cùng với sự
gia tăng của vốn đầu tư xã hội. Để phù hợp với nền kinh tế thị trường cơ cấu nguồn vốn
đã thay đổi theo hướng xoá bỏ bao cấp trong đầu tư, phát huy nền kinh tế nhiều thành
phần với các chính sách huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển.
Trên phạm vi quốc gia: Cơ cấu đầu tư hợp lý là cơ cấu phản ánh khả năng huy động
tối đa mọi nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển, phản ánh khả năng sử dụng hiệu quả
cao mọi nguồn vốn đầu tư.
Xu hướng cơ cấu đầu tư hợp lý là cơ cấu thay đổi theo hướng giảm dần tỷ trọng của
nguồn vốn đầu tư từ ngân sách, tăng tỷ trọng nguồn vốn tín dụng ưu đãi và nguồn vốn
7
của dân cư. Có như vậy nền kinh tế nước ta mới thực sự thoát khỏi tình trạng quan liêu
bao cấp, tạo động lực phát triển một nền kinh tế năng động.
Mặt khác khi xét trên góc độ doanh nghiệp thì cơ cấu nguồn vốn hợp lý là cơ cấu phản

ánh tỷ lệ giữa các nguồn vốn trong doanh nghiệp, giữa vốn chủ sở hữu và vốn đi vay sao
cho tận dụng tối đa mọi nguồn lực, giúp doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả.
1.2.4.2. Cơ cấu vốn đầu tư hợp lý:
Như giới thiệu ở phần trên, chúng ta biết cơ cấu vốn đầu tư thể hiện quan hệ tỷ lệ giữa
từng loại vốn trong tổng vốn đầu tư xã hội, vốn đầu tư của doanh nghiệp hay của một dự
án.
Trong thực tế, có một số cơ cấu vốn đầu tư quan trọng cần được chú ý xem xét như:
- Cơ cấu kĩ thuật của vốn (vốn xây lắp và vốn máy móc thiết bị trong tổng vốn đầu tư.
- Cơ cấu vốn đầu tư cho hoạt động XDCB.
- Cơ cấu vốn đầu tư cho công tác nghiên cứu triển khai khoa học và công nghệ.
- Cơ cấu vốn đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực.
- Cơ cấu vốn đầu tư cho tái tạo tài sản lưu động và những chi phí khác như: chi phí
quảng cáo, tiếp thị
- Cơ cấu vốn đầu tư theo quá trình lập và thực hiện dự án như chi phí chuẩn bị đầu tư,
chi phí thực hiện đầu tư
Vậy một cơ cấu vốn đầu tư hợp lý là cơ cấu mà vốn đầu tư được ưu tiên cho bộ phận
quan trọng nhất, phù hợp với yêu cầu và mục tiêu đầu tư. Và bộ phận được ưu tiên cung
cấp vốn này thường chiếm một tỷ trọng khá cao.
1.2.4.3. Cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành hợp lý:
Cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành là cơ cấu thực hiện đầu tư cho từng ngành kinh tế
quốc dân cũng như trong từng tiểu ngành. Từ đó sẽ thể hiện việc thực hiện chính sách ưu
tiên, phát triển, chính sách đầu tư đối với từng ngành trong một thời kỳ nhất định.
Trong thực tế, một quyết định đầu tư có thể làm thay đổi số lượng tuyệt đối của các
ngành, tiểu ngành cấu thành nền kinh tế quốc dân. Những ngành, tiểu ngành mới xuất
hiện sẽ ngày càng hiệu quả với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ như các
ngành công nghiệp công nghệ cao, dịch vụ chất lượng cao. Bên cạnh đó, một số ngành
không phù hợp với xu thế phát triển của thời đại sẽ giảm vai trò và tỷ trọng của mình
trong nền kinh tế. Điều đó là do nhu cầu xã hội về ngành đó ngày càng giảm hoặc không
còn thiết thực nữa. Hay có thể hiểu là lợi thế của ngành đó bị giảm hay bị mất đi.
Cơ cấu của ngành kinh tế cũng có sự thay đổi cùng với việc xuất hiện mới hay mất đi

của một số ngành. Thứ tự ưu tiên đầu tư giữa các ngành, tiểu ngành trong nền kinh tế có
sự khác nhau và thay đổi qua từng thời kỳ phát triển. Các ngành, tiểu ngành có lợi thế sẽ
ngày càng được đầu tư phát triển và đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu ngành của nền
kinh tế. Một số ngành sẽ giảm đầu tư và giữ ở mức độ vừa phải. Một số ngành sẽ giảm
đầu tư ở mức tối đa.
Trong nền kinh tế giai đoạn hiện nay, các ngành công nghiệp dịch vụ thường có tốc độ
tăng trưởng cao hơn. Nếu như vào giai đoạn trước Việt Nam là một nước nông nghiệp
kém phát triển thì bây giờ chúng ta đã và đang cải thiện dần cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá hiện đại hoá. Mặt khác do những hạn chế về đất đai và các khả năng
sinh nên các ngành nông, lâm, ngư nghiệp đạt được tốc độ tăng trưởng không cao. Vì vậy
muốn có tốc độ tăng trưởng nhanh, bền vững và hiệu quả thì phải đầu tư mạnh vào công
nghiệp và dịch vụ, đặc biệt là các ngành công nghiệp, dịch vụ công nghệ hiện đại, có chất
lượng cao. Chính sách đầu tư vào các ngành có tốc độ phát triển khác nhau sẽ tạo ra sự
8
chuyển dịch cơ cấu kinh tế tuỳ theo mức độ chuyển đổi cơ cấu đầu tư và hiệu quả đầu tư
của các ngành đó.
Nói chung lại, cơ cấu vốn đầu tư phát triển theo ngành một cách hợp lý trong thời kì
đổi mới hiện nay là chuyển dịch theo hướng đầu tư mạnh cho công nghiệp, ưu tiên cho
nông nghiệp nông thôn và phát triển cơ sở hạ tầng cũng như các lĩnh vực xã hội.
1.2.4.4. Cơ cấu đầu tư phát triển theo địa phương, vùng lãnh thổ hợp lý:
Cơ cấu đầu tư theo địa phương và vùng lãnh thổ là cơ cấu đầu tư theo không gian. Từ
đó sẽ phản ánh tình hình sử dụng nguồn lực địa phương và việc phát huy lợi thế cạnh
tranh của từng vùng.
Trong mỗi giai đoạn phát triển, nguồn lực của mỗi quốc gia là có hạn nên các nhà
quản lý chiến lược phải đề ra những đề xuất tạo ra sự tăng trưởng cho nền kinh tế ở mức
hợp lý nhất. Trong điều kiện hiện nay khi mà nguồn lực trong nước còn hạn chế thì chiến
lược phát triển được coi tốt nhất là đầu tư phát triển phi cơ cấu. Theo đó sẽ ưu tiên đầu tư
phát triển mạnh một số vùng nhất định hay còn gọi là vùng kinh tế trọng điểm. Mục tiêu
của chiến lược trên là tạo ng uồn lực lớn lôi kéo các vùng phát triênt nhưng vẫn đảm bảo
các vúng khó khăn, vùng sâu, vùng xa không bị tụt hậu nhiều.

Cụ thể ở Việt Nam, việc đầu tư cho nông nghiệp nông thôn là một trong những hoạt
động đầu tư quan trọng nhất, hiệu quả nhất trong việc xoá đói, giảm nghèo, phát triển
kinh tế xã hội. Trong giai đoạn hên nay, Nhà nước ta cần phải tập trung đầu tư phát triển
các vùng kinh tế trọng điểm làm đầu tàu cho phát triển kinh tế các nước. Đồng thời phải
tăng cường đầu tư cho những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo đặc
biệt là các vùng sâu, vùng xa. Có thể nói phương hướng đầu tư trên sẽ tạo ra sự dịch
chuyển cơ cấu kinh tế giữa các vùng. Bên cạnh đó sẽ tạo ra những cơ cấu kinh tế theo
lãnh thổ mới, đảm bảo có được những tiềm lực lớn để tăng trưởng trong giai đoạn sau.
Dựa vào các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội như; tăng trưởng, xoá đói giảm nghèo. Bên
cạnh đó đặc biệt là dựa vào các lợi thế về vị trí địa lý, khí hậu tự nhiên, các nguồn lực
việc thực hiện đầu tư làm thay đổi vị trí của mình theo hướng ngày càng hợp lý hơn. Cụ
thể là sẽ sử dụng hiệu quả các nguồn lực, lợi thế của chính vùng kinh tế đó.
Nhìn chung lại một cơ cấu đầu tư theo địa phương hay vùng lãnh thổ được xem là hợp
lý nếu nó phù hợp với yêu cầu, chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Đồng thời phát huy
lợi thế sẵn có của vùng trong khi vẫn đảm bảo hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển chung của các vùng khác, đảm bảo sự phát triển thống nhất về những cân đối lớn
trong phạm vi quốc gia và giữa các ngành.
1.3. Đặc điểm và các nhân tố tác động đến cơ cấu đầu tư:
1.3.1. Đặc điểm của cơ cấu đầu tư:
- Cơ cấu đầu tư luôn thay đổi trong từng giai đoạn phù hợp với sự phát triển của nền
kinh tế xã hội. Sự thay đổi ở đây là sự thay đổi về vị trí, vai trò các bộ phận cấu thành đầu
tư bao gồm sự thay đổi về tổng quy mô nguồn lực, sự thay đổi về cơ cấu huy động nguồn
vốn, thay đổi về quan hệ tỷ lệ đầu tư giữa các ngành, tiểu ngành, các vùng và các thành
phần kinh tế
- Cơ cấu đầu tư chịu sự ảnh hưởng của nhiều nhân tố. có nhân tố thuộc nội tại nền kinh
tế, có nhân tố tác động từ bên ngoài. Mặt khác có nhân tố tích cực thúc đẩy phát triển
song cũng có nhân tố kìm hãm, hạn chế sự phát triển. Sự phụ thuộc nhiều vào các nhân tố
9
ảnh hưởng cũng là nguyên nhân làm cho cơ cấu đầu tư luôn thay đổi. Cơ cấu đầu tư
không cố định mà sẽ dich chuyển theo hướng phát triển đi tới một cơ cấu hợp lý.

1.3.2. Các nhân tố tác động:
1.3.2.1. Các nhân tố trong nội bộ nền kinh tế:
Các nhân tố nội bộ hay còn gọi là các nhân tố bên trong tồn tại ngay trong nền kinh tế
của nước đó bao gồm: quan điểm chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất
nước trong mỗi giai đoạn nhất định; nhân tố thị trường và nhu cầu tiêu dùng của xã hội;
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; cơ chế quản lý có thể anh hưởng đến cơ cấu
đầu tư Dưới đây chúng ta sẽ nghiên cứu kĩ hơn về một số nhân tố sau:
* Nhân tố thị trường và nhu cầu tiêu dùng của xã hội:
Thị trường và nhu cầu của xã hội là người đặt hàng cho tất cả các hoạt động sản xuất
kinh doanh của mọi ngành nghề, lĩnh vực của nền kinh tế. Khách hàng chính là người
quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi hàng hoá dịch vụ. Nếu xã hội không có nhu
cầu thì tất yếu sẽ không có bất kì một quá trình sản xuất, bất kì một quá trình đầu tư nào.
Trong nội bộ nền kinh tế nước ta hiện nay, sản phẩm hàng hoá đã được chu chuyển
khá thuận lợi và nhanh chóng từ vùng này sang vùng khác, từ nơi sản xuất đến nơi tiêu
dùng, từ nơi có nhu cầu thấp đến nơi có nhu cầu cao. Nếu hoạt động sản xuất kinh doanh
mà không căn cứ vào nhu cầu của thị trường thì khó có thể tồn tại được lâu dài. Hiện nay,
đất nước ta đã hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Nhưng chúng
ta đã phát huy được những lợi thế của mình, tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao, trở
thành sản phẩm xuất khẩu chủ lực, được thị trường thế giới đánh giá cao.
Căn cứ vào thị trường và nhu cầu xã hội không chỉ căn cứ vào số lượng mà cả nhu cầu
về chất lượng, chủng loại các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Từ đó nó có tác động trưc tiếp
đến quy mô, trình độ phát triển, đến vị trí, tỷ trọng đầu tư của các ngành, lĩnh vực trong
cơ cấu đầu tư của toàn xã hội. Việc xác lập một cơ cấu đầu tư cho mỗi quốc gia, mỗi
vùng kinh tế không thể không tính đến xu thế tiêu dùng của xã hội. Đồng thời xem xét
quan hệ cung cầu của từng loại hàng hoá dịch vụ, xác định đúng lợi thế của mình để có
chiến lược bố trí hoạt động đầu tư và chuyển dịch cơ cấu đầu tư hợp lý.
* Quan điểm chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, vùng và cơ
chế, năng lực quản lý trong mỗi giai đoạn nhất định:
Với tư cách là chủ thể quản lý, Nhà nước tác động và chi phối vào sự vận động của cơ
cấu đầu tư. Tuy nhiên Nhà nước không trực tiếp sắp đặt đầu tư theo các ngành nghề ( trừ

một số ít các dự án đầu tư trực tiếp của Nhà nước); không quy định các tỷ lệ của cơ cấu
đầu tư; không áp đặt đầu tư đối với các thành phần kinh tế bởi đó là quyền tự do sản xuất,
kinh doanh của các chủ thể kinh tế. Nhà nước chỉ tác động gián tiếp bằng các định hướng
phát triển để thực hiện được mục tiêu, đáp ứng nhu cầu xã hội. Đó chính là nội dung chủ
đạo của hoạt động kế hoạch đầu tư trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Định hướng phát triển của Nhà nước luôn khuyến khích mọi thành phần kinh tế, các
tầng lớp dân cư tham gia đầu tư phát triển nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội với
hiệu quả cao nhất. Ngoài ra, Nhà nước còn đưa ra các cơ hội, các dự án đầu tư, các hình
thức hỗ trợ nhất định để các chủ thể tham gia đầu tư.
Mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế xã hội là định hướng chung cho mọi thành phần
kinh tế, mọi doanh nghiệp trong cả nước phấn đấu thực hiện dưới sự điều tiết của Nhà
nước thông qua hệ thống luật pháp và các quy định, thể chế chính sách, tạo ra những tỷ lệ
10
hợp lý giưã các ngành nghề, các vùng kinh tế. Từ đó sẽ tiến tới thực hiện một cơ cấu đầu
tư hợp lý.
Mặt khác trong những thời kì nhất định, cơ chế quản lý Nhà nước cũng có những thay
đổi nhất định, tác động trực tiếp đến quá trình phát triển. Đi cùng với nó là năng lực quản
lý của hệ thống, khả năng nắm bắt các quy luật kinh tế sẽ tác động đến việc ban hành
chính sách, điều hành vĩ mô, tác động đến sự phát triển của nền kinh tế nói chung, đến
đẩu tư và cơ cấu đầu tư nói riêng.
* Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học công nghệ:
Lực lượng sản xuất chính là động lực để phát triển xã hội. Mặt khác thị trường và nhu
cầu của xã hội là vô tận và ngày càng cao. Muốn đáp ứng đầy đủ nhu cầu xã hội thì trước
hết phải phát triển lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển, nó tác động đến
trình độ tự động hoá, cơ giới hoá, điện khí hoá tạo ra sự chênh lệch về năng suất.
Khoa học ngày càng đóng vai trò là lực lượng sản xuất trực tiếp của xã hội, nó tác
động đến tất cả các khâu của quá trình phát triển. Nó làm thay đổi quy trình sản xuất
truyền thống, làm tăng năng suất hiệu quả. Từ đó đầu tư sẽ dịch chuyển theo hướng từ
những ngành có hàm lượng kĩ thuật thấp sang những ngành có hàm lượng kĩ thuật cao,

hiện đại. Lực lượng sản xuất sẽ là nhân tố tạo ra sự phát triển về chất trong hoạt động đầu
tư phát triển của mỗi quốc gia và vùng kinh tế.
* Yếu tố nguồn nhân lực:
Cơ cấu đầu tư có sự dịch chuyển nhanh hay chậm, hợp lý hay không hợp lý do sự tác
động chủ quan của con người. Có thể nói nguồn nhân lực là nhân tố có ý nghĩa quyết
định trong việc hình thành cơ cấu đầu tư. Một ví dụ điển hình chứng minh cho tầm quan
trọng của nguồn nhân lực chính là trường hợp của đất nước Nhật Bản. Mặc dù là một đất
nước nghèo nàn về nguồn tài nguyên thiên nhiên nhưng chính nhờ con người nơi đây với
trí tuệ và nghị lực mạnh mẽ, đất nước này đã nhanh chóng vượt qua khó khăn. Và giờ đây
Nhật Bản là một trong những nước phát triển nhất thế giới. Chính vì vậy mà chúng ta cần
học hỏi rất nhiều bài học, kinh nghiệm từ đất nước này. Việt Nam vẫn luôn tự hào về một
nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, “rừng vàng biển bạc”. Thế nhưng chúng ta vẫn
xếp trong những nước có nền kinh tế phát triển chưa cao. Vậy nguyên nhân là do đâu?
Nhìn chung nước ta có lực lượng lao động trẻ, dồi dào và nhanh nhậy. Đây là một ưu thế
nhưng nhìn chung trình độ còn thấp, kĩ thuật lao động hạn chế nên việc chuyển dịch cơ
cấu đầu tư sang các lĩnh vực sử dụng nhiều chất xám sẽ gặp nhiều khó khăn. Điều đó đòi
hỏi cần có sự đầu tư nhất định cho nguồn nhân lực.Cụ thể cần có chính sách đào tạo
nguồn nhân lực trở thành đội ngũ có tay nghề cao, hợp lý về cơ cấu phục vụ cho nền kinh
tế phát triển.
* Vị trí địa lý kinh tế, điều kiện về các nguồn lợi tự nhiên:
Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên đóng vai trò quan trọng trong việc bố trí đầu tư và
chuyển dịch cơ cấu đầu tư đặc biệt là cơ cấu đầu tư vùng kinh tế. Nguồn lợi tự nhiên là
một yếu tố gắn liền với vị trí địa lý, địa kinh tế của mỗi quốc gia, mỗi vùng kinh tế bao
gồm: khoáng sản, nguồn nước, nguồn năng lượng, đất đai, rừng biển, trình độ dân
trí Các nguồn lợi cùng với vị trí địa kinh tế, khí hậu tự nhiên kết tạo nên lợi thế so sánh
cho mỗi vùng trong khi các vùng khác không có hoặc không thuận lợi bằng. Khí hậu tự
nhiên của nước ta rất đa dạng, phong phú. Các nguồn lợi cũng đa dạng về chủng loại,
chất lượng Do đó, việc xác lập một cơ cấu đầu tư hợp lý là tương đối công phu, phức
tạp do sự tác động của điều kiện địa lý, khí hậu và các nguồn lợi tự nhiên và yếu tố nhân
văn. Với điều kiện khí hậu tự nhiên khác biệt giữa các miền, đã tạo thuận lợi cho nước ta

11
phát triển đa dạng, phong phú; trong nội bộ từng vùng cũng có thể bố trí đầu tư nhiều lĩnh
vực khác nhau, vừa phát triển chuyên môn hoá, vừa phát triển tổng hợp. Tuy nhiên sự đa
dạng này cũng có thể dẫn đến dàn trải, không tạo được ưu thế về quy mô trong hoạt động
đầu tư nói riêng, phát triển nói chung của quốc gia. Vì vậy trong chính sách đầu tư phải
có sự tập trung các nguồn lực trong việc khai thác có hiệu quả các lợi thế.
1.3.2.2. Nhóm nhân tố tác động từ bên ngoài:
Nhóm nhân tố tác động từ bên ngoài gồm có: nhân tố xu thế chính trị, xã hội và kinh tế
của các khu vực cũng như của thế giới.
Cụ thể, trong nền tài chính tiền tệ, một ảnh hưởng của một nước lớn cũng có thể gây
ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu. Một cuộc khủng hoảng về tài chính sẽ kéo theo sự
suy thoái của cả hệ thống tài chính các nước khác. Bên cạnh đó sự thay đổi về tỉ lệ giá cả
của các đồng tiền sẽ làm thay đổi về sức cạnh tranh của các mặt hàng trong nước ra nước
ngoài.
Mặt khác phải kể đến dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng,
góp phần bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế-xã hội. Đầu tư nước ngoài đã góp
phần tích cực thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công
nghiệp hóa - hiện đại hóa. Đầu tư nước ngoài có tác động đến kinh tế trong nước, thúc
đẩy các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh, đổi mới phương thức quản trị doanh
nghiệp cũng như phương thức kinh doanh; đồng thời nâng cao sức cạnh tranh của nền
kinh tế. Thông qua đầu tư nước ngoài, nhiều nguồn lực trong nước như lao động, đất đai,
lợi thế địa kinh tế, tài nguyên được khai thác và sử dụng có hiệu quả hơn. Đầu tư nước
ngoài đã tác động trực tiếp đến việc cân đối ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân
thanh toán thông qua chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp.
Đồng thời, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp đáng kể vào sự gia
tăng giá trị nền kinh tế, là cầu nối quan trọng giữa nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế
thế giới, thúc đẩy phát triển thương mại, du lịch, dịch vụ và tạo điều kiện để Việt Nam
chủ động hội nhập ngày càng sâu hơn vào đời sống kinh tế thế giới.
Bên cạnh ảnh hưởng về kinh tế, sự không ổn định về chính trị ở một nước, một khu
vực cũng gây ra tâm lý e ngại cho việc đầu tư vào đất nước hay khu vực đó. Một nền

chính trị bất ổn cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của nền kinh tế quốc gia,
khu vực đó, gây tổn thất không nhỏ tới toàn bộ nền kinh tế xã hội.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mà xu hướng hội nhập kinh tế toàn cầu đang
ngày càng phổ biến, sự phát triển của một nền kinh tế sẽ chịu tác động rất lớn từ các nền
kinh tế khác trong khu vực và thể giới. Mỗi quốc gia phải xây dựng cho mình đường lối,
chiến lược phát triển phù hợp với xu thế của thời đại, nhằm bắt kịp sự phát triển của các
nước trên thế giới, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, nâng cao vị thế kinh tế chính
trị trên trường quốc tế. Từ việc tìm hiểu thông tin về tình hình kinh tế, chính trị của các
nước trong khu vực và trên thế giới các nhà đầu tư sẽ điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho hợp lý
nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Đồng thời nhà nước cũng sẽ căn cứ vào xu hướng
chính trị trên thể giới và khu vực để đề ra mục tiêu phát triển cho nước mình tạo nên sự
phát triển bền vững.
Một điểm nữa cần lưu ý là trong xu hướng quốc tế hoá lực lượng sản xuất và thời đại
bùng nổ thông tin, các thành tựu của khoa học kĩ thuật cho phép các nhà đầu tư bắt nhanh
nhậy thông tin, tìm hiểu thị trường và xác định chiến lược cơ cấu đầu tư hợp lý để nâng
cao năng lực cạnh tranh nhằm chủ động hội nhập.
12
• Như vậy cơ cấu đầu tư chịu sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau, theo cường độ
và mức độ không giống nhau. Vì vậy trong quá trình thực hiện chuyển dịch cơ cấu đầu tư
cần nắm vững và nhận thức đúng đắn cơ chế tác động của các nhân tố đó. Đồng thời có
các biện pháp phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực nhằm xây dựng
được một cơ cấu đầu tư hợp lý cho nền kinh tế xã hội.
13
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ
CƠ CẤU ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN
2001-2007
Vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế, phát triển
xã hội và bảo vệ, cải thiện môi trường. Nhận thức được tầm quan trọng này, nên trong
chiến lược 10 năm cũng như kế hoạch 5 năm, Đảng và Nhà nước đều đưa ra mục tiêu này
và được coi là một trong mười mục tiêu tổng quát nhất. Trong thời gian qua, tỷ lệ huy

động vốn đầu tư so với GDP tăng đều qua các năm: năm 2001 là 34%; năm 2002 là
34.3%; năm 2003–35.8%; năm 2004 là 36.4%, năm 2005 là 38.4% và 2007 ước đạt
40.6% tăng 0.6% so với kế hoạch. Đây là mức cao so với nhiều quốc gia khác. Điều này
đã chứng minh rằng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam là chủ yếu do tăng mạnh vốn đầu tư.
Biều 1: Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội
Tổng vốn đầu tư
phát triển cả nước theo
giá thực tế
Theo số liệu thống kê, riêng trong giai đoạn 2001-2005 tổng vốn đầu tư được huy
động và đưa vào nền kinh tế đạt khoảng 976 tỷ đồng (theo giá so sánh năm 2000), bằng
khoảng 118.2% dự kiến kế hoạch 5 năm, gấp 1.76 lần so với 5 năm 1996- 2000. Tiếp 2
năm vừa qua 2006 tổng vốn đầu tư phát triển cả nước là 398.9 nghìn tỷ đồng và đặc biệt
năm 2007 chúng ta đã huy động được số vốn đầu tư lên tới 461.9 nghìn tỷ đồng, tăng
16.4% so với thực hiện năm 2006. Với đà này, Bộ kế hoạch đầu tư dự kiến tổng vốn đầu
tư xã hội trong giai đoạn tới tiếp tục tăng lên, ước tính giai đoạn 2006- 2010 khoảng 2200
tỷ đồng (tương đương 140 tỷ USD).
2.1 Thực trạng về cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn .
2.1.1 Quy mô và cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn.
Hiện nay, hầu hết các nghiên cứu đều phân tích đầu tư xã hội theo 3 nguồn vốn cơ bản
là: vốn đầu tư Nhà nước, vốn đầu tư ngoài quốc doanh và vốn đầu tư nước ngoài. Trong
đó vốn đầu tư hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) một phần nằm trong nguồn vốn ngân
sách Nhà nước vì được phân bổ qua Ngân sách Nhà nước hàng năm và ngoài ra một phần
14
461900
398900
343135
290927
239246
200145
170496

0
100000
200000
300000
400000
500000
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Năm
nằm trong vốn tín dụng đầu tư và phát triển nhà nước. Việc các địa phương chủ động thu
hút vốn ODA hiện nay chưa thực sự có ý nghĩa lớn vì chủ yếu là các dự án nhỏ lẻ. Hầu
hết các dự án có vốn đầu tư lớn, có ý nghĩa đối với sự phát triển kinh tế- xã hội đều được
phân bổ từ Trung ương.
Bảng 2: Vốn đầu tư toàn xã hội phân theo nguồn vốn
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
( sơ bộ)
Tổng số 170496 200145 239246 290927 343135 398900 461900
Vốn nhà
nước
101973 114738 126558 139831 161635 185100 200000
Vốn ngoài
quốc doanh
38512 50612 74388 109754 130398 150500 187800
Vốn đầu tư
nước ngoài
30011 34795 38300 41342 51102 63300 74100
Nguồn: Niên giám thống kê 2006 và thông cáo báo chí về số liệu thống kê năm 2007
Bảng 3 :Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội phân theo nguồn vốn
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
(sơ bộ)
Tổng số 100 100 100 100 100 100 100

Vốn nhà nước 59.8 57.3 52.9 48.1 47.1 46.4 43.3
Vốn ngoài quốc doanh 22.6 25.3 31.1 37.7 38.0 37.7 40.7
Vốn đầu tư nước ngoài 17.6 17.4 16.0 14.2 14.9 15.9 16.0
Nguồn: Niên giám thống kê 2006 và thông cáo báo chí về số liệu thống kê năm 2007
Biểu 2: Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội phân theo nguồn vốn
0%
20%
40%
60%
80%
100%
2001 2003 2005 2007
V?n đ?u tư nư?c ngoài
V?n ngoài qu?c doanh
V?n nhà nư?c
Có thể thấy rằng trong thời gian qua, Nhà nước đã áp dụng nhiều chính sách và cơ chế
quản lý mới, có nhiều cố gắng trong việc huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển thuộc
mọi thành phần kinh tế, cả trong nước và ngoài nước, nhất là nguồn vốn hỗ trợ phát triển
15
chính thức (ODA) và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Do đó, vốn đầu tư phát triển
hàng năm không ngừng tăng, các nguồn vốn huy động tham gia đầu tư ngày càng đa
dạng.
Bảng 4 : Vốn đầu tư thực hiện của khu vực kinh tế nhà nước
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
(sơ bộ)
Vốn nhà nước 101973 114738 126558 139831 161635 185100 200000
Theo nguồn vốn
Vốn NSNN 45594 50210 56992 69207 87932 100200 97000
Vốn vay 28723 34937 38988 35634 35975 41200 40300
Vốn tự có và vốn

khác
27656 29591 30578 34990 37728 43700 62700
Theo cấp quản lý
Trung uơng 56717 57031 63870 70613 82531 93100 135600
Địa phương 45256 57707 62688 69218 79104 92000 64400
Nguồn: Niên giám thống kê 2006 và thông cáo báo chí về s ố liệu thống kê năm 2007
Bảng 5: Cơ cấu vốn đầu tư thực hiện của khu vực kinh tế nhà nước
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Vốn nhà nước 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0
Theo nguồn vốn
Vốn NSNN 44.7 43.8 45.0 49.5 54.4 54.1 48.5
Vốn vay 28.2 20.4 20.8 25.5 22.3 22.3 20.2
Vốn tự có và vốn
khác
27.1 25.8 24.2 25.0 23.3 23.6 31.3
Theo cấp quản lý
Trung uơng 55.6 49.7 50.5 50.5 51.1 50.3 67.8
Địa phương 44.4 50.3 49.5 49.5 48.9 49.7 32.2
Nguồn: Niên giám thống kê 2006
Trước hết là nguồn vốn nhà nước. Là nguồn vốn có vai trò hết sức quan trọng trong
việc phát triển kết cấu hạ tầng và thu hút các nguồn vốn trong dân cư và vốn đầu tư nước
ngoài, quy mô vốn Nhà nước liên tục tăng lên trong thời gian qua.Tính từ giai đoạn 2001-
2007, tổng số vốn Nhà nước đưa vào nền kinh tế là khoảng hơn 1000 tỷ. Vốn Nhà nước
luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn. Tỷ trọng này trung bình
trong 7 năm vừa qua ước khoảng 50% trong đó vốn Ngân sách Nhà nước chiếm khoảng
24.45%, vốn tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước chiếm khoảng 13.19%, vốn tự có và
vốn khác chiếm khoảng 12.36% so với tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Đặc biệt
trong đó phải kể đến vốn ODA đã bổ sung một phần rất quan trọng cho ngân sách Nhà
nước. Trong giai đoạn 2001-2005 số vốn ODA các nhà tài trợ cam kết cho Nhà nước đạt
khoảng 14.7 tỷ, năm 2006 là 3.74 tỷ, năm 2007 là hơn 4.4 tỷ, tuy vậy số vốn giải ngân

mới chỉ đạt được khoảng phân nửa trong số vốn mà các nhà tài trợ đã cam kết.
Bên cạnh vốn Nhà nước, vốn ngoài quốc doanh bao gồm vốn của khu vực dân cư và tư
nhân đã đạt được mức độ tăng trưởng nhanh chóng, và là nguồn đầu tư lớn thứ hai. Tính
16
từ 2001-2007, tổng số vốn ngoài quốc doanh đã tăng lên gần 5 lần từ 38.5 nghìn tỷ lên
đến 187.8 nghìn tỷ cùng với đó là cơ cấu vốn đầu tư ngoài quốc doanh trong tỷ trọng tổng
vốn đầu tư đã tăng lên từ 22.6% năm 2001 lên 40.7% năm 2007. Trung bình năm sau vốn
đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh tăng lên so với năm trước đó là khoảng 28%, cá
biệt năm 2002 tăng so với năm 2001 là 46.97% và năm 2003 tăng so với năm 2002 là
47.54%.
Có sự thay đổi rất nhanh chóng và bứt phá trong thời gian vừa qua là dòng vốn FDI-
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Một nguồn vốn đầu tư có ý nghĩa hết sức to lớn đặc biệt
trong giai đoạn tiềm lực trong nước còn chưa thực sự mạnh mẽ. Hiện nay nguồn vốn đầu
tư trực tiếp của nước ngoài chủ yếu được khuyến khích đầu tư vào các ngành công nghệ
cao, xây dựng cơ sở hạ tầng, các vùng kinh tế còn nhiều tiềm năng nhưng chưa có điều
kiện khai thác. Phải nói rằng, cuộc khủng hoảng tài chính khu vực bắt đầu từ tháng 7-
1997 đã làm giảm sút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Nhưng những
năm gần đây dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được phục hồi và có xu hướng
tăng dần: năm 2003 vốn đăng ký tăng 6% so với năm 2002; năm 2004 vốn đăng ký tăng
42% so với năm 2003; năm 2005 vốn đăng ký tăng 58% so với năm 2005; năm 2006 vốn
đăng ký tăng 75.4% so với năm 2005; năm 2007- năm đạt mức kỷ lục về đầu tư nước
ngoài, cao gần gấp đôi so với dự kiến ban đầu: vốn đăng ký tăng 69% so với năm 2006.
Trong giai đoạn 2001-2005 thu hút vốn cấp mới (kể cả tăng vốn) đạt 20,8 tỉ USD vượt
73% so với mục tiêu đặt ra trong Nghị quyết 09/2001/NQ-CP (12 tỉ USD), vốn thực hiện
đạt 14.3 tỉ USD, tăng 30% so với mục tiêu (11 tỉ USD); năm 2005 vốn cấp mới đạt 6.84 tỉ
USD. Đặc biệt là 2 năm 2006-2007, trong năm 2006 số vốn FDI đăng ký đạt tới 12 tỷ
USD và năm 2007, số vốn đăng ký đã lên đến mức kỷ lục 20.3 t ỷ USD. Đồng thời cùng
với tăng nhanh dòng vốn đầu tư, còn xuất hiện nhiều dự án có quy mô lớn đầu tư chủ
yếu vào lĩnh vực công nghiệp nặng (sản xuất sản phẩm công nghệ cao, đồ điện tử, thép )
và dịch vụ (cảng biển, bất động sản, công nghệ thông tin, tư vấn ).

Bảng 6 : Đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép 2001-2006
Năm Số dự án Vốn đăng ký (Triệu $ Mỹ) Tổng số vốn
thực hiện (Triệu
$ Mỹ)
Tổng số V ốn ph áp đ ịnh
Tổng số Nước
ngoài
góp
Việt Nam
góp
2001 555 3142.8 1708.6 1643.0 65.6 2450.5
2002 808 2999.8 1272.0 1191.4 80.6 2591.0
2003 791 3191.2 1138.9 1055.6 83.3 2650.0
2004 811 4547.6 1217.2 1112.6 104.6 2852.5
2005 970 6839.8 1973.4 1875.5 97.9 3308.8
2006 987 12003.8 4674.8 4328.3 346.5 3956.3
2007 1445 20300.0 >4000
Nguồn: Tính theo Niên giám thống kê 2006 và số liệu ước tính năm 2007.
17
2.1.2 Sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn trong giai đoạn 2001-2007.
Như vậy, có thể thấy cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn trong thời gian qua đã có bước dịch
chuyển quan trọng với xu hướng: giảm dần tỷ trọng vốn đầu tư phát triển Nhà nước, tăng
dần vốn đầu tư từ khu vực ngoài quốc doanh và vốn đầu tư nước ngoài. Sự thay đổi cơ
cấu đầu tư trên được các chuyên gia đánh giá là phù hợp với định hướng chuyển dịch cơ
cấu kinh tế thành phần trong giai đoạn hiện nay. Tỷ trọng vốn nhà nước trong tổng số vốn
đã giảm từ 59.8 % năm 2001 xuống 46.4% năm 2006 và trong năm 2007 ước đạt chỉ còn
khoảng 43.3% cùng với đó tỷ lệ đóng góp của khu vực kinh tế nhà nước vào GDP trong
cơ cấu GDP đã giảm từ 38.4% năm 2001 xuống 37.2% năm 2006. Về vốn ngoài quốc
doanh, với sự tăng lên về vốn đầu tư của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, khu vực
ngoài quốc doanh cũng đã có những đóng góp quan trọng vào cơ cấu GDP phân theo

thành phần kinh tế của quốc gia. Tuy cơ cấu GDP theo giá hiện hành chúng ta không thấy
rõ sự thay đổi này, tuy vậy tốc độ tăng GDP theo giá so sánh của khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh cũng đã tăng từ 6.36% năm 2001 lên 8.19% năm 2007. Đặc biệt là sự thu hút
mạnh mẽ của vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta trong thời gian qua, khu vực kinh tế có
vốn ĐTNN ngày càng thể hiện rõ là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế Việt Nam. Tỷ
trọng trong GDP của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã tăng từ 13.76% năm 2001 lên
17.02% năm 2006.
Bảng 7: Cơ cấu và tốc độ tăng trưởng theo thành phần kinh tế, 2001-2005
2001 2002 2003 2004 2005 2006
Cơ cấu GDP (giá hiện hành) 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0
Kinh tế nhà nước 38.40 38.38 39.08 39.23 38.42 37.32
Kinh tế ngoài quốc doanh 47.84 47.86 46.45 45.61 45.68 45.66
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 13.76 13.76 14.47 15.17 15.89 17.02
Tốc độ tăng GDP (giá so sánh) 6.89 7.08 7.34 7.79 8.43
Kinh tế nhà nước 7.44 7.11 7.65 7.75 7.36
Kinh tế ngoài quốc doanh 6.36 7.04 6.36 6.95 8.19
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 7.21 7.16 10.52 11.51 13.20
Nguồn: TCTK và tính toán của Viện NCQLKTTƯ.
Lý giải cho những nguyên nhân của sự dịch chuyển cơ cấu nguồn vốn đầu tư như trên
trong giai đoạn này có rất nhiều nguyên nhân khác nhau:
Trước hết, về việc tăng lên quy mô của các nguồn vốn đầu tư (số liệu tuyệt đối) trong
giai đoạn này cần phải thấy rằng trong giai đoạn này có những chuyển biến tích cực trong
huy động, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước một phần quan trọng là nhờ công tác
chỉ đạo toàn diện của Chính phủ trong việc từng bước cải thiện môi trường đầu tư, tháo
gỡ các khó khăn, vướng mắc cho các nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
của doanh nghiệp. Đặc biệt vào cuối năm 2005, Quốc hội đã thông qua nhiều đạo luật
quan trọng nhằm cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư, kinh doanh, trong đó có Luật Đầu
tư chung và Luật Doanh nghiệp thống nhất. Triển vọng tương đối lạc quan về sự phát
triển kinh tế của Việt Nam cùng với việc thực hiện các cam kết song phương và đa
phương trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo nên sức hút mạnh mẽ cho cả

đầu tư trong nước và ĐTNN.
18
Sau nữa là sự dịch chuyển về cơ cấu đầu tư (số liệu tương đối) trong giai đoạn này. Sự
dịch chuyển như trên được xem là hợp lý và là dấu hiệu đáng mừng.
Tuy vẫn là nguồn vốn quan trọng nhất của nền kinh tế, tỷ trọng của vốn đầu tư nhà
nước vẫn chiếm khoảng gần 50% tổng vốn đầu tư nhưng tỷ trọng này đã có xu hướng
giảm dần trong thời gian qua. Đây là tín hiệu tích cực đối với nền kinh tế thị trường đang
hình thành, phần nào phản ánh môi trường đầu tư đã và đang được cải thiện. Vốn đầu tư
Nhà nước chỉ chủ yếu tập trung cho các dự án công cộng không thu hồi được vốn, hỗ trợ
đầu tư cho các vùng còn khó khăn, đầu tư vào kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội như giao
thông, thuỷ lợi, hạ tầng nông nghiệp, các cơ sở sản xuất giống cây và giống con, hạ tầng
lâm nghiệp, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, y tế xã hội, văn hoá, thể dục thể
thao có tác động là vốn mồi để thu hút các nguồn vốn khác. Ngoài ra nó sẽ có vai trò
quan trọng trong việc hình thành các công trình trọng điểm của quốc gia, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế các vùng, các ngành.
Vốn DNNN sau một thời kỳ giảm đã tăng trở lại vào năm 2005 do tiến trình cổ phần
hoá được đẩy mạnh. Đối với các DNNN trực tiếp sản xuất kinh doanh, có điều kiện thu
hồi vốn thì Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn tín dụng ưu đãi
đầu tư, các doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về mặt tài chính, vay và trả nợ đúng thời
hạn, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả đầu tư. Nguồn vốn đầu tư các DNNN tự huy động
thêm từ nguồn khấu hao cơ bản, từ nhà xưởng mặt bằng chưa dùng đến hoặc dùng chưa
có hiệu quả, từ các nguồn lợi nhuận sau thuế sẽ được khuyến khích đầu tư mở rộng quy
mô sản xuất, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Với chủ trương huy động, phát huy tối đa các nguồn vốn tiết kiêm từ tư nhân, dân cư
theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Tỷ trọng vốn ngoài quốc doanh được huy
động vào nền kinh tế đã không ngừng tăng lên trong tổng vốn đầu tư của toàn xã hội, từ
22.6 % năm 2001 đã tăng 14% lên tới 38% năm 2005 và đặc biệt trong năm vừa qua, năm
2007 tỷ trọng của nguồn vốn này là 40.7%. Nguồn vốn đầu tư của khu vực dân cư và tư
nhân này được khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế xã hội. Đầu tư của khu vực
ngoài quốc doanh đã và đang chứng tỏ vai trò ngày càng quan trọng và tiềm năng to lớn

của khu vực này trong phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Về nguồn vốn FDI, vài năm gần đây Chính phủ đã thực hiện nhiều giải pháp cụ thể
nhằm tạo chuyển biến mới trong công tác thu hút FDI. Hàng loạt pháp lệnh, nghị định và
văn bản pháp lý được ban hành nhằm sửa đổi những điểm chưa phù hợp, bổ sung và đưa
ra các quy định mới làm cho Việt Nam hấp dẫn hơn đối với đầu tư nước ngòai như: giảm
mức thuế suất thu nhập cá nhân cao nhất đối với người nước ngoài; mở rộng phạm vi
kinh doanh đối với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài; đơn giản hoá các thủ tục hành
chính và tăng cường trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc hỗ trợ nhà
đầu tư giải quyết các thủ tục về đất; xoá bỏ chế độ hai giá; miễn thuế nhập khẩu một số
đầu vào sản xuất cho các doanh nghiệp mới thành lập; tinh giản thủ tục hải quan theo
chuẩn mực quốc tế; cải tiến việc cấp,miễn thị thực; sửa đổi thuế thu nhập đối với các
doanh nghiệp có vốn ĐTNN; xoá bỏ hạn chế về tỷ lệ vốn FDI trong một số ngành…
Phải nói đặc biệt trong năm 2007, tính chung cả cấp mới và tăng vốn, số vốn FDI đạt
20.3 tỷ USD, tăng gần 70% so với năm 2006 và là số vốn FDI thu hút được nhiều nhất
trong 20 năm qua kể từ khi có luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam từ năm 1987 đến nay.
Năm 2007 là năm đánh dấu FDI ở Việt Nam có bước đột phá về lượng và có sự chuyển
biến mạnh mẽ về chất. Không chỉ phát huy tiếp tác dụng của các luật khuyến khích đầu tư
ban hành từ các năm trước đó mà năm 2007 còn đánh dấu một năm sau khi Việt Nam ra
19
nhập WTO. Việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức WTO cũng đã và đang mở ra
những cơ hội mới trong thu hút đầu tư nước ngoài: tạo điều kiện để các doanh nghiệp
Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ cũng như thu hút nhiều hơn
các nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư tại Việt Nam để xuất khẩu ra thế giới. Bên cạnh đó
việc Việt Nam cam kết mở cửa 11/12 ngành dịch vụ tạo điều kiện thu hút đầu tư nước
ngoài vào lĩnh vực kinh doanh dịch vụ tại Việt Nam và tạo điều kiện cho các nhà đầu tư
nước ngoài yên tâm đầu tư lâu dài ở Việt Nam. Sau nữa, việc gia nhập WTO cũng đòi hỏi
Việt Nam tiếp tục xây dựng môi trường pháp lý hoàn chỉnh và minh bạch hơn sẽ thúc đẩy
mở cửa các ngành kinh tế và tăng tính hấp dẫn của Việt Nam đối với đầu tư nước ngoài.
Tất cả đã lý giải cho những con số tăng lên nhanh chóng đó và sự dịch chuyển về cơ
cấu nguồn vốn đầu tư của Việt Nam trong thời gian qua.

2.2 Thực trạng về cơ cấu của vốn đầu tư
2.2.1 Quy mô và cơ cấu vốn đầu tư.
Có nhiều cách phân loại cơ cấu vốn đầu tư khác nhau. Cơ cấu vốn đầu tư thể hiện quan
hệ tỷ lệ giữa từng loại vốn trong tổng vốn đầu tư xã hội, vốn đầu tư của doanh nghiệp hay
một dự án. Dưới đây, chúng ta sẽ xem xét cơ cấu vốn đầu tư của Nhà nước ta trong thời
gian qua cho các hoạt động chính sau: hoạt động xây dựng cơ bản, công tác nghiên cứu
và triển khai khoa học và công nghệ, vốn đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực.
* Cơ cấu vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng và xây dựng cơ bản.
Đầu tư xây dựng cơ bản (ĐTXDCB) là hoạt động đầu tư nhằm tạo ra các công trình
xây dựng theo mục đích của người đầu tư, là lĩnh vực sản xuất vật chất tạo ra các tài sản
cố định và tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội. ĐTXDCB là một hoạt động kinh tế.
ĐTXDCB của nhà nước có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong những năm qua nhà nước đã giành hàng chục
ngàn tỷ đồng mỗi năm cho ĐTXDCB. ĐTXDCB của nhà nước chiếm tỷ trọng lớn và giữ
vai trò quan trọng trong toàn bộ hoạt động ĐTXDCB của nền kinh tế ở Việt Nam. Nhà
nước luôn dành khoảng hơn 30% tổng chi ngân sách của mình đầu tư cho lĩnh vực đầu tư
phát triển mà trong đó chủ yếu là vào ĐTXDCB. Hoạt động ĐTXDCB của nhà nước đã
tạo ra nhiều công trình, nhà máy, đường giao thông… quan trọng, đưa lại nhiều lợi ích
kinh tế xã hội thiết thực.
* Cơ cấu vốn đầu tư cho khoa học công nghệ.
Trong quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế hiện nay, khoa học công nghệ đang trở thành
yếu tố then chốt cho sự phát triển của nền kinh tế cũng như của từng doanh nghiệp. Cùng
với đà tăng lên của các loại vốn đầu tư, vốn đầu tư từ ngân sách của nhà nước cho lĩnh
vực khoa học, công nghệ cũng tăng lên tuy nhiên quy mô ở mức độ rất nhỏ. Năm 2002
đạt khoảng gần 300 tỷ đồng chiếm 2% tổng vốn chi ngân sách Nhà nước, năm 2004 đã
tăng lên nhưng cũng chưa đầy 4000 tỷ đồng tuy vậy tỷ trọng cơ cấu trong tổng chi ngân
sách Nhà nước dành cho Khoa học, công nghệ lại giảm đi, chỉ còn khoảng hơn 1%.
* Cơ cấu vốn đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực.
Đào tạo nguồn nhân lực có vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển của doanh
nghiệp nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Nguồn nhân lực là nhân tố không thể thiếu

là lực lượng sản xuất trực tiếp của xã hội. Vì vậy công tác đầu tư cho đào tạo nguồn nhân
lực rất cần được quan tâm chú trọng. Trong thời gian vừa qua, đầu tư của ngân sách Nhà
nước liên tục tăng lên. Nếu năm 2001 chỉ đạt khoảng hơn 15000 tỷ đồng, năm 2003 đạt
khoảng 24000 tỷ đồng chiếm khoảng 16.4% tổng chi ngân sách thì năm 2005 là 42.943 tỷ
20
đồng; năm 2006 - 54.789 tỷ đồng; năm 2007 - 66.770 tỷ đồng chiếm gần 20% tổng chi
ngân sách Nhà nước.
2.2.2 Đánh giá những sự dịch chuyển theo cơ cấu vốn đầu tư trên.
Qua xu hướng trên, ta thấy, Nhà nước ta đã và đang có những chuyển biến nhất định
trong việc đầu tư cho các lĩnh vực XDCB, chi cho khoa học công nghệ và giáo dục đào
tạo. Điều đó được thể hiện trước hết ở sự tăng lên ở quy mô của vốn đầu tư và bên cạnh
đó là sự dịch chuyển cơ cấu đầu tư ở một số lĩnh vực ví dụ như giáo dục đào tạo. Năm
2008, đầu tư của ngân sách Nhà nước cho giáo dục đào tạo vẫn tiếp tục tăng lên, dự kiến
là 72.520 tỷ đồng. Việc nâng tỷ lệ chi cho giáo dục đào tạo lên tới 20% tổng chi ngân
sách Nhà nước sớm 3 năm so với mục tiêu đề ra là một cố gắng lớn, thể hiện sự quan tâm
của Đảng và Nhà nước khi thực hiện Nghị quyết 05/2005 của Chính phủ. Tuy vậy, vẫn có
một số vấn đề đáng bàn về cơ cấu của các loại vốn đầu tư này trong ngân sách Nhà nước.
* Về vốn ĐTXDCB : Vốn dành cho ĐTXDCB của nhà nước cũng chiếm tỷ trọng quan
trọng trong tổng vốn ĐTXDCB nói chung. Điều này thể hiện năng lực huy động vốn khu
vực ngoài nhà nước và thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho ĐTXDCB còn yếu. Nhà nước
vẫn còn bao cấp khá nặng trong ĐTXDCB. Tổng vốn dành cho ĐTXDCB có tăng nhưng
khó tạo ra sự phát triển đột phá nếu nguồn vốn đầu tư nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng quá
lớn trong tổng đầu tư xã hội. Trong khi đó, ĐTXDCB của Nhà nước vẫn còn hướng tới
những lĩnh vực không đáng đầu tư, những lĩnh vực mà có thể để cho khu vực tư nhân hay
đầu tư nước ngoài thực hiện sẽ có hiệu quả hơn ví dụ sản xuất đường ăn, xi măng, sắt
thép… Đầu tư còn sai, dàn trải, khép kín và những tiêu cực trong việc sử dụng vốn đầu
tư, sử dụng vốn đầu tư lãng phí, không hiệu quả, tham nhũng, thất thoát.
* Về đầu tư cho khoa học, công nghệ: tỷ lệ 2% trong tổng vốn chi ngân sách Nhà nước
là một tỷ lệ quá nhỏ, không những vậy, tỷ lệ này lại còn đang có xu hướng giảm xuống.
Trong khi lĩnh vực khoa học công nghệ ở nước ta còn vô cùng yếu kém, nghèo nàn và lạc

hậu. Theo báo cáo “Tầm nhìn 2020 của Bộ khoa học, Công nghệ và môi trường” (năm
2001) trình độ năng lực KHCN ở Việt Nam đứng ở vị trí rất thấp so với các nước trên thế
giới và khu vực. Đặc biệt, năng lực công nghệ ở Việt Nam thua kém khá xa với các nước
trong khu vực. Kết quả điều tra tính toán của diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) cho biết:
Năm 2000, chỉ số công nghệ ở Việt Nam là -0.51 thì Trung Quốc là 0.35; Philipin là
0.54; Malaixia là 1.08; Singapore là 1.95. Hay heo số liệu điều tra năm 2005 trong công
nghiệp, tỷ trọng doanh nghiệp có công nghệ cao mới chiếm 20.6%, thấp hơn nhiều so với
các nước trong khu vực: Philipin là 29.1%, Malayxia là 51.1%, Singapore là 73%. Không
những đầu tư còn nhỏ bé, nhiều cơ chế chính sách của ngành đưa ra lại chưa thực sự phù
hợp. Về nhân lực hoạt động trong lĩnh vực này, chế độ đãi ngộ chính sách đối với cán bộ
khoa học chưa thực sự là đòn bẩy khuyến khích cán bộ khoa học tận tâm, tận lực với
nghề trong khi mức lương vừa thấp, môi trường làm việc và nghiên cứu không tốt. Tất cả
đang là trở ngại cho việc thay đổi bộ mặt của ngành khoa học và công nghệ ở nước ta.
* Ngay cả trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo: Trên thực tế, tính theo thu nhập trên đầu
người, Việt Nam có lẽ là nước chi cho giáo dục đào tạo vào loại cao của thế giới: trung
bình hàng năm khoảng 8% GDP/năm, ở Mỹ mới chỉ là 6%, Trung Quốc là 2,7% ; nếu
tính theo thu nhập của hộ gia đình tỷ lệ chi cho giáo dục ở nước ta còn cao hơn nữa. Chi
ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo năm 2000 là 11,5%, năm 2005 là 13%, năm
2007 là 20% (nguồn TCTK và BKHĐT), nhiều quốc gia mơ tưởng chỉ số này dành cho
giáo dục của họ. Gần đây còn có nhiều quyết sách khác về tài chính – kể cả việc cho sinh
21
viên vay tiền ngân hàng để chi cho học tập – hỗ trợ việc phát triển giáo dục. Nghĩa là cả
nước nỗ lực rất lớn cho phát triển giáo dục nói riêng và phát triển nguồn nhân lực nói
chung. Tuy vậy, lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở Việt Nam vẫn còn gặp rất nhiều bất cập,
khó khăn. Kinh phí đầu tư tăng lên cũng mới chỉ đáp ứng được 70% nhu cầu tối thiểu cho
lĩnh vực này và khoảng cách này sẽ còn là lớn hơn nữa nếu chúng ta muốn áp dụng các
điều kiện học tập tốt hơn cho học sinh. Do đó, thời gian qua, các chủ trương như xã hội
hoá giáo dục, thương mại hoá giáo dục đang được hô hào nhằm tăng đóng góp của người
dân cho giáo dục, đào tạo tuy vậy vẫn còn đang vấp phải nhiều phản đối, dư luận từ phía
xã hội.

2.3 Thực trạng về cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành.
2.3.1 Quy mô và cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành.
Bảng 8: Vốn đầu tư toàn xã hội phân theo ngành kinh tế
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Tổng số 170496 200145 239246 290927 343135 398900
Nông, lâm, ngư nghiệp 16142 17584 20220 22963 25749 29843
Trong
đó
Nông nghiệp và
lâm nghiệp
13629 14605 17077 18113 20079 22123
Thuỷ sản 2513 2934 3143 4850 5670 7720
Công nghiệp và xây dựng 72250 84734 98794 124372 146104 163831
Trong
đó
Công nghiệp 63204 74244 87286 113175 132902 148588
Xây dựng 9046 10490 11508 11197 13202 15243
Dịch vụ 82104 97827 120232 143592 171282 205226
Nguồn: T ính theo Niên giám thống kê 2006
Bảng 9: Cơ cấu đầu tư theo ngành, thời kỳ
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Tổng số 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00
Nông, lâm, ngư nghiệp 9.46 8.78 8.45 7.89 7.50 7.48
Công nghiệp, xây dựng 42.38 42.34 41.29 42.75 42.58 41.07
Dịch vụ 48.16 48.88 50.26 49.36 49.92 51.45
Nguồn: T ính theo Niên giám thống kê 2006
Trong 6 năm vừa qua, từ năm 2001-2006, tổng số vốn đầu tư vào khu vực nông, lâm,
ngư nghiệp đạt khoảng 132.5 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng khoảng 8.26% tổng số vốn
đầu tư phát triển toàn xã hội. Tổng số vốn đầu tư vào khu vực công nghiệp, xây dựng
690.1 nghìn tỷ, chiếm tỷ trọng khoảng 42.07 % tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội.

Nhưng có sự thu hút mạnh mẽ nhất về vốn đầu tư trong những năm gần đây phải kể đến
là khu vực dịch vụ. Khu vực này đã thu hút được tới hơn 820 nghìn tỷ đồng trong 6 năm
vừa qua. Tính trung bình, năm sau số vốn đầu tư thu hút vào khu vực dịch vụ tăng hơn
năm trước đó là 20% và luôn là khu vực thu hút vốn đầu tư chiếm tỷ trọng cao nhất trong
cơ cấu đầu tư theo ngành kinh tế của toàn xã hội, chiếm khoảng 50% tổng số vốn đầu tư
toàn xã hội, năm 2006, con số này lên tới 51.45%.
22
Biểu 3: Cơ cấu đầu tư theo ngành, thời kỳ 1996- 2005

36.1
50.2
13.7
Nong nghiep
Cong nghiep
Dich vu
2.3.2 Sự dịch chuyển cơ cấu đầu tư theo ngành giai đoạn 2001-2007.
Như vậy, có thể thấy, cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành kinh tế trong thời gian qua.
Từ năm 2001-2007 dịch chuyển theo hướng tăng dần tỷ trọng đầu tư cho các ngành công
nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỷ trọng đầu tư cho ngành nông, lâm, ngư nghiệp. Tỷ trọng vốn
đầu tư cho khu vực nông, lâm, ngư nghiệp đã giảm liên tiếp từ 9.46% năm 2001 xuống
7.5% năm 2005 và 7.48% năm 2006. Như vậy, xét về số tuyệt đối, tổng số vốn đầu tư
phát triển nông, lâm, ngư nghiệp vẫn tăng nhưng tỷ trọng của chúng trong tổng vốn đầu
tư phát triển lại giảm. Về lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, tổng số vốn đầu tư vào lĩnh
vự này trong thời gian qua tăng lên rất nhanh chóng, tuy vậy tỷ trọng đầu tư của khu vực
này trong cơ cấu đầu tư theo ngành kinh tế trong 6 năm vừa qua không có sự thay đổi rõ
nét, luôn sấp sỉ ở con số 42%. Tuy vậy, nếu so sánh tỷ trọng vốn đầu tư trong giai đoạn
này, từ năm 2001-2006 so với giai đoạn trước đó từ năm 1996-2000 thì ta thấy đã có sự
thay đổi rõ rệt. Giai đoạn trước đó, tỷ trọng vốn đầu tư vào khu vực công nghiệp và xây
dựng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội chỉ chiếm khoảng 36.1%. Như vậy, sự giảm đi về
mặt tỷ trọng của khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản trong thời gian qua chủ yếu

nhường chỗ cho sự tăng lên tỷ trọng đầu tư của khu vực dịch vụ trong tổng số vốn đầu tư
phát triển. Tỷ trọng vốn đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ chiếm khoảng 48.16% năm 2001
đã tăng lên tới 50.26% năm 2003 và 51.45% năm 2006 và luôn giữ ở vị trí cao nhất.
23
40.6
9.1
50.3
Có thể thấy rằng sự dịch chuyển cơ cấu đầu tư theo ngành trong thời gian qua là hợp
lý, phù hợp với chủ trương, chiến lược của Nhà nước ta và đã tạo động lực cho sự phát
triển và sự chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá.
Trong giai đoạn vừa qua Việt Nam luôn luôn là quốc gia có tốc độ tăng trưởng GDP cao.
Đứng trong khu vực Đông Á, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam đứng thứ 2 chỉ sau
Trung Quốc. Các lý thuyết và học thuyết kinh tế hiện đại đã nghiên cứu và giải đáp thành
công mối quan hệ nhân quả giữa đầu tư và phát triển kinh tế và đã chứng minh được
rằng, đầu tư là chìa khóa được cụ thể hoá trong mối tương quan giữa tăng trưởng vốn đầu
tư và tăng trưởng GDP. Như vậy, đóng góp vào sự tăng trưởng GDP này đó chính là do
có sự thay đổi trong vốn đầu tư và đặc biệt là sự đóng góp, sự thay đổi cơ cấu đầu tư phân
theo ngành kinh tế.
Do chiếm tỷ trọng lớn trong GDP (chiếm khoảng 40%) và có tốc độ tăng giá trị tăng
thêm cao nhất khoảng 10.3%, do đó trong những năm qua công nghiệp và xây dựng vẫn
là khu vực có đóng góp lớn nhất vào tốc độ tăng trưởng chung, chiếm tới 49,7% hay 4,2
điểm phần trăm tốc độ tăng trưởng GDP. Khu vực nông- lâm- thủy sản chịu nhiều tác
động bất lợi của thời tiết, dịch cúm gia cầm và biến động của thị trường; tốc độ tăng
trưởng của khu vực nông- lâm- thủy sản trong những năm qua chỉ đạt khoảng 3.6% đóng
góp 9,8% hay 0,8 điểm phần trăm tốc độ tăng trưởng GDP. Giá trị tăng thêm của khu vực
dịch vụ là khoảng 7.38% trong 7 năm qua. Trong đó phải kể đến 3 năm gần đây, tốc độ
tăng giá trị của khu vực này đã đạt 8.48% năm 2005, đây được coi là năm khu vực dịch
vụ có mức tăng trưởng cao nhất kể từ trước và lần đầu tiên cao hơn mức tăng trưởng
GDP của toàn bộ nền kinh tế và năm 2007 đã đạt được 8.6%.
Đầu tư có mối quan hệ chặt chẽ với chuyển dịch cơ cấu. Kinh nghiệm của các nước

trên thế giới cho thấy nếu muốn tốc độ phát triển kinh tế tăng cao (9-10%) thì phải tăng
cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các
ngành nông, lâm, ngư nghiệp do hạn chế nhiều mặt, để đạt tốc độ tăng trưởng từ 5-6% là
rất khó khăn. Như vậy chính đầu tư đã quyết định chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm đạt
được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
Bảng 10: Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) phân theo ngành kinh tế
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
GDP 6.89 7.08 7.34 7.79 8.44 8.17 8.44
Nông, lâm, ngư
nghiệp
2.89 4.17 3.62 4.36 4.02 3.3 3.0
Công nghiệp, xây
dựng
10.39 9.48 10.48 10.22 10.69 10.37 10.4
Dịch vụ 6.10 6.54 6.45 7.26 8.48 8.29 8.6
Nguồn: Niên giám thống kê 2006 (tr69)
2.4 Thực trạng về cơ cấu đầu tư phát triển theo vùng, lãnh thổ.
2.4.1 Quy mô và cơ cấu đầu tư phát triển theo vùng.
Ở nước ta hiện nay, khi phân tích cơ cấu vùng, lãnh thổ, thường chia làm 7 vùng kinh
tế gồm Trung du và miền núi phía Bắc, Đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung bộ và duyên hải
miền Trung, Tây nguyên, đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ.Trong tất cả các
vùng, lãnh thổ đó, khu vực kinh tế đồng bằng Bắc Bộ và Đông Nam Bộ luôn là 2 khu vực
24
có tỷ lệ thu hút vốn đầu tư cao nhất cả nước. Vùng Đồng Bằng Bắc Bộ trong giai đoạn từ
2001-2005 tỷ lệ vốn đầu tư vào khu vực chiếm khoảng 27.7% vốn đầu tư toàn quốc và
vùng Đông Nam bộ là hơn 30%. Như vậy chỉ tính riêng 2 khu vực này đã chiếm quá nửa
tỷ trọng vốn đầu tư vào nước ta.
* Về nguồn vốn từ Nhà nước: Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng
sông Cửu Long cũng chính là những vùng tiếp nhận vốn đầu tư nhà nước nhiều nhất
trong thời gian qua. Tuy nhiên trong các nguồn vốn đầu tư nhà nước các vùng lãnh thổ

kém phát triển hơn thường nhận đưoc tỷ trọng đầu tư lớn hơn từ ngân sách nhà nước. Với
các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng cơ sở hạ tầng giao thông, thuỷ điện nước
còn kém thì nhà nước thực hiện các chính sách hỗ trợ bằng nguồn vốn ngân sách nhằm
tạo điều kiện tốt hơn cho việc thu hút các nguồn vốn khác đến đầu tư.
Bảng 11: Cơ cấu đầu tư theo vùng, lãnh thổ kinh tế
Loại vùng 1996-2000 2001-2004 1996-2004
Trung du và vùng núi phía Bắc 7.00 7.10 7.05
Đồng Bằng Bắc Bộ 28.30 27.70 28.00
Bắc Trung Bộ và duyên hải mi ền Trung 16.40 17.40 16.90
Tây Nguyên 4.10 4.00 4.05
Đông Nam Bộ 31.30 30.60 30.95
Đồng Bằng sông Cửu Long 12.90 13.20 13.05
Nguồn: Ngô Doãn Vịnh “ Những vấn đề chủ yếu của đầu tư phát triển” NXB Chính trị
Quốc Gia, 2006
Bảng 12: Phân bổ vốn đầu tư nhà nước theo vùng lãnh thổ 2001-2005

Tổng vốn
đầu tư Nhà
nước
( nghìn tỷ
đồng)
Tỷ trọng
trong tổng
đầu tư trên
toàn quốc
(%)
Đầu tư từ
ngân sách
Nhà nước
(nghìn tỷ

đồng)
Tỷ trọng đầu tư
ngân sách Nhà
nước trong tổng
đầu tư Nhà nước
(%)
Tổng 498.1 100 211.7 42.5
Trung du và miền
núi phía Bắc
48.4 9.7 27.7 57.2
Đồng bằng sông
Hồng
115.1 23.1 43.5 37.8
Bắc Trung Bộ 47.0 9.4 26.0 55.3
Duyên Hải Miền
Trung
57.7 11.6 24.1 41.8
Tây Nguyên 25.4 5.1 10.0 39.4
Đồng Bằng sông
Cửu Long
81.0 16.3 37.1 45.8
Đông Nam Bộ 123.5 24.8 43.3 35.1
Nguồn: Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương.

* Về nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: cơ cấu đầu tư FDI theo vùng lãnh thổ cũng
rất chênh lệch nhau, chủ yếu tập trung vào vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và phía
Bắc, các tỉnh vùng sâu, vùng xa tỉ trọng rất thấp. Cụ thể, số vốn thực hiện tại các tỉnh
25

×