Tải bản đầy đủ (.docx) (68 trang)

Nghiên cứu đặc điểm sinh học và hàm lượng hoạt chất palmatin trong thân cây hoàng đằng (fibraurea tinctoria lour) tại vùng tây bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 68 trang )

1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
--------------------------------

NGUYỄN VIẾT CƯỜNG

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC VÀ HÀM LƯỢNG
HOẠT CHẤT PALMATIN TRONG THÂN CÂY HOÀNG
ĐẰNG (Fibraurea tinctoria Lour) VÙNG TÂY BẮC

CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC
MÃ SỐ: 60.62.60

LUẬN VĂN
THẠC SỸ LÂM NGHIỆP

Thái Nguyên - 2021


2
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
--------------------------------

NGUYỄN VIẾT CƯỜNG
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC VÀ HÀM LƯỢNG
HOẠT CHẤT PALMATIN TRONG THÂN CÂY HOÀNG
ĐẰNG (Fibraurea tinctoria Lour) VÙNG TÂY BẮC

CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC


MÃ SỐ : 60.62.60

LUẬN VĂN
THẠC SỸ LÂM NGHIỆP
NGƯỜI HD KHOA HỌC: TS. VŨ VĂN THƠNG
CHỮ KÝ PHỊNG QLĐTSĐH

CHỮ KÝ KHOA CHUYÊN MÔN

CHỮ KÝ GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

TS. Vũ Văn Thông

Thái Nguyên - 2021


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt nam là một nước nhiệt đới nằm trong vùng Đông Nam Á, có tổng
diện tích tự nhiên là 331.700 km2, kéo dài từ vĩ độ 90 Bắc tới 230 Bắc, trong đó
diện tích rừng và đất rừng là 20 triệu ha, chiếm khoảng 60% diện tích tồn quốc.
Nguồn tài ngun động thực vật đa dạng, xếp hạng đa dạng sinh học thứ 16 trong
số 25 nước có đa dạng sinh học nhất trên thế giới. Hệ thực vật rừng Việt nam là
sự hội tụ của 3 dòng thực vật di cư từ Nam Trung Hoa, Ấn Độ - Himalaya và Inđô-nê-xia, Ma-lai-xia cho nên rất phong phú và đa dạng, có khoảng 11.000 loài
thuộc trên 2.500 chi. Hiện nay, nhiều loài bị khai thác quá mức đang đứng trước
nguy cơ tuyệt chủng. Theo sách đỏ năm 1996 có 356 lồi thực vật bị đe ở các
mức độ khác nhau; sau 11 năm danh sách này đã tăng lên hơn 100 loài bị đe doạ,
có 462 lồi trong sách đỏ năm 2007 (Nguyễn Tiến Bân và các tác giả 1996,

2007), trong đó, có 144 loài cây thuốc quý hiếm. Loài cây Hoàng đằng được ghi
trong nhóm II của Nghị định số 06/2019/NĐ-CP, ngày 22 tháng 01 năm 2019 của
Chính phủ (Nghị định về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý,
hiếm và thực thi công ước về bôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang
dã nguy cấp). Theo đó các lồi trong nhóm này chưa bị đe dọa tuyệt chủng
nhưng có nguy cơ bị đe dọa nếu không được quản lý chặt chẽ, hạn chế khai thác,
sử dụng vì mục đích thương mại.

Tuy nhiên, những lồi có giá trị kinh tế phục vụ nhu cầu làm thuốc
ngày càng cạn kiệt do khai thác quá mức trong tự nhiên. Một phần là người
dân khai thác để sử dụng, nhưng phần lớn là khai thác để bán cho các thương
lái thu gom để xuất bán cho Trung Quốc qua đường tiểu ngạch. Điển hình là
cây Hồng đằng trong những năm 2006 – 2009, vấn nạn khai thác Hoàng
đằng diễn ra rất mạnh ở các tỉnh miền núi phái Bắc và Bắc Trung bộ. Hạt
Kiểm lâm Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình) có ngày đã bắt giữ được 7,5
tấn rễ, thân cây Hồng đằng, (báo Cơng an nhân dân 29/10/2009).


2

Hồng Đằng cịn có tên gọi khác như Hồng liên đằng, Dây vàng giang,
Nam hoàng liên. Vị thuốc là thân già và rễ phơi khơ của cây Hồng đằng
(Fibraurea tinctoria Lour, hay Fibraurea recisa Pierre), Trên thế giới phân bố
từ Ấn Độ, Malaysia, Lào, Campuchia, Philippines, Indonesia. Ở nước ta gặp
tại các tỉnh Hịa Bình, Lạng Sơn, Tun Quang, Lào Cai vào đến Nghệ An, Hà
Tĩnh, Thừa Thiên Huế (Hốt Mít), Đà Nẵng (Liên Chiểu), Quảng Nam (Đại
Lộc, Trà My), Phú n (Sơng Cầu), Khánh Hịa (Nha Trang), Kom Tum (Đăk
Gle, Sa Thầy), Lâm Đồng (Đan Kia, Bảo Lộc). Cây sống dưới tán rừng thứ
sinh ở độ cao 10-200m, mọc trên đất hoặc trên đất lẫn đá, cây ưa ẩm. Cây mọc
hoang ở ven rừng nơi ẩm mát, ở thung lũng, bờ suối ven nương rẫy.

Sách đỏ Việt Nam xếp Hồng đằng ở tình trạng cấp V (sẽ nguy cấp).
Khu phân bố bị thu hẹp do nạn phá rừng và khai thác bừa bãi gây nên. Danh
mục đỏ Việt Nam phân hạng Hoàng đằng ở hạng VU a1b, c, d. Cơ sở phân
hạng: lồi tuy có phân bố khơng hẹp nhưng khu phân bố tại nhiều điểm rừng
bị chặt phá nghiêm trọng.
Tuy nhiên, nhiều loài cây trồng, cây hoang dại vẫn chưa được chú ý nghiên
cứu đặc điểm sinh thái, hàm lượng hoạt chất dược học và kỹ thuật gây trồng
trong đó có cây Hồngđằng. Do đó việc điều tra hiện trạng phân bố, đặc điểm
sinh học, hàm lượng palmatin trong thân cây Hoàng đằng là rất cần thiết, làm cơ
sở cho việc bảo tồn nguồn gen, gây trồng tạo nguồn nguyên liệu cho công nghiệp
chế biến dược phẩm đáp ứng nhu cầu sử dụng của người dân.

Xuất phát từ lí do trên, chúng tơi thực hiện đề tài: Nghiên cứu đặc
điểm sinh học và hàm lượng hoạt chất palmatin trong thân cây
Hoàng Đằng (Fibraurea tinctoria Lour) tại vùng Tây Bắc.
2. Mục tiêu của đề tài
2.1. Mục tiêu chung
Góp phần cung cấp và hồn thiện các thơng tin về đặc điểm sinh học và
hàm lượng palmatin trong thân cây hoàng đằng phân bố ở vùng Tây Bắc, làm cơ


3

sở phát triển loài cây Hoàng đằng tạo nguồn nguyên liệu chất lượng cao, ổn
định cho ngành dược và góp phần phát triển kinh tế đồi rừng.
2.2. Mục tiêu cụ thể
-

Đánh giá về đặc điểm điều kiện tự nhiên ở những tỉnh Tây Bắc có cây


Hồng đằng phân bố.
-

Xác định được đặc điểm sinh học, hiện trạng phân bố của loài cây

Hoàng đằng tại vùng tây Bắc.
-

Định lượng được hàm lượng hoạt chất palmatin trong thân cây Hoàng

đằng.
3.

Ý nghĩa của đề tài

3.1. Ý nghĩa khoa học
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu đặc điểm sinh học và hàm lượng hoạt chất
Panmatin trong thân cây Hoàng đằng, chỉ ra được một số đặc điểm sinh học và
hàm lượng Panmatin trong thân cây Hoàng đằng ở đối tượng nghiên cúu. Bước
đầu đề tài đã cung cấp một số dẫn liệu khoa học về đặc điểm sinh học và hàm
lượng Panmatin trong thân cây Hoàng đằng phân bố ở vùng Tây Bắc.

3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất
-

Bước đầu đưa ra được một số giải pháp phát triển nguồn gen cây

Hoàng đằng tại vùng tây Bắc.
-


Kết quả nghiên cứu, là tài liệu cho các bên liên quan tham khảo và áp

dụng trong khai thác phát triển nguồn gen cây Hoàng đằng phục vụ nhu cầu
làm thuốc.


4

PHẦN 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu
Cây Hoàng đằng nằm trong Danh mục thực vật rừng nguy cấp, quý hiếm
(nhóm IIA) Nghị định số 06/2019/NĐ-CP, ngày 22 tháng 01 năm 2019 của
Chính phủ (Nghị định về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý,
hiếm và thực thi cơng ước về bơn bán quốc tế các lồi động vật, thực vật
hoang dã nguy cấp). Hoàng đằng Sách đỏ Việt Nam (1996), mơ tả Hồng
đằng là lồi Có thể tái sinh chồi trên thân già và ở rễ vào mùa xuân. Hiếm gặp
cây cái, do có khả năng tái sinh bằng hạt hiếm hoi. Cây sống dưới tán rừng
thứ sinh, ở độ cao 10 - 200 m. Mọc trên đất cát lẫn đất đá. Cây ưa ẩm. Cây
đang bị khai thác quá mức để làm nguyên liệu chế biến dược liệu, có quy cơ
tuyệt chủng rất cao. Gây trồng cây Hoàng đằng là cơ sở bảo tồn nguồn gen
cây rừng q hiếm có nguy cơ tuyệt chủng cao.
1.2. Tình hình nghiên cứu về cây Hồng đằng trên thế giới và trong nước

1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Hồng đằng (Fibraurea tinctoria), thuộc họ Tiết dê có khoảng 70 chi và
450 loài, phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới, á nhiệt đới, chỉ có một ít ở vùng ôn
đới bán Bắc và Nam (theo Takhtajan -1996). Đây là một họ lớn phân bố rộng.


Nghiên cứu tác dụng chữa bệnh của từng lồi cây thuốc và bản chất hố
học của dược liệu được quan tâm trên quy mô rộng lớn. Nhiều nghiên cứu đã
khẳng định hầu hết các cây cỏ đều có tính kháng sinh là một trong những yếu
tố miễn dịch tự nhiên. Tác dụng kháng khuẩn là do các hợp chất tự nhiên hay
gặp: Sulfua, saponin (Allium odium); becberin (Coptis chinensis Franch.);
tamin (Zizyphusjụuba Miller). Mỗi loài cây với từng công năng, tác dụng, ở
mỗi địa phương lại được sử dụng riêng theo một bản sắc dân tộc.


5


Trung Quốc, ngồi nền y học cổ truyền chính thống của người hán

(Trung y), các cộng đồng không phải người hán, với dân số khoảng 100 triệu
người, cũng có các nền y học riêng của mình, gọi là y học dân tộc cổ truyền
(Traiditional Ethno-medicine) sử dụng khoảng 8000 loài cây cỏ làm thuốc.
Trong đó, có 5 nền y học chính là nền y học cổ truyền Tây Tạng ( sử dụng
3.294 lồi), Mơng Cổ (1.430 lồi), Ugur, Thái (800 lồi).


Bangladesh có một số cây thuốc q như Tylophora indica (dùng làm

thuốc chữa hen), trước kia dễ tìm kiếm, nay đã trở nên hiếm hoi (A.S. Islam,
1991). Hoặc là loài Ba gạc – Rauvolfia serpentina vốn mọc tự nhiên khá phổ
biến ở Ấn Độ, Srilanca, Bangladesh, Thái Lan,… mỗi năm khai thác được
khoảng 1.000 tấn nguyên liệu xuất sang thị trường Âu – Mỹ, làm thuốc chữa
cao huyết áp (riêng Ấn Độ chiếm 40 – 50%). Song, do bị khai thác liên tục
nhiều năm đã làm cho cây thuốc này mau cạn kiệt. Một số bang ở Ấn Độ đã
chính thức tạm đình chỉ khai thác lồi Ba gạc kể trên (O. Akerele, 1991; L. de

Alwis, 1991 và A.S. Islam,1991). Một loài cây thuốc quý khác là Coptis teeta
mọc nhiều ở vùng Đông – Bắc Ấn Độ, trước kia khai thác hàng chục tấn mỗi
năm bán sang các nước vùng Đông Nam Á, nay đã trở nên rất hiếm, thậm chí
đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng (O. Akerele,1991). Theo He Shan An và
Cheng Zhong Ming, (1985) [20], ở Trung Quốc vốn có một số lồi Dioscorea
japonica, trữ lượng khá lớn, trong thập kỷ 50, đã từng khai thác tới 30.000 tấn,
hiện đã bị giảm sút nhiều, có lồi thậm chí phải trồng và duy trì lồi giống.
Một vài lồi cây thuốc quý như Fritillaria cirrhosa (làm thuốc ho) phân bố phổ
biến ở vùng Tây – Bắc tỉnh Tứ Xuyên nay chỉ cịn sót lại ở 1 – 2 điểm, với số
lượng cá thể rất ít. Hoặc lồi Iphigenia indica có tác dụng chữa ung thư, chỉ
phân bố rất hẹp ở vùng Lijang và Dali tỉnh Vân Nam, do bị tìm kiếm khai thác
gay gắt, hiện có thể đã bị tuyệt chủng. Một số loại cây thuốc quý khác như
Paris polyphylla, Gastrodia elata, Nervilia fordii,… cũng là những ví dụ điển
hình.


6

Sara Oldfield, Tổng thư ký của Tổ chức bảo tồn các vườn bách thảo quốc
tế, nhận xét “Sự biến mất của các cây thuốc là một thảm họa thực sự”. Phần
lớn dân số thế giới, trong đó có 80% người châu Phi, hoàn toàn phụ thuộc vào
dược thảo để chữa bệnh. Theo một báo cáo của tổ chức bảo tồn quốc tế
Plantlife, trên khắp thế giới có khoảng 50.000 loại cây có thể dùng làm thuốc,
nhưng xấp xỉ 15.000 trong số đó đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng. Tình
trạng thiếu dược thảo đã xảy ra ở Trung Quốc, Ấn Độ, Kenya, Nepal,
Tanzania và Uganda hình về sự tồn tại mong manh của chúng ở Trung Quốc
(P.G. Xiao, 1991).
Tư liệu của Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên và Tài nguyên thiên nhiên (IUCN)
cho biết, trong tổng số 43.000 loài thực vật mà cơ quan này có thơng tin, hiện có
tới 30.000 lồi được coi là đang bị đe dọa tuyệt chủng ở các mức độ khác nhau

(World conservation monitoring centre – IUCN, 1992 và 1993). Trong tổng số
30.000 loài này, đương nhiên có rất nhiều lồi được dùng làm thuốc.

Tuy nhiên giá trị và lợi nhuận mà cây thuốc đem lại rất lớn. Ở Mỹ mỗi
năm lợi nhuận thu được từ cây thuốc khoảng 1,5 tỷ USD. Ở Trung Quốc, chỉ
riêng việc xuất khẩu Cao đơn hoàn tán cũng cho doanh thu khoảng 2 tỷ USD/
năm. Hiện nay, phong trào dùng cây thuốc để phòng và chữa bệnh trên thế
giới đã đặt ra một vấn đề cần lưu ý: 2/3 trong số 50.000 loài cây thuốc được
sử dụng, khai thác từ các cây hoang dại sẵn có nhưng khơng được trồng lại để
bổ sung. Theo một nghiên cứu của nhà thực vật học người Anh là Alan
Hamilton, thành viên của Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (viết tắt là WWF),
có từ 4.000 – 10.000 lồi cây cỏ dùng làm thuốc có nguy cơ bị tiệt chủng.
Ngun nhân khơng phải hoàn toàn do sự phát triển của Y học cổ truyền mà
theo tác giả là do thị trường dược thảo ở Châu Âu và Bắc Mỹ tăng trưởng
10% mỗi năm, trong vịng 10 năm nay. Trên quy mơ tồn cầu, doanh số mua
bán cây thuốc hàng năm ước tính lên tới 16 tỷ Euro.


7

1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước.
Hồng đằng (Fibraurea tinctoria), có khoảng 29 lồi phân bố rộng rãi
trong các loại hình rừng nhiệt đới và á nhiệt đới nước ta. Có nhiều lồi dùng làm
thuốc nên được gây trồng rộng rãi trong khu vực đồng bằng và trên miền núi.
Trong các lồi phổ biến có nhiều lồi đặc hữu Bắc Bộ như Tinospra
capillpes G. pridania petelotii. G. Gần đặc hữu Việt Nam có Tinomiscium
tonkinensis. G, Tinospora thorelli. G. Thành phần đặc hữu Đơng Dương có:

Coccullus sarmentocus D.
Cây Hồng đằng mọc tự nhiên ở khu rừng nước ta. Nhiều nhất ở khu

rừng các tỉnh: Hịa Bình, Lạng Sơn, Cao Bằng, Sơn La, Thanh Hóa, Nghệ An,
Bắc Giang, Quảng Ninh. Hồng đằng mọc hoang ở rừng Hịa Bình lồi
Fibraurea tinctoria.
Sách đỏ Việt Nam xếp Hồng đằng ở tình trạng cấp V (sẽ nguy cấp). Khu
phân bố bị thu hẹp do nạn phá rừng và khai thác bừa bãi gây nên. Danh mục đỏ
Việt Nam phân hạng Hoàng đằng ở hạng VU a1b, c, d. Cơ sở phân hạng: lồi
tuy có phân bố không hẹp nhưng khu phân bố tại nhiều điểm rừng bị chặt phá
nghiêm trọng. Cây cũng bị khai thác lấy nguyên liệu làm thuốc. Đề nghị biện
pháp bảo vệ: cấm phá rừng tại khu vực này và có kế hoạch ln chuyển để cây
kịp tái sinh. Hồng đằng cịn làm nguồn nguyên liệu chiết xuất palmatin.
Quyết định số 1976/QĐ-TTg ngày 30-10-2013 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển dược liệu đến năm 2020, định
hướng đến năm 2030. Theo đó, việc bảo tồn và khai thác dược liệu tự nhiên
bao gồm: Quy hoạch các vùng rừng, vùng có dược liệu tự nhiên ở 8 vùng
dược liệu trọng điểm, bao gồm: Tây Bắc, Đông Bắc (trong đó có tỉnh Điện
Biên), Đồng bằng sơng Hồng, Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây
Nguyên, Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, để lựa chọn và khai thác hợp lý 24
loài dược liệu, đạt khoảng 2.500 tấn dược liệu/năm; xây dựng 5 vườn bảo tồn
và phát triển cây thuốc quốc gia đại diện cho các vùng sinh thái; phấn đấu đến


8

năm 2020 bảo tồn được 50% và đến năm 2030 là 70% tổng số loài dược liệu
của nước ta. Về việc phát triển trồng cây dược liệu: Quy hoạch phát triển 54
loài dược liệu thế mạnh của 8 vùng sinh thái phù hợp với điều kiện sinh
trưởng, phát triển của cây thuốc để đến năm 2020 đáp ứng được 60% và đến
năm 2030 là 80% tổng nhu cầu sử dụng dược liệu trong nước, tăng cường khả
năng xuất khẩu dược liệu và các sản phẩm từ dược liệu trong nước…
Đối với vùng Tây Bắc nói chung và các tỉnh đại diện cho các vùng sinh thái

khác nhau nói riêng, nhiều nơi có điều kiện tự nhiên thuận lợi để trồng các loại
cây dược liệu quý, có hiệu quả kinh tế cao, chính vì vậy, cần có nhiều vùng quy
hoạch trồng cây dược liệu để khai thác, phát triển tốt những lợi thế,…

Theo Võ Văn Chi, (2012). Từ điển cây thuốc Việt Nam (Bộ mới), tập I,
trang 1107, NXB Y học, Hà Nội. “Hồng đằng có vị đắng, tính lạnh, có tác
dụng thanh nhiệt, tiêu viêm, sát trùng. Palmatin có tác dụng ức chế đối với các
vi

khuẩn trong đường ruột. Công dụng: Thường dùng chữa các loại sưng

viêm, chữa chảy máu mắt, sốt rét, kiết lỵ, viêm ruột, ỉa chảy, viêm tai, lở ngứa
ngoài da và cũng làm thuốc bổ đắng.
Theo Nguyễn Bình An (2011), khi nghiên cứu khả năng nhân giống loài
Hoàng đằng tại vườn quốc gia Bến En, Thanh Hố, kết quả cho thấy Hồng
đằng có thể nhân giống vơ tính bằng phương pháp giâm hom với thuốc kích
thích ra rễ là IAA 1500ppm trong thời gian 5 giây, độ che bóng thích hợp là
25% và dùng cơng thức phân vi sinh 5% trộn với đất tầng mặt để làm hỗn hợp
ruột bầu thì cây giống sinh trưởng tốt và tỷ lệ sống cao nhất.
Theo Đỗ Huy Bích và cs, (2004). Cây thuốc và động vật làm thuốc ở
Việt Nam, tập I, trang 942, NXB Khoa học và kĩ thuật, Hà Nội. “Hồng đằng
có vị đắng, tính hàn, vào 2 kinh tâm và can, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc,
sát trùng, lợi thấp, thơng tiện. Cơng dụng: Hồng đằng được dùng làm thuốc
bổ đắng chữa các chứng viêm tấy, kiết lỵ, tiêu chảy, sốt rét, bệnh về gan, nóng
trong, lở ngứa ngồi da, mắt đỏ có màng, viêm tai chảy mủ.


9

Hiện nay xu hướng bảo tồn cây thuốc đang được triển khai nghiên cứu

tại nhiều VQG và KBTTN của Việt Nam (VQG Jork Đôn, KBTTN Pù Mát,
VQG Cát Bà…). Theo hướng nghiên cứu này nhiều cơng trình đang được
triển khai trong thời gian hiện nay.
Trần Văn Ơn đã xây dựng cơ sở khoa học và mơ hình bảo tồn cây thuốc
tại cộng đồng người Dao VQG Ba Vì, trên cơ sở nghiên cứu các cây thuốc bị
thu hái quá mức.
Nguyễn Thị Thuỷ nghiên cứu bảo tồn cây thuốc tại cộng đồng người
Hmơng, Dao của VQG Hồng Liên Sơn.
Thái Văn Trừng (1978). Thống kê hệ thực vật Việt Nam có 7004 lồi
thực vật bậc cao có lồi thuộc 1850 chi, 289 họ.
Nguyễn Nghĩa Thìn (1997). Đã thống kê thành phần lồi của VQG có
khoảng 2.000 lồi thực vật, trong đó có 904 cây có ích thuộc 478 chi, 213 họ
thuộc ngành: Dương xỉ, Hạt trần, Hạt kín, các lồi này được xếp thành 8
nhóm có giá tri khác nhau.
Đỗ Tất Lợi (1999), trong “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” tái
bản lần 3 có sửa đổi bổ sung, đã mơ tả nhiều lồi thực vật bản địa hoang dại
hữu ích làm thuốc, trong đó có nhiều bài thuốc hay.
Ðỗ Tất Lợi (1991), đã mơ tả 2 lồi Hồng đằng thuộc họ Tiết dê
(Menispermaceae), trong đó lồi Fibraurea tinctoria.Lour, khác với loài
Fibraurea recisa Pierre ở chỗ lá nhọn, chỉ phân nhánh 2 lần.
Theo Võ Văn Chi đất nước Việt Nam có nguồn dược liệu rất phong phú lên
đến trên 4.000 loài thực vật và nấm lớn có cơng dụng làm thuốc; 52 loài tảo biển,
408 loài động vật và 75 loại khống vật có cơng dụng làm thuốc, trong đó có
nhiều loài cây thuốc được xếp vào loài quý và hiếm trên thế giới như: Sâm ngọc
linh, Sâm vũ diệp, Tam thất hoang, Bách hợp, Thơng đỏ, Vàng đắng, Hồng liên
ơ rơ, Hồng liên gai, Thanh thiên quỳ, Ba gạc Vĩnh Phúc.


10


Số liệu thống kê của tổng cục thống kê cho biết, trong năm 2012, doanh
thu sản xuất thuốc từ dược liệu tại Việt Nam đạt 3.500 tỷ đồng (gấp hơn 1,75
lần so với doanh thu năm 2010). Đánh giá tại một số vùng, ni trồng cây
dược liệu có giá trị kinh tế to lớn hơn bất kỳ cây lương thực, thực phẩm nào
(có thể thu nhập trên 100 triệu đồng/ha). Ví dụ, ở Sa Pa (tỉnh Lào Cai), việc
thực hiện trồng cây Artiso giúp đem lại doanh thu trồng đến thu hoạch đạt
khoảng 115 triệu đồng/vụ/năm (Báo nông nghiệp năm 2014). Ở Việt n (tỉnh
Bắc Giang), mơ hình trồng cây Kim tiền thảo là hướng mới trong chuyển đổi
cơ cấu cây trồng ở tỉnh và đã thực sự góp phần giảm nghèo cho người dân nơi
đây.
Nhận định của TS. Trương Quốc Cường - Cục trưởng Cục Quản lý Dược
-

Bộ Y tế tại “Hội nghị xúc tiến đầu tư ứng dụng khoa học công nghệ phát

triển sản xuất dược liệu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh năm 2014: Đưa dược
liệu trở thành thế mạnh của ngành dược Việt Nam”; Ông cho rằng dược liệu
chính là nguồn ngun liệu của nền cơng nghiệp tân dược trong tương lai, chứ
không phải là nguồn nguyên liệu hóa dược mà chúng ta đang mất nhiều thời
gian và công sức để theo đuổi trong nhiều năm qua.
Khai thác q mức vì mục đích thương mại là nguyên nhân chủ yếu
khiến dược thảo ngày càng trở nên khan hiếm. Tại Việt Nam cũng đang gặp
phải một số hạn chế, khó khăn, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến quy hoạch
phát triển dược liệu, công tác bảo tồn và phát triển nguồn gen dược liệu, việc
tiêu chuẩn hóa dược liệu, cũng như việc hiện đại hóa sản xuất thuốc từ dược
liệu. Có thể kể đến một số ví dụ điển hình như tình trạng ni trồng và khai
thác dược liệu ở nước ta hiện nay còn tự phát triển, quy mô nhỏ dẫn đến sản
lượng dược liệu không ổn định, giá cả biến động; Việc khai thác dược liệu quá
mức mà không đi đôi với việc tái tạo, phát triển dược liệu đã dẫn đến số lượng
lồi cây dược liệu, có khả năng khai thác tự nhiên cịn rất ít (trên cả nước hiện

chỉ cịn khoảng 206 lồi cây dược liệu có giá trị có thể khai thác tự nhiên),
nhiều loài cây dược liệu quý hiếm trong nước đang đứng trước nguy


11

cơ cạn kiệt; Ví dụ: Vàng đắng (Coscinium fenestratum (Gaertn.) Colebr.), là
một loài dây leo gỗ lớn. Kết quả điều tra đến năm 1986 đã xác định cây phân
bố chủ yếu ở các tỉnh phía Nam (từ vĩ độ 16 015’ ở Phú Lộc – Thừa Thiên Huế
trở vào), trên phạm vi 121 xã, 44 huyện, 14 tỉnh. Từ năm 1980 – 1990 tính
trung bình khai thác từ 1.000 – 2.500 tấn/năm, ở các tỉnh Gia Lai – Kon Tum,
Nghĩa Bình, Quảng Nam – Đà Nẵng, Đắk Lắk và Sơng Bé (theo đơn vị hành
chính lúc đó). Đến giai đoạn 1991 – 1995, mỗi năm chỉ còn dưới 200 tấn,
(Nguyễn Tập và một số người khác 1986 và 1996). Đặc biệt là một số cây
thuốc có nhu cầu dường như khơng hạn chế, như Ba Kích (Morinda
officinalis How); Đẳng Sâm (Campanumoea javanica Blume) và các loài
Hoàng tinh thuộc chi Disporopsis và Polygonatum,… vốn phân bố khá phổ
biến ở các tỉnh miền núi phía Bắc, lượng khai thác những cây thuốc này hiện
đã làm suy giảm nghiêm trọng, thậm chí trở nên khan hiếm đến mức đã được
đưa vào Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam (Nguyễn Tập, 1985, 1990, 1997,
2001, 2006) và Sách Đỏ Việt Nam – Phần thực vật, năm (1996, 2007).
Nhiều loài thuốc quý đứng trước nguy cơ tuyệt chủng, trong đó 31 lồi ở
mức bị đe dọa tuyệt chủng cao. Các cây thuốc trước kia có thể khai thác hàng
chục nghìn tấn/năm như: Ba kích, Đẳng sâm, Hồng đằng, Hồng tinh,... đã
giảm rõ rệt. Ơng Ngơ Quốc Luật, Viện Dược liệu, cho biết, ngay cả ở các khu
bảo tồn thiên nhiên, tình trạng khai thác cây thuốc cũng rất tùy tiện. Chẳng
hạn, tại khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu, Phước Bửu (Bà Rịa - Vũng Tàu),
từ năm 2003, hàng ngày có khoảng 5-10 người tự do vào rừng lấy dây Ký
ninh (trị sốt rét) và vận chuyển ra khỏi rừng một cách công khai với số lượng
khoảng 80-100 kg dây tươi/người.

Tại khu bảo tồn thiên nhiên Ta Kou (Bình Thuận), thần xạ (một dược liệu
có cơng dụng chính là trị viêm xoang) bị khai thác với số lượng lớn, bán công
khai cho khách thập phương.
Cao Bằng dù có trên 617 lồi cây thuốc, thuộc 211 họ thực vật, trong đó
nhiều loại quý hiếm, giá trị kinh tế cao như: Thanh thiên quỳ, Lan gấm, Hà


12

thủ ơ, Ba kích, Thổ phục linh, Giảo cổ lam, Sâm cau, Sa nhân,… nhưng ngày
một cạn kiệt do khai thác q mức.
Vườn Quốc gia Hồng Liên được ví như kho thuốc quý của Việt Nam,
nhưng đáng lo ngại là kho thuốc này ngày một cạn kiệt vì tình trạng khai thác
vơ tội vạ. Đặc biệt cây Hồng liên chân gà – một cây thuốc quý, mọc tự nhiên
đã được Sách đỏ Việt Nam năm (1996) [6], xếp vào hạng rất nguy cấp nhưng
vẫn tiếp tục bị khai thác và người ta vẫn thấy chúng được bày bán ở chợ Sa Pa
hay dọc đường.
Trần Công Khánh, (2012). Giám đốc Viện Nghiên cứu và Phát triển cây
thuốc cổ truyền dân tộc (CREDEP): “Chính vì khơng hiểu gì về cơng dụng
của cây thuốc, lại được các chủ đầu tư thu mua tận nơi nên đại đa số bà con
sống ở những nơi có cây thuốc sinh trưởng và phát triển đều khai thác theo
kiểu chặt tận gốc, nhổ cả rễ. Và thế là những thầy lang giàu kinh nghiệm chữa
bệnh giờ cũng chẳng dễ dàng gì kiếm được cây thuốc cho những bài thuốc gia
truyền của mình, để rồi một ngày nào đó nó sẽ trở thành các “bài thuốc chết”
vì khơng kiếm đâu ra cây thuốc nguyên liệu”.
Báo cáo của Tổng Công ty Dược Việt Nam cho thấy, TCT đã nhập khẩu
182 loại Dược liệu với tổng khối lượng 18.300 tấn, với 81 loại nhập trên 100
tấn/loại. Trong đó, có 13 loại thuốc đi từ động vật và khoáng vật; 169 loại từ cây
thuốc, trong đó nhiều loại là thuốc bắc đầu vị, một số khơng có ở Việt Nam.


1.3. Đánh giá tổng quan tình hình bảo tồn, lưu giữ và khai thác
nguồn gen đối với cây Hoàng đằng
1.3.1. Đặc điểm thực vật
Theo Joannis de Loureiro (1790) mơ tả cây Hồng đằng trong tập Quần
thể thực vật Đàng Trong (Flora Cochinchinensis). Hoàng đằng là cây dây leo
bằng thân quấn, dài tới 10m. Vỏ ngoài của thân già nứt nẻ và gỗ có màu
vàng. Thân non nhẵn, màu lục, ít phân nhánh. Lá mọc so le, hình trái xoan
hoặc thn, dài 9 – 18 cm, rộng 3 -7 cm, gốc bằng hoặc hơi trịn, đầu có


13

mũi nhọn, hai mặt nhẵn, mặt trên màu lục sẫm bóng, mặt dưới nhạt, 3 gân
chính rõ; cuống lá dài 5 – 14 cm, phình ở hai đầu. Hoa đơn tính khác gốc,
cụm hoa chùm mọc ra ở phần thân già đã rụng lá. Hoa nhỏ màu vàng chanh,
có 6 lá đài, cánh hoa 3 rộng và mỏng hơn lá đài. Hoa đực có 6 nhị, chỉ nhị
dài hơn bao phấn, hoa cái nhị lép hoặc khơng rõ, bầu hình trứng. Quả hạch
hình xoan hay trứng thn, khi chín màu vàng, mùi hơi khó chịu. Hạt 1 hình
thn hơi dẹt. Hồng đằng ra hoa vào tháng 4 –5, quả chín vào tháng
11

– 12. Cây có khả năng tái sinh bằng hạt và chồi sau khi khai thác.
-

-

Dược liệu: Những đoạn thân và rễ hình trụ thẳng hoặc hơi cong, dài 10

30 cm, đường kính 1 - 3 cm, có khi tới 10 cm. Mặt ngồi màu nâu có nhiều


vân dọc và sẹo của cuống lá (đoạn thân) hay sẹo của rễ con (đoạn rễ). Mặt cắt
ngang có màu vàng gồm 3 phần rõ rệt: phần vỏ hẹp, phần gỗ có những tia ruột
xếp thành hình nan hoa bánh xe, phần ruột ở giữa trịn và hẹp; thể chất cứng,
khó bẻ gãy, vị đắng.
-

Bộ phận dùng: Vị thuốc là thân già và rễ phơi khơ của cây Hồng đằng

(Fibraurea recisa Pierre hay F. tinctoria Lour.)
-

Thu hái: rễ và thân cây vào tháng 8-9, cạo sạch lớp bần bên ngoài, chặt

từng đoạn, phơi khơ hoặc sấy khơ. Thành phần hố học: Chủ yếu là palmatin
1-3,5% ngồi ra cịn có jatrorrhizin, columbamin và berberin.
Theo Irokawa và cộng sự cịn phát hiện 3diterpenglycosìt là
tenophyllolosìde 3, fibleucinoside 4 và fibraurinoside 5. Trước đó một số tác
giả đã phát hiện 2 diterpen khác là fibleucine 1 và fibraucine 2
(Phytochemistry, 28, 4, 905-908, 1986).
1.3.2. Những nghiên cứu về thành phần hóa học và tác dụng
dược lý của cây Hoàng đằng tại Việt Nam
Các nhà khoa học đã tiến hành chiết xuất Palmatin từ cây Hoàng đằng.
Qua thử dược lý sử dụng thành phần hóa học chiết xuất từ cây Hoàng đằng
để sản xuất thuốc chữa bệnh về đường ruột cho thấy loại thuốc trên không


14

độc, không gây ra các tác dụng phụ, được Bộ Y tế cho phép sử dụng ngay
loại thuốc này ở Hà Sơn Bình (cũ), Hải Phịng, Hải Hưng (cũ), Hà Nam

Ninh (cũ), Thái Nguyên…Nguyên Bộ trưởng Bộ Y tế, bác sỹ Nguyễn Văn
Hưởng cũng đã sử dụng Codanxit và xác định thuốc có hiệu lực trị lỵ. Nhờ
có hai loại thuốc này, dịch lỵ nguy hiểm và phức tạp ở miền Bắc trong
những năm trước đây đã được dập tắt.
Việc nghiên cứu sản xuất thành công ở quy mô lớn các chất codanxit,
palmatin của trường Đại học Dược phối hợp với xí nghiệp dược phẩm Trung
ương 2 Hà Nội và tiếp đó là quy mơ sản xuất đại trà palmatin từ cây Hồng
đằng của nhiều xí nghiệp dược phẩm đã cung cấp thuốc phòng chống dịch lỵ
dùng trong nước và xuất khẩu. Các sản phẩm này có hiệu lực tốt, dùng an
tồn, giá thành rẻ. Codanxit và palmatin cịn có tác dụng tốt chữa bệnh tiêu
chảy và điều trị viêm đại tràng, nhất là phòng tiêu chảy khi ăn hải sản.
Trước đây, người ta chỉ biết đến Hoàng đằng và palmatin được dùng
chủ yếu để trị những bệnh tiêu hóa như kiết lỵ, tiêu chảy..., nhưng giờ đây
người ta lại biết đến palmatin - thành phần chính của cây Hồng đằng có khả
năng ức chế sự di căn ung thư của tế bào mang tên LLC. Kết quả này đã đặt
nền móng và đem đến những hy vọng mới cho những người mắc phải căn
bệnh nan y này. Đây cũng là cơ sở để phát triển gây trồng cây Hoàng đằng
quy mô lớn cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến Dược.
Nguyễn Hồng Phong, (2012) đã nghiên cứu kiến thức bản địa nguồn tài
nguyên cây thuốc của đồng bào dân tộc Dao tại Vườn quốc gia Hoàng Liên.
Kết quả nghiên cứu cho thấy Hoàng đằng được sử dụng thân, rễ phơi khô,
sắc uống để chữa trị các chứng bệnh kiết lỵ, đau bụng, bí tiểu...
Theo Võ Văn Chi, 2012, Từ điển cây thuốc Việt Nam, tập I, trang 1107,
NXB Y học, Hà Nội: “Hồng đằng có vị đắng, tính lạnh, có tác dụng thanh
nhiệt, tiêu viêm, sát trùng. Palmatin có tác dụng ức chế đối với các vi khuẩn
trong đường ruột. Công dụng: Thường dùng chữa các loại sưng viêm,


15


chữa chảy máu mắt, sốt rét, kiết lỵ, viêm ruột, ỉa chảy, viêm tai, lở ngứa ngoài
da và cũng làm thuốc bổ đắng”.
Theo Đỗ Huy Bích và cs, (2004) cây thuốc và động vật làm thuốc ở
Việt Nam, tập I, trang 942, NXB Khoa học và kĩ thuật, Hà Nội: “Hồng đằng
có vị đắng, tính hàn, vào 2 kinh tâm và can, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc,
sát trùng, lợi thấp, thơng tiểu. Cơng dụng: Hồng đằng được dùng làm thuốc
bổ đắng chữa các chứng viêm tấy, kiết lỵ, tiêu chảy, sốt rét, bệnh về gan, nóng
trong, lở ngứa ngồi da, mắt đỏ có màng, viêm tai chảy mủ.”
Trần Đức Lương (2009), khi nghiên cứu mẫu thu thập từ một số vùng
cây Hoàng Đằng mọc hoang dã của Nghệ An đã mơ tả: Cả 3 mẫu cây Hồng
đằng thu được tại 3 huyện Con Cuông, Anh Sơn, Yên Thành ở Nghệ An đều
thuộc loài Fibraurea tinctoria. Lour. Về cấu tạo giải phẫu rễ, thân, lá của loài
F.

tinctoria.L tại một số vùng của Nghệ An nói chung cũng tuân theo thể thức

cấu tạo của cây 2 lá mầm thân gỗ leo cuốn. Ngồi ra có một số sai khác chi
tiết đặc biệt là vịng mơ cứng phát triển mạnh. Hàm lượng alkaloid tồn phần
tính theo palmatin của các cây Hồng đằng tại Nghệ An là khá cao. Theo quy
định của dược điển Việt Nam nguyên liệu này đủ tiêu chuẩn để làm thuốc.
Kích thước cây càng lớn thì hàm lượng alkaloid trong nguyên liệu càng cao, ở
3

mẫu nghiên cứu thì KI(1,43%), KII (2,30%), KIII(1,94%). Do vậy khi thu hái

cần chọn những cây có kích thước phù hợp (đường kính gốc lớn hơn 3cm). Ở
các bộ phận khác nhau trong cây hàm lượng alkaloid là khác nhau. Hàm
lượng cao nhất ở rễ già và gốc sau đó giảm dần về hai phía rễ và thân. Ở phần
ngọn và lá khơng phát hiện thấy alkaloid. Do đó khi thu hái ta nên lấy bộ phận
già của cây để có chất lượng nguyên liệu tốt.

Ðỗ Tất Lợi (1991), đã mơ tả 2 lồi Hồng đằng thuộc họ Tiết dê
(Menispermaceae), trong đó lồi Fibraurea tinctoria.Lour, khác với loài
Fibraurea recisa Pierre ở chỗ lá nhọn, chỉ phân nhánh 2 lần. Cả hai lồi có
thể dùng làm thuốc chữa đau mắt, sốt rột, lỵ, bệnh về gan, thuốc bổ đắng,
chữa viêm ruột, dạ dày, ỉa chảy. Palmatin clorua chiết từ lồi này có thể


16

dựng chữa đau mắt, ỉa chảy, lỵ. Sau cơng trình nghiên cứu của Ðỗ Tất Lợi và
cộng sự, Palmatin đã đựợc Bộ y tế cho sản xuất dưới dạng viên nén để chữa
lỵ, ỉa chảy cho người lớn và trẻ em. Ngoài ra tác giả cũng đã xác định đựợc
trong thân và rễ Hoàng đằng chứa nhiều loại alcaloid như: Palmatin,
Fibraurin, Jatrorrhizin,Pseudocolumbamin, Fibramin, Fibranin...
Dược điển Việt Nam quy định dược liệu phải có 1% alcaloid tính theo
palmatin hydroclorid.
1.4. Các bài thuốc đơng y và sản phẩm thuốc có thành phần Hồng Đằng

* Hồng Đằng trong các bài thuốc đơng y
Theo Hoàng Khánh Toàn (2012), Hoàng đằng được dùng để chữa kiết lỵ,
ỉa chảy, viêm ống mật, viêm đường tiết niệu, đái đục, trĩ, đau mắt, viêm tai, di
tinh, khí hư, sốt, ra mồ hôi trộm. Ngày dùng 6 – 12g dạng thuốc sắc hay thuốc
bột. Dùng ngoài để rửa mắt, đắp chữa mụn nhọt và vết thương. Ngồi ra, cịn
dùng làm nguyên liệu chiết Berberin.
+

Hoàng đằng tán bột làm thành viên, ngày uống 10-20 viên. Chữa lỵ

amip và trực trùng. (Nguyễn Tử Độ, 1968. Y học thực hành (154): 29)
+


Với thể doanh huyết (giai đoạn tồn phát có biến chứng mất nước

điện giải, nhiễm độc thần kinh, rối loạn thành mạch) (Trửu Hậu phương).
Triệu chứng: sốt cao, nhức đầu, cổ gáy cứng, miệng khát, co giật, hôn mê,
chất lưỡi đỏ, nhịp thở thất thường. Có thể dùng bài thuốc: thạch cao 40 gr,
cam thảo đất 16 gr, sinh địa 12 gr, huyền sâm 12 gr, mạch môn 12 gr, kim
ngân 16 gr, hồng đằng 12 gr. Nếu táo bón thêm Chút chít 20 gr. Sắc uống
ngày 1 thang, (Trung tâm cây dược liệu Tam Đảo, cayduoclieu.com).
+

Lở ngứa do huyết nhiệt: Do máu nóng quá sinh lở ngứa, người bệnh

ngứa nhiều gãi nhiều gây chảy máu ở tay chân hoặc toàn thân, lưỡi đỏ khơ,
rêu lưỡi vàng, tiểu tiện ít, nước tiểu vàng hoặc đỏ, người bứt rứt, hay cáu
gắt.Bài thuốc dùng chung cho cả 3 thể: huyền sâm hay sinh địa 20g; hà thủ ô,
thổ phục linh, mạch môn, kim ngân hoa, vỏ núc nác, hoàng đằng mỗi vị 12g;


17

liên kiều, ngưu bàng, thiên hoa phấn, cam thảo dây (hay sài đất) mỗi vị 10g.
Sắc uống ngày một thang. Bài thuốc chữa mụn nhọt, lở ngứa, viêm cơ: Huyền
sâm12g, lá Đơn đỏ12g, Kê huyết đằng 12g, Hoàng đằng 12g, lá móng tay 12g
,

Bồ cơng anh 12g, lá Móng tay 12g, vỏ cây Gạo12g, Sài đất 20g, Kim ngân

hoa12g, Ké đầu Ngựa12g, Thổ phục linh12g, Hà thủ ô12g, Ngưu bàng tử 12g,
(Trích Bách Khoa Y Học 2010).

+

Chữa đau mắt sưng đỏ, chảy nước mắt: Hoàng đằng 8g, Mật ong 9g,

Cúc hoa, Kinh giới, Long đởm thảo, Phòng phong, Bạch chỉ mỗi vị 4g, Cam
thảo 2g. Sắc uống ngày một thang. Uống khoảng 3-5 thang. (Kinh Nghiệm
Dân Gian). Hoặc Kim ngân hoa, lá dâu mỗi thứ 16 g, kinh giới, chi tử, cúc
hoa mỗi thứ 12 g, hoàng đằng 8 g, bạc hà 6 g, cam thảo 4 g. Ngày 1 thang, sắc
uống làm 2 lần. Mắt sưng đỏ hoặc có màng: Hồng đằng 4g, phèn chua chút
ít, tán nhỏ, chưng cách thuỷ gạn lấy nước trong mà nhỏ mắt. Hoặc dùng bột
palmatin chlorhydrat pha chế thành thuốc nước để nhỏ mắt. Có khi người ta
phối hợp Hồng đằng với Hồng liên nấu thành thuốc chữa đau mắt …
+

Chữa viêm đường tiết niệu, viêm gam, viêm âm đạo, bạch đới, viêm

tai trong, hội chứng lỵ: Hồng đằng, Mộc thơng, Huyết dụ, mỗi vị 10-12g. Sắc
uống. (Kinh Nghiệm Dân Gian).
+

Viêm tai có mủ: Bột Hoàng đằng 20g trộn với phèn chua 10g, thổi dần

vào tai ngày 2-3 lần. (Kinh Nghiệm Dân Gian).
+

Chữa kẻ chân viêm lở chảy nước ngứa: Hoàng đằng 10-20g, Kha tử 10g,

hai vị giả nhỏ sắc lấy nước đặc ngâm ngày 1-2 lần. (Kinh nghiệm dân gian).
+


Chữa viêm ruột kiết lỵ: Hoàng đằng 14g, Cỏ sữa lá lớn 20g, lá mơ 20g

sắc uống, (Kinh nghiệm dân gian). Người ta cịn dùng bột Hồng đằng và cao
Mức hoa trắng, hoặc phối hợp cao Hoàng đằng và cao Cỏ sữa lá lớn làm thuốc
viên chữa kiết lỵ.
+

Đặc trị viên dạ dày: Bao gồm: Bạch linh, hoàng đằng, đẳng sâm, chi

xác, ngũ thành bì, cam thảo, chè dây, lá khơi, xăng - sê, chuối hoa rừng, tam


18

thất, nghệ đen… Công dụng: Cầm máu, giảm đau viêm, ợ hơi, ợ chua, thanh
nhiệt, giải độc, sát trùng, hoạt huyết, hoạt trường, điều huyết, thông kinh.
Giúp bảo vệ và tăng sức bền của thành tĩnh mạch, tăng cường sức khỏe tĩnh
mạch dạ dày. Kháng cực mạnh với các vi khuẩn dạ dày gây viêm.
+

Hồng đằng có thể sử dụng để chữa viên gan virut, theo một số

phương pháp khác nhau. Cách thứ nhất: Hoàng đằng 30 -60g, chua me đất
15g hầm với xương lợn hoặc thịt gà ăn. (Theo “Trung thảo dược tân y liệu
pháp xử phương tập”). Cách thứ hai: Dùng Hồng đằng, mộc thơng và huyết
dụ - mỗi vị 10 -12g sắc nước uống (Theo cây thuốc Việt nam, của Lương y Lê
Trần Đức). Hoặc có thể dùng bài thuốc sau: Mộc thông: 8 – 16g, Huyền sâm:
8 – 16g, Chi tử (sao): 8 – 16g, Sinh địa: 8 – 16g, Ngưu tất: 8 – 16g, Hoàng
đằng: 8 – 16g. Cách dùng: Sắc uống ngày 1 thang, uống lúc thuốc cịn nóng
ấm. Chủ trị: Viêm gan vàng da, viêm thận cấp, tiểu buốt, tiểu gắt, tiểu ra máu

(Theo từ điển cây thuốc Việt Nam).
+

Trẻ em người nóng da nổi mụn như cơm cháy. Dùng Hoàng đằng nấu

nước lỗng tắm ngày 1-2 lần, (Kinh nghiệm Lương Y ng Nhuyến).
1.5. Khái quát điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu
Vị trí địa lý
Phía Bắc là những dãy núi cao, phân định biên giới Việt – Trung.
Phía Tây và Tây Nam là các dãy núi cao kế tiếp nhau, phân định biên
giới Việt – Lào.
Phía Đơng và Đơng Nam là dãy Hồng Liên Sơn cao nhất Việt Nam và
Đơng Dương với đỉnh Phanxipan (3.143 m), giáp với Đông Bắc và một phần
đồng bằng sơng Hồng.
Phía Nam giáp với Bắc Trung Bộ.


19

Hình 1.1. Bản đồ vùng Tây
Bắc Diện tích đất đai, đặc điểm địa hình
Vùng Tây Bắc là vùng miền núi phía Tây của miền Bắc Việt Nam, có
chung đường biên giới với Lào và Trung Quốc. Vùng này đôi khi được gọi là
Tây Bắc Bắc Bộ và là một trong 3 tiểu vùng của Bắc Bộ Việt Nam (2 tiểu
vùng kia là vùng Đông Bắc và Đồng bằng sông Hồng). Bao gồm 6 tỉnh: Điện
Biên, Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, n Bái và Lào Cai. Diện tích tự nhiên
được tổng hợp ở bảng 1.1.
Bảng 1.1. Tổng hợp diện tích diện tích tự nhiên vùng Tây Bắc
STT
1

2
3
4
5
6


20

Tây Bắc có tổng diện tích 50.585,32 km2, chiếm 15,37 % diện tích đất
liền cả nước nhưng diện tích đất đang sử dụng vào sản xuất nông nghiệp
không nhiều, chỉ vào khoảng 700 nghìn ha (chiếm khoảng 13% diện tích tồn
vùng), diện tích đất bằng chưa sử dụng và đất rừng sản xuất khoảng 600 nghìn
ha (chiếm 12% diện tích toàn vùng), do vậy tiềm năng mở rộng phát triển sản
xuất nơng nghiệp cịn khá lớn. Tuy nhiên, do địa hình bị chia cắt mạnh nên đất
sản xuất bị phân tán, thời tiết khí hậu diễn biến phức tạp, hạn hán kéo dài, xói
mịn gia tăng, tần suất xuất hiện sương muối thất thường, hệ thống thủy lợi
được đầu tư nhưng chưa đảm bảo đủ lượng nước tưới. Đặc biệt, tập quán sản
xuất của người dân còn lạc hậu, gây khó khăn trong việc tiếp cận các biện
pháp, mơ hình sản xuất tiên tiến; trình độ thâm canh chưa cao, sản xuất hàng
hóa phát triển chậm, các sản phẩm nơng lâm nghiệp cịn đơn điệu, chủ yếu là
ngun liệu thơ. Do đó, để góp phần phát triển nền nơng nghiệp Tây Bắc theo
hướng sản xuất hàng hóa và cạnh tranh với các vùng khác trong cả nước, việc
xác định thực trạng chất lượng và yếu tố hạn chế của đất nông nghiệp đối với
việc sản xuất, đồng thời đề xuất những giải pháp khoa học kỹ thuật phù hợp
cho sản xuất nơng nghiệp hàng hóa khu vực này là rất cần thiết.

Các loại đất chính vùng Tây Bắc và các yếu tố tác động đến chất lượng đất

Theo kết quả nghiên cứu, xây dựng bản đồ đất nông nghiệp cho vùng

Tây Bắc do Viện Thổ nhưỡng Nơng hóa thực hiện năm 2014, đất nơng nghiệp
vùng Tây Bắc gồm 10 nhóm đất chính, 17 đơn vị đất và được chia thành 3
kiểu hình thành chính: (i) Gồm nhóm đất Leptosols, Nitisols, Ferrasols,
Alisols, Acrisols – là những loại đất hình thành tại chỗ trên nhiều dạng địa
hình khác nhau từ dạng đồi thấp đến địa hình núi cao, thường chịu tác động
mạnh của q trình rửa trơi bề mặt; (ii) Gồm Calcisols, Luvisols, Regosols –
là những nhóm đất hình thành do q trình tích lũy sản phẩm dốc tụ (do
những sản phẩm xói mịn từ đồi núi đổ xuống theo dịng chảy được tích tụ
lại), phân bố tại các thung lũng, vùng ven chân đồi hoặc lưng sườn đồi núi


21

thoải; (iii) Gồm Fluvisols và Gleysols – là nhóm đất hình thành trên trầm tích
phù sa do sự bồi đắp của các con sông, suối lớn chảy qua địa bàn vùng. Trong
số các nhóm đất này, nhóm đất xám (Acrisols) chiếm diện tích lớn nhất với
82,95% diện tích điều tra toàn vùng, phân bố ở tất cả các tỉnh. Trong khi đó,
tại Lai Châu, Lào Cai, Sơn La vẫn cịn diện tích đất sản xuất nơng nghiệp trên
loại đất tầng mỏng (Leptosols) do chịu ảnh hưởng của xói mịn. Riêng Lào
Cai có trên 6.700 ha loại đất… Điều này cho thấy do thiếu đất canh tác nông
nghiệp phù hợp nên bà con vùng núi phải sử dụng những loại đất có nhiều yếu
tố hạn chế. Kết quả nghiên cứu tài nguyên đất nông nghiệp vùng Tây Bắc cho
thấy trong tổng số diện tích điều tra có hơn 40% diện tích đất phân bố ở độ
dốc > 15O, trong đó diện tích >25O chiếm khoảng 7% bao gồm đất xám, đất
tầng mỏng, đất đỏ, đất đen – nơi chủ yếu canh tác nơng nghiệp với độ che phủ
thấp. Ngồi vấn đề về độ dốc thì ảnh hưởng của xói mịn, rửa trơi từ phương
thức canh tác nương rẫy “mở” khơng có thời gian bỏ hóa trên các sườn dốc
theo truyền thống lại khơng bón phân hoặc rất ít sử dụng phân bón là những
nguyên nhân làm cho đất đồi núi vùng Tây Bắc ngày càng nghèo kiệt về dinh
dưỡng. Do đó, đối với những vùng có địa hình dốc, cần đặc biệt quan tâm và

phải có biện pháp canh tác phù hợp vì nguy cơ xói mịn đất rất lớn. Khơng chỉ
dốc, đất sản xuất nơng nghiệp vùng Tây Bắc cịn có mức độ đá lẫn lớn, đặc
biệt là các loại đất hình thành tại chỗ, điển hình là đất tầng mỏng, thậm chí
nhiều loại đất có mức độ đá lẫn lên tới 60-70%. Những vùng đất canh tác có
tỷ lệ đá lẫn cao (> 40%) tập trung ở Điện Biên, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái.
Những vùng đất có nhiều đá lẫn chủ yếu phân bố trên dạng địa hình có độ dốc
cao và có lịch sử canh tác nơng nghiệp lâu đời. Đây có thể là nguyên nhân từ
hiện tượng xói mịn, rửa trơi bề mặt do mưa trên đất dốc thơng qua q trình
canh tác mà khơng có biện pháp che phủ bảo vệ. Tỷ lệ đá lẫn cao là một hạn
chế khó khắc phục, ảnh hưởng đến q trình phát triển bộ rễ của cây trồng,
ngồi ra đây là một hạn chế lớn tác động đến quá trình làm đất. Vì vậy, trong


22

sử dụng đất cần có các biện pháp bảo vệ như tăng độ che phủ bề mặt, bón
phân hữu cơ…
Về độ chua của đất (đánh giá thông qua giá trị pHKCl), các nghiên cứu
cũng cho thấy diện tích đất có pHKCl <4,5 là rất lớn, khoảng trên 700.000 ha
trong vùng điều tra. Ngoại trừ nhóm đất mùn trên núi cao, đất đen và một vài
loại đất như đất phù sa điển hình ít chua hay đất dốc tụ đọng nước… thì hầu
hết các nhóm đất đều có phản ứng rất chua. Đây là hạn chế lớn với hầu hết các
cây trồng bởi để sử dụng các loại đất này vào mục đích trồng trọt, cần phải
điều chỉnh phản ứng của đất trước khi sử dụng. Đối với vùng đồng bằng, biện
pháp hữu hiệu để tăng pH đất là bón vơi, cịn đối với vùng đồi núi thì cần đưa
vào trồng các loại cây cải tạo đất.
Bên cạnh yếu tố về độ chua, đất Tây Bắc cũng cần chú ý vấn đề dinh
dưỡng. Hiện dinh dưỡng của đất ở mức thấp đến trung bình thơng qua hàm
lượng hữu cơ, đạm tổng số, lân dễ tiêu, kali tổng số và kali dễ tiêu đều rất
thấp. So sánh với nhu cầu của các cây trồng phổ biến trong vùng thì hàm

lượng các chất dinh dưỡng chính trong đất đều thấp và là yếu tố hạn chế, cần
phải bổ sung thông qua cải tạo đất và bón phân.
Đáng chú ý là ngồi các yếu tố liên quan trực tiếp đến đất, sản xuất
nông nghiệp Tây Bắc còn chịu tác động bởi nhiều yếu tố về điều kiện tưới,
điều kiện khí hậu, lượng mưa và các hoạt động khai thác của con người. Về
điều kiện tưới, khả năng phát triển các cơng trình thủy lợi ở Tây Bắc gặp
nhiều khó khăn. Trong tổng diện tích điều tra, cho đến thời điểm này chỉ có
khoảng 20% diện tích có thể chủ động được nước tưới, phần còn lại phụ thuộc
vào nước trời, do vậy, những năm khô hạn kéo dài là những năm mất mùa
hàng loạt đối với hầu hết các loại cây trồng trong vùng. Về điều kiện khí hậu,
hạn chế lớn nhất của điều kiện khí hậu vùng Tây Bắc nói chung là nhiệt độ
thấp và sương muối, lượng mưa không đồng đều trong năm. Kết quả nghiên
cứu của Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường cho thấy trong
tổng số 21 trạm khí tượng ở vùng Tây Bắc có 16 trạm đã từng quan trắc thấy


23

sương muối, những khu vực có độ cao từ 600 m đến 1.000 m đều có từ 4 – 14
năm xuất hiện sương muối với tần suất từ 17% đến 46%. Ở độ cao trên 1.500
m

thì hầu hết các năm đều xuất hiện sương muối. Sương muối xuất hiện trong

các tháng mùa đông (từ tháng mười một đến tháng ba năm sau) (Nguyễn
Hồng Sơn và nnk, 2012). Sương muối và nhiệt độ thấp là 2 yếu tố hạn chế lớn
đối với đời sống cây cà phê và cây cao su trong vùng. Về lượng mưa, mưa
phân bố không đều theo mùa trong năm; tập trung vào mùa hè, chiếm gần
80%, mưa lớn nhất vào các tháng sáu, bảy và tám. Trong khi đó, khơ hạn
thường kéo dài từ tháng mười hai năm trước đến tháng ba năm sau, thậm chí

có năm quan sát thấy khô hạn kéo dài đến tháng năm (năm 2010) và có tháng
khơng có ngày mưa nào (tháng 1/2006). Điều này ảnh hưởng khơng nhỏ đến
q trình phát triển của cây trồng, đặc biệt là các cây cơng nghiệp dài ngày
như cà phê, chè, cao su, mía…
Bên cạnh các yếu tố khách quan về thời tiết, khí hậu thì các hoạt động
phát triển của con người cũng tác động tiêu cực không nhỏ tới đất nông nghiệp
Tây Bắc thơng qua các hoạt động khai thác khống sản/vật liệu xây dựng không
quy hoạch và trái phép; phát triển xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng các nhà máy
thủy điện, các cụm – khu công nghiệp và đô thị; tàn phá rừng khiến chức năng
giữ nước và bảo vệ đất suy giảm mạnh…, do đó cần hết sức cân nhắc các hoạt
động phát triển tại vùng Tây Bắc, tránh tình trạng phát triển bằng mọi giá làm
ảnh hưởng đến môi trường và các loại tài nguyên trong vùng.

Đặc điểm địa hình
Địa hình Tây Bắc hiểm trở, có nhiều khối núi và dãy núi cao chạy theo
hướng Tây Bắc-Đông Nam.
Vùng Tây Bắc có hai con sơng lớn, đó là sông Đà chảy theo hướng Tây
Bắc - Đông Nam và sông Thao (tức sông Hồng). Thượng nguồn của sông Mã
cũng ở trên vùng đất Tây Bắc.


×