Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

hoàn thiện pháp luật về shcn ở việt nam trong quá trình hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.95 KB, 35 trang )

Đề tài nghiên cứu khoa học Sở hữu công nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam hiện nay đang đi trên con đường xây dựng đất nước định
hướng XHCN, giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Công
nghiệp hoá - hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử
dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động cùng với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa
trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo năng
suất lao động cao. Như vậy, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, tri thức thông tin trở thành yếu tố hàng đầu của sản xuất. Chính vì điều
này mà ngày nay người ta vẫn thường nói nền kinh tế hiện đại mà Việt
Nam cũng như tất cả các quốc gia trên thế giới đang theo đuổi là nền kinh
tế tri thức, trong đó mỗi sản phẩm hàng hóa, dịch vụ được sản xuất ra đều
đòi hỏi chứa đựng trong nó hàm lượng chất xám ngày càng cao.
Mục tiêu phát triển nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN. Trong kinh tế thị trường, tự do kinh doanh là các hình
thức, phương tiện để phát huy sức sáng tạo, tinh thần kinh doanh mạnh mẽ
của người dân. Một quyền tự do cơ bản nhất để đi đến phồn vinh là quyền
sở hữu tài sản rõ ràng , và cốt lõi nhất có lẽ là tài sản trí tuệ. Vì trong nền
kinh tế toàn cầu hoá, sự khác biệt và chênh lệch lớn nhất giữa các nền kinh
tế là trí tụê. Nếu có trí tuệ, có ý tưởng hấp dẫn, bạn sẽ có tiền vốn từ rất
nhiều nhà đầu tư Tài chính quốc tế đang sẵn sàng bỏ vốn vào những dự án
có lãi và có khả năng thuyết phục. Chỉ cần phân tích cuộc cạnh tranh giữa
các nhà cung cấp điện thoại di động, thiết bị điện tử dân dụng chúng ta có
thể thấy phần thắng luôn thuộc về các sản phẩm có trí tuệ, có giải pháp
thông minh. Năng lực cạnh tranh được quyết định chủ yếu bởi trí tuệ chứ
không phải cơ bắp.
Nhưng có lẽ khái niệm sản phẩm trí tuệ là quá trừu tượng đối với mỗi
người dân, và chính vì lẽ đó quyền sở hữu trí tuệ cũng được xem là một
điều gì quá lạ lẫm và xa vời. Với ý nghĩ đó, rất nhiều người cũng không ý


thức được hết quyền sở hữu của mình đối với sản phẩm trí tuệ do chính
mình làm ra và không có ý thức tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ của người
khác. Xâm hại quyền sở hữu trí tuệ đang là một vấn đề vô cùng nhức nhối,
và ở Việt Nam hiện nay, vấn đề này đang trở nên đặc biệt nghiêm trọng,
nhất là khi chúng ta đang ở trong giai đoạn đàm phán để gia nhập WTO.
Trang 1
Đề tài nghiên cứu khoa học Sở hữu công nghiệp
Để có thể được sự đồng ý của các nước thành viên WTO cho Việt Nam gia
nhập tổ chức này, và trong tương lai, khi được gia nhập, để chúng ta có thể
cạnh tranh và tồn tại trong một nền kinh tế mà khoa học công nghệ biến đổi
từng phút, từng giây, thì nhất thiết chúng ta phải phát huy tuyệt đối sức
sáng tạo và phải đảm bảo các biện pháp biện pháp bảo hộ cho các sáng tạo
ấy.
Xây dựng và thực thi triệt để hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ chính
là một biện pháp hữu hiệu nhất để không ngừng nâng cao năng lực công
nghệ của Đất nước, thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế và xã hội.
Trong tài liệu này, đứng dưới góc nhìn hướng về hoạt động kinh tế của
Đất nước ta trong quá trình đổi mới, chúng tôi muốn nói đến một mảng rất
quan trọng của quyền sở hữu trí tuệ, gắn liền với thời đại khoa học công
nghệ ngày nay của chúng ta, đó là Quyền sở hữu công nghiệp. Nhằm
khuyến khích, giúp đỡ, đảm bảo quyền và lợi ích cho mọi cá nhân, pháp
nhân trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, Nhà nước ta cũng đã ban hành
nhiều quy định pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực
này, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, làm lành mạnh hóa quan hệ về
sở hữu công nghiệp, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá Đất
nước.
Đúng như tên đề tài chúng tôi đã nêu ra: Pháp luật về sở hữu công
nghiệp. Đề tài sẽ bao gồm những quy định cốt yếu nhất của pháp lệnh hiện
hành ở Việt nam về Sở hữu công nghiệp và một số nhìn nhận thực tế trong
quá trình những quy định đó được đưa vào thực hiện, trên cơ sở đó chúng

tôi cũng xin thu thập và đưa ra một số khuyến nghị cho sự hoàn thiện hệ
thống pháp luật đó.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng em xin chân thành cảm ơn Trung
tâm thư viện trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân, thầy Nguyễn Hữu Mạnh
cùng các thầy cô trong khoa Luật Kinh tế và các bạn trong lớp đã giúp đỡ
chúng em hoàn thành đề tài này. Do còn thiếu kinh nghiệm trong nghiên
cứu, chắc chắn đề tài sẽ còn thiếu xót , chúng em rất mong nhận được ý
kiến đóng góp của thầy cô và các bạn để đề tài hoàn thiện hơn!
Trang 2
Đề tài nghiên cứu khoa học Sở hữu công nghiệp
I – KHÁI QUÁT CHUNG VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ SỞ HỮU CÔNG
NGHIỆP
1. Khái niệm về sở hữu trí tuệ và sở hữu công nghiệp
Lịch sử phát triển của loài người gắn liền với hoạt động sáng tạo của
con người.Trong quá trình phát triển, hoạt động kinh tế, thương mại càng
phát triển thì thành quả do hoạt động trí tuệ của con người sáng tạo ra càng
ngày càng có ý nghĩa quan trọng. Chính vì vậy, quan niệm về sở hữu của
con người ngày càng phát triển, mở rộng thêm ra.
Ban đầu, đối tượng của sở hữu là cơ sở vật chất (đất đai nhà cửa, tư
liệu tiêu dùng, tư liệu sản xuất) dần dần đối tượng của sở hữu được mở
rộng ra bao gồm kết quả sáng tạo của con người, dần dần hình thành khái
niệm sở hữu trí tuệ.
“Sở hữu trí tuệ” là một thuật ngữ mang nghĩa rộng được mô tả “sự
sáng tạo của tư duy”. Sự sáng tạo này là tài sản vô hình mà pháp luật cần
phải bảo hộ thông qua việc trao cho chủ nhân của nó một số quyền nhất
định, nhằm mục đích khuyến khích những sáng tạo hữu ích đó vì lợi ích
chung của toàn xã hội.Cho đến hôm nay, ở Việt Nam đối tượng của sở hữu
trí tuệ gồm ba lĩnh vực:quyền tác giả,quyền sở hữu công nghiệp và giống
cây trồng và vật nuôi.
Quyền sở hữu công nghiệp (SHCN)là một bộ phận của quyền sở hữu

trí tuệ. Quyền SHCN được hiểu là các quyền hợp pháp của con người đối
với các đối tượng mang tính công nghiệp( như sáng chế, giải pháp hữu
ích ) hoặc những dấu hiệu phân biệt mang tính công nghiệp và thương
mại( như nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại )do trí tuệ con người tạo ra
và được Nhà nước bảo hộ các quyền đó trong một thời gian nhất định.
Dưới góc độ khoa học pháp lí , theo Điều 4.4 của Luật sở hữu trí tuệ
2005 có qui định quyền SHCN là quyền của tổ chức, cá nhân đối với các
sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tĩnh.
2.Tính t t y u, s c n thi t ph i b o h quy n SHCNấ ế ự ầ ế ả ả ộ ề
Vấn đề bảo vệ quyền SHCN từ lâu đã trở thành mối quan tâm không
chỉ của các tác giả sáng tạo ra các đối tượng SHCN, mà còn là mối quan
tâm lớn của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt ở những nơi, những khu vực
có nền kinh tế thị trường phát triển.
Trang 3
Đề tài nghiên cứu khoa học Sở hữu công nghiệp
Về phương diện lí luận, nếu coi các đối tượng quyền SHCN là tài sản
và bản thân quyền SHCN là quyền tài sản, thì việc bảo hộ nó là việc làm
tất yếu nhằm bảo vệ một trong những quyền có tính chất tự nhiên, cơ bản
của con người.
Về phương diện kinh tế, ý nghĩa của việc bảo hộ quyền SHCN còn
thể hiện qua vai trò của các đối tượng quyền SHCN đối với nền kinh tế.
Các đối tượng SHCN là sản phẩm của hoạt động sáng tạo trong quá trình
lao động,sản xuất, kinh doanh, không chỉ là loại tài sản có giá trị lớn mà
còn tạo cho người sử dụng nó sức mạnh ,ưu thế cạnh tranh trên thị trường.
Là một bộ phận ngày càng quan trọng của hàng hoá và dịch vụ, SHCN có
vai trò rất lớn đối với thương mại và đầu tư Nếu việc bảo hộ và thực thi
quyền SHCN không thoả đáng sẽ là rào cản đối với thị trường tự do và mở
cửa, khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường đó không cần đầu tư thêm
cho nghiên cứu và triển khai, có thể bắt chước, sao chép và bán các sản
phẩm với giá rẻ hơn nhiều và vì thế chiếm chỗ và loại sản phẩm hợp pháp,

chính hiệu ra khỏi thị trường đó. Để tạo ra môi trường kinh doanh, cạnh
tranh lành mạnh trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hội nhập với nền
kinh tế khu vực và kinh tế thế giới,tất yếu mỗi quốc gia đều phải tìm biện
pháp nâng cao hiệu quả của việc bảo hộ quyền SHCN của các tổ chức, cá
nhân nước mình cũng như của các tổ chức, cá nhân nước ngoài, xoá bỏ
tình trạng cạnh tranh hỗn loạn, chiếm đoạt bất hợp pháp thành quả lao
động sáng tạo của nhau.
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và SHCN nói riêng với nội
dung đảm bảo độc quyền khai thác, sử dụng tài sản trí tuệ trong một thời
hạn nhất định giúp chủ sở hữu thu lợi từ tài sản mà mình tạo ra và áp dụng
nhanh chóng các kĩ thuật tiến bộ, tạo ra những sản phẳm mới đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của xã hội có được những thông tin cần thiết về đối
tượng đó. Và như vậy, người ta sẽ chỉ tiến hành nghiên cứu, triển khai để
tạo ra những thành quả mới chứ không tạo ra những gì đã có, nhờ đó tránh
cho xã hội phải lãng phí các nguồn lực. Như vậy, bảo hộ SHCN sẽ thúc
đẩy hoạt động sáng tạo, đổi mới kĩ thuật sản xuất, khuyến khích cạnh tranh
lành mạnh giữa các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế.
SHCN ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế quốc
tế hiện đại. trong xu thế hội nhập ngày nay, việc bảo hộ SHCN không chỉ
còn là vấn đề riêng của một quốc gia mà còn là yêu cầu cấp thiết đặt ra trên
bình diện quốc tế. Hợp tác bảo hộ quyền SHCN ngày càng được các quốc
gia quan tâm, thúc đẩy và thực thi rộng rãi.Việc đăng kí bảo hộ một đối
Trang 4
Đề tài nghiên cứu khoa học Sở hữu công nghiệp
tượng sở hữu ở nước ngoài chính là nằm giành độc quyền khai thác, sử
dụng đối tượng SHCN ở nước đó. Vấn đề này có ý nghĩa thực tiễn to lớn,
thể hịên rõ nhất là đối với nhãn hiệu hàng hoá. Sản phẩm xuất khẩu mang
nhãn hiệu trong nước, nếu không đăng kí bảo hộ nhãn hiệu đó ở nước nhập
khẩu thì khi đạt được uy tín với người tiêu dùng, nhãn hiệunày chắc chắn
sẽ có người bắt chước, thị trường tiêu thụ có thể bị giảm hoặc mất hoàn

toàn. Vì vậy, đăng kí bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá ở nước ngoài để bảo vệ
mặt hàng xuất khẩu trở thành vấn đề quan trọng và bức thiết đối với cơ sở
sản xuất, kinh doanh có chiến lược mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá.
Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập Quốc tế, hàng hoá, dịch
vụ của các thương nhân chỉ có thể trụ vững và chiến thắng trong cuộc cạnh
tranh khốc liệt để giành giật thị trường và chiếm lĩnh thị phần nếu hàng
hoá, dịch vụ của họ có chứa đựng các đối tượng của quyền sở hữu công
nghiệp với tính chất là nhân tố đặc trưng của hàng hoá, dịch vụ. Các đối
tượng của quyền SHCN là phương tiện để cạnh tranh trong nền kinh tế thi
trường. Không phải bất cứ hàng hoá nào, dịch vụ nào được tung ra thị
trường cũng có thể tiêu thụ được ngay, vì thị trường là do hàng trăm, thậm
chí hàng ngàn doanh nghiệp cùng cung cấp những mặt hàng vô cùng đa
dạng và tất nhiên, các mặt hàng có sự trùng nhau về kiểu dáng, công
dụng là không thể tránh khỏi. Trong bối cảnh đó, các đối tượng của
quyền SHCN chính là một phương tiện để các doanh nghiệp cạnh tranh với
nhau nhằm thu lợi nhuận tối đa. Các đối tượng của quyền SHCN chính là
những dấu hiệu để cho khách hàng nhận biết và phân biệt hàng hoá, dịch
vụ này với hàng hoá, dịch vụ khác, tức là thông báo sự hiện diện của nó
trong vô số các mặt hàng cùng loại. Vì thế vấn đề bảo hộ quyền SHCN
được đặt ra chính là để bảo vệ khả năng cạnh tranh bình đẳng cho tất cả
các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Một thực tế được nhấn mạnh nhiều lần là Việt Nam chưa từng có một
dự án đầu tư ngoại quốc trực tiếp nào trong lĩnh vực sản xuất phần mềm.
Nguyên nhân là quyền Sở hữu công nghiệp chưa được bảo đảm tại Việt
nam. Đại sứ Hoa kỳ tại Việt Nam Raymond Burghardt nhấn mạnh, các nhà
đầu tư Mỹ sẽ không đầu tư nếu bí quyết kĩ thuật, license, kiểu dáng máy
móc của họ không được nước nhận đầu tư bảo vệ. Muốn thu hút các nhà
đầu tư Mỹ, Việt Nam cần nhanh chóng hoàn thiện luật pháp liên quan đến
sở hữu công nghiệp. Nếu không, Việt Nam có thể sẽ phải đối phó với các
biện pháp trả đũa, đóng cửa thị trường của Hoa Kỳ và các nước phát triển

khác. Thiệt hại của Việt Nam sẽ bằng thiệt hại mà Hoa Kỳ và các bên liên
Trang 5
Đề tài nghiên cứu khoa học Sở hữu công nghiệp
quan phải gánh chịu do tình trạng vi phạm sở hữu công nghiệp tại Việt
Nam.
Lí luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng, hoạt động sáng tạo và sở hữu
các sản phẩm trí tuệ ngày càng quan trọng, xuất phát từ vai trò trung tâm
thông tin và kiến thức trong xã hội hậu công nghiệp. Bảo hộ quyền SHCN
trong phạm vi quốc gia và ở tầm quốc tế là những biện pháp hữu hiệu để
thúc đẩy hoạt động sáng tạo, động viên hoạt động nghiên cứu phát triển,
góp phần thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và thúc đẩy hoạt động chuyển
giao công nghệ hợp pháp.
Hiện nay Việt Nam đang rất quyết tâm chấn chỉnh tình hình thực thi
quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền Sở hữu công nghiệp nói riêng.
Trước hết là nhằm khuyến khích hoạt động sáng tạo, phục vụ phát triển nội
tại của Việt Nam, Nếu không bảo hộ hiệu quả thì không phát triển được
khoa học công nghệ trong nước, không ai muốn sáng tạo. Ngoài ra, việc
này cũng nhằm bảo hộ lợi ích chính đáng của các tổ chức, cá nhân nước
ngoài đến làm ăn tại Việt Nam, góp phần thu hút đầu tư nước ngoài trong
quá trình hội nhập. Kinh nghiệm của các nước đã trải qua giai đoạn phát
triển công nghiệp cho thấy, nếu tăng cường bảo hộ sở hữu trí tuệ lên 10%
thì đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ tăng 50% và các công nghệ cao sẽ tăng
trưởng 40%. Chỉ một vài con số như vậy cũng đủ thấy vấn đề bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ quan trọng đến mức nào đối với hoạt động thu hút đầu
tư.
3. Thực trạng pháp luật nước ta về bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp
3.1 Quá trình hình thành các quy định về quyền SHCN tại Việt Nam
trước khi có Bộ luật Dân sự 1995
Xuất phát điểm của Việt Nam là một nước nghèo và chậm phát triển

do bị Thực dân Pháp đô hộ. Vì vậy Luật SHTT của nước ta ra đời muộn
hơn ở những nước khác. Mãi đến năm 1957, Việt nam mới ban hành Luật
Thương hiệu năm 1958, Chính Phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa mới ban
hành “Thể lệ về thương phẩm và thương hiệu”. Tuy nhiên, giá trị thực tiễn
của các văn bản này chưa cao. Năm 1976, Việt nam đã tham gia vào tổ
chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO).
Dựa trên những văn bản pháp luật qui định về quyền SHCN được ban
hành và thực hiện ở nước ta, hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ nói chung
và SHCN nói riêng được hình thành ở nước ta từ đầu thập niên 80 của thế
Trang 6
Đề tài nghiên cứu khoa học Sở hữu công nghiệp
kỉ XX và đã thường xuyên được bổ sung, hoàn thiện. Hiệu lực pháp luật
của các văn bản từng bước được nâng cao đã đáp ứng được những nhu cầu
cơ bản trong công cuộc xây dựng đất nước thuộc mọi lĩnh vực kinh tế-xã
hội.
Tuy vậy, luật về SHTT chỉ thực sự phát huy được tác dụng kể từ sau
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. Phương hướng của Đại hội Đảng đề ra
đã được thể chế tại Điều 60 của Hiến Pháp nước CHXHCN Việt Nam năm
1992 “Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng
chế, cải tiến kỹ thuật, hợp lí hóa sản xuất, sáng tác, phê bình văn học, nghệ
thuật, tham gia các hoạt động văn hóa khác. Nhà nước bảo hộ quyền tác
giả, Quyền SHCN”.
Nghị định đầu tiên của Chính phủ qui định về sáng kiến, cải tiến kĩ
thuật- hợp lí hoá sản xuất là Nghị định số31/CP, được ban hành ngày
23/01/1981 qui định về tiêu chuẩn của một giải pháp kĩ thuật có khả năng
bảo hộ là sáng chế. Nghị định qui định số 02 hình thức bảo hộ sáng chế là
Bằng tác giả sáng chế và bằng sáng chế độc quyền do cục sáng chế cấp, có
thời hạn hiệu lực là 15 năm, tính từ ngày nộp đơn.Đối với sáng chế công
vụ: Khi sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp bằng sáng chế và sáng
chế được công bố thì mọi cơ quan, đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế

Nhà nước đều có quyền áp dụng vào sản xuất và có nghĩa vụ trả thưởng
cho tác giả.Đối với sáng chế độc quyền: Chủ sáng chế là cá nhân, tổ chức
thuộc mọi thành phần kinh tế được độc quyền sử dụng sáng chế, cho phép
người khác sử dụng sáng chế. Chủ sáng chế có quyền chuyển nhượng
quyền sở hữu sáng chế cho các chủ thể khác theo hợp đồng.
Nghị định số 31/CP tuy có qui định tác giả hoặc người thừa kế hợp
pháp có quyền lựa chọn một trong hai hình thức là Bằng sáng chế và Bằng
sáng chế độc quyền. Nhưng trên thực tế, bằng sáng chế là hình thức bảo hộ
được nhà nước khuyến khích và là hình thức bảo hộ chính Bằng độc
quyền sáng chế chủ yếu dành cho nước người nước ngoài có nhu cầu bảo
hộ sáng chế tại Việt Nam.
Tuy còn có những hạn chế nhất định, nhưng Nghị định số 31/Cp đã là
văn bản pháp luật mở đầu cho hoạt động SHCN ở Việt Nam hình thành và
phát triển amnh mẽ như trong giai đoạn hiện nay. Cùng với việc thành lập
Cục sáng chế, nước ta đã tham gia công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp và trở thành thành viên của Tổ chức sở hữu trí tuệ thé
giới(WPO), theo đó việc triển khai toàn diện hoạt động SHCN đã từng
bước được đẩy mạnh; các văn bản pháp luật lần lượt được ban hành nhằm
Trang 7
Đề tài nghiên cứu khoa học Sở hữu công nghiệp
điều chỉnh từng nhóm đối tượng của quyền SHCN theo cơ chế đồng bộ và
thống nhất, đã mở ra những hành lang pháp lí thuận lợi cho những sáng tạo
những giải pháp kĩ thuật mới được hình thành. Hàng loạt các Nghị định
của Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Chính Phủ) được ban hành :
- Nghị định số 197-HĐBT ngày 14-2 -19982 về nhãn hiệu hàng
hoá:
- Nghị định số 85-HĐBT ngày 13/5/1985 về kiểu dáng công nghiệp;
- Nghị định số 200-HĐBT ngày 28-12-1988 về giải pháp hữu ích ;
- Nghị định số 201-HĐBT ngày 28-12-1988 về mua bán quyền sử
dụng sáng chế , giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng

hoá và bí quyết kĩ thuật.
Đặc biệt vào cuối những năm 80- Thế kỉ XX, tình hình quốc tế và
trong nước có nhiều biến đổi, việc giải phóng mọi năng lực sản xuất trong
nước được coi trọng, kinh tế thị trường đã dần dần được hình thành, nền
kinh tế tập chung quan liêu, bao cấp cao độ đã dần bộc lộ những hạn chế
nhất định. Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam quyết tâm đổi
mới theo hướng tích cực phù hợp với xu thế phát triển kinh tế –xã hội
trong nước và quốc tế.
Những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về
việc đẩy mạnh hoạt động SHCN đã được cụ thể hoá bằng việc ban hành
“Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp” ngày11-02-1989. Đây là
văn bản có hiệu lực pháp luật cao, là một mốc quan trọng đánh dấu tiến
trình phát triển của hoạt động SHCN ở Việt Nam.
Những điểm mới của qui định trong Pháp lệnh so với những qui định
tương ứng tại Nghị định31/CP trước đây là:
- Nhà nước chỉ duy trì một hình thức bảo hộ Bằng độc quyền sáng
chế, mà không qui định hai loại bằng bảo hộ sáng chế như Nghị định31/CP
đã qui định.
- Pháp lệnh đã qui định rõ thẩm quyền của toà án nhân dân trong
việc xử lí các tranh chấp có liên quan đến quyền SHCN. Trên cơ sở đó,
Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư số 03/NCPL, ngày 22-07-
1989 hướng dẫn xét xử các tranh chấp về quyền SHCN.
Sau khi Pháp lệnh bảo hộ quyền SHCN được ban hành(1989), thí số
lượng đơn yêu cầu bảo hộ và số lượng văn bằng bảo hộ đã cấp ngày một
tăng.Tuy vậy, trong quá trình triển khai pháp luật bảo hộ quyền SHCN
Trang 8
Đề tài nghiên cứu khoa học Sở hữu công nghiệp
trong những năm 90, thế kỉ XX, hệ thống pháp luật về lĩnh vực này cũng
đã bộc lộ những hạn chế nhất định, đặc biệt về tên gọi xuất sứ hàng hoá là
một trong 05 đối tượng được bảo hộ nhưng chưa có văn bản hướng dẫn

thực hiện.
Vào thời kỳ đó, biện pháp xử lý các xâm phạm quyền Sở hữu công
nghiệp chủ yếu là biện pháp hành chính. Mặc dù về mặt nguyên tắc, Toà
án sẵn sàng xét xử các tranh chấp và các vụ kiện về Sở hữu công nghiệp,
nhưng do các quy định pháp luật chưa phải là luật, toà án lại chưa có kinh
nghiệm trong xét xử các vụ việc này, vì vậy việc tham gia xét xử của toà
trên các cơ sở văn bản pháp luật cũng rất hạn chế. Thời gian này, một loạt
các đối tượng được đề cập tới trong Hiệp định TRIPS chưa được bảo hộ tại
Việt Nam như thông tin bí mật, chỉ dẫn địa lý, thiết kế bố trí mạch tích
hợp, quyền chống cạnh tranh khụng lành mạnh. Ngoài ra, còn một số
qui định có tính nguyên tắc về xác lập và bảo hộ quyền SHCN cũng chưa
được cụ thể hoá đúng mức cũng đã gây không ít khó khăn không những
cho người nộp đơn, mà còn gây lúng túng cho cơ quan nhận và xử lí đơn,
các qui dịnh về xử lí vi phạm chưa rõ ràng và nhát quán, những qui định về
trình tự , thủ tục, chế độ thủ tục , chế độ xét nghiệm đơn và cấp văn bằng
bảo hộ cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất định, không còn phù hợp với
hoạt động SHCN trong điều kiện mới, đòi hỏi phải xây dựng một hệ thống
pháp luật sở hữu trí tuệ nói chung và SHCN nói riêng ngày một đồng bộ và
hoàn chỉnh
Tóm lại, việc ban hành các văn bản pháp luật về hoặc liên quan đến
việc bảo hộ quyền SHCN nêu trên chứng tỏ ngay từ trước khi bắt đầu công
cuộc đổi mới, Nhà nước đã quan tâm và ngày càng quan tâm nhiều hơn tới
vấn đề bảo hộ quyền SHCN. Các văn bản nêu trên đã tạo cơ sở pháp lí ban
đầu cho việc bảo hộ quyền SHCN, cho công tác đăng kí bảo hộ quyền
SHCN, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy phát triển khoa học, công
nghệ phuc vụ sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước
Xã hội càng phát triển, sản xuất càng phát triển đòi hỏi một hệ thống
pháp luật về SHCN ngày càng hoàn thiện. Ngày 28/10/1995, tại kỳ họp thứ
8 Quốc hôj thông qua Bộ luật dân sự nước CHXHCN Việt nam, chính thức
thiết lập chế độ pháp lí cao nhất cho việc xác lập, bảo hộ và thực thi quyền

SHTT tại Việt nam (phần thứ VI và thứ VII của Bộ luật). Sau khi Bộ luật
dân sự ra đời, một loạt các văn bản hướng dẫn thi hành
Trang 9
Đề tài nghiên cứu khoa học Sở hữu công nghiệp
3.2 Sự phát triển của quyền SHCN sau khi Bộ luật dân sự ra đời
Trước những vấn đề lớn đặt ra cần phải được giải quyết trong
một thời gian ngắn nhất, Bộ luật Dân sự nước CHXH chủ nghĩa Việt
Nam được quốc hội khoá IX thông qua ngày 28-12-1995(có hiệu lực
từ ngày 1-7-1996) đã dành hẳn một chương( chương II phần thứ VI, từ
điều 780 đến điều 805) cho vấn đề bảo hộ quyền SHCN.Bộ luật dân
sự khẳng định quyền SHCN là quyền sở hữu cá nhân, pháp nhân đối
với các đối tượng SHCN.
Năm đối tượng SHCN được bộ Luật Dân sự bảo hộ là sáng chế,
giải pháp hữu ích , kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá và tên
gọi xuất xứ hàng hoá Tuy nhiên, Bộ luật này cũng mới chỉ đề cập đến
những đối tượng Sở hữu công nghiệp đó được nêu trong các văn bản
trước đó, còn những đối tượng khác trong quy định của TRIPS chỉ
được nêu chung chung trong cụm từ "những đối tượng khác”.
Do chỉ đề cập các khía cạnh dân sự của cá mối quan hệ về
SHCN nên Bộ luật Dân sự không bao quát hết được các khía cạnh
kinh tế, hành chính, các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền
SHCN.Sau đó, Quốc Hội lại uỷ quyền cho Chính phủ quy định bổ
sung thêm các đối tượng và vấn đề bảo hộ đối với các đối tượng này.
Cụ thể gồm Nghị định số 63/CP ngày 24/10/1996 qui định chi tiết về
SHCN.
Đây là một nghị định có nội dung tương đối đầy đủ, làm rõ và chi
tiết hoá những qui định về SHCN được qui định trong Bộ luật Dân sự, đã
giúp cho việc triển khai hoạt động sở hữu trí tuệ ở Việt Nam ngày một có
hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, còn có Thông tư số 3055/TT-SHCN ngày31-
12-1996 hướng dẫn thi hành các Nghị định số 63/CP này, Nghị định số

60/CP ngày 6/6/1997 hướng dẫn thi hành các qui định của Bộ luật dân sự
về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (Điều 13 về bảo hộ quyền SHCN
của các chủ thể nước ngoài). Thông tư số 23/TC- TCT ngày 9/5/1997
hướng dẫn thu, nộp và quản lí phí, lệ phí SHCN.
Trong đó, đáng chú ý là Nghị định 12/1999/NĐ-CP ngày 06/03/1999
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Theo
đó, các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp sẽ bị xử phạt bằng
hỡnh thức phạt tiền, tịch thu tang vật, huỷ bỏ hàng hoỏ vi phạm và buôc
bồi thường cho chủ SHCN. Do chỉ đề cập các khía cạnh dân sự của cá mối
quan hệ về SHCN nên bộ luật dân sự không bao quát hết được các khía
cạnh kinh tế, hành chính, các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền SHCN.
Trang 10
Đề tài nghiên cứu khoa học Sở hữu công nghiệp
Ngoài các văn bản nêu trên, vấn đề bảo hộ quyền SHCN còn
được đề cập ở các mức độ khác nhau trong nhiều văn bản pháp luật khác
hiện hành như Bộ luật hình sự năm 1999; Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam (năm 1996) Luật khuyến khích đầu tư trong nước( năm 1998) Bộ
luật Hình sự sửa đổi năm 2002 cũng đó đưa ra hành vi vi phạm quyền
SHCN ở mức độ nghiêm trọng cấu thành một loại tội phạm hỡnh sự, loại
tội phạm này cú thể bị phạt tiền hoặc phạt tự. Tuy nhiên phần lớn các văn
bản có liên quan nói trên chỉ khẳng định việc bảo hộ quyền SHCN, còn
bảo hộ như thế nào thì phải căn cứ vào các qui định của Bộ luật dân sự và
các văn bản qui định cụ thể hoá, hướng dẫn thi hành Bộ luật dân sự.
3.3 Phân biệt Luật điều chỉnh sau khi có sự ra đời của Bộ luật Dân sự
năm 2005 và Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005
Để thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế khu vực,Việt Nam đã trở
thành thành viên của ASEAN vào năm 1995, do vậy cũng như các nước
trong tổ chức này, Việt Nam đã kí Hiệp định khung ASEAN về lĩnh vực sở
hữu trí tuệ, trong đó cps những qui định về quyền SHCN. Tiếp theo đó,
Việt Nam và Hoa Kỳ đã kí Hiệp định thương mại song phương Việt Nam -

Hoa Kỳ vào ngày 14-07-2000 (có hiệu lực vào ngày 10-12-2001, đã tạo ra
những cơ hội trong hội nhập toàn diện với các nền kinh tế Đông Nam Á và
gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới WTO cho Việt Nam.
Nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật Việt Nam về sở hữu trí
tuệ nói chung và SHCN nói riêng, Quốc hội Việt Nam đã ban hành Bộ luật
dân sự (BLDS) năm 2005 (có hiệu lực từ ngày 1-1-2006 và đăc biệt với sự
ra đời của Luật sở hữu trí tụê (ngày 12-12-2005) có hiệu lực từ ngày 1-7-
2006 dần hoàn thiện khung pháp luật về SHCN.
Bộ luật dân sự Năm 2005 (có hiệu lực từ ngày 1/1/2006) có qui định về
quyền SHCN và quyền đối với giống cây trồng tại chương XXXV, phần
thứ VI, gồm có 04 điều luật. Tại Điều 750 và điều 753 (Bộ luật dân sự
năm2005) qui định về các đối tượng của quyền SHCN và quyền đối với
giống cây trồng , các căn cứ xác lập quyền SHCN và quyền đối với giống
cây trồng .Những qui định trên qui định quyền nhân thân, quyền tài sản
của tác giả đã tạo ra các đối tượng thuộc quyền SHCN, quyền sử dụng và
quyền chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng SHCN, quyền thừa kế,
quyền ngăn chặn các hành vi xâm phạm, quyền chống cạnh tranh không
lành mạnh Những qui định trong Bộ luật dân sự năm 2005 về quyền
SHCN chỉ điều chỉnh những căn cứ xác lập quyền và thủ tục bảo hộ
quyền SHCN.
Trang 11
Đề tài nghiên cứu khoa học Sở hữu công nghiệp
Về nguyên tắc, BLDS, với tính chất là luật chung trong hệ thống pháp
luật dân sự có phạm vi điều chỉnh đáp ứng các điều kiện: BLDS chỉ qui
định những nội dung chung nhất, ổn định nhất, có khả năng áp dụng cho
hầu hết các quan hệ xã hội (ví dụ các qui định về nguyên tắc dân sự, về
quyền nhân thân, tài sản và các quyền tài sản, sở hữu, giao dịch, các nghĩa
vụ). BLDS chỉ qui định những vấn đề mang tính nguyên tắc, thu hút vào
các qui định về tài sản, quyền tài sản và giao dịch nói chung. Các luật riêng
cần có qui định chi tiết về loại quan hệ xã hội đặc thù mà mình điều chỉnh,

phù hợp với các đặc trưng của loại quan hệ đó và các qui định này sẽ được
ưu tiên áp dụng so với BLDS. Điều này sẽ giúp cho tình trạng chồng chéo
được giải quyết một cách triệt để, hệ thống pháp luật sẽ minh bạch hơn, có
thể dự đoán trước và do đó khả năng áp dụng cũng cao hơn.
Theo đó, những quan hệ không thuộc đối tượng điều chỉnh của Bộ luật
Dân sự sẽ được điều chỉnh trong Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 như:Những
qui định về thủ tục hành chính, thủ tục xác lập quyền và thủ tục bảo hộ
quyền SHCN bằng biện pháp hành chính , các qui định về trình tự thủ tục
tố tụng liên quan đến quyền SHCN Việc xác định rõ đối tượng và pham
vi điều chỉnh của luật dân sự và Luật sở hữu trí tuệ là thật sự quan trọng
và cần thiết, vừa đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật, vừa
đảm bảo cho việc triển khai, họat động SHCN và bảo vệ quyền SHCN ở
Việt Nam có hiệu quả cao nhất.
Có thể nhận định rằng:”Pháp luật về quyền SHCN của Việt Nam chỉ
trong một thời gian không dài đã được xây dựng từ con số không đến có và
cho đến thời điểm hiện nay là khá đầy đủ và toàn diện”. Những bước tiến
của Pháp luật Việt Nam về quyền SHCN trong những năm đổi mới (1986-
2006) đã tạo điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh nền kinh tế Việt Nam phát
triển, đồng thời cũng tạo ra những cơ hội mới trong quá trình hội nhập
quốc tế.
Trang 12
Đề tài nghiên cứu khoa học Sở hữu công nghiệp
II PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP VÀ
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
1. Pháp luật thực định về SHCN
Đứng trước chương trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước,
Việt Nam đã luôn quan tâm đến những lợi ích ổn định lâu dài, những yếu tố
tích cực có ảnh hưởng lớn đến công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong
suốt quá trình hội nhập khu vực và quôc tế. Nhu cầu gia nhập WTO của
Việt Nam là rất cần thiết, do vậy Việt Nam đã quan tâm và ban hành

những văn bản pháp luật về quyền SHCN tính đến thời điểm này là tương
đối đầy đủ, đáp ứng được những điều kiện cần và đủ theo yêu cầu của tổ
chức này về cơ chế bảo hộ các đối tượng của quyền SHCN ở Việt Nam.
. Xuất phát từ bản chất của quyền SHCN là quyền sở hữu đối với các
tài sản vô hình – những tài sản được tạo ra từ trí tuệ và tri thức của con
người. Chính vì vậy, trong Luật sở hữu trí tuệ đã dành hẳn 5 chương ( từ
chương VII đến chương XI) gồm 99 điều ( từ điều 58 đến điều 156) để qui
định về quyền SHCN.
Theo tinh thần của Bộ luật Dân sự (2005) và Luật Sở hữu trí tuệ
(2005), thì đối tượng của quyền SHCN bao gồm sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp, thiết kế, bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại,
chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh.
1
So với Bộ luật dân sự năm 1995 và các
văn bản luật về trước đó có đối tượng giải pháp hữu ích nhưng trong Bộ
luật dân sự năm 2005 và Luật sở hữu trí tuệ không có đối tượng trên nhưng
tinh thần chung vẫn có. Điểm mới trong luật hiện hành đó là việc đưa thêm
đối tượng Kiểu dáng công nghiệp vào đối tượng của quyền SHCN đã
chứng tỏ sự ngày một hoàn thiện của Pháp luật về SHCN.
Để được pháp luật Việt Nam bảo hộ quyền SHCN thì trước hết, các
đối tượng của SHCN phải đáp ứng được những điều kiện nhất định, tùy
thuộc vào từng loại đối tượng. Điều này được qui đinh rõ trong chương VII
của Luật này. Chẳng hạn, theo Điều 58.1 qui định điều kiện chung đối với
sáng chế được bảo hộ:
“Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp bằng độc quyền sáng chế
nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Có tính mới
b) Có trình độ sáng tạo
1
Điều 4.4 Luật SHTT 2005

Trang 13
Đề tài nghiên cứu khoa học Sở hữu công nghiệp
c) Có khả năng áp dụng công nghiệp.”
Theo Điều 60:“sáng chế được coi là có tính mới nếu chưa bị bộc lộ
công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất cứ hình
thức nào khác ở trong nước và nước ngoài trước ngày nộp đơn đăng ký
sáng chế hoặc trước ngày ưu tiên trong trường hợp đơn đăng ký sáng
chế được hưởng quyền ưu tiên”.
Chủ thể của quyền SHCN phải nộp đơn đăng kí quyền SHCN. Theo
quy định của Luật Sở hữu trí tuệ 2005 thì người có quyền nộp đơn đối với
nhãn hiệu hàng hoá chỉ có thể là chủ sở hữu. Người nộp đơn chính là chủ
cơ sở sản xuất kinh doanh hợp pháp. Đối với sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp, mạch tích hợp bán dẫn, thì người có quyền nộp đơn chính là tác
giả. Trong trường hợp tác giả là người tự bỏ kinh phí ra để tạo ra đối tượng
đó (có thể là cá nhân, tổ chức, hoặc là người được uỷ quyền, hoặc được
chuyển giao một cách hợp pháp); trường hợp tác giả tạo ra đối tượng đó mà
do một bên cấp kinh phí thông qua một hợp đồng về nghiên cứu phát triển,
nếu hợp đồng không thoả thuận gì khác thì người nộp đơn là người cấp
kinh phí; nếu tác giả tạo ra đối tượng đó mà là người lao động làm theo hợp
đồng thì người nộp đơn là người sử dụng lao động, nêu không có thoả
thuận gi khác. Nội dung đơn phải bao gồm đầy đủ nội dung pháp luật quy
định (có tài liệu kèm theo) phù hợp với yêu cầu của đối tượng SHCN. Ví
dụ như với sáng chế phải kèm theo bản mô tả về sáng chế và hướng dẫn sử
dụng đủ rõ để những nhà chuyên môn trong lĩnh vực đó phải đọc và hiểu
được, chứng minh được tính sáng chế, sáng tạo đó; với kiểu dáng công
nghiệp, tài liệu phải có ảnh chụp kèm theo Đơn đăng ký SHCN phải gửi
cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đó là Cục SHCN thuộc Bộ Khoa học
Công nghệ. Những quy định này được nêu rõ từ điều 100 đến 107 Luật Sở
hữu trí tuệ 2005.
Các đơn yêu cầu này sẽ được công bố trên công báo SHCN và trong

thời hạn 3 tháng, bất kỳ ai có thể có ý kiến, khiếu nại về đơn yêu cầu đó.
Trên cơ sở giám định của các nhà chuyên môn đối với từng đối tượng, nếu
có đủ điều kiện, Cục SHCN sẽ cấp văn bằng bảo hộ cho đối tượng đó.
Vấn đề bảo hộ quyền SHCN bao gồm hai khía cạnh, đó là bảo hộ quyền
của chủ sở hữu và bảo hộ quyền của tác giả. Chủ sở hữu có quyền sử dụng
đối tượng đó đưa vào khai thác ( đối với sáng chế, mạch tích hợp bán dẫn),
áp dụng vào hàng hoá dịch vụ (với kiểu dáng công nghiệp), gắn với tên sản
phẩm (đối với nhãn hiệu). Ngoài ra, chủ sở hữu có quyền chuyển giao
quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng chỉ có thể với sáng chế, kiểu dáng công
Trang 14
Đề tài nghiên cứu khoa học Sở hữu công nghiệp
nghiệp, mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu hàng hoá. Về nguyên tắc, việc tất
cả các nội dung chuyển giao phải thông qua hợp đồng viết phải theo hình
thức, nội dung, thủ tục mà pháp luật về SHTT công nhận. Chủ sở hữu có
quyền khiếu nại đối với những hành vi xâm phạm để bảo vệ quyền lợi của
mình.
2
Việc bảo hộ quyền tác giả se được thưc hiện trong trường hợp tác
giả không đồng thời là chủ sở hữu. Theo Điều 122 của Luật sở hữu trí tuệ
thì trong mọi trường hợp quyền nhân thân của tác giả không thay đổi , tác
giả được ghi tên của mình trên văn bằng bảo hộ, cũng như trên các công
trình có liên quan; được bảo hộ quyền tác giả ( được chủ văn bằng trả thù
lao có thể theo thoả thuận theo hợp đồng giữa chủ văn bằng và tác giả,
nếu không thoả thuận thì sẽ theo qui định của pháp luật có thể trả 1 lần
hoặc trả theo định kỳ theo mỗi năm sử dụng.
Vấn đề tranh chấp trong lĩnh vực SHCN bao gồm các trường hợp như
: Khiếu kiện về việc cấp văn bằng bảo hộ giữa người nộp đơn và cục
SHCN, tranh chấp này có bản chất là khiếu kiện hành chính, do đó nó phải
được giải quyết theo thủ tục khởi kiện hành chính hoặc có thể theo con
đường toà án. Vấn đề trnh chấp giữa người có quyền nộp đơn , thực chất là

tranh chấp về quyền sở hữu tài sản , nên giải quyết theo các qui định trong
Luật Tố tụng dân sự 2004 có thể khởi kiện lên tòa dân sự nếu đó là tranh
chấp dân sự thuần tuý hoặc toà kinh tế nếu có bản chất là kinh doanh
thương mại
3
. Ngoài ra tranh chấp trong lĩnh vực SHCN còn xảy ra khởi
kiện về việc cấp văn bằng bảo hộ cho ngưòi không có quyền nộp dơn,
tranh chấp về thù lao tác giả, tranh chấp về chuyển giao quyền sở hữu và
quyền sử dụng các đối tượng SHCN. Tuỳ theo bản chất của tranh chấp mà
nó sẽ được giải quyết theo thủ tục hành chính hay toà án.
Trong những năm gần đây, tình trạng vi phạm, xâm phạm về SHCN
diễn ra khá phổ biến và ngày càng phức tạp, nhất là trong lĩnh vực sản
xuất hàng hoá , vi phạm nhãn hiệu hàng hoá , kiểu dáng công nghiệp.Măc
dù pháp luật trao cho các chủ thể quyền khởi kiện và thực tế những vụ vi
phạm xảy ra rất nhiều nhưng số vụ kiện của chủ thể bị vi phạm lên toà án là
rất ít.Việc xử li xâm phạm quyền SHTT nói chung và xâm phạm quyền
SHCN nói riêng cỏ thể bằng biện pháp hành chính và Hình sự. Theo Điều
211 của Luật SHTT năm 2005 các hành vi xử phạt hành chính bao gồm:
a) Thực hiện hành vi xâm phạm quyền SHTT gây thiệt hại cho
người tiêu dùng hoặc cho xã hội.
2
Xem từ Điều 121 đến Điều 144 Luật SHTT 2005
3
Xem điểu bộ Luật tố tụng dân sự 2004
Trang 15
Đề tài nghiên cứu khoa học Sở hữu công nghiệp
b) Không chấm dứt hành vi xâm phạm quyền SHTT mặc dù đã
được chủ thể quyền SHTT thông báo bằng văn bằng yêu cầu
chấm dứt hành vi đó.
c) Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán hàng hoá giả mạo

về SHTT theo qui định tại điều 213 của luật này hoặc giao cho
người khác thực hiện hành vi này;
d) Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán vật mang nhãn hiệu
hoặc chỉ dẫn địa lý trùng hoặc giao cho người khác thực hiện
hành vi này;
Tuỳ theo mức độ vi phạm mà tỏ chức cá nhân thực hiện hành vi vi
phạm có thể vị buộc phải chấm dứt hành vi vi phạm và bị áp dung một
trong các hình thức phạt chính sau đây:cảnh cáo; phạt tiền.
4
Thực tế cho
thấy việc đặt ra các qui định trên không có tác dụnglớn bởi vì đây là lĩnh
vực vi phạm liên quan đến tài sản có giá trị rất lớn nhưng mức xử phạt rất
thấp.Trình độ cán bộ quản lí trong cơ quan xử phạt còn hạn chế trong các
việc thẩm định mức độ vi phạm.Bởi vậy, một yêu cầu cấp thiết đặt ra đó là
phải đổi mới cả về qui chế pháp lí và cơ quan xử phạt.
Mặc dù trong Bộ luật Hình sự năm 1999 dã có những qui định về
nhóm tội về SHTT, cụ thể tại Điều 171 qui định về “ Tội xâm phạm
quyền SHCN ”
1.Người nào vì mục đích kinh doanh mà chiếm đoạt,sử dụng bất hợp pháp
sáng chế, giả pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng
hoá,tên gọi, xuất xứ hàng hoá hoặc các đối tượng SHCN khác đang được
bảo hộ tại Việt Nam gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt Hành
chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xáo án tích
mà còn vi phạm, thì bị vi phạm thì bị phạt tiền từ hai triệu đồng đến hai
trăm triệu đồng hợac cải tạo không giam giữ đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì vbị phạt tù từ
sáu tháng đến ba năm:
a. Có tổ chức
b. Phạm tội nhiều lần
c. Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

4
Xem pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính2./7/2002
Xem nghị định số12/1999/NĐ-CP(6/3/1999) qui định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực SHCN
Xem điều 213,214,215 Luật sở hữu trí tuệ
Trang 16
Đề tài nghiên cứu khoa học Sở hữu công nghiệp
3. Ngưòi phạm tội có thể bị phạt từ mười triệu đồng đén một trăm
triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ hành nghề hoặc làm công việc nhất
định từ một năm đén năm năm.
Thứ hai, tội vi phạm qui định về cấp văn bằng bảo hộ quyền SHCN
là một tội phạm được thực hiện bởi chủ thể là những cán bộ nhà nước có
thẩm quyền trong việc cấp văn bằng bảo hộ quyền SHCN và với lỗi cố ý.
Đây có thể coi là loại hành vi nguy hiểm cho xã hội tương đương với một
só tội phạm khác được qui định trong chương này như: Tội vi phạm các
quy định về quản lí đất đai(Điều 174), tội vi phạm các qui định về quản lý
rừng(Điều 176)v.v Dấu hiệu cấu thành tội phạm khi thoả mãn đồng thời
cả hai dấu hiệu là đã bị xử lí kỷ luật (hoặc bị xử phạt hành chính )về hành
vi này và gây hặu quả nghiêm trọng
5

Ngoài ra, còn một loại hành vi nguy hiểm cho xã hội trong lĩnh vực
SHCN chưa được pháp luật hình sự ghi nhận cụ thể đó là hành vi cạnh
tranh không lành mạnh. Một só dạng biểu hiện của loại hành vi này có thể
kể ra ở đây như: tiết lộ bí mật kinh doanh nhằm gây khó khăn hoặc gây
thiệt hại cho chủ sở hữu bí mật kinh doanh, sử dụng bất hợp pháp đối
tượng quyền SHCN để. sản xuất hàng hoá gây mất uy tín của đối thủ
cạnh tranh.v.v
Loại hành vi này có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của chủ sở hữu
công nghiệp và nếu dẫn đến hậu quả nghiêm trọng thì nên được xem là
hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội. Do đó, cần quy định trong Bộ luật

Hình sự một tội phạm nữa trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp là tội cạnh
tranh không lành mạnh. Và như vậy, pháp luật hình sự đã có thể bảo vệ
quyền SHCN một cách đầy đủ và triệt để.
2. Thực tiễn áp dụng:
2.1 Đóng góp của luật:
Từ năm 1995, với việc ban hành BLDS, chúnh ta đã hoàn thành một
bước cơ bản của quá trình pháp điển hoá các quy phạm pháp luật về SHCN,
tức là đưa các quy định cơ bản của pháp luật về bảo hộ quyền SHCN vào
một văn bảncó hiệu lực pháp lí cao là Bộ luật dân sự của nước CHXHCN
Việt Nam. Những vấn đề cơ bản của quyền SHCN đã được quy định rõ
ràng hơn, đầy đủ hơn và phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, ví
dụ như thời hạn của văn bằng bảo hộ sáng chế đã được quy định tăng lên
đáng kể so với trước đây, từ 15 năm lên 20 năm, thời hạn đối với văn bằng
5
Xem Điều 170 Bộ luật Hình sự năm 1999
Trang 17
Đề tài nghiên cứu khoa học Sở hữu công nghiệp
bảo hộ giải pháp hữu ích tăng từ 6 đến 10 năm, Thủ tục cấp văn bằng bảo
hộ cũng được quy định lại một cách hợp lí hơn, rút bớt được thời gian
nhằm đáp ứng nhanh hơn yêu cầu của các tổ chức, cá nhân.
Thời gian qua, nhờ có sự ra đời của Luật Sở hữu trí tuệ, tình hình bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp đang chuyển biến theo chiều hướng tích cực
hơn.Các cơ quan chức năng đã có thái độ cương quyết hơn nhằm chống lại
những vi phạm trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói chung và sở hữu công
nghiệp nói riêng, từ việc xây dựng cơ chế chính sách đến củng cố năng lực
cho các cơ quan thực thi, hay tuyên truyền, phổ biến, giáo dục cho người
dân Các cơ quan chức năng cũng đẩy mạnh công tác thanh kiểm tra và xử
lý vi phạm sở hữu trí tuệ của các cơ quan sản xuất kinh doanh cũng như
trong lưu thông xuất nhập khẩu. Việc xây dựng Luật Sở hữu trí tuệ là một
động thái nhằm khẳng định quyết tâm của Việt nam trong việc khắc phục

tình trạng vi phạm sở hữu trí tuệ.
Việc quy định tập trung, thống nhất quyền SHCN trong một văn bản
có tính pháp lí rất cao là BLDS, và đặc biệt là sự ra đời của Luật Sở hữu trí
tuệ năm 2005 thực sự là một bước tiến lớn của quá trình hoàn thiện pháp
luật nước ta về bảo hộ quyền SHCN, tạo cơ sở pháp luật ngày càng đầy đủ
hơn cho việc xác lập và bảo hộ quyền SHCN của các cá nhân, tổ chức trong
và ngoài nước. Nhờ có việc đăng ký xác lập quyền đối với các đối tượng
SHCN này ngày càng không ngừng gia tăng. Những năm gần đây, số đơn
đăng ký bảo hộ các đối tượng SHCN của các tổ chức, cá nhân trong nước
và nước ngoài vẫn được nộp đều đặn tại cục SHCN với mức khoảng trên
10000 đơn các loại trong một năm. Ở đa số các tỉnh, thành phố đều có đơn
xin đăng ký bảo hộ quyền SHCN, trong đó 10 tỉnh, thành phố có số lượng
đơn đăng ký nhiều nhất là Thành phố Hồ Chí Minh, Hà nội, Đà Nẵng, Bến
Tre, Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phòng, Cần Thơ, Tiền Giang, và Long
An. Tổ chức, cá nhân của hơn 80 nước trên thế giới có đối tượng SHCN
được bảo hộ tại Việt nam, chủ yếu là các nước phát triển như Hoa Kỳ,
Nhật, Anh, Italia và nước trong khu vực có quan hệ kinh tế nhiều với ta
như Hàn Quốc, Singapo, Thái Lan, Indonexia
Việc cho ra đời Luật Sở hữu trí tuệ đã khắc phục phần nào những hạn
chế của thời kỳ trước đó khi mà những quy định pháp luật về bảo hộ SHTT
và SHCN còn nằm rải rác và tản mạn trong rất nhiều văn bản mà phần lớn
đều là các văn bản dưới luật, hiệu lực thi hành thấp, gây khó khăn phức tạp
cho người vận dụng. Trước đây, việc quy định chất lượng tối thiểu để xác
định như thế nào là hàng kém chất lượng,hàng giả? Việc sai phạm quy chế
Trang 18
Đề tài nghiên cứu khoa học Sở hữu công nghiệp
nhãn mác đến mức nào bị coi là hàng giả, nhãn hiệu trùng đến bao nhiêu
phần trăm bị coilà hàng nhái? Tất cả đều chưa có quy định rõ ràng. Các
nghị định về tên thương mại, xuất xứ địa lý, bảo hộ bí mật thương mại,
sáng chế không có chế tài xử lý nên các vi phạm tuy bị nêu tên nhưng lại

không bị xử lý. Có thể nói Lụât SHTT 2005 tuy chưa thể nói là đã hoàn
chỉnh nhưng nó cũng đã góp phần thống nhất những quy định rời rạc trong
các văn bản dưới luật về một văn bản có giá trị pháp lí cao hơn và được
quản lý tập trung hơn, đồng thời các quy định ấy trong quá trình bàn thảo
cũng đã được điều chỉnh lại cho phù hợp với xu thế thời đại.
Trong những năm gần đây, trị trường chuyển giao các đối tượng
SHCN ở Việt Nam đang diễn ra tương đối sôi động. Từ 1997 đến 2001,
Cục Sở hữu trí tuệ đã nhận được 1317 đơn đăng ký và cấp 806 Giấy chứng
nhận đăng ký hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu các đối tượng SHCN
6
.
Thông qua các hoạt động chuyển giao các đối tượng SHCN, nhiều doanh
nghiệp đã thu lợi nhuận hàng tỉ đồng. Sự thành đạt của Café Trung
Nguyên, Phở 24, Lụa tơ tằm AQ… thông qua các hợp đồng Franchising
(nhượng quyền thương mại - một dạng hợp đồng chuyển giao đối tượng
SHCN) là những ví dụ minh chứng
2.2 Những vấn đề còn tồn tại
Hiệu quả hoạt động bảo vệ quyền SHCN của chúng ta còn quá nhỏ
trong khi các vi phạm SHCN ngày càng biến tướng và tinh vi hơn. Vi phạm
SHCN, hàng giả - hàng nhái đang ngày càng trầm trọng.Theo Cục Sở hữu
trí tuệ, hàng năm Cục đều thụ lý hàng trăm vụ tranh chấp về các đối tượng
SHCN và năm sau lại cao hơn năm trước và có xu hướng lan rộng ra hầu
hết các lĩnh vực, ngành hàng của nền kinh tế. Đó là chưa kể đén các vụ vi
phạm đối với nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp, tên gọi, xuất xứ
hàng hoá do lực lượng công an kinh tế, Quản lý thị trường phát hiện và xử
lí. Chỉ tính riêng tại Hà nội năm 2002, lực lượng Công an kinh tế đã phát
hiện 143 vụ, Chi Cục quản lý thị trường Hà Nội từ đầu năm 2002 đến cuối
năm 2005 đã kiểm tra và xử lý 331 vụ sản xuất và buôn bán hàng giả, trong
đó số vụ vi phạm quyền SHCN chiếm tới 60% Mặc dù như vậy, nhưng
theo đánh giá của UBND Thành phố Hà nội thì kết quả phát hiện và xử lý

nói trên chỉ bằng 20% thực tế số vụ vi phạm
7
.
Tại hội thảo giới thiệu công nghệ phòng chống hàng giả - hàng nhái do
Sở Khoa học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức cuối năm 2004,
6
http:// www.noipvietnam.com/vn/transferindproprights.html
7
http:// www.vir.com.vn/Client/dautu/dautu. asp?CatID=48&DocID=454
Trang 19
Đề tài nghiên cứu khoa học Sở hữu công nghiệp
Honda đã công chiếu một bộ hình ảnh của hơn 20 cửa hàng san sát nhau tại
khu mua bán đường An Dương Vương-Hùng Vương (Quận 5) và khu Phan
Đăng Lưu-Hoàng Văn Thụ (Phú Nhuận) đang bày bán công khai các xe
máy có kiểu dáng tương tự kiểu dáng xe Wave của Honda mang số bằng
độc quyền Kiểu dáng công nghiệp số 4306. Theo lời ông Nguyễn Thanh
Bình, Đại diện Honda Việt Nam thì "Đây chỉ là 20 cửa hàng lớn nhấtvừa
được chụp ảnh, còn lại trên đại bàn Thành phố Hồ Chí Minh có hơn 100
cửa hàng vi phạm kiểu dáng công nghiệp, thậm chí có cửa hàng còn gắn
luôn nhãn mác Honda vào kiểu xe nhái để bán cho người tiêu dùng".
Hàng giả luôn là vấn nạn toàn cầu, gây đau đầu cho các nhà sản xuất
lớn trên thế giới. Mặc dù ở đâu cũng có người sản xuất hàng giả, song nó
tập trung nhiều ở một số nước, đặc biệt là những nước đang phát triển, với
Trung Quốc là nguồn cung cấp hàng giả lớn nhất thế giới.
Không đâu xa lạ, cuộc sống quanh ta mỗi ngày đều có sự hiện diện của
hàng giả, hàng nhái. Những chiếc xe Dream tàu, Wave tàu, những chiếc mũ
có gắn mác Nike, Adidas tất cả đều vi phạm kiểu dáng công nghiệp,
thương hiệu. Chỉ có điều chúng phổ biến đến mức chúng ta xem đó là
chuyện bình thường, là một chuyện tất yếu xảy ra thường ngày. Bất cứ một
loại hàng nào có khả năng thu hút khách thì chỉ sau một thời gian ngắn xuất

hiện trên thị trường, đã xuất hiện hàng giả, hàng nhái. Chuyện về những
chiếc xe máy là ví dụ điển hình. Hầu như tất cả các nhãn hiệu xe nổi tiếng
đều bị nhái: Dream, Wave, Future, Jupiter Những chiếc xe làm nhái lấy
cái tên na ná như: Dren, Wawe, Và chúng ta vẫn thường gọi tên những
chiếc xe đó bằng cách gắn thêm một chữ "tàu" vào phía sau, và xem nó
cũng là một "dòng xe" hợp pháp. Mỗi năm, công ty Honda bị làm giả
500000 chiếc xe và có tới 70% kiểu dáng xe của các doanh nghiệp Việt
nam là vi phạm kiểu dáng công nghiệp của các nhãn hiệu khác.
Hàng giả như đã nói, không chỉ là vấn nạn ở Việt Nam mà là một vấn đề vô
cùng nhức nhối trên toàn thế giới. Cơ quan chống hàng giả Châu Âu
(OLAF) ước tính hàng giả chiếm tới 5% - 7% tổng lượng hàng hoá giao
dịch trên toàn cầu, gây thiệt hại cho các nền kinh tế Châu Âu khoảng 450 tỷ
Euro mỗi năm.
8
Lợi nhuận cao, khả năng bị xử phạt thấp cộng với sự sẵn
có các trang thiết bị sản xuất hiện đại tạo ra một môi trường thuận lợi cho
ngành công nghiệp hàng giả quy mô lớn. Nạn làm hàng giả gây tổn thất lớn
cho doanh thu về thuế của chính phủ bởi vì chúng hoạt động hoàn toàn
trong thị trường ngầm. Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2003 dự tính giá trị
8
Tạp chí ngoại thương số 34
Trang 20
Đề tài nghiên cứu khoa học Sở hữu công nghiệp
hàng giả và hàng nhái hằng năm tới 450tỉ Euro hay 5-7% thương mại thế
giới. Theo Tổ chức Hải quan Thế giới, tổng trị giá ước tính từ thị trường
hàng nhái lên tới 500 tỷ USD trong năm 2006, tương đương từ 5% đến 7%
lượng hàng hóa toàn thế giới. Phòng Thương mại Mỹ cho biết trong vòng
20 năm qua, tổng trị giá hàng tiêu dùng giả trên toàn cầu ước tính là 2.000
tỷ USD, tập trung vào các mặt hàng băng đĩa, thuốc lá, túi xách, quần áo,
dược phẩm, hàng điện tử và phụ tùng ô tô.

Những loại hàng giả như đồ chơi, dược phẩm, phụ tùng xe không
những gây thiệt hại về kinh tế, mà còn ảnh hưởng đến sức khoẻ, thậm chí
cả tính mạng của người dân. Ở Việt Nam, từ nguồn nước máy, nước giếng
khoan và thậm chí là nước ao hồ, các xưởng đem về lọc rồi đóng chai, dán
lên đó những cái tên như Levi, Lavu, Vitales để đánh lừa khách hàng.
Những chai Henesy sang trọng được các "chuyên gia hàng giả chế bằng
rượu nấu, cồn và phẩm màu không hiểu do vô tình hay cố ý cũng được bày
bán trong các cửa hàng, siêu thị được coi là rất đáng tin cậy đối với người
tiêu dùng. Trong năm 2005, lực lượng quản lý thị trường liên tiếp thu giữ
nhiều loại rượu giả, chủ yếu là Rermy Martin, Johney Worker, Hennesy,
XO Bên cạnh đó cũng có một số rượu nội bị làm giả như Vang Đà Lạt,
rượu nước cốt ngoại của Công ty rượu Quốc tế (Bình Dương)
Nhiều doanh nghiệp sử dụng các nguyên vật liệu đặc thù, rồi dùng cả
đội quân chuyên săn lùng hàng giả nhưng hiệu quả chẳng được là bao, bởi
người sản xuất thì quá tinh vi, còn các cơ quan chức năng cơ quan chức
năng thì dường như bất lực trong cuộc chiến này. Gần đây, các loại tem
chống hàng giả cũng bị làm giả nhan nhản. Tem điện thoại di động của
FPT, tem Halogram bảng màu đều được nhân bản y hệt.
Nguy hiểm hơn là có những mặt hàng bị làm giả còn có thể gây thiệt
mạng cho người tiêu dùng, nhất là trong lĩnh vực dược phẩm. Phần lớn
những thuốc rao bán giá rẻ như thuốc an thần, dị ứng, chống thiếu máu,
chống cholesterone… đều không được kiểm soát và không ai biết thực sự
chúng chứa những thành phần gì. Ngoài ra là các dụng cụ y tế như kim
tiêm, dao phẫu thuật, tay chân giả… cũng bị làm nhái nhiều. Không chỉ ở
các nước đang phát triển như Việt nam, tại các nước phát triển người ta
cũng mua phải thuốc giả như thuốc viêm phế quản giả ở Anh, thuốc chống
trầm cảm giả ở Bỉ, thuốc chống ung thư giả ở Hà Lan… Tổ chức Y tế thế
giới (WHO) cho biết thuốc giả đang có mặt tại tất cả các nước và chiếm
10% thị trường thuốc trên toàn cầu
Trang 21

Đề tài nghiên cứu khoa học Sở hữu công nghiệp
Không chỉ gặp khó khăn trong việc phát hiện ra các mặt hàng nhái
nhãn mác, vi phạm thương hiệu, mà thậm chí khi doanh nghiệp đã tìm ra
thủ phạm "đánh cắp" thương hiệu của mình mà vẫn không dễ gì có thể
giành lại tên tuổi cho mình. Nhiều doanh nghiệp cho rằng, các cơ quan hữu
quan như QLTT, CSKT chưa thật tích cực trong việc triển khai thực thi bảo
hộ quyền SHCN. Đơn giản là vì phần lớn các vụ vi phạm đều do chính các
doanh nghiệp bị vi phạm phát hiện, nhưng trên thực tế, khi phát hiện hành
vi xâm phạm quyền SHCN thì việc xử lý thường kéo dài không có hiệu
quả, xử phạt thì quá nhẹ Khoảng giữa năm 2004, trên thị trường hàng hoá
bỗng xuất hiện một cửa hàng kinh doanh thời trang quần áo, giày dép, lấy
tên là Đồng Tâm và sử dụng logo của Công ty gạch Đồng Tâm đã đăng ký
bảo hộ. Vậy là nhiều khách hàng của công ty khi đi ngang qua nhìn thấy
biển hiệu của cửa hàng này đã lập tức gọi điện thoại đến lãnh đạo công ty
để chúc mừng Đồng Tâm đã mở rộng thêm lực vực kinh doanh. Tuy nhiên
những lời chúc mừng ấy không hề mang lại niềm vui cho ban lãnh đạo
công ty, mà ngược lại, họ thấy khó chịu vì cửa hàng thời trang này đã lợi
dụng thương hiệu của họ. Vì thế, Công ty đã có ý định kiện cửa hàng thời
trang này nhưng lại gặp phải khó khăn vì thiếu cơ sở pháp lí vững chắc để
kiện Và họ đành ngậm ngùi mà lo ngại rằng nếu như trong tương lai,
Công ty có mở rộng kinh doanh sang lĩnh vực khác thì chắc hẳn họ sẽ gặp
phải không ít khó khăn trong việc xây dựng và bảo hộ thương hiệu của
mình.
Từ đó cho thấy thực trạng pháp luật và thực thi quyền sở hữu công
nghiệp của nước ta mặc dù đã có nhiều nỗ lực đáng ghi nhận trong việc đáp
ứng các yêu cầu về bảo hộ quyền SHCN trong quá trình hội nhập, thế
nhưng vẫn còn những điểm chưa tiến kịp so với thực tiễn và kinh nghiệm
trên thế giới. Tình trạng vi phạm quyền SHCN đã và đang trở thành vấn
nạn đáng lo ngại. Ở nước ta hiện nay, việc xâm phạm quyền SHCN ngày
càng nghiêm trọng, tăng cả về số lượng và quy mô. Điều đáng lo ngại nhất

là hàng giả không chỉ dừng ở những hàng hóa thông thường mà còn lan
rộng đến sản phẩm hàng hóa đặc biệt như thuốc chữa bệnh, xi măng, sắt
thép Có thể thấy bất cập lớn nhất hiện nay của chúng ta là vấn đề thực
thi quyền với hiệu lực, hiệu quả thấp của cơ chế bảo hộ.
Tình trạng xâm phạm đối với các quyền SHCN ở nước ta có nhiều
nguyên nhân. Trong đó đặc biệt là vấn đề nhận thức của toàn xã hội về tầm
quan trọng của bảo hộ quyền SHCN và ý thức tôn trọng pháp luật của
người dân; sự thiếu quan tâm của các doanh nghiệp, thiếu hiểu biết của
người dân về SHCN. Hầu hết các doanh nghiệp chịu đầu tư vào việc chống
Trang 22
Đề tài nghiên cứu khoa học Sở hữu công nghiệp
hàng giả, hàng nhái chủ yếu là các công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Các
doanh nghiệp Việt Nam thì hầu như chưa quan tâm, chỉ khi bị thiệt hại
nặng nề mới bắt tay vào cuộc. Thực tế là nhiều doanh nghiệp không thể
lường trước được việc nhãn hiệu hàng hóa uy tín của mình đã có người
khác nhanh chân đăng ký bảo hộ "giúp" một cách hợp pháp. Thậm chí
nhiều sản phẩm hàng hóa giả và nhái nhãn mác của họ đã được sản xuất và
tung ra thị trường với số lượng lớn gây sự nhầm lẫn khó phân biệt cho
người tiêu dùng. Nhiều doanh nghiệp phải làm lại từ đầu, bằng cách xây
dựng một nhãn hiệu mới, điều này đồng nghĩa với việc họ tự đánh mất
mình. "Trước thực tế trên, nhiều doanh nghiệp nhằm tránh những "vết xe
đổ" đi trước, vội vàng làm thủ tục đăng ký bảo hộ sở hữu công nghiệp cho
cả những sản phẩm/dịch vụ chưa thực sự chiếm lĩnh được thị trường". ví dụ
về trường hợp của Vinataba. Sản phẩm của hãng này khó có thể cạnh tranh
tại thị trường nước ngoài như Mỹ, Nhật Bản hoặc ở một số nước Đông
Nam Á nhưng lại xin đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại các thị trường này.
"Đây là một việc làm kiểu "lo bò trắng răng", khi chưa có điều kiện cũng
như cơ hội xuất khẩu ra nước ngoài thì doanh nghiệp chưa cần thiết phải
làm như vậy".
Ngược lại với kiểu "lo xa" như trên, một số doanh nghiệp vẫn thờ ơ và

thiếu hiểu biết về bảo hộ sở hữu công nghiệp. Họ cho biết, xây dựng nhãn
hiệu không nhất thiết cứ phải bảo hộ cho nhãn hiệu của mình, chỉ cần tập
trung nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ cũng đủ tạo uy tín đối với
người tiêu dùng, như vậy đã thực sự có chỗ đứng trên thương trường.
Trong khi đó, không ít doanh nghiệp lại rất mơ hồ về bảo hộ sở hữu công
nghiệp, không hiểu mình sẽ được lợi ích gì khi tham gia đăng ký bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp.
Theo các chuyên gia trong và ngoài nước, các doanh nghiệp Việt Nam
thường đánh đồng nhãn hiệu và thương hiệu nên nhiều khi chính mình làm
sai mà không biết. Chẳng hạn việc tranh chấp nhãn hiệu RANDO, tuy
doanh nghiệp mới chỉ nộp đơn đăng ký nhãn hiệu KANDO nhưng đã vội
triển khai việc in ấn, quảng cáo và sau đó nhận được đơn yêu cầu ngừng
khai thác nhãn hiệu trên khiến doanh nghiệp tiêu tốn một khoản tiền và
công sức khá lớn. Hậu quả vật chất mà doanh nghiệp phải chịu thì đã rõ
nhưng điều đáng nói hơn là mọi kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp
cũng theo đó mà bị trì hoãn. Bên cạnh đó là thực tế năng lực cán bộ còn
thấp và tổ chức hệ thống cơ quan thực thi quyền lực chưa phù hợp. Một số
đối tác quan trọng của Việt Nam trong quá trình đàm phán gia nhập WTO
Trang 23
Đề tài nghiên cứu khoa học Sở hữu công nghiệp
đều nhận định vấn đề thực thi là một điểm yếu mà Việt Nam cần sớm khắc
phục.
Đặc biệt với cơ quan Hải quan, vấn đề khó khăn nhất trong cuộc chiến
chống vi phạm SHTT và SHCN là địa hình đất nước quá đa dạng, trong khi
lực lượng hải quan chỉ chốt chặn hạn chế tại các hải cảng, sân bay, cửa
khẩu; nên việc phát hiện hàng hoá xuất nhập khẩu vi phạm quyền SHTT
gặp rất nhiều khó khăn nên hiệu quả hoạt động cũng rất khiêm tốn. Thêm
vào đó, phần lớn cán bộ hải quan lại chưa được trang bị kiến thức về
SHTT, trình độ hiểu biết và nhận thức về SHTT chưa đáp ứng được yêu
cầu

Theo các chuyên gia về quản lý thương mại, hiện nay có 5 cơ quan
được Chính phủ giao trách nhiệm thực thi bảo hộ SHTT: UBND các cấp,
cơ quan công an (công an kinh tế), Cục quản lý thị trường, Hải quan, Bộ
Khoa học Công nghệ và Môi trường. Trong các cơ quan này, ngoại trừ Hải
quan là lực lượng thực thi bảo hộ SHTT cũng như SHCN tại biên giới, còn
lại các cơ quan tập trung thực thi bảo hộ trong thị trường nội địa. Nhưng
các cơ quan này lại không có sự phối hợp với nhau, không có cơ quan nào
đóng vai trò chủ trì, điều phối chung, chưa có một cơ quan nào được giao
trách nhiệm chính về một ngành hàng hay địa giới ngành hàng hay địa giới
hành chính khi xảy ra các vi phạm.
III- MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ SHCN Ở VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP
1. Quá trình hội nhập và quan điểm hoàn thiện, phát triển của Đảng và
Nhà nước về vấn đề SHCN
Đường lối phát triển kinh tế của nước ta trong hai mươi năm đầu của
thế kỷ XXI được thể hiện một cách toàn diện trong Báo cáo chính trị tại
Đại hội IX của Đảng. Tiếp đó, Hội nghị Trung ương 6 khoá IX khẳng định
tiếp tục thực hiện những quan điểm đã nêu trong Nghị quyết Trung ương 2
khoá VIII về khoa học và công nghệ. Đồng thời, những quan điểm trong
chiến lược phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2010 cũng liên quan
chặt chẽ với vấn đề pháp luật về SHCN.
Theo đó, Đại hội đưa ra quan điểm tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố
thị trường, đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có
hoặc còn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị
trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ. Để tạo lập đồng bộ
các yếu tố thị trường, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế cần
Trang 24
Đề tài nghiên cứu khoa học Sở hữu công nghiệp
tiếp tục tiến hành, bổ sung và hoàn thiện các lĩnh vực pháp luật như: pháp
luật về tài chính, ngân hàng, các giao dịch bảo đảm; pháp luật về sở hữu

công nghiệp và chuyển giao công nghệ; pháp luật về chống cạnh tranh
không lành mạnh và kiểm soát độc quyền,
Phát triển thị trường khoa học công nghệ là điều kiện để phát triển
nhanh khoa học và công nghệ, đưa khoa học và công nghệ vào phục vụ cho
các hoạt động kinh tế thương mại. Trong đó, quyền SHTT nói chung và
quyền SHCN noi riêng chính là nền tảng pháp lý của thịt trường khoa học
công nghệ. Trong các văn kiện chính thức, Đảng Cộng sản Việt Nam đặc
biệt nhấn mạnh vấn đề hoàn thiện cơ sở pháp lý và nâng cao hiệu lực thực
thi pháp luật về SHTT. Có chế tài xử lý nghiêm những hành vi vi phạm
pháp luật về SHTT; bảo hộ, khuyến khích việc sử dụng những giải pháp,
sáng chế mới. Tăng cường năng lực quản lý của Nhà nước và công tác
thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực SHTT.
Đảng cũng đã nhận định rằng thời đại ngày nay là thời đại của nền kinh
tế tri thức. Trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn
ra như vũ bão, sự nghiệp đổi mới của chúng ta phải được đặt trên nền tảng
vững chắc là nguồn lực trí tuệ của con người Việt nam. Đảng ta khẳng
định: lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản để phát triển
nhanh và bền vững, đồng thời việc phát triển kinh tế - xã hội phải dựa chủ
yếu vào khoa học - công nghệ. Tri thức là yếu tố quyết định nhất đối với sự
phát triển bền vững. Muốn "đi tắt đón đầu", "đuổi kịp" các nước khác trên
thế giới thì phải có tri thức, có tiềm năng trí tuệ, có năng lực sáng tạo. Quan
điểm này khẳng định vảitò của tri thức đối với sự phát triển của nền kinh tế,
từ đó khẳng định đòi hỏi phải bảo hộ quyền SHTT với tư cách là nguồn tài
nguyên của nền kinh tế tri thức.
Trên cơ sở đó, Đảng đặt ra yêu cầu đổi mới pháp luật về SHCN theo
hướng tạo thuận lợi cho việc hình thànhvà phát triển thị trường khoa học và
công nghệ. Pháp luật về bảo hộ quyền SHCN có vai trò rất quan trọng
trong việc tạo ra "hàng hoá" cho thị trường khoa học và công nghệ. Việc
bảo hộ và thực thi hiệu quả quyền SHCN có vai trò mở rộng quy mô thị
trường khoa học và công nghệ. Sẽ không có thị trường khoa học và công

nghệ lành mạnh, nếu không xử lý kịp thời và nghiêm khắc các vi phạm
quyền SHCN và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tóm lại, việc
tăng cường bảo hộ và thực thi quyền SHCN, chống cạnh tranh không lành
mạnh và kiểm soát độc quyền liên quan tới quyền SHCN, cùng với các quy
định pháp luật hợp lý về chuyển giao công nghệ sẽ thúc đẩy sự hình thành
Trang 25

×