Lời nói đầu
Tục ngữ Việt Nam có câu: Có thực mới vực đợc đạo. Nh vậy là cha
ông ta từ xa đã thấy rõ con ngời khi làm bất cứ điều gì nếu thiếu đi cái thực
thì dù cho có những đạo lý đúng đắn soi đờng cũng không bao giờ làm đợc.
Giống nh Mac-Anghen đã tìm ra quy luật phát triển của con ngời: Trớc khi
con ngời muốn làm một điều gì đó từ những việc giản đơn cho đến những việc
lớn hơn nh hoạt động chính trị, nghệ thuật, khoa học v.v thì đầu tiên họ phải
tồn tại, phải có những nhu cầu cơ bản ăn mặc ở của con ngời.
Nhng nếu con ngời cứ mãi chú tâm vào cái thực chỉ đuổi theo những
điều kiện vật chất bình thờng thì đơng nhiên khó tránh khỏi lầm đờng lạc lối.
Cũng vì vậy mà trong điều kiện kinh tế thị trờng hiện nay khi điều kiện sản
xuất phát triển cũng nh cơ hội làm giàu đã mở ra cho mỗi cá nhân có khả năng
sáng tạo và tầm nhìn chiến lợc thì việc tìm hiểu mối liên hệ, sự liên quan mật
thiết giữa lý luận và thực tiễn để có thể vận dụng cái này để phát triển cái kia
rồi từ đó mà phát triển kinh tế là điều hết sức quan trọng và cấp thiết.
Nh đã nói ở trên, lý luận và thực tiễn luôn đòi hỏi phải đợc xem xét
trong sự thống nhất biện chứng nghĩa là tuy thực tiễn quyết định lý luận nhng
khi quay trở lại thì lý luận sẽ chỉ đạo thực tiễn. Việc đảm bảo tính thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn sẽ thúc đẩy hoạt động của con ngời, tạo ra những
chuyển biến lớn, những bớc ngoặt trong cả lý luận và thực tiễn.
Nếu nh việc nghiên cứu về mối liên hệ gia lý luận và thực tiễn đã quan
trọng thì vấn đề đổi mới t duy và đổi mới kinh tế lại càng quan trọng hơn bởi
vì xét đến cùng mục đích của chúng ta là phát triển nền kinh tế - nền tảng của
xã hội và cũng là trung tâm của các hoạt động xã hội khác. Chúng ta hiểu rằng
đổi mới kinh tế phải là một quá trình chuyển biến có tính chất bớc ngoặt về đ-
ờng lối và chính sách kinh tế-xã hội. Xét nớc ta, mặc dù mới đợc thực hiện
trong thời gian gần đây nhng công cuộc đổi mới kinh tế đã tạo nên những thay
đổi căn bản trong đời sống xã hội nớc ta. Quá trình đổi mới ở nớc ta diễn ra
từng bớc tuy chậm nhng đã và đang tạo nên nhiều hậu quả về kinh tế và xã hội
mà phần đông nhiều nhà bình luận quốc tế thừa nhận là đáng kinh ngạc.
Sau một chục năm, nền kinh tế đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng,
đời sống xã hội trở nên sôi động hơn. Mức sống chung của dân c có bớc tiến
bộ rõ nét. Các quan hệ và cơ cấu xã hội trở nên phức tạp và đa dạng hơn. Với
những xu hớng biến động đó, nhiều công thức lý luận về các quy luật khách
quan phát triển kinh tế, chính trị, xã hội một thời gian dài trớc đây đợc coi là
cơ bản và mực thớc, thì nay tỏ ra không còn phù hợp và cần đợc xét lại. Thực
1
tiễn kinh tế-xã hội sống động dờng nh đang đi trớc t duy lý luận và đang đặt ra
trớc đó hàng loạt vấn đề cấp bách và lâu dài cần phải giải đáp.
Nh vậy, muốn đổi mới kinh tế không thể không đổi mới t duy, và phải
đổi mới t duy làm sao để có thể áp dụng nó vào nền kinh tế đạt hiệu quả cao.
Đó chính là mối liên hệ mấu chốt. Cũng giống nh là sáng tạo bản thân nó đã
mang tính chủ quan nhng phải sáng tạo làm sao để mà phù hợp với cái khách
quan thực tại thì là điều vô cùng khó khăn. Đơng nhiên, giải quyết đợc vấn đề
giữa lý luận và thực tiễn, giữa sáng tạo và hiện thực sẽ là cơ sở để nghiên cứu
về mối liên hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới t duy. Và một khi chúng ta có
thể thấy rõ, hiểu rõ về vấn đề này thì không những chúng ta sẽ có một cái nhìn
tổng quát về việc phát triển kinh tế, hiệu quả của nó cũng nh đề ra phơng pháp
mới trong các hoạt động kinh tế, mà còn có thể kết hợp giữa đổi mới t duy và
đổi mới kinh tế để làm cho nền kinh tế nớc ta có những bớc nhảy vọt.
Bài tiểu luận này dựa trên những dữ kiện thu thập đợc để tạo nên một
cái nhìn tổng quát về xu hớng đổi mới kinh tế dới ảnh hởng của các chính
sách đổi mới, của đổi mới t duy ở Việt Nam và sự liên quan mật thiết giữa hai
lĩnh vực quan trọng này. Bài gồm hai phần chính: Trớc tiên là phần trình bày
về cơ sở lý luận của đề tài và trên cơ sở đó phần 2 sẽ phân tích cụ thể hơn về
mối liên hệ giữa đổi mới t duy và đổi mới kinh tế ở nớc ta.
2
Phần nội dung chính
1. Sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn
1.1. Vai trò của thực tiễn đối với lý luận là vai trò mang tính quyết định.
Trớc tiên chúng ta hãy tìm hiểu quan điểm duy vật biện chứng về thực
tiễn. Thực tiễn là gì?
Trong lịch sử triết học, phạm trù thực tiễn đã từng xuất hiện trớc triết
học Mác. Chẳng hạn trong triết học Phoi ơ Bắc và cả trong triết học duy tâm
của Hêghen đã đề cập đến phạm trù thực tiễn nhng ở Phoi ơ Bắc và chủ nghĩa
duy vật trớc Mác nói chung đều quan niệm thực tiễn chỉ thuần tuý là hoạt
động kiếm miếng ăn, là hoạt động con buôn bẩn thỉu. Họ không thấy đợc vai
trò sáng tạo, vai trò cải tạo thế giới của thực tiễn. Theo Hêghen thì thực tiễn là
hoạt động có ý chí của t tởng. Vì triết học của Hêghen đặt trên nền tảng sự
vận động của ý niệm tuyệt đối. Do đó thực tiễn chỉ đợc ông xem xét nh 1
phạm trù logic thể hiện 1 giai đoạn phát triển của ý niệm tuyệt đối mà thôi.
Triết học Mác đã thừa nhận mặt vật chất, mặt cảm tình trực tiếp của
hoạt động thực tiễn trong quan niệm triết học của Phoi ơ Bắc, đồng thời cũng
thấy mặt hoạt động có ý chí trong quan niệm của triết học Hêghen. Nhng
cao hơn, triết học Mác còn thấy vai trò sáng tạo, vai trò cải tạo thế giới, vai trò
nền tảng phát triển xã hội của hoạt động thực tiễn. Vậy thực tiễn là gì?
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có tính lịch sử-xã hội của
con ngời nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
Trong hoạt động thực tiễn, con ngời sử dụng những công cụ vật chất tác
động vào những đối tợng vật chất, làm biến đổi chúng theo mục đích của
mình. Những hoạt động nh vậy đợc thực hiện một cách tất yếu khách quan.
Thực tiễn là hoạt động đặc trng, bản chất của con ngời, không ngừng phát
triển bởi các thế hệ loài ngời.
Nh vậy, thực tiễn không chỉ là những hoạt động vật chất của từng con
ngời cá biệt mà là dạng hoạt động cơ bản của loài ngời trong quá trình phát
triển lịch sử của mình. Xét từ nội dung cũng nh phơng thức thực hiện, hoạt
động thực tiễn mang tính chất xã hội. Chỉ có thực tiễn mới trực tiếp làm thay
đổi đợc thế giới hiện thực, mới thực sự mang tính chất phê phán và cách
mạng. Tất nhiên hoạt động thực tiễn không thể tách vai trò hớng dẫn của nhận
thức, của lý luận nhng lý luận tự nó không thể làm biến đổi đợc hiện thực.
3
Hình thức đầu tiên của hoạt động thực tiễn chính là hoạt động sản xuất
vật chất đã tạo thành cơ sở của tất cả các dạng các hình thức khác của hoạt
động của hoạt động sống của con ngời. Thực tiễn còn là hoạt động cải tạo xã
hội bao gồm các hoạt động của con ngời trong các lĩnh vực chính trị, xã hội.
Hoạt động thực nghiệm khoa học cũng là một dạng đặc biệt của hoạt động
thực tiễn.
Thực tiễn là trung tâm của lý luận, là cơ sở nền tảng, tiêu chuẩn, mục
đích của lý luận. Thông qua thực tiễn mà con ngời đã làm cho sự vật hiện tợng
bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và quan hệ, bản chất của chúng.
Trên cơ sở đó con ngời nhận thức chúng. Nh vậy, thực tiễn đã đem lại nhiều
tài liệu cho quá trình nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt đợc bản chất, các
qui luật vận động và phát triển của thế giới. Chính yêu cầu sản xuất vật chất và
thực tiễn cải biến xã hội đã buộc con ngời phải nhận thức thế giới. Và cũng
nhờ có thực tiễn, trớc hết là lao động, con ngời đã nhận thức đợc thế giới xung
quanh. Thực tiễn đa ra nhiều vấn đề cho nhận thức hớng tới để giải đáp đồng
thời cũng tạo ra các phơng thức thực hiện cần thiết cho nhận thức, đem lại
nhiều tài liệu kinh nghiệm cho nhận thức mà từ đó khái quát lên thanh lý luận.
Hơn nữa qua nhiều thành bại trong hoạt động thực tiễn chúng ta mới có thể
xác định đợc nhận thức, thực tiễn là đúng hay sai. Tức là thực tiễn còn là cái
hiện thực hoá lý luận, làm cho lý luận có giá trị tham gia làm biến đổi hiện
thực. Vì thế Lênin đã khẳng định: "Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải
là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức".
Ngoài ra thực tiễn còn là hoạt động vật chất giúp cho con ngời tích luỹ
tri thức kinh nghiệm. Cha ông ta đã dạy: "Trăm hay không bằng tay quen". Có
rất nhiều công việc ở thực tế khác xa so với lý thuyết mà nếu không có thực
hành, thực tế con ngời không thể hiểu biết đợc. Rõ ràng là một tay thợ lành
nghề sẽ dễ dàng trong lao động sản xuất còn một ngời lúc nào cũng chỉ chăm
chú học thuộc lý thuyết sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Và đôi khi chính kinh
nghiệm lại giúp cho ta phát hiện, sửa chữa những sai lầm của lý luận. Chẳng
phải là nhiều ngời giàu kinh nghiệm, từng trải luôn đợc tôn trọng, hỏi ý kiến
và họ cũng luôn cho ta những lời khuyên sáng suốt đó sao.
Tất cả những điều trên đã cho thấy thực tiễn phải là yếu tố quyết định
của lý luận. Nhng lý luận cũng tác động đến thực tiễn với 1 vai trò không nhỏ:
chỉ đạo thực tiễn.
4
1.2. Khi lý luận quay trở lại thực tiễn nó sẽ chỉ đạo thực tiễn
Ta hiểu rằng lý luận là trình độ cao của nhận thức, là một hệ thống
những tri thức đợc khái quát từ thực tiễn, phản ánh nhiều mối liên hệ bản chất,
quy luật của thế giới khách quan. Mà ta đã biết theo quan điểm của chủ nghĩa
duy vật biện chứng: quá trình nhận thức là quá trình phản ánh thế giới khách
quan vào bộ óc con ngời. Nó không phải là sự phản ánh giản đơn máy móc mà
là sự phản ánh có tính chất biện chứng. Nó là quá trình phức tạp của hoạt động
trí tuệ tích cực và sáng tạo. Nh vậy lý luận đã nâng nhận thức lên 1 tầm cao
hơn.
Tuy rằng tri thức kinh nghiệm có vai trò không thể thiếu đợc trong cuộc
sống hàng ngày của con ngời nhng tri thức kinh nghiệm lại có hạn chế bởi
trình độ tri thức kinh nghiệm cha thể nắm bắt cái tất yếu sâu sắc nhất, mối
quan hệ bản chất giữa các sự vật, hiện tợng. Anghen trong cuốn sách biện
chứng về tự nhiên đã nhận xét: "Sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó không
bao giờ có thể chứng minh đợc đầy đủ tính tất yếu". Nh vậy lý luận là 1 trình
độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Nếu nh kinh nghiệm chỉ là những kiến
thức đợc tích luỹ đơn thuần từ hoạt động thực tiễn thì tri thức lý luận là tri thức
khái quát từ tri thức kinh nghiệm, nó tồn tại trong hệ thống các khái niệm,
phạm trù, quy luật của lý luận.
Lý luận đợc hình thành từ kinh nghiệm, trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm
nhng lý luận không hình thành 1 cách tự phát từ kinh nghiệm và không phải
mọi lý luận đều trực tiếp xuất phát từ kinh nghiệm.
Khác với kinh nghiệm, lý luận mang tính trừu tợng và khái quát cao.
Nhờ đó nó đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, tính quy luật của các sự
vật hiện tợng khách quan. Theo Mác, nhiệm vụ của nhận thức lý luận là " đem
quy sự vận động bề ngoài chỉ biểu hiện trong hiện tợng về sự vận động bên
trong thực sự".
Nhờ có những u điểm trên đây mà lý luận có vai trò rất lớn đối với thực
tiễn. Lý luận là "kim chỉ nam" cho hành động soi đờng, dẫn dắt, chỉ đạo thực
tiễn. Lênin viết: "Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong
trào cách mạng".
Lý luận một kho thâm nhập vào quần chúng, đợc quần chúng tiếp thu,
ủng hộ thì sẽ biến thành sức mạnh vật chất. Nếu nh lý luận đó lại là đờng lối,
chính sách đúng đắn thì sẽ đa đất nớc tiến lên rất nhanh.
5
Một điểm quan trọng là lý luận có thể dự kiến đợc sự vận động của sự
vật trong tơng lai, rồi từ đó chỉ ra những phơng hớng mới cho sự phát triển của
thực tiễn. Lý luận khoa học làm cho hoạt động của con ngời trở nên chủ động,
tự giác, hạn chế tình trạng mò mẫm, tự phát. Vì vậy, chủ tịch HCM viết:
"Không có lý luận thì lúng túng nh nhắm mắt mà đi". Một khi có lý luận vững
chắc, chúng ta sẽ không sợ tình trạng mò mẫm hay lạc đờng. Lý luận sẽ mang
lại phơng hớng cụ thể để ta bắt tay vào công việc.
Bất kỳ quốc gia, dân tộc nào cũng cần có cơng lĩnh chính sách, 1 nền
tảng t duy lý luận thống nhất. Điều đó cũng góp phần ổn định nền chính trị và
hoà bình của đất nớc, bởi vì 1 khi t tởng có kiên cờng, vững chãi thì mới mong
bảo vệ đợc đất nớc và thành quả của mình. Chính vì vai trò quan trong của lý
luận là không thể thiếu đối với mỗi 1 cá nhân cho nên mỗi ngời cần phải tự
trang bị cơ sở lý luận về cuộc sống, về phẩm chất, quan niêm đạo đức cho
riêng mình. một danh nhân đã nói: "Sống mà không suy nghĩ thì là tồn tại chứ
không phải sống".
Nh vậy khả năng chỉ đạo thực tiễn của lý luận đã rõ ràng. Chúng ta cần
phải hiểu rõ lý luận của mình mà từ đó dùng nó nh 1 "kim chỉ nam" cho hành
động. Có thế mới đảm bảo hiệu quả và tính đúng đắn về mục đích của công
việc.
1.3. Sự cần thiết phải đặt lý luận và thực tiễn trong mối quan hệ thống
nhất biện chứng
Rõ ràng là vai trò của lý luận cũng quan trọng không kém vai trò của
thực tiễn. Vấn đề đặt ra là chúng ta cần phải nhìn nhận mối quan hệ này nh
thế nào.
Chủ nghĩa Mác-Lê nin xem xét lý luận và thực tiễn trong sự thống nhất
biện chứng-đó là nguyên tắc cơ bản trong chủ nghĩa Mác-Lê nin. Hoạt động
của con ngời đợc chia làm hai loại: một là hoạt động thực tiễn tức là hoạt động
vật chất và một là hoạt động nhận thức lý luận là hoạt động tinh thần. Hai hoạt
động này không thể tách rời vì chúng song song diễn ra, bổ sung cho nhau.
Thực tiễn tuy có vai trò quyết định đối với lý luận nhng nếu không có lý
luận dẫn dắt sẽ trở thành thực tiễn mù quáng. Bởi vậy, mặc dù chúng ta cần
coi trọng những kinh nghiệm do thực tiễn của bản thân đa lại song nếu chỉ dựa
vào kinh nghiệm của bản thân, tuyệt đối hóa nó, coi thờng lý luận thì sẽ mắc
bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Đúng nh Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Có kinh
nghiệm mà không có lý luận cũng nh một mắt sáng một mắt mờ".
6
Hơn nữa, chúng ta đều biết rằng mặc dầu những vấn đề bức bách do
cuộc sống, do hoạt động thực tiễn đặt ra bao giờ cũng là những vấn đề hết sức
cụ thể, nhng để giải quyết những vấn đề hết sức cụ thể ấy một cách có hiệu
quả thì không một ai có thể lảng tránh việc giải quyết những vấn đề chung, là
cơ sở cho việc giải quyết những vấn đề cụ thể đó.
V.I.Lênin đã từng nhận xét: "Ngời nào bắt tay vào những vấn đề riêng tr-
ớc khi giải quyết các vấn đề chung thì kẻ đó, trên mỗi bớc đi sẽ không sao
tránh khỏi vấp phải những vấn đề chung đó một cách không tự giác. Mà mù
quáng vấp phải những vấn đề đó trong từng trờng hợp riêng thì có nghĩa là đa
chính sách của mình đến chỗ có những sự dao động tồi tệ nhất và mất hẳn tính
nguyên tắc". (V.I.Lênin toàn tập) Chính vì vậy mà chúng ta lại càng phải coi
trọng vai trò chỉ đạo của lý luận đối với thực tiễn.
Mặt khác, cũng phải thấy rằng do tính gián tiếp, trừu tợng cao trong sự
phản ánh hiện thực nên lý luận đã có khả năng xa rời thực tiễn và trở thành ảo
tởng giáo điều. Vì vậy phải coi trọng lý luận nhng không đợc cờng điệu vai trò
của lý luận, coi thờng thực tiễn, tách rời lý luận với thực tiễn bởi vì lý luận mà
xa rời thực tiễn sẽ trở thành lý luận suông, dẫn đến những suy nghĩ lầm lạc.
Điều đó cũng có ý nghĩa là phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn trong nhận thức khoa học và hoạt động của con ngời. Chủ tịch Hồ
Chí Minh viết: "Thực tiễn không có lý luận dẫn đờng thì thành thực tiễn mù
quáng, lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông."
Nh vậy thái độ thực sự coi trọng lý luận đòi hỏi phải chống chủ nghĩa
giáo điều. Không đợc tuyệt đối hoá lý luận, coi thờng kinh nghiệm thực tiễn,
coi lý luận là bất di bất dịch, việc nắm lý luận không đợc chỉ dừng lại ở những
nguyên lý chung trừu tợng không xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Đồng
thời cũng phải không ngừng trau dồi t duy lý luận để tránh khỏi bệnh kinh
nghiệm chủ nghĩa. Bệnh kinh nghiệm và giáo điều đều là sai lầm không đảm
bảo sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Tóm lại, chỉ có sự thống nhất giữa thực tiễn và lý luận mới mang lại
hiệu quả cao cho công việc. Bất kì một sự lệch lạc nào cũng sẽ dẫn đến những
sai lầm to lớn khó mà sửa chữa.
Cũng vì lý do này mà chúng ta cần phải nghiên cứu, tìm hiểu kỹ lỡng
mối quan hệ giữa đổi mới t duy và đổi mới kinh tế để mà phát triển cả hai lĩnh
vực này.
7
2. Mối quan hệ giữa đổi mới t duy và đổi mới kinh tế ở n-
ớc ta
2.1. Quá trình đổi mới kinh tế ở nớc ta đã đa đến sự phát triển, đổi mới
về t duy
2.1.1. Thực trạng nền kinh tế nớc ta những năm đầu khi cha có đổi mới t
duy
Sau khi ra khỏi chiến tranh, cùng với quá trình thống nhất đất nớc về thể
chế chính trị, việc nhất thể hoá nền kinh tế cũng đã đợc triển khai một cách
tích cực. Mô hình kinh tế đã từng bớc đợc hình thành từ những năm 50 ở miền
Bắc theo kiểu mẫu nền kinh tế kế hoạch tập trung, mặc dù trải qua mấy chục
năm chiến tranh đã bị biến dạng nhiều nhng vẫn mang một số đặc trng lớn của
nó.
Thứ nhất là, nhà nớc trực tiếp điều khiển các hoạt động kinh tế quan
trọng trong cả nớc thông qua hệ thống các kế hoạch sản xuất và phân phối
hàng hoá, thông qua hệ thống giá cả, tỉ giá, lãi suất đợc quy định nghiêm ngặt.
Với mong muốn sớm làm cho sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể chiếm vị trí
chủ đạo trên phạm vi toàn nền kinh tế; nhà nớc trực tiếp đầu t qua tín dụng để
trợ giúp cho các thành phần kinh tế nhà nớc và kinh tế tập thể để ngày càng
chiếm tỉ trọng lớn. Kinh tế t nhân quy mô lớn không đợc khuyến khích phát
triển và là đối tợng của sự cải tạo để dần dần trở thành kinh tế nhà nớc hay
kinh tế tập thể.
Trong khi đó, cơ chế thị trờng chỉ hoạt động trong phạm vi kinh doanh
nhỏ và kinh tế gia đình, tức là ở một phần nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
và bán lẻ hàng tiêu dùng, dịch vụ. Phần lớn t liệu sản xuất đợc coi không phải
là hàng hoá, không đợc phép mua bán tự do trên thị trờng mà đợc phân phối
theo hệ thống kế hoạch hoá của nhà nớc. Nhà nớc còn độc quyền trong hoạt
động ngoại thơng. Do hoàn cảnh lịch sử, hầu hết các quan hệ mậu dịch quốc
tế của Việt Nam là với Liên Xô và Đông Âu. Các công ty ngoại thơng của
Nhà nớc thực hiện những hiệp định buôn bán đó. Lãi hay lỗ của hoạt động
ngoại thơng đều đợc đa vào ngân sách Nhà nớc. Còn t nhân không hề đợc
tham gia vào hoạt động này.
Ngoài ra, ngân sách Nhà nớc còn bù đắp các khoản lỗ của doanh nghiệp
quốc doanh và thu phần lớn lợi nhuận chung. Nh vậy là tài chính quốc gia và
tài chính của các doanh nghiệp quốc doanh không tách biệt nhau. Nhà nớc còn
trợ cấp cho toàn bộ hoạt động sản xuất thông qua việc bán với giá thấp nguyên
vật liệu, máy móc thiết bị đợc nhập khẩu bằng tiền vay nợ của Nhà nớc hoặc
8
viện trợ cho Chính phủ. Vì thế thiếu hụt ngân sách và nợ nớc ngoài tăng lên
cùng với sự tăng trởng của sản xuất. Chính sách kinh tế nh vậy có u điểm là
giúp cho Nhà nớc thực hiện một cách trực tiếp đờng lối kinh tế nhằm vào việc
tập trung tích luỹ cũa xã hội trong tay Nhà nớc, phục vụ công cuộc bảo vệ nền
độc lập dân tộc trớc những đe doạ to lớn từ bên ngoài và nhanh chóng công
nghiệp hoá; nhng chính sách kinh tế đó lại không tạo ra động lực cho các
doanh nghiệp và cho cá nhân ngời lao động. Sự phụ thuộc hoàn toàn vào Nhà
nớc của các doanh nghiệp đã làm cho chính các doanh nghiệp này trở nên thụ
động và kém phát triển, gần nh là kìm hãm sự đi lên của từng doanh nghiệp.
Hơn nữa tính sáng tạo và năng động kinh doanh của họ đã không có
chỗ đứng trong thể chế kinh tế nh vậy. Cơ chế phân phối mang tính chất bình
quân, không đủ sức kích thích ngời có tài năng và lao động tốt. Mà một khi đã
không kích thích, thúc đẩy đợc các cá nhân phát huy tài năng của mình, đa
doanh nghiệp mình đi lên thì nền kinh tế cũng không thể nào phát triển thực
sự đợc.
Tất cả những vấn đề trên đều là do chúng ta cha biết gắn kết thực tiễn
với lý luận. Ví dụ nh kế hoạch 5 năm 1976-1980 là kế hoạch phát triển trung
hạn đầu tiên của nớc Việt Nam thống nhất. Và với sự lạc quan quá cao trong
đánh giá tiềm năng phát triển kinh tế khi chuyển từ thời kì chiến tranh sang
thời kì hoà bình, chúng ta đã đề ra các mục tiêu, kế hoạch mà trên thực tế
không thể thực hiện đợc. Đến năm 1980, so với kế hoạch đề ra thì các chỉ tiêu
thực tế đạt đợc là: sản lợng lơng thực 69%, than 52%, điện 72%, đánh cá biển
40%, vải 39%, giấy 37% v.v Những mất cân đối của nền kinh tế sau chiến
tranh cha kịp khắc phục thì lại cộng thêm những mất cân đối do sự đầu t vốn
đồng thời cho một lợng tơng đối lớn những công trình có quy mô lớn, lâu
hoàn vốn.
Cuộc tranh luận về phơng hớng đổi mới kinh tế gắn liền với xem xét lại
các luận thuyết cơ bản trong kinh tế mới chỉ đợc bắt đầu và cha đi đến câu trả
lời rõ ràng. Tuy nhiên, mâu thuẫn ngày càng tăng giữa một bên là đòi hỏi nâng
cao mức sống của ngời dân và đòi hỏi mở rộng quyền tự chủ kinh doanh của
các doanh nghiệp và các cá nhân, với bên kia là các chính sách và thể chế kinh
tế vĩ mô cha phù hợp đã dẫn tới những biện pháp cải cách đồng bộ hơn.
2.1.2. Những điều kiện kinh tế đã làm nền tảng cho việc phát triển t duy
Đầu tiên là việc cắt giảm nguồn viện trợ bên ngoài - vốn là nguồn thu
đáng kể của ngân sách Nhà nớc - vào những năm 1979-1980 đã làm bộc lộ rõ
9
những điểm yếu và tính lỗi thời của các thể chế kinh tế kiểu thời chiến, điều
hành tập trung vào bao cấp đó, thúc đẩy tìm kiếm các giải pháp mới.
Trong bối cảnh nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng, những ý t-
ởng cải cách trên một số lĩnh vực kinh tế quan trọng đã xuất hiện. Đầu tiên, đó
là những cố gắng của "phía dới", tức là của các đơn vị cơ sở và các gia đình,
tìm cách "phá rào", luồn lách qua những khe hở của thể chế hiện hành để hoạt
động có hiệu quả hơn. Đây quả là một điểm khá đặc biệt nhng cũng dễ hiểu vì
khi bị những chính sách lớn gò bó và hạn chế thì sớm hay muộn sức sáng tạo
cũng sẽ tự nó thoát ra ngoài. Sau đó, "phía trên" - tức là bộ máy quản lý các
cấp của Nhà nớc, thấy đợc sự cần thiết và tính hợp lý của việc điều chỉnh các
chính sách và thể chế.
Kết quả của quá trình đó là một số hình thức mới vận hành nền kinh tế
đã đợc thử nghiệm, đi vào thực tế cuộc sống và đợc chấp nhận ở quy mô rộng.
Những biện pháp tự do hoá hoạt động kinh tế đợc áp dụng từng bớc và sự can
thiệp trực tiếp của bộ máy hành chính vào lĩnh vực kinh tế cũng giảm đi một
cách tơng ứng. Những kết luận của hội nghị lần VI ( khoá 4 ) Ban chấp hành
Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam tháng 9-1979 cho rằng phải coi trọng
hiệu quả kinh doanh, nới lỏng sự quản lý hành chính đối với các hoạt động
kinh tế nằm ngoài kế hoạch và ngoài thành phần kinh tế quốc doanh, chuyển
trọng điểm đầu t từ lĩnh vực công nghiệp nặng, quy mô lớn sang sản xuất hàng
tiêu dùng quy mô vừa và nhỏ, chú ý đúng mức tới lợi ích của các tập thể và cá
nhân ngời lao động. Theo hớng đó đã có một loạt thay đổi diễn ra trong các
lĩnh vực kinh tế cụ thể. Những điều này đã cho thấy rõ vai trò của thực tiễn đối
với lý luận t duy.
Nớc ta xây dựng Chủ nghĩa xã hội nhng lại xuất phát từ một xã hội
thuộc địa nửa phong kiến, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, bỏ qua chế độ
t bản nên đòi hỏi Đảng ta luôn luôn phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tự cờng
và sáng tạo. Chủ nghĩa xã hội nh các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin
nhấn mạnh, không phải là một lý tởng mà hiện thực phải tuân theo, nó là một
phong trào hiện thực; chứ không phải là kết quả của những sắc lệnh từ trên
ban xuống, nó là sự nghiệp sáng tạo của bản thân quần chúng nhân dân. Do
vậy, thực tiễn xây dựng Chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế ở các nớc càng đ-
ợc mở rộng thì lý luận về nó càng trở nên phong phú hơn, giúp ta càng tích luỹ
đợc nhiều kinh nghiệm hơn.
10
Hơn nữa, sự hình thành và phát triển của xã hội đều là một quá trình
lịch sử tự nhiên, tuân theo những quy luật khách quan. Không phải ngẫu nhiên
mà các Đảng Cộng Sản sau một thời gian lãnh đạo sự nghiệp xây dựng đất nớc
đều rút ra bài học giống nhau là không thể đốt cháy giai đoạn bằng nguyện
vọng chủ quan, không thể giải quyết các nhiệm vụ bằng phơng pháp duy ý
chí, mà phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, phải xuất phát
từ thực tế khách quan. Đại hội VI của Đảng ta đã rút ra những bài học quan
trọng là Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo
quy luật khách quan.
Nh vậy là t duy mới đã ra đời có nguồn gốc sâu xa từ thực tiễn. Chính
thực tiễn với những khó khăn gay gắt của đất nớc buộc Đảng phải suy nghĩ,
phân tích tình hình nguyên nhân, tìm tòi các giải pháp. Chính thực tiễn đổi
mới bộ phận ở các cơ sở, địa phơng đã cung cấp những t liệu cho hoạt động t
duy của Đảng trong việc đề ra những chính sách cụ thể, có tính chất đổi mới
từng phần. Ví dụ, ngay từ cuối những năm 60, ở nông thôn đã xuất hiện hình
thức khoán đến hộ gia đình bắt đầu từ Đồ Sơn (Hải Phòng) và Vĩnh Lạc (Vĩnh
Phú). Hình thức khoán hộ đã làm cho nông dân phấn khởi đẩy mạnh sản xuất.
Việc "khoán chui" đó đã đợc Đảng xem xét để ra chỉ thị 100-CT/TƯ (1981)
của Ban Bí th Trung ơng, tạo ra một động lực sản xuất mới trong sản xuất Nhà
nớc. Những hiện tợng "phá rào" để gỡ khó khăn cục bộ trong xí nghiệp cũng
đã đi tới Quyết định 25-CP. Nh vậy, chính sự thúc bách của cuộc sống đã thúc
đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới t duy của Đảng mà bớc ngoặt của nó là Đại
hội VI. Sự năng động của quần chúng và sự nhạy cảm của lãnh đạo là nguyên
nhân quan trọng dẫn đến quá trình đổi mới.
Nh đã nói ở trên, so với công cuộc cải cách và chuyển đổi từ kinh tế tập
trung sang kinh tế thị trờng ở các quốc gia khác, đổi mới ở Việt Nam có
những nét đặc thù riêng: đổi mới ở Việt Nam diễn ra từ cả hai chiều: từ dới lên
- tức là từ các doanh nghiệp và trong nội bộ dân c, và từ trên xuống - tức là từ
các quyết định của hệ thống lãnh đạo Đảng và Nhà nớc. Mối quan hệ hai
chiều tơng đối nhanh nhạy giữa Đảng và nhân dân trong việc nảy sinh, nhận
biết và đáp ứng yêu cầu điều chỉnh của các chính sách kinh tế, xã hội đã làm
cho công cuộc đổi mới ở Việt Nam diễn ra không có sự xung đột giữa "phía
trên" và "phía dới", cũng nh không có các "cú sốc" quá mạnh đợc tạo ra bởi
các chính sách và biện pháp điều chỉnh vĩ mô quá cứng rắn và duy ý chí của
bộ máy lãnh đạo "phía trên". Và ở nớc ta nhu cầu đổi mới các chính sách kinh
tế đã xuất phát từ chính lĩnh vực kinh tế, từ thực tiễn, chứ không phải là hệ quả
11
của những biến động chính trị. Sự chuyển từ thời kì chiến tranh sang hoà bình
đã làm bùng nổ các nhu cầu về đời sống, từ đó làm nảy sinh yêu cầu tháo gỡ
các cản trở về quản lý kinh tế và sau đó dẫn đến những thay đổi trong quan
niệm về sự vận hành của nền kinh tế. Nói một cách khác là thực tiễn đã làm
"tan băng" các quan niệm xơ cứng và thúc ép hình thành hệ thống lý luận và
quan niệm mới phù hợp hơn. Tóm lại, một đặc điểm nổi bật của quá trình đổi
mới ở Việt Nam là vừa có sự sáng tạo của quần chúng từ bên dới lên, vừa có
sự chỉ đạo từ bên trên xuống. Do đó, đổi mới đã dẫn đến những thành công.
Có thể khái quát những nội dung của đổi mới kinh tế là: Chuyển từ nền kinh tế
tập trung sang chế độ sở hữu toàn dân; Thực hiện dân chủ hoá đời sống xã hội
và Mở cửa, tăng cờng hợp tác với bên ngoài.
Qua thực tế hơn 15 năm đổi mới, Đảng đã rút ra những kết luận quan
trọng điều chỉnh bổ sung cho nhiều chủ trơng chính sách, từng bớc phát triển
đờng lối đổi mới. Đây chính là khả năng của thực tiễn giúp cho lý luận thêm
phong phú hay nói cách khác đổi mới kinh tế đã đa đến đổi mới t duy. Vậy thì
liệu đổi mới t duy sẽ tác động lại tới đổi mới kinh tế nh thế nào?
2.2. Đổi mới t duy đã trở thành động lực của đổi mới kinh tế
2.2.1. Đờng lối đổi mới của Đảng đợc hình thành thông qua hàng loạt
chuyển biến của t duy
Đổi mới t duy là yêu cầu đầu tiên mà Đảng ta đã đặt ra khi bớc vào thời
kì đổi mới. Đây là điều quyết định để Đảng xác định và từng bớc phát triển đ-
ờng lối đổi mới; và đặc biệt quan trọng là để đa đờng lối ấy đi vào cuộc sống,
nhằm giành những thành tựu ngày càng lớn hơn cho sự xây dựng và phát triển
đất nớc.
Trớc đây, trong một thời gian dài ở nớc ta đã xảy ra tình trạng quan hệ
sản xuất đi quá xa so với lực lợng sản xuất do đó nó đã là xiềng xích trói buộc,
kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Vì vậy Đại hội của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã để ra đờng lối đổi mới toàn diện từ đổi mới kinh tế là trọng tâm,
đến đổi mới chính trị, văn hoá xã hội; từ đổi mới t duy, nhận thức t tởng đến
đổi mới hoạt động thực tiễn. Phải đặt đổi mới t duy lên hàng đầu vì có đổi mới
t duy mới đổi mới đợc các lĩnh vực khác.
Đổi mới t duy không phải chỉ đơn giản là đa ra những nhận thức, những
t tởng và phơng pháp t duy khác với trớc. Cái mới phải vừa bao hàm những gì
đúng đắn đã có trớc kia, lại vừa loại bỏ những gì sai trái, lệch lạc, lỗi thời của
cái cũ, đồng thời bổ sung những gì mới mẻ, phản ánh đúng thực tiễn, hớng đất
12
nớc đi lên, phù hợp với những quy luật khách quan của sự phát triển xã hội,
của sự phát triển của đất nớc và con ngời Việt Nam. Điều này thể hiện sự phủ
định biện chứng mà chủ nghĩa Mác-Lênin đã nêu ra. Từ cái cũ đi đến cái mới,
chính là sự tiếp biến, là sự vợt gộp, từ đó tạo ra sự phát triển theo hớng xoáy
trôn ốc của t duy.
Quá trình đổi mới ở Việt Nam không phân chia thành các giai đoạn:
giai đoạn chuẩn bị lý luận về đổi mới và giai đoạn áp dụng lý luận vào thực tế,
mà là quá trình vừa khái quát lý luận từ thực tiễn đổi mới, vừa áp dụng ngay
những lý luận đã có vào cuộc sống. Thông qua đó mà một loạt những chuyển
biến đợc hình thành đã tạo động lực cho đổi mới kinh tế.
Chuyển biến thứ nhất là từ t duy dựa trên mô hình kinh tế hiện vật với
sự tuyệt đối hoá sở hữu nhà nớc và tập thể, với sự phát triển vợt trớc của quan
hệ sản xuất đối với lực lợng sản xuất sang t duy mới xây dựng nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nớc giữ vai trò chủ đạo trong
sự thống nhất biện chứng với tính đa dạng các hình thức sở hữu, đa dạng các
hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động làm đặc trng chủ yếu, nhằm
thúc đẩy phát triển sản xuất. Đây là chuyển biến căn bản mà ý nghĩa sâu xa
của nó là tôn trọng quy luật khách quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất, và tuỳ thuộc vào trình độ phát
triển của lực lợng sản xuất mà từng bớc thiết lập quan hệ sản xuất tơng ứng,
nhờ đó, mở đờng giải phóng mọi tiềm năng xã hội, giải phóng sức sản xuất,
trong đó có nhân tố quan trọng bậc nhất là con ngời với tất cả sự năng động,
sáng tạo của họ. Bớc chuyển này có ý nghĩa cách mạng. Nó đặt đúng vị trí và
tầm quan trọng của cái tất yếu kinh tế trong sự phát triển của nớc ta.
Chuyển biến thứ hai là từ t duy quản lý kinh tế dựa trên mô hình một
nền kinh tế chỉ huy tập trung, kế hoạch hoá tuyệt đối với cơ chế bao cấp và
bình quân sang t duy quản lý mới thích ứng với nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trờng, có sự quản lý của Nhà nớc, theo
định hớng xã hội chủ nghĩa, có sự điều tiết của kế hoạch ở tầm vĩ mô, thông
qua quản lý, kiểm soát bằng pháp luật của Nhà nớc. Nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trờng dẫn tới sự tác động, thâm
nhập lẫn nhau giữa các thành phần kinh tế, tạo thành sự đan xen các hình thức
sở hữu, các phơng thức tổ chức quản lý, các phơng thức phân phối lợi ích phù
hợp với yêu cầu của quan hệ sản xuất mới, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển
của lực lợng sản xuất ở thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
13
Con ngời với t cách vừa là chủ thể sản xuất - kinh doanh, vừa là chủ thể
tiêu dùng các sản phẩm hàng hoá đã đợc đặt vào những cơ hội nh nhau để phát
triển, để bộc lộ tài năng, năng lực, tính chủ động, sáng tạo trong hoạt động
kinh tế. Cơ chế thị trờng đòi hỏi sự thừa nhận cạnh tranh, ganh đua, dẫn tới sự
chênh lệch thu nhập, sự phân hoá giàu - nghèo. Đây là mặt trái của cơ chế thị
trờng. Vấn đề đặt ra là phải có chính sách đúng đắn để cho cơ chế thị trờng
không đẩy tới sự phân hoá giàu - nghèo vợt quá giới hạn cho phép, vi phạm
mục tiêu công bằng xã hội là mục tiêu mà chúng ta đang phấn đấu trên con đ-
ờng xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là một nét mới tiêu biểu cho t duy kinh tế
trong sự nghiệp đổi mới.
Chuyển biến thứ ba là đổi mới hệ thống chính trị theo hớng xoá bỏ ph-
ơng thức quản lý hành chính mệnh lệnh, dân chủ hoá các lĩnh vực của đời
sống xã hội, thực hiện dân chủ gắn liền với tôn trọng luật pháp, pháp chế, kỷ
cơng xã hội, phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân. Chuyển biến này
đã góp phần quan trọng vào việc tháo gỡ từng bớc những lực cản đối với tăng
trởng kinh tế, phát triển văn hoá - xã hội, sản sinh ra những nhân tố mới, động
lực mới của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nớc.
Thực tiễn đã xác nhận tầm quan trọng của những nguyên tắc, biện pháp
và bớc đi mà Đảng đã hoạch định trong đờng lối đổi mới nói chung và đổi mới
hệ thống chính trị nói riêng.
Chuyển biến thứ t là Đảng đã quan niệm sự hình thành và phát triển của
chủ nghĩa xã hội ở một nớc phải dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin và điều quan trọng nữa laftwf chính những đặc điểm, điều kiện và hoàn
cảnh lịch sử cụ thể của nớc đó. Đây là cơ sở khách quan quy định nhận thức
và những tìm tòi sáng tạo của chủ thể lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Nó cũng đồng thời làm sáng tỏ một lần nữa quan điểm thực tiễn chi
phối sự hoạch định đờng lối, chính sách. Phải phát huy tinh thần độc lập tự
chủ và sáng tạo để tìm cách giải quyết phù hợp và có hiêu quả nhất những vấn
đề do thực tiễn của nớc mình đang đặt ra. Sẽ không có một mô hình duy nhất
để giải quyết các vấn đề ở mọi nớc; cũng không có một hình mẫu duy nhất đ-
ợc áp dụng cho tất cả mọi quốc gia mặc dù những nguyên tắc, nguyên lý của
chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội - chỗ dựa của các Đảng Cộng sản -
đều nh nhau. Tất nhiên không phải vì thế mà chúng ta tách khỏi sự giao lu,
hợp tác quốc tế. Vấn đề đặt ra là phải kết hợp dân tộc với quốc tế, truyền
thống với hiện đại. Đó cũng là cơ sở của đờng lối đối ngoại. Nó mở ra khả
năng để Việt Nam tham gia vào thị trờng kinh tế thế giới, vào đời sống chính
14
trị quốc tế, vào sự giao lu, hợp tác văn hoá. Tuy nhiên, để giữ vững định hớng
xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải khắc phục những ảnh hởng của chủ nghĩa giáo
điều, máy móc, tiếp nhận và sao chép mô hình nớc ngoài, đồng thời linh hoạt,
mềm dẻo trong sách lợc, phù hợp với hoàn cảnh, thời cuộc hiện nay. Thực tiễn
gần 15 năm đổi mới ở Việt Nam cho thấy, kiên trì con đờng xã hội chủ nghĩa,
phát triển kinh tế, văn hoá và tổ chức quản lý xã hội thông qua hàng loạt
những biện pháp thực tiễn sáng tạo vừa phù hợp với đặc điểm của nớc mình,
vừa thích ứng với xu thế của thời đại là cơ sở bảo đảm cho sự phát triển lành
mạnh, tích cực của sự nghiệp đổi mới.
Chuyển biến thứ năm trong sự hình thành quan niệm mới của Đảng về
chủ nghĩa xã hội là những nhận thức mới về nhân tố con ngời - nhân tố quyết
định thành công của chủ nghĩa xã hội. Khắc phục những hạn chế và khiếm
khuyết của nhận thức về chủ nghĩa xã hội có liên quan đến vấn đề con ngời,
chúng ta đã làm sáng tỏ hơn t tởng nhân đạo, khoa học và cách mạng của
Mác, Ăng-ghen, Lê-nin và Hồ Chí Minh. Trong khi phê phán và cơng quyết
loại bỏ chủ nghĩa cá nhân, chúng ta thừa nhân và bảo vệ những lơi ích chính
đáng của cá nhân, coi lợi ích cá nhân của những ngời lao động là một trong
những động lực trực tiếp thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Tất cả những điều trên đã góp phần đa đất nớc ra khỏ khủng hoảng kinh
tế - xã hội, mang lại diện mạo mới cho nền kinh tế nớc nhà. Thành quả của nó
đối với nền kinh tế quả là rất to lớn.
2.2.2. Thành quả của việc áp dụng đổi mới t duy trong đổi mới kinh tế
Đầu tiên là việc mở cửa nền kinh tế và đổi mới chính sách cơ cấu, đem
lại những thành công rực rỡ cho công cuộc đổi mới. Cho đến nay, nền kinh tế
nhiều thành phần đã cơ bản hình thành, tạo nên sự sống động mới trong sản
xuất, kinh doanh. Nhìn khái quát quan hệ sản xuất nhiều mặt đã phù hợp hơn
với lực lợng sản xuất, tác dụng téch cực giải phóng đáng kể lực lợng sản xuất,
tăng trởng kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm, từng bớc khắc phục đói nghèo, cải
thiện đời sống của nhân dân.
Thứ hai là cơ chế chính sách không ngừng đổi mới. Doanh nghiệp Nhà
nớc đợc tổ chức, sắp xếp lại một bớc quan trọng, bớc đầu chuyển sang đa sở
hữu, giảm nhiều tính bao cấp, tăng cờng đáng kể quyền tự chủ trong sản xuất,
kinh doanh; quản lý nội bộ có những chuyển biến tích cực, đã khắc phục một
phần hiện tợng trì trệ, phát huy đợc tác dụng chủ đạo nhất định trong nền kinh
tế.
15
Chúng ta đã thực hiện việc chuyển hớng chiến lợc phát triển từ chỗ u
tiên phát triển công nghiệp nặng sang tập trung các nguồn lực để thúc đẩy
nông nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu đã làm cho nhịp độ
tăng trởng và cơ cấu của nền kinh tế có những thay đổi đáng kể. Sản lợng lơng
thực từ 18,4 triệu tấn năm 1986 đã lên tới 21,5 triệu tấn năm 1993, làm cho
Việt Nam chuyển từ một nớc nhập khẩu lơng thực sang thành nớc xuất khẩu
hàng năm 1,5 đến 2 triệu tấn gạo. Còn sản xuất công nghiệp tuy bị đình trệ
những năm 1989-1990 nhng đã bắt đầu có bớc tiến bộ trong cải thiện mặt
hàng và chất lợng, đặc biệt đối với hàng tiêu dùng. Năm 1991, nền công
nghiệp đã hồi phục nhịp độ tăng trởng và năm 1992 đã đạt nhịp tăng khá cao.
Sự thay đổi trong mậu dịch quốc tế cũngđáng chú ý. Trong những năm
1986-1988, thiếu hụt trong cán cân ngoại thơng khoảng 1,3-1,6 tỷ USD mỗi
năm. Con số này giảm dần từ 1989 và đến 1991 chỉ còn là 160 triệu USD, chủ
yếu nhờ giá trị xuất khẩu tăng lên nhanh chóng.
Ngoài ra, sự đổi mới chính sách vĩ mô của Nhà nớc về thị trờng tiêu thụ
nông sản hàng hoá, đầu t và tín dụng, thuế sử dụng đất và thuỷ lợi phí, khoa
học và công nghệ, chính sách đối vói miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu
số cũng đã mang lại sự khởi sắc mới cho nền kinh tế.
Phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hớng hiện đại hoá, công
nghiệp hoá và hợp tác hoá đã làm cho sản lợng nông nghiệp tăng đáng kể,
giảm bớt sức lao động của con ngời.
2.2.3. Những đổi mới có tính đột phá
Một cách toàn diện và đầy đủ, chúng ta đã coi thị trờng vừa là căn cứ,
vừa là đối tợng của kế hoạch - kế hoạch chủ yếu mang tính định hớng và đặc
biệt quan trọng trên bình diện vĩ mô. Mặt khác, thị trờng có vai trò trực tiếp h-
ớng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phơng án tổ chức
sản xuất kinh doanh trên cơ sở đó đã không ngừng tạo lập đồng bộ dẫn các
yếu tố của thị trờng ( hàng hóa và dịch vụ, công nghệ, các dịch vụ thông tin, t
vấn, tiếp thị, pháp lý, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm, bảo lãnh, tiền
vốn, sức lao động ). Điểm này cho thấy rõ hơn mối quan hệ biện chứng giữa lý
luận t duy và thực tiễn đổi mới kinh tế.
Từng bớc xoá bao cấp triệt để, xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, hình
thành cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc bằng pháp luật, kế hoạch,
chính sách v.v Mở rộng thị trờng giao lu hàng hoá thống nhất suốt cả nớc
từng bớc hội nhập kinh tế quốc tế, xác định quyền của con ngời sở hữu quyền
16
của con ngời sử dụng t liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà nớc trong lĩnh
vực kinh tế. Giá cả, tỷ giá hối đoái, lãi suất tín dụng đều đợc hình thành theo
cơ chế thị trờng Nh vậy, mọi đơn vị kinh tế đều tự chủ, tự chịu trách nhiệm
về kết quả kinh doanh của mình, đổi mới và nâng cao hiệu lực hớng dẫn, kiểm
soát và diều tiết của nhà nớc.
Quá trình đổi mới cơ chế, chính sách kinh tế trong thời gian qua luôn
gắn với giải quyết những vấn đề cấp bách nóng bỏng của nền kinh tế. Thực tế
chứng minh, bằng cơ chế, chính sách kinh tế đợc đổi mới đã đa đất nớc ra
khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, phá đợc thế bao vây, cấm vận về kinh tế; và
hiện nay cũng đang còn nhiều vấn đề tồn tại về cơ chế, chính sách cần đợc tập
trung tháo gỡ, đổi mới.
2.3. Những điều cần quan tâm trong đổi mới kinh tế và đổi mới t duy ở n-
ớc ta
Chúng ta cần phải lu ý là đổi mới không chỉ đơn thuần là thay thế cái cũ
bằng cái mới, mà quan trọng hơn là thay thế cái cũ bằng cái mới để làm gì?
Chính cái để làm gì này sẽ quyết định phải đổi mới cái gì và nh thế nào? Đổi
mới không phải là phủ định quá khứ mà là khẳng định những gì đã hiểu đúng
làm đúng, loại bỏ những gì hiểu sai làm sai, bổ sung những nhận thức mới và
cách làm mới, đáp ứng yêu cầu của quá trình mới. Thực hiện đợc điều này
hoàn toàn không đơn giản. Đây thực sự là cuộc đấu tranh phức tạp giữc cái
đúng và cái sai, giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu lỗi thời, giữa cái mới thúc đẩy
sự phát triển với cái cũ cản trở sự phát triển. Mà tiêu chuẩn để phân biệt những
mặt trái ngợc đó chính là thực tiễn, là kết quả về kinh tế-xã hội giành đợc
trong thực tiễn đổi mới.
Hơn nữa đổi mới t duy không phải là mục đích tự thân. Cuối cùng việc
đổi mới này phải đi đến xác định đợc những đờng lối chủ trơng đúng đắn, phải
biến thành những hoạt động thực tiễn có hiệu quả, nhằm làm biến đổi hiện
thực. Thành quả đổi mới mọi mặt của đất nớc đặc biệt là lĩnh vực kinh tế
chính là thớc đo sự đổi mới t duy của Đảng, của dân tộc, đồng thời cũng đặt ra
những vấn đề đòi hỏi t duy phải tiếp tục đổi mới ở những vòng khâu, những
tầng nấc cao hơn.
Phải xuất phát từ chính t duy của Đảng và của toàn xã hội để đặt vấn đề
đổi mới t duy. Phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam để đặt ra những yêu cầu
của đổi mới t duy, cũng nh những chuẩn mực để kiểm nghiệm việc đổi mới t
duy. Chính vì vậy đổi mới ở Việt Nam không phải là chuyển từ mô hình đã có
17
sẵn lấy từ một nớc khác nào đó mà là một quá trình đồng thời xoá bỏ các yếu
tố của mô hình cũ và thay thế bằng các yếu tố mới thích hợp hơn với điều kiện
của Việt Nam.
Đối với mỗi ngời, quá trình đổi mới t duy lại không giống nhau về ý
thức đổi mới, cũng nh về nội dung và tốc độ đổi mới, từ đó dẫn đến những kết
quả rất khác nhau. Có ngời đổi mới nhiều, có ngời đổi mới ít; ngời này thì
nhanh, ngời kia lại chậm. Có ngời đổi mới nhiều về mặt này, nhng lại ít về mặt
khác, có mặt lại gần nh không đổi mới đợc bao nhiêu. Có ngời nói nhiều về
đổi mới, nhng trong việc làm, trong hoạt động thực tiễn lại không đổi mới,
càng không đổi mới khi đụng chạm đến lợi ích của bản thân hay gia đình, thân
thuộc của mình. Khi đã bị cầm tù bởi những nhận thức lạc hậu, lỗi thời, bị trói
buộc bởi những t tởng sai lầm, cơ hội, cá nhân chủ nghĩa, bị chi phối bởi ph-
ơng pháp t duy siêu hình, giáo điều xơ cứng, thì con ngời không thể đổi mới
đợc. Đổi mới t duy là phải giải phóng khỏi tất cả những điều đó.
Trong quá trình đổi mới, cũng có một chiều hớng khác chỉ thấy những
hạn chế, tiêu cực diễn ra trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, chỉ biết chê
bai, phê phán nh ngời ngoài cuộc, mà không đề xuất đợc những giải pháp có
hiệu quả. có khi nêu giải pháp, nhng nếu thực hiện theo những giải pháp đó,
thì chắc chắn chỉ đa công cuộc đổi mới đến đổ vỡ, thất bại. Nhân danh đổi
mới, có ngời còn đi đến phủ định cả chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác-Lênin,
chứ không phải nhận thức lại cho đúng, đồng thời nêu ra đợc những kiến giải
để bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội phù hợp với
những điều kiện lịch sử mới. Chiều hớng đó hoàn toàn xa lạ với việc đổi mới
t duy của chúng ta.
Và điều quan trọng nhất đó là: khi áp dụng những lý luận t duy cần phải
xem xét cụ thể về điều kiện lịch sử, hoàn cảnh thực tế để hoạt động kinh tế có
hiệu quả.
2.4. Kiến nghị và giải pháp
Trong tình hình đất nớc ta hiện nay tuy quá trình đổi mới đã diễn ra gặt
hái đợc nhiều thành công song vẫn con một số vấn đề còn tồn tại cần tập trung
tháo gỡ. Trên cơ sở những tài liệu đã tham khảo, bài tiểu luận này sẽ đa ra một
vài giải pháp khả thi sau:
Đầu tiên và nhất quán trong toàn bộ quá trình đổi mới đó là ta phải giữ
vững định hớng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế. Điều này là rất quan
trọng bởi nó sẽ giúp ta đi đúng hớng tránh khỏi nhiều sai lầm lớn về t tởng ảnh
18
hởng đến sự nghiệp đổi mới. Đấy cũng là định hớng cho việc tiếp tục đổi mới
t duy nhằm đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nớc hiện
nay.
Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần; lấy việc giải phóng sức sản xuất, phát huy tối đa các nguồn
lực bên trong và bên ngoài trên cơ sở nguồn lực trong nớc là quyết định,
nguồn lực bên ngoài là quan trọng cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng
cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân làm mục tiêu
hàng đầu trong khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và hình thức tổ
chức kinh doanh. Có chính sách tôn vinh những ngời tổ chức sản xuất, kinh
doanh theo luật pháp, tạo đợc nhiều việc làm cho xã hội, dù ở thành phần kinh
tế nào.
Kinh tế nhà nớc đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Tạo điều kiện
thuận lợi cho các nhà kinh doanh t nhân yên tâm làm ăn lâu dài. Mở rộng các
hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nớc với các thành phần kinh tế
khác cả trong và ngoài nớc.
Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của ngời lao động trong
nền sản xuất xã hội; thực hiện công bằng xã hội ngày càng tốt hơn; bảo đảm
công bằng về cơ hội cho mọi ngời dân tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội.
Tăng trởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bớc phát triển. Các nguồn tài nguyên, tài chính của quốc gia
đợc phân phối, sử dụng theo nguyên tắc công bằng và hiệu quả.
Kết hợp chặt chẽ thị trờng và kế hoạch, có sự quản lý của Nhà nớc xã
hội chủ nghĩa do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo. Vai trò quản lý, điều
khiển nền kinh tế của Nhà nớc xã hội chủ nghĩa là điều kiện tiên quyết để phát
triển đúng đắn và vững chắc nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa
của nhà nớc.
Nếu nh có thể thực hiện đồng thời đợc các vấn đề trên một cách triệt để
và linh hoạt thì sự thành công rực rỡ của đổi mới là hoàn toàn có thể hy vọng.
19
Phần kết
Sau khi đã tìm hiểu và nghiên cứu về những mối liên hệ, ảnh hởng giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới t duy ở nớc ta, chúng ta có thể đánh giá lại quá
trình đổi mới, phát triển kinh tế một cách tổng quát và rút ra bài học từ chính
quá trình đổi mới.
Việt Nam tiến hành cải cách trong bối cảnh bị cô lập tơng đối cả về
chính trị và kinh tế. Nguồn viện trợ, cho vay của Liên Xô bị cắt từ cuối những
năm 80; các tổ chức tài chính quốc tế lớn gới hạn sự trợ giúp của họ cho Việt
Nam ở lĩnh vực t vấn. Trái lại sự phong toả vê kinh tế, sự lôi cuốn Việt Nam
vào những xung đột chính trị và quân sự bởi các yếu tố bên ngoài đã buộc đất
nớc phái tiêu hao nhiều nguồn lực mà lẽ ra có thể dùng cho tăng trởng kinh tế,
phát triển xã hội. Trong bối cảnh nh vậy, nên độc lập và sự đoàn kết dân tộc có
tính chất truyền thống vẫn đợc bảo tồn song song với quá trình cải cách đổi
mới.
Chúng ta đã lấy chủ nghĩa Mac-Lênin và t tởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng t tởng và kim chỉ nam cho hoạt động là nhằm giải quyết thắng lợi những
yêu cầu của công cuộc đổi mới, của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hhiện
đại hoá đất nớc hiện nay. Đó chính là vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển
chủ nghĩa Mac-Lênin và t tởng Hồ Chí Minh. Đó cũng là con đờng phát triển
tiếp tục t duy của Đảng và của dân tộc.
Với thực tiễn đổi mới, trớc hết là đổi mới t duy, nhận thức nề chủ nghĩa
xã hội và con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày một rõ ràng và
đầy đủ hơn. Điều này, trên thực tế đã trở thành một nguồn lực đặc biệt có ý
nghĩa bảo đảm cho mỗi hoạt động kinh tế văn hoá, xã hội cụ thể trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nớc.
Nhận thức bao giờ cũng là một quá trình đi từ đơn giản đến phức tạp, từ
cha hoàn thiện tới hoàn thiện hơn. Hơn thế nữa chủ nghĩa xã hội lại là một
hiện tợng mới mẻ, đang vận động sinh thành trong lịch sử loài ngời. Bởi vậy,
bám sát thực tiễn, nghiên cứu và tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận đó là
yêu cầu to lớn mà thực tiễn đặt ra cho hoạt động lý luận của Đảng.
Quá trình cơ cấu lại nên kinh tế với nội dung là chuyển từ mô hình một
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang một nền kinh tế hớng theo thị trờng
diễn ra dù với nhiều khó khăn, nhng rốt cuộc đang hình thành một diện mạo
mới cho đời sống kinh tế. Sự chuyển dịch cơ cấu theo hớng công nghiệp hoá,
20
hiện đại hoá bắt đầu đợc khởi động và hứa hẹn sẽ mang lại những chuyển đổi
lớn cho nền kinh tế nớc ta trong những thập kỷ tới.
21
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình triết học Mác-Lênin
2. Giáo trình Kinh tế chính trị
3. Sách đổi mới kinh tế và phát triển
4. PGS Nguyễn Văn Đặng
Nhìn lại quá trình đổi mới kinh tế ở nớc ta (Tạp chí cộng sản)
5. Hoà nhập nền kinh tế tri thức ( Tạp chí Thị trờng Tài chính tiền tệ )
6. GS Đặng Xuân Kỳ
Tiếp tục đổi mới t duy ( Tạp chí cộng sản )
7. Tơng lai cần đổi mới t duy về vai trò của nhà doanh nghiệp ( Tạp chí
Thị trờng Tài chính tiền tệ )
8. TS Nguyễn Quốc Việt
Kinh tế tri thức và chiến lợc tri thức hoá ( Tạp chí Thị trờng Tài chính
tiền tệ )
22
Mục lục
Trang
Lời nói đầu 1
Phần nội dung chính 3
1. Sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn 3
1.1. Vai trò của thực tiễn đối với lý luận là vai trò mang tính quyết định 3
1.2. Khi lý luận quay trở lại thực tiễn nó sẽ chỉ đạo thực tiễn 5
1.3. Sự cần thiết phải đặt lý luận và thực tiễn trong mối quan hệ thống
nhất biện chứng 6
2. Mối quan hệ giữa đổi mới t duy và đổi mới kinh tế ở nớc ta 8
2.1. Quá trình đổi mới kinh tế ở nớc ta đã đa đến sự phát triển, đổi mới về
t duy 8
2.1.1. Thực trạng nền kinh tế nớc ta những năm đầu khi cha có đổi mới
t duy 8
2.1.2. Những điều kiện kinh tế đã làm nền tảng cho việc phát triển t duy
9
2.2. Đổi mới t duy đã trở thành động lực của đổi mới kinh tế 12
2.2.1. Đờng lối đổi mới của Đảng đợc hình thành thông qua hàng loạt
chuyển biến của t duy 12
2.2.2. Thành quả của việc áp dụng đổi mới t duy trong đổi mới kinh tế
15
2.2.3. Những đổi mới có tính đột phá 16
2.3. Những điều cần quan tâm trong đổi mới kinh tế và đổi mới t duy ở n-
ớc ta 17
2.4. Kiến nghị và giải pháp 18
Phần kết 20
Tài liệu tham khảo 22
23