Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

tại sao nước ta phải mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.09 KB, 31 trang )

Đề án Kinh tế chính trị Học viện Ngân hàng
Phần I- Mở đầu
Kinh tế đối ngoại - một bộ phận cực kỳ quan trọng và chủ đạo của nền
kinh tế quốc dân. Kinh tế đối ngoại là hoạt động kinh tế đã có từ lâu đời: d-
ới chế độ chiếm hữu nộ lệ, và tiếp đó là chế độ phong kiến. Trong các xã
hội nộ lệ và phong kiến do kinh tế tự nhiên còn chiếm địa vị thống trị nền
kinh tế đối ngoại chỉ phát triển với qui mô nhỏ bé. kinh tế đối ngoại chỉ
thực sự phát triển trong thời đại TBCN. Ngày nay sản xuất đã đợc quốc tế
hoá, không một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển kinh tế mà lại
không tham gia vào phân công lao động quốc tế và trao đổi hàng hoá với
bên ngoài.
Và Việt Nam cũng thế, sau khi dành độc lập, đặc biệt công cuộc đổi
mới, mở cửa nền kinh tế đợc Đảng cộng sản Việt Nam khởi xớng từ hội
nghị trung ơng lần thứ 6 (khoá IV) họp cuối năm 1986 và đợc phát triển qua
các kì đại hội lần thứ 8, 9. Từ đó đến nay nớc ta thật sự có những biến đổi
sâu sắc. Kinh tế đối ngoại nớc ta hiện đã bớc sang một gia đoạn mới chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế. Nớc ta đã học hỏi và tích luỹ đợc nhiều kinh
nghiệm của các quốc gia đi trớc, đã đạt đợc những thành tựu đáng kể trên
lĩnh vực kinh tế đối ngoại, đã có đợc những nền tảng bớc đầu để thể gia
tăng hội nhập kinh tế quốc tế trong gia đoạn mới. Đồng thời những điều
kiện quốc tế đã thay đổi, các quốc gia trong khu vực đã tiên xa so với chúng
ta trên con đờng hội nhập quốc tế và đang đặt ra những thách thức luật
pháp. Trong bối cảnh đó, chúng ta phải nhận thức rõ thực trạng kinh tế đối
ngoại cửa nớc ta. Do thấy đợc tầm quan trọng của vấn đề này nên em đã
chọn đề tài: Thực trạng và giải pháp cơ bản để phát triển và nâng cao hiệu
quả kinh tế đối ngoại từ nay đến hến năm 2020.
Để nghiên cứu tận đề trên thì ta phải biết lựa chọn sử dụng phơng pháp
luận hợp lý và hiệu quả. Đó là, nhận thức khoa học phải bắt đầu bằng sự
quan sát các hiện tợng cụ thể biểu hiện các quá trình kinh tế rồi dùng phơng
pháp trừu tợng hoá để tìm ra bản chất và tính qui luật của sự phát triển, sau
Phạm Anh Dũng Lớp: 7031


1
Đề án Kinh tế chính trị Học viện Ngân hàng
đó các mối quan hệ nội tại, cơ chế tác động cụ thể của quá trình lu chuyển
hàng hoá và liên kết kinh tế với nớc ngoài. Kinh tế đối ngoại là tổng thể các
quan hệ kinh tế của nền kinh tế quốc dân với nớc ngoài, là một bộ phận của
quá trình tái sản xuất xã hội. Các quy luật của lu thông hàng hoá bắt nguồn
từ các quy luật hoạt động bên trong và bên ngoài ngoài nớc đó, do vậy, cần
phải có quan điểm hệ thống và toàn diện trong nghiên cứu. Mặt khác, quá
trình hình thành và phát triển các quan hệ buôn bán gắn liền với những
hoàn cảnh lịch sử nhất định, do đó phải có quan điểm lịch sử khi nghiên
cứu các vấn đề của kinh tế đối ngoại.
Nh vậy, nội dung gói gọn trong bài viết này là trình bày những quan
điểm, đáng giá, nhận xét của em về thực trạng và giải pháp để phát triển và
nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại ở Việt Nam hiện nay.
Phạm Anh Dũng Lớp: 7031
2
Đề án Kinh tế chính trị Học viện Ngân hàng
Phần II- Nội dung
Chơng I: Một số vấn đề cơ bản về lý luận
1. Thế nào là kinh tế đối ngoại
Ta có thể hiểu một cách nôm na, kinh tế đối ngoại là việc mua, bán
hàng hoá và dịch vụ qua biên giới quốc gia hay nói cách khác là nó nh
chiếc cầu nối giữa cung và cầu hàng hoá, dịch vụ của thị trờng trong và
ngoài nớc về số lợng, chất lợng và thời gian sản xuất.
Điều kiện để kinh tế đối ngoại sinh ra, tồn tại và phát triển là: có sự
tồn tại và phát triển của nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ kèm theo đó là sự
suất hiện của t bản thơng nghiệp; có sự ra đời của Nhà nớc và sự phát triển
của phân công lao động quốc tế giữa các nớc.
Ngoài ra, ta còn phải hiểu thế nào là kinh tế quốc tế, thế nào là toàn
cầu hoá?

Kinh tế quốc tế là sự trao đổi, buôn bán hàng hoá, dịch vụ trên phạm
vi tào thế giới, trong đó thể hiện mối quan hệ kinh tế giữa các nớc với nhau,
hay giữa các khu vực với nhau.
Còn toàn cầu hoá là quá trình liên kết ngày một rộng lớn giữa các nớc
và thể hiện là mối quan hệ bình đẳng về kinh tế giữa các nớc trên thế giới
với nhau.
Trên đây là một số khái niệm cơ bản ta cần nắm rõ để có thể nghiên
cứu những lý luận khác.
2. Tại sao nớc ta phải mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối
ngoại
Vài trò và tác dụng của nó, trong điều kiện nớc ta hiện nay, kinh tế đối
ngoại có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Vì vậy
Đảng và Nhà nớc luôn luôn coi trọng lĩnh vực này và nhấn mạnh: "Nhiệm
vụ ổn định và phát triển kinh tế cũng nh sự nghiệp phát triển khoa học kỹ
thuật và công nghiệp hoá của nớc ta tiến hành nhanh hay chậm, điều đó phụ
Phạm Anh Dũng Lớp: 7031
3
Đề án Kinh tế chính trị Học viện Ngân hàng
thuộc một phần vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối
ngoại " (văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI).
Sự gia tăng mạnh mẽ của toàn cầu hoá kinh tế đặt ra yêu cầu đòi hỏi
các quốc gia phải có chiến lợc hội nhập phù hợp vào nền kinh tế thế giới và
khu vực. Thực vậy, hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới không chỉ
cho phép Việt Nam thu đợc vốn mà dựa vào đó Việt Nam nắm bắt đợc
những công nghệ kỹ thuật và quản lý tiên tiến, từng bớc tạo ra một đội ngũ
công nhân có trình độ phù hợp cho việc phát triển nền công nghiệp hiện đại
trong thời đại ngày nay.
Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới Việt
Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức, trong đó đặc biệt là năm thách
thức sau đây:

Thứ nhất, tiềm lực vật chất của Việt Nam còn yếu, nguồn nhân lực
nói chung có trình độ thấp và có kỹ năng không cao, điều này kiến cho việc
tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế gặp nhiều bất cập. Khó
khăn này thể hiện ở chổ năng lực tiếp nhận công nghệ yếu, khó phát huy lợi
thế của nớc đi sau trong việc tiếp nhận các nguồn lực có sẵn từ bên ngoài để
năng cao cơ sở hạ tầng kỹ thuật; dẫn đến nguy cơ Việt Nam có thể trở thành
"bãi rác" của các công nghệ lạc hậu.
Thứ hai, sức cạnh tranh, đặc biệt là của các sản phẩm công nghiệp
Việt Nam quá thấp, do đó Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong việc củng cố
và phát triển các thị trờng mới trong điều kiện nhiều nớc đang phát triển
cuàng chọn chiến lợc tăng cờng hớng về xuất khẩu nên Việt Nam sẽ bị áp
lực cạnh tranh ngay tại thị trờng nội địa; việc mở cửa thị trờng nội địa theo
AFTA, WTO có thể biến Việt Nam thành thị trờng tieu thụ sản phẩm nớc
ngoài nếu các doanh nghiệp trong nớc không bám giữ đợc.
Thứ ba, do tri thức và trình độ kinh doanh của dân ta còn thấp, cộng
với hệ thống tài chính và ngân hàng còn yếu kém nên còn thụ động và thao
túng. Từ kinh nghiệm và các nớc đang phát triển trong khu vực cho thấy,
Phạm Anh Dũng Lớp: 7031
4
Đề án Kinh tế chính trị Học viện Ngân hàng
nguy cơ lệ thuộc vào các tổ chức tài chính nớc ngoài và quốc tế là một thực
tế.
Thứ t, hệ thống thông tin - viễn thông toàn cầu hoá với t cách là một
thứ quyền lực siêu hạng đang phát triển nhanh có thể gây ra tác động tiêu
cực trực tiếp đến án ninh kinh tế, văn hoá xã hội, theo hớng rối loại làm lợi
cho các thế thực bên ngoài. Vấn đề là kiểm soát việc tự do hoá thông tin,
truyền thống nh thế nào để không từ bỏ lợi ích tận dụng khai thác nó mà
vẫn hạn chế tối đa nguy hại có thể gây ra.
Thứ năm, trong quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ yếu là với các quốc gia
có tiềm lực mạnh, có thể chứa đựng những yếu tố tiêu cực nh muốn kìm

hãm thậm chí gây sức ép, buộc Việt Nam phải thay đổi những vấn đề có
tính nguyên tắc nh định hớng, mục tiêu, mục đích phát triển. Ví dụ: mục
đích chính của các công ty xuyên quốc gia là lợi nhuận, còn đối với Việt
Nam thì vấn đề có lợi nhuận vẫn cha đủ, mà mục đích chính là vì "dân giầu
nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Trong rất nhiều trờng
hợp, quan hệ kinh tế đã giúp tạo ra lợi nhuận, nhng không công bằng, một
số tầng lớp dân c đợc hởng lợi nhng lại làm cho nớc nhà nghèo đi.
Bên cạnh đó những thách thức nêu trên, Việt Nam cũng đã tận dụng đ-
ợc nhiều cơ hội trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế
giới. Đó là:
Thứ nhất, với quan điểm và nguyên tắc rõ rằng, Việt Nam chủ động
đẩy nhanh quá trình hội nhập. Từ nhận thức này, trong những năm qua Việt
Nam đã có bớc chuyển đổi lớn trong chính sách phát triển kinh tế đối ngoại.
Các chính sách này đều theo hớng tự do hoá, tất nhiên ở các tầng lớp khác
nhau phụ thuộc vào thực lực cụ thể của mỗi lĩnh vực.
Thứ hai, tham gia tào cầu hoá chính là nhằm tranh thủ những điều
kiện quốc tế để khai thác các tiềm năng nớc nhà, phục vụ cho việc nâng cao
đời sống nhân dân. Việt Nam là quốc giá có nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú nhng cha đợc khai thác hiệu quả. Với nguồn tài nguyên phong
phú không chỉ tạo điều kiện cho việc phát triển các ngành công nghiệp khai
Phạm Anh Dũng Lớp: 7031
5
Đề án Kinh tế chính trị Học viện Ngân hàng
thác chế biến mà còn là sức thu hút đối với các Công ty nớc ngoài. Trên cơ
sở các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có, Việt Nam có thể xác lập cơ cấu
ngành kinh tế với những sản phẩm có tính cạnh tranh đáp ứng đợc nhu cầu
thị trờng thế giới.
Thứ ba, trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang quá độ sang nền
kinh tế trí tuệ, khoa học công nghệ phát triển mạnh trở thành lực lợng sản
xuất trực tiếp, chi phối mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội nhng cũng không thể

thay thế vai trò của nguồn lực lao động. Hơn nữa, nguồn lực lao động còn là
nhân tố sáng tạo công nghệ thiết bị và sử dụng chúng trong quá trình phát
triển kinh tế.
Trên thực tế nhiều Công ty nớc ngoài ở Việt Nam, một trong những lý
do quan trọng tận dụng nguồn lao động dồi dào, rẻ và có khả năng tiếp thu
công nghệ mới ở Việt Nam. Theo đánh giá của các Công ty Nhật khi phân
tích thế môi trờng kinh doanh của các quốc gia ASEAN, Việt Nam đứng
thứ 7 trong tổng số quốc gia, lớn hơn Lào, Campuchia, Myanma. Tuy vậy
nếu xét riêng về yêu nguồn lực, lợi thế của Việt Nam không thua kém Thái
Lan, thậm chí còn vợt cả Indônêxia và Singapore. Chỉ số HDI (Huma
Development Index) của Việt Nam tuy cha so với thế giới, mới chỉ đạt 0,56,
song nếu so với các quốc gia có thu nhập tơng ứng thì Việt Nam lại thuộc
nhóm cao hơn.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo cơ hội cho nguồn lực của nớc ta khai
thông, giao lu với thế giới bên ngoài. Việt Nam đã xuất khẩu lao động qua
các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu và nhập khẩu lao động kỹ
thuật cao công nghệ mới rất cần thiết. Nh vậy với lợi thế nhất định về nguồn
lao động cho phép lựa chọn dạng hình phù hợp tham gia vào hội nhập và
quá trình hội nhập đã tạo điều kiện để nâng cao chất lợng nguồn lao động ở
Việt Nam.
Thứ t, Việt Nam đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong
điều kiện hoà bình, chính trị - xã hội ổn định. Đây là cơ hội rất quan trọng
để tập trung phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại, chính trị xã hội
Phạm Anh Dũng Lớp: 7031
6
Đề án Kinh tế chính trị Học viện Ngân hàng
ổn định là bộ lọc quan trọng trong quá trình giao lu hội nhập, hơn nữa nó
đảm bảo vai trò định hớng trong hội nhập quốc tế.
Đảm bảo không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế là mối quan tâm
hàng đầu của bất kỳ nền kinh tế nói chung và của mỗi doanh nghiệp nói

riêng. Hiểu đúng bản chất của hiệu quả kinh tế đối ngoại cũng nh mục tiêu
đảm bảo hiệu quả kinh tế của mỗi thời kỳ, là vấn đề có ý nghĩa thiết thực
không những về lý luận thống nhất quan niệm về bản chất của hiệu quả
kinh tế đối ngoại mà còn rất cần thiết cho hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực
này. Hiểu đúng bản chất hiệu quả kinh tế đối ngoại chính là xác định yêu
cầu đối với việc đề ra mục tiêu và biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế đối
ngoại. Nh vậy mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại là góp phần
thúc đẩy tăng nhanh năng suất lao động xã hội qua đó tạo thêm nguồn tích
luỹ cho sản xuất và nâng cao mức sống ở trong nớc.
Chúng ta thực hiện mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
phải dựa trên những nguyên tắc và hình thức cơ bản của kinh tế đối ngoại.
3. Những nguyên tắc và hình thức cơ bản của kinh tế đối ngoại
Không một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển kinh tế mà lại
không tham gia vào phân công lao động quốc tế và trao đổi hàng hoá với n-
ớc ngoài. Nền kinh tế đối ngoại không chỉ là nhân tố bổ sung cho kinh tế
trong nớc mà kinh tế trong nớc phải thích nghi với lựa chọn phân công lao
động quốc tế. Do vậy, phải khai thác đợc mọi lợi thế của hoàn cảnh chủ
quan trong nớc phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế thế giới và quan hệ
kinh tế quốc tế. Mặt khác phải tính toán lợi thế tơng đối có đợc nhờ tham
gia vào buôn bán và phân công lao động quốc tế. Do đó nói đến kinh tế đối
ngoại là nói đến khả năng liên kết kinh tế, hội nhập với kinh tế khu vực vầ
quốc tế đòi hỏi khả năng xử lý thành công mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau.
Những nỗi bật lên, đó là nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, nó chi phối
các quan hệ kinh tế đối ngoại.
Phạm Anh Dũng Lớp: 7031
7
Đề án Kinh tế chính trị Học viện Ngân hàng
Hình thức cơ bản của kinh tế đối ngoại là xuất khẩu và nhập khẩu là
việc bán hàng hoá và dịch vụ cho nớc ngoài. Nhập khẩu là việc mua bán
hàng hoá và dịch vụ của nớc ngoài.

Trên đây là những vấn đề lý luận mà chúng ta cần phải nắm rõ để có
thể đi vào nghiên cứu thực trạng và các giải pháp nhằm mở rộng và nâng
cao hiệu quả kinh tế đối ngoại từ nay đến hết năm 2020.
Phạm Anh Dũng Lớp: 7031
8
Đề án Kinh tế chính trị Học viện Ngân hàng
Chơng II: Thực trạng và giải pháp
Sự phát triển kinh tế đối ngoại nớc ta trong thời gian vừa qua đã có ý
nghĩa hết sức quan trọng, thậm chí là quyết định đối với sự tăng trởng kinh
tế của nớc ta. Nớc ta đã đã đạt đợc nhiều thành tựu cả về tăng trởng xuất
nhập khẩu, thu hút vốn nớc ngoài và phát triển du lịch. Tuy nhiên còn rất
nhiều vấn đề nan giải mà chúng ta phải quan tâm.
1. Thực trạng
Kinh tế đối ngoại đã đạt tốc độ tăng trởng kinh tế khá cao trong cả
thập kỷ 90, mặc dù có sự giảm sút tốc độ từ năm 1999
Lý do cho sự tăng tởng cao của các lĩnh vực kinh tế đối ngoai trên có
thể là tơng đối rõ, những lý do cho sự sụt giảm tốc độ tăng trởng kinh tế đối
ngoại trong những năm gần đây còn có thể có những ý kiến khác nhau.
Đóng là có lý do khách quan do suy giảm kinh tế toàn cầu và khu vực, do
giá hàng xuất khẩu của ta giảm nghiêm trọng Tuy nhiên, Trung quốc
cũng chịu tác động bởi những hoàn cảnh khách quan bên ngoài nh nớc ta
nhng cả giá trị xuất khẩu lẫn FDI vào Trung Quốc trong vài năm nay vẫn có
mức tăng trởng cao. Do vậy, việc giảm tăng trởng của cả giá trị xuất khẩu
lẫn FDI vào nớc ta trong thời gian qua không chỉ do nguyên nhân khách
quan, mà có thể lại do những nguyên nhân chủ quan là chính
Trớc hết, đó là tình trạng bảo hệ mậu dịch không giảm đáng kể mà
còn gia tăng.
Mức thuế suất nhập khẩu bình quân đã đợc giảm từ trên 16% xuống
còn trên 13% trong thời gian 1996 - 1998, nhng đã tănglên tới 16% vào
năm 1001. khung thuế nhiều và nhiều mặt hàng nhập khẩu còn chịu mức

thuế cao; chỉ có 20% số dòng thuế đợc áp dụng mức thuế 5%. Việc hoàn
thuế cho các hàng hoá nhập để xuất có quá nhiều thủ tục phức tạp phiền hà
và kém hiệu lực. Các biện pháp phi thuế quan nhằm bảo hộ mậu dịch vẫn
còn đợc áp dụng đối với nhiều lĩnh vực, đặc biệt là sự quản lý của các bộ
chuyên ngành. Hàng rào bảo hộ mậu dịch cao này tởng nh chỉ có tác dụng
Phạm Anh Dũng Lớp: 7031
9
Đề án Kinh tế chính trị Học viện Ngân hàng
ngăn chặn các dòng hàng nhập khẩu, nhng trên thực tế chúng đã tác động
tiêu cực tới toàn bộ hoạt động kinh tế đối ngoại. Vì khi đánh thuế cao vào
các hàng hoá nhập khẩu, giá bán của chúng và các hàng hoá liên quan ở
trong nớc đã tăng lên. Các nhà xuất khẩu phải sử dụng các hàng hoá giá cao
này, công nhân viên của họ cũng phải tiêu dùng các hàng hoá nhập khẩu
giá cao, mà mức cao giá này ớc tính vào khoảng 20 - 100% tuỳ theo mặt
hàng. Do vậy đã đẩy chi phí của các hàng xuất khẩu tăng lên, giảm khả
năng cạnh tranh của chúng và tác động xuấu đến xuất khẩu. Hàng rào bảo
hộ mậu dịch cao chỉ khuyến khích sản xuất thay thế nhập khẩu, FDI cũng
tự nhiên phải theo hớng này, trong khi thị trờng nội địa của ta nhỏ bé và
ngày càng bão hoà, do vậy FDI không tăng lên đợc và thậm chí đã chậm lại.
Hàng rào bảo hộ còn ảnh hởng xấu tới cả du lịch, vì giá cả tiêu dùng ở Việt
nam cao, không hấp dẫn khách du lịch.
Thứ hai, chi phí sản xuất của ta nói chung còn cao so với các quốc
gia khu vực, do vậy lợi thế cạnh tranh bị giảm thiểu.
Chi phí sản xuất đã phụ thuộc vào các yếu tố: thuế nhập khẩu, thuế
doanh thu VAT, các phụ phí, tiền lơng, giá các dịch vụ, công nghệ đợc sử
dụng
Thuế xuất khẩu, kể cả hàng rào phi thuế quản của nớc ta hiện nay có
lẽ ở vào hàng cao nhất khuvực, cao hơn cả Trung Quốc, trong khi mức thuế
quan của nhiều quốc gia Đông á hiện chỉ còn khoảng 4 - 6%. Thuế doanh
thu của ta ở mức 32%, cũng vào hàng cao nhất khu vực. Thuế VAT, thuế

tiêu thụ đặc biệt, phụ thu đều ở mức cao . Thế thu nhập đối với ngời nớc
ngoài của ta hiện ở mức cao nhất trong khu vực, trong khi ở Indônêxia là
30%. Thái Lan là 37%, ở Trung Quốc là 45%. Mức thuế thu nhập cao này
đã làm cho ngời nớc ngoài không muốn làm việc ở Việt Nam.
Tính chung chi phí lao động của nớc ta hiện nay tơng tự với
Inđônêxia, còn thấp hơn các nớc ASEAN - 4, nhng mức thấp này đã giảm
dần.
Phạm Anh Dũng Lớp: 7031
10
Đề án Kinh tế chính trị Học viện Ngân hàng
Giá các dịch vụ nh liên lạc, viễn thông, hàng không, diện, nớc đều
ở mức cao: chi phí điện cao hơn 4 nớc ASEAN: Xingapo, Ma laixia, Thái
Lan, Indônêxia; giá nớc cao hơn Philipin gà gần ngang với Malaixia, Thái
Lan; chi phí liên lạc, viễn thông vào loại cao nhất khu vực; chi phí cả Trung
Quốc.
Công nghệ đợc sử dụng trong các doanh nghiệp Việt Nam khá lạc
hậu so với các quốc gia khác trong khu vực. Ví dụ, xí nghiệp sản xuất xi
măng Sai Mai do nớc ngoài đầu t sản xuất ở nớc ta 1 tấn xi măng chi phí 12
USD, trong khi các xí nghiệp sản xuất xi măng của ta chi phí 26 USD
Chi phí sản xuất của ta cao nh vậy, nên khả năng cạnh tranh của hàng
Việt Nam bị giảm thiểu cả ở thị trờng trong nớc và nớc ngoài.
Thứ ba, chính sách tiền tệ và tín dụng hỗ trợ hoạt động kinh tế đối
ngoại yếu.
Tỷ giá giữa đồng Việt Nam với USD và các đồng tiền khác tuy đã đ-
ợc nhiều lần điều chỉnh kể từ 1996, nhng hiện vẫn còn cao. Theo một số
chuyên gia nớc ngoài, mức cao này khoảng trên 10% và đã tác động tiêu
cực đến hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trờng ASEAN, Nhật Bản và
liên minh Châu Âu, trừ Trung Quốc và Mỹ, Việt Nam đông cao và cha do
thị trờng đích thực xác định đã tác động xuấu không chỉ tới xuất khẩu mà
cả với FDI và du lịch. Đồng tiền Việt Nam cho đến nay, cha có thể chuyển

đổi tự do. Trong khi tổng giá trị xuất khẩu của nớc ta đã ngang bằng tổng
GDP, thì đây là một vấn đề rất bất lợi. Buôn bán quốc tế lớn đến thế mà
đồng tiền không chuyển đổi tự do đợc, có nghĩa là các nhà kinh doanh nhập
khẩu của ta phải chịu các chi phí chuyển đổi tiền với thủ tục phiền hà và tốn
kém thời gian. Đã thế họ còn phải chịu thiệt do quy định về kết hối ngoại
tệ, tiền của họ thu đợc do xuất khẩu, khi nhập khẩu cần ngoại tệ lại phải xin
phép ngân hàng cấp.
Ngoài ba nguyên nhân trên còn có thể có những nguyên nhân khác
nh: lao động Việt Nam ít đợc đào tạo, không lành nghề; thể chế hành chính
Phạm Anh Dũng Lớp: 7031
11
Đề án Kinh tế chính trị Học viện Ngân hàng
luật pháp không minh bạch; bộ máy quản lý yếu kém và quan liêu tham
nhũng và
Sự phát triển vợt trội của khu vực kinh tế đối ngoại.
Kim ngạch xuất khẩu của nớc ta năm 2001 đã đạt tới 31,2 tỷ USD,
nghĩa là xấp xỉ với tổng giá trị GDI, trong đó giá trị xuất khẩu khoảng 15
tỷ. Trớc thập kỷ 1990, tổng kim ngạch xuất khẩu so với GDI của nớc ta chỉ
vào khoảng 30%. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu so với GDP của Trung
Quốc hiện nay cũng chỉ vào khoảng trên 30%. Các nớc Xingapore,
Malaixia, Thái Lan đã có tỷ trọng so sánh giữa giá trị xuất nhập khẩu và
GDP cao hơn ta
Tổng vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài đã đăng ký vào Việt Nam đến
năm 2001 là 38,8 tỷ USD, tỷ trọng của vốn FDI đợc thực hiện trong tổng
đầu t xã hội vào khoảng 20% - 32%, nghĩa là năm cao nhất (1996) đã đạt
tới trên 32% nhăm năm đạt thấp vào khoảng trên 20%, nếu tính cả các
nguồn vốn nớc ngoài khác nh vốn ODA, và vốn vay thơng mại thì nguồn
vốn nớc ngoài đã chiếm khoảng 50% tổng đầu t xã hội vào giữa những năm
1990 (những năm say tỷ trọng này đã giảm).
Ngành du lịch Việt Nam đã có bớc phát triển đáng kể. Số khách đu

lịch quốc tế vào Việt Nam đã tăng đều, năm 2001 đạt 2,3 triệu khách và
hiện có hàng năm ngàn lao động Việt Nam đang làm việc ở nớc ngoài đem
lại nguồn thu nhập hàng tỷ USD hàng năm cho đất nớc
Vấn đề đặt ra là một khi giá trị xuất khẩu xuấp xỉ bằng tổng GDP,
vốn FDI và các nguồn vốn nớc ngoài khác đã chiếm tới gần 50% tổng vốn
đều t xã hội, số khách du lịch vào Việt Nam lên tới 2,3 triệu ngời, thì các
thể chế kinh tế nớc ta không thể vẫn mang tính chất hớng nội nh trớc đợc.
Đồng tiền Việt Nam không chuyển đổi đợc đã gây thiệt hại cho cả hoạt
động xuất nhập khẩu, đầu t nớc ngoài và du lịch, ngời nớc ngoài và cả ngời
Việt Nam kinh doanh đối ngoại cũng sẽ nản lòng vì việc chuyển đổi ngoại
tệ khó khăn, tốn kém. Các vấn đề về tỷ giá, thuế quan, hải quan, những quy
chế về đầu t nớc ngoài, chính sách xuất nhập cảnh cần phải đợc xem xét
Phạm Anh Dũng Lớp: 7031
12
Đề án Kinh tế chính trị Học viện Ngân hàng
lại và đổi mới thích hợp với những điều kiện mới của khu vực kinh tế đối
ngoại đã gia tăng vợt trội.
Kinh tế đối ngoại và đối nội thực chất chỉ là hai mặt của một nền
kinh tế, vì vậy những thay đổi về kinh tế đối ngoại đòi hỏi kinh tế đối nội
phải thay đổi. Chính sự tiến triển không kịp của kinh tế đối nội sẽ cản trở
kinh tế đối ngoại phát triển và ngợc lại. Nớc ta đang ở thời điểm kinh tế đối
nội không phát triển kịp, cả trở kinh tế đối ngoại - luật pháp thay đổi chậm,
các Công ty chậm đổi mới và yếu kém, điều hành của bộ máy quản lý kém
hiệu lực
Đội ngũ các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh kinh tế đối ngoại đã
tăng cả về số lợng và chất lợng nhng vẫn cha đáp ứng đợc yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay.
Trớc những năm 1990 các doanh nghiệp hoạt động kinh tế đối ngoại
chỉ có mấy trăm Công ty xuất nhập khẩu và du lịch quốc tế và tất cả đều là
của quốc doanh. Nay đội ngũ doanh nghiệp hoạt động kinh tế đối ngoại đã

lên đến hàng nghìn gồm cả quốc doanh, t nhân và các doanh nghiệp có vốn
đầu t nớc ngoài. Đó là một bớc tiến to lớn cần phải khẳng định.
Đội ngũ các doanh nghiệp hoạt động kinh tế đối ngoại có một vai trò
rất quan trọng, nếu không nói là quyết định đối với sự phát triển kinh tế đất
nớc. Thực tế thế giới cho thấy các doanh nghiệp này hoạt động rất đa dạng
trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, từ sản xuất, thơng mại dịch vụ đến bảo
hiểm Chính tính đa dạng này mới đảm bảo cho hoạt động kinh tế đối
ngoại có hiệu quả. Một doanh nghiệp sản xuất xuất khẩu muốn có hiệu quả
cần phải vay mợn vốn nớc ngoài (vì vốn trong nớc không đủ và nhiều khi
quá đắt), cần phải có dịch vụ t vấn nớc ngoài (vì t vấn trong nớc cha đủ
trình độ), cần phải chuyển đổi ngoại tệ, cần bảo hiểm rủi ro, cần thuê mớn
chuyên gia, cần Marketing quốc tế ở nớc ta các doanh nghiệp hoạt động
kinh tế đối ngoại thờng mới ở hai lĩnh vực: sản xuất và kinh doanh xuất
nhập khẩu. ở các lĩnh vực khác ta cha có, nhng cũng cha có, nhng cũng cha
cho phép các Công ty nớc ngoài hoạt động.
Phạm Anh Dũng Lớp: 7031
13
Đề án Kinh tế chính trị Học viện Ngân hàng
Hoạt động của các Công ty kinh doanh đối ngoại phải xuyên quốc
gia, để có thể lợi dụng đợc những lợi thế so sánh của các nớc. Công ty
Honda của Nhật đã có chi nhánh ở nhiều nớc, vì tại mỗi một nớc đó Honda
có thể tận dụng đợc lợi thế hoặc về tài nguyên, hoặc về lao động, hoặc về vị
trí địa lý , do vậy có thể giản thiểu các chi phí. Các Công ty hoạt động
xuất khẩu của ta nói cung cha hoạt động xuyên quốc gia, đã thế ta còn có
chính sách nội địa hoá bắt buộc, ép các Công ty nớc ngoài phải sản xuất
càng nhiều các linh kiện ở Việt Nam càng tốt. Chính sách này đã triệt tiêu
mất lợi thế hoạt động của các Công ty xuyên quốc gia. Vì các Công ty này
chỉ muốn lợi dụng lao động rẻ và vị trí thuận lợi của Việt Nam để lắp ráp
rồi xuất vào Đông Nam á. Nếu ta ép họ phải sản xuất những thứ linh kiện
mà nớc ta không có lợi thế, do vậy là đi ngợc lại lợi ích của họ. Kinh

nghiệm của nhiều nớc Châu á cho thấy để có một đội ngũ các Công ty hoạt
động xuyên quốc gia cần nhiều thời gian. Bớc đi đầu tiên là thu hút các
Công ty xuyên quốc gia nớc ngoài vào hoạt động ở nớc ta, biến họ thành
các Công ty của ta. Những Công ty này chính là hình mẫu để các Công ty
của ta đi theo và phát triển. Nớc ta đi theo hớng này, nhng chúng ta mới chỉ
cho phép họ xuất nhập khẩu những gì họ đã đăng ký kinh doanh. Trong thời
gian tới phải cho họ hoạt động toàn diện hơn.
Các Công ty kinh doanh đối ngoại của các quốc gia hiện nay đều là
những Công ty xuyên quốc gia hiện nay đều là những Công ty xuyên quốc
gia t nhân, hoặc cổ phần có tiềm năng to lớn về cả kinh tế, kỹ thuật, nhân
lực, thị trờng Trong khi các Công ty kinh doanh đối ngoai của ta cho đến
nay chủ yếu vẫn là các Công ty quốc doanh liên doanh với nớc ngoài. Các
Công ty t nhân và nhất là t nhân 100% vốn nớc ngoài còn bị phân biệt đối
xử trong hoạt động kinh tế đối ngoại, mặc dù gần đây Nhà nớc ta đã cho
phép khu vực t nhân đợc hoạt động xuất nhập khẩu và liên doanh liên kết
với nớc ngoài.
Có thể nói là nếu các Công ty hoạt động kinh tế đối ngoại của nớc ta
vẫn chủ yếu là các Công ty quốc doanh, không hoạt động xuyên quốc gia,
Phạm Anh Dũng Lớp: 7031
14
Đề án Kinh tế chính trị Học viện Ngân hàng
không đa dạng hoá các hoạt động thì lợi thế so sánh của các Công ty này
trên thị trờng quốc tế chắc chắn sẽ khó tránh khỏi thua kém các Công ty
xuyên quốc gia của các nớc khác.
2. Giải pháp
Các quan hệ bên trong nền kinh tế hiện tại là quan hệ thị trờng, còn
các quan hệ phi thị trờng thì rất ít và có lẽ chỉ tồn tại trong viện trợ ODA,
viện trợ không hoàn lại, tài trợ của các loại quỹ t nhân Tính chất thị trờng
đậm nét của các quan hệ kinh tế quốc tế đã quy định các quan hệ kinh tế
đối ngoại của mọi quốc gia trớc hết phải tuân thủ các nguyên tắc của thị tr-

ờng: Sản xuất lu không phải theo cung cầu của thị trờng thế giới: tỷ giá giữa
các đồng tiền cũng do thị trờng thế giới quy định, giá cả của các hàng hoá
và dịch vụ lu thông trên thị trờng thế giới là giá cả thị trờng thế giới; giá
chứng khoán, công trái, cũng phải do thị trờng quy định. Các quan hệ kinh
tế bên trong của một quốc gia hiện có thể do các chính phủa quốc gia điều
tiết, có khi khá chặt chẽ, nhng những quan hệ kinh tế quốc tế hiện chịu sự
điều tuết của các chính phủ một cách rất hạn chế, chúng có một không gian
rộng rãi hơn để tự do vận động.
Thực tế của thế giới cho thấy, các quan hệ kinh tế đối ngoại của một
quốc gia càng vận động theo các nguyên tắc của thị trờng nền kinh tế của
quốc gia ấy càng có thể tham gia sâu rộng và có hiệu quả vào quá trình hội
nhập toàn cầu. Thực tế của các nớc ASEAN và Đông á đã cho thấy điều
đó: giá cả trong nớc càng sát với giá thị trờng thế giới, ngời tiêu dùng trong
nớc đợc hởng lợi do mua hàng không phải chịu thuế nhập khẩu cao, các lợi
thế cạnh tranh của quốc giá đợc phát huy: tỷ giá thị trờng đã đảm bảo mức
giá của đồng tiền quốc gia phù hợp với giá thực tế, tạo điều kiện đảm bảo
sức cạnh tranh của nền kinh tế: giá chứng khoán, cổ phiếu có tính thị trờng
quốc tế đã tạo điều kiện khai thông dòng vốn quốc tế đi tới mọi vùng trong
nớc
Phạm Anh Dũng Lớp: 7031
15
Đề án Kinh tế chính trị Học viện Ngân hàng
Do vậy, ta cần có một lộ trình chủ động và tích cực để chuyển các
quan hệ kinh tế đối ngoại vận động theo các nguyên tắc của thị trờng, nếu
năm 2006 ta thực hiện đầy đủ các cam kết với AFTA và các cam kết chủ
yếu trong Hiệp định thơng mại với Hoa Kỳ, nếu 2004 nớc ta đợc gia nhập
WTO, thì lộ trình chuyển các quác hệ kinh tế đối ngoại nớc ta vận động đầy
đủ theo các nguyên tắc của thị trờng cũng không thể vợt quá 2006. Vì
những cam kết quốc tế này buộc nớc ta phải xoá bỏ hàng rào phi thuế quan
và hạ thấp thuế quan xuống vào khoảng 5 - 10%, thừa nhận rộng rãi các

quyền kinh doanh của các Công ty nớc ngoài tại nớc ta trên nhiều lĩnh vực
kể cả dịch vụ. Trong tình hình đó, nếu giá hàng hoá và dịch vụ nớc ta không
theo sát giá thế giới, tỷ giá vẫn không do thị trờng định, đồng Việt Nam vẫn
không chuyển đổi đợc, thị trờng vốn cha khai thông với thị trờng thế gới,
các chủ kinh doanh của ta vẫn không đủ các quyền lao động thì nền kinh
tế nớc ta sẽ hội nhập vào nền kinh tế thế giới với những khiếm khuyết và
hạn chế to lớn, làm giảm thiểu vị thế cạnh tranh so với các nền kinh tế trong
khu vực.
Bảo hộ mậu dịch và phát triển kinh tế đối ngoại.
Có quan điểm cho rằng có thể thực thi chính sách bảo hộ mậu dịch,
đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút các nguồn vốn nớc ngoài. Thực tế
thế giới cho thấy đã không có quốc gia nào thực hiện thành công chính sách
này. Một nguyên tắc gần nh phổ biến trong các quan hệ quốc tế hiện nay là:
một quốc gia muố mở cửa thị trờng nớc khác thì đồng thời phải mở cửa thị
trờng nớc mình. Các nớc phát triển đến cuối thập kỷ 1990 đã mở cửa nền
kinh tế của họ ở mức rất cao: thuế quan trung bình chỉ còn khoảng 2 - 4%
hàng rào phi thuế quan bị bãi bỏ về cơ bản. Nếu một nớc nào đó muốn đặt
mức thuế quan bị bãi bỏ về cơ bản. Nếu một nớc nào đó muốn đặt mức thuế
quan cao cho một sản phẩm nhập khẩu, lập tức sẽ bị các đối tác kiện ra
WTO và có thể bị trả đũa. Việc Mỹ 2002 đơn phơng tăng thuế nhập khẩu
thép lên 30% là một ví dụ.
Phạm Anh Dũng Lớp: 7031
16
Đề án Kinh tế chính trị Học viện Ngân hàng
Bảo hộ mậu dịch trên thực tế đã chó hại cho sự phát triển kinh tế đối
ngoại: Việc tăng giá các sản phẩm trong nớc đã làm tăng chi phí đối với cả
sản xuất xuất khẩu cũng nh phục vụ nhu cầu trong nớc: che chở cho các
doanh nghiệp trong nớc sản xuất kém hiệu quả mở rộng sản xuất - chống lại
các giải pháp hội nhập quốc tế: khuyến khích xu hớng thay thế nhập khẩu
khẩu - giảm thiểu cơ hội mở rộng khả năng thu hút đầu t nớc ngoài

Song có quan điểm cho rằng các nớc kém phát triển cần một lộ trình
bảo hộ mậu dịch để tham gia có hiệu quả vào hội nhập quốc tế; lộ trình này
càng dài càng tốt, vì các doanh nghiệp trong nớc càng có nhiều thời gian tr-
ởng thành để đua tranh trên thơng trờng quốc tế. Đúng là các nớc kém phát
triển cần có một lộ trình hội nhập quốc tế, nhng lộ trình này không phải là
một lộ trình gia tăng chính sách bảo hộ mậu dịch để rồi xoá bỏ nó, mà là
một lộ trình bãi bỏ dần các hàng rào bảo hộ. Thờng lộ trình này kéo dài 2 -
5 năm, tuỳ theo từng ngành kinh tế kỹ thuật. Xét về hiệu quả kinh tế thuần
tuý, thì không cần đến lộ trình này, lý thuyết kinh tế học hiện đại và thực tế
hàng chục năm qua đã chứng minh cho luận điểm này. nhng xét về mặt
chính trị và xã hội, thì lại cần cón một lộ trình nh vậy để đổi mới cơ cấu sản
xuất, giải quyết tình trạng thất nghiệp, đào tạo lại nghề nghiệp, giữ ổn định
xã hội Một Nhà nớc càng có năng lực giải quyết tốt các vấn đề trên, thì lộ
trình hội nhập quốc trế càng đợc rút ngắn và ngợc lại.
Có ngời lo ngại rằng việc giảm thuế nhập khẩu sẽ làm giảm muốn thu
ngân sách. Thực tế của thế giới cho thấy ở những quốc gia giảm thuế nhập
khẩu, nguồn thu ngân sách không những không giảm mà còn tăng, do diện
thu thuế tăng, do tình trạng trốn lậu thuế, tham nhũng giảm
Dựa vào những phân tích trên đây, nớc ta cần có một lộ trình hội
nhập quốc tế chủ động và tích cực phù hợp với thực tế. Lộ trình này một
mặt tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cho nớc tự vơn lên, mặt khác dùng
sức ép của việc giảm dần hàng rào bảo hộ để buộc các doanh nghiệp phải v-
ơn lên, nếu không sẽ bị đào thải. Thực tế lịch sử cho thấy doanh nghiệp kể
cả doanh nghiệp t nhân, không mấy khi tự đổi mới để vơn lên, mà thờng
Phạm Anh Dũng Lớp: 7031
17
Đề án Kinh tế chính trị Học viện Ngân hàng
cũng chỉ đổi mới khi có sức ép bên ngoài đặt họ trớc sự lựa chọn - hoặc
phải phá sản hoặc phải đổi mới. Một lộ trình hội nhập quốc tế tích cực,
giảm hàng rào bảo hộ chính là sức ép cần thiết bên ngoài đó.

Xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng là một tiền để mở rộng kinh
tế đối ngoại
Các cơ sở hạ tầng cần cho hoạt động kinh tế đối ngoại là các cảng
biển, đặc biệt là cảng trung chuyển quốc tế, sân bay quốc tế, các đờng cao
tốc nối từ các trung tâm kinh tế đến sân bay và cảng biển, hệ thống liên lạc,
viễn thông, cung cấp điện
Về cảng biển, theo các chuyên gia nớc ngoài, hiệu suất cảng biển
Việt Nam đợc xếp thứ bẩy trong số 9 nớc Đông á mà họ đánh giá, Việt
Nam xếp sau Xingapore, Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, chỉ
xếp trên Trung Quốc và Inđônêxia. Phải nói thêm là phần lớn các hàng xuất
khẩu của Trung Quốc đều qua cảng Hồng Kông, nên Việt Nam chỉ hơn
Inđônêxia. Các hãng vận tải biển nớc ngoài xếp cảng Việt Nam vào nhóm
độc quyền kiểu Cácten vì tất cả cảng do Nhà nớc sở hữu và vận hành. N-
ớc ta cha có cảng trung chuyển quốc tế, nên hàng xuất khẩu của ta phải
trung chuyển qua các cảng Hồng Kông, Xingapore, làm tăng thêm chi phí
khoảng 20 - 30%, phí cảng của ta do ban vật giá chính phủ định hiện là rất
cao, trong khi công nghệ bốc dỡ kém, quản lý lạc hậu, thời gian giải phóng
tàu lâu, càng làm tăng thêm chi phí cho ngời xuất khẩu.
Về hàng không, ta có 2 sân bay quốc tế ở Hà Nội và thành phố Hồ
Chí Minh, nhng đều kém các sân bay quốc tế trong khu vực. Theo quy định
hiện nay các hãng hàng không nớc ngoài không đợc phép có quyền lực do
thứ năm trong việc mang hàng vào và ra khỏi Việt Nam từ các điểm trung
chuyển nh Băng Cốc, Hồng Kông, do vậy công suất đều thừa, không sử
dụng hết. Giá vé máy bay của ta hiện còn cao so với khu vực cùng với tình
trạng luôn phải chậm giờ bay, hoãn chuyến càng làm giảm sức hấp dẫn của
hàng không Việt Nam
Phạm Anh Dũng Lớp: 7031
18
Đề án Kinh tế chính trị Học viện Ngân hàng
Về đờng cao tốc, nớc ta mới có đợc vài trăm km đờng cao tốc, một

con số quá bé nhỏ so với các quốc gia trong khu vực. Số lợng đờng cao tốc
ít ỏi đã làm cho hàng hoá chậm đến cảng và sân bay quốc tế, hàng tăng
thêm chi phí và thời gian.
Về cung cấp điện, tiêu dùng điện theo đầu ngời ở nớc ta hiện vào
khoảng 232 kwh, dới mức trung bình của các nớc có thu nhập thấp 363
kwh, dới xa mức trung bình của các nớc khu vực Châu á - Thái Bình Dơng
- 787 kwh. Tình trạng gây cắt điện và tăng giảm điện áp đã gây thiệt hại
đáng kể cho các nhà máy sản xuất hàng xuất khẩu. Giá điện của Việt Nam
bán cho ngân sách Nhà nớc, kể cả nguồn vốn ODA cũng không đủ đáp ứng
các nhu cầu to lớn này. Do vậy cần phải có quy hoạch tổng thể về cơ sở hạ
tầng xây dựng các nhà máy sản xuất công nghiệp sang xây dựng cơ sở hạ
tầng. Mở rộng các hình thức huy động vốn da đạng, cần có chính sách để
mọi thành phần kinh tế có thể tham gia kinh doanh cơ sở hạ tầng. Ngay
những bớc giầu nh Mỹ, Nhật, Nhà nớc cũng không đủ tiền xây dựng hạ
tầng, mà phải huy động các thành phần kinh tế khác. Nớc ta nghèo hơn nên
càng phải sử dụng các thành phần Nhà nớc.
Kinh doanh cơ sở hạ tầng trong nhiều năm trớc đây thờng do các
Công ty Nhà nớc độc quyền đảm nhận, kể cả ở các nớc Phơng Tây. nhng
thực tế cho thấy tình trạng độc quyền của các Công ty Nhà nớc đã dẫn tới
những hậu quả tiêu cực - chi phí cao, phiền hà, lãng phí, tham nhũng Do
vậy trong những năm gần đây, xu hớng cho phép khu vực t nhân tham gia
kinh doanh hạ tầng cơ sở đã ngày càng phổ biến ở nhiều nớc. Nớc ta cũng
đã cho phép một số công ty nớc ngoài xây dựng các nàh máy điện dới hình
thức BOT, có thể cần phải mở rộng hơn hình thức này sang nhiều lĩnh vực
khác.
Khai thông các nguồn vốn cung ứng cho hoạt động kinh tế đối ngoại
Các hoạt động kinh tế đối ngoại từ xuất nhập khẩu, du lịch đến đều t
nớc ngoài đều cần đến những nguồn vốn to lớn. Không có đủ vốn, cũng có
nghĩa là kinh tế đối ngoại không hoạt động đợc. Những nguồn vốn này hiện
Phạm Anh Dũng Lớp: 7031

19
Đề án Kinh tế chính trị Học viện Ngân hàng
đang d thừa cả trong ngoài nớc. Hàng năm hàng tỷ USD tiền gửi tiết kiệm
đã không sử dụng đợc ở trong nớc phải gửi ra các ngân hàng ở nớc ngoài,
nếu tính cả số tiền gửi ra nớc ngoài qua các kênh không chính thức thì số
tiền đó còn lớn hơn. Nguồn vốn tích trữ trong dân dới nhiều dạng của cải
khác nhau còn khá lớn, nguồn vốn da thừa bên ngoài tính đến hàng ngàn tỷ
USD. Vấn đề là chúng ta cha có một cơ chế thích hợp để thu hút nguồn vốn
này cho hoạt động kinh tế đối ngoại
Cơ chế và bộ máy huy động và phân bổ các nguồn vốn của nớc ta
hiện quá lạc hậu và vẫn theo cơ chế mệnh lệnh và bao cấp. Các ngân hàng
thơng mại và phân bổ các nguồn vốn chính trong nớc nhng họ vấn phải hoạt
động theo chỉ lệnh là chính, các ngân hàng cổ phần nhỏ bé, các ngân hàng
nớc ngoài hoạt động rất hạn chế. Thị trờng vốn mới manh nha, nhỏ bé. Việc
huy động và phân bổ vốn ở nớc ta hiện chủ yếu vẫn do các ngân hàng thơng
mại quốc doanh đảm nhận với rất nhiều hạn chế. Các ngân hàng này yếu
đến mức không cung ứng đợc đến yêu cầu về vốn cho các doanh nghiệp
hoạt động phục vụ nhu cầu nội địa, nói gì đến các nhu cầu của kinh tế đối
ngoại.
Hơn nữa, hoạt động kinh tế đối ngoại đòi hỏi các ngân hàng cung
ứng phải am hiểu thị trờng thế giới, phảm dám chấp nhận rủi ro, phải có
năng lực không những thẩm định của các dự án cho vay, mà còn đa ra đợc
các dự án kinh doanh đối ngoại có hiệu quả thích hợp với các nhà đầu t.
Các ngân hàng thơng mại của ta, kể cả ngân hàng ngoại thơng, nói chung
đã không có đợc những khả năng đó. Hơn nữa những quy định về thế chấp
hiện hành là một hạn chế lớn đối với việc cung ứng vốn hoạt động kinh tế
đối ngoại.
Những hạn chế trên đây cho thấy, nếu không sơm đổi mới, khai
thông các luồn vốn cung uqứng cho hoạt động kinh tế đối ngoại, thì khó có
thể đáp ứng đợc yêu cầu vốn để mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại. Nhng

những đổi mới này sẽ đi theo hớng nào?
Phạm Anh Dũng Lớp: 7031
20
Đề án Kinh tế chính trị Học viện Ngân hàng
Trớc hết cần mạnh dạn cho phép một số ngân hàng thơng mại của ta
liên doanh với ngân hàng nớc ngoài và cho phép các ngân hàng nớc ngoài
mở rộng dịch vụ kinh doanh và nội tệ, cung ứng tín dụng cho hoạt động
kinh tế đối ngoại cho các Công ty Việt Nam và Công ty nớc ngoài. Đây là
một giải pháp quan trọng, vì các ngân hàng nớc ngoài hiểu biết thị trờng thế
giới hơn, có nhiều năng lực thẩm định và đề xuất các dự án kinh doanh có
hiệu quả hơn Các ngân hàng nớc ngoài gia tăng hoạt động sẽ tạo ra một
áp lực cạnh tranh lớn hơn, do vậy hoạt động ngân hàng nớc ra sẽ có hiệu
quả hơn. Thứ hai, thúc đẩy thị trờng vốn hoạt động tốt hơn theo hớng một
mặt mở rộng diện cổ phần hoá và cho phép các Công ty cổ phần đợc bán cổ
phiếu; đồng thời cho phép các Công ty cha cổ phần hoà nhng kinh doanh tốt
có thể bán trái phiếu, cổ phiếu; cho phép các Công ty hoạt động đối ngoại
có thể huy động vốn theo các dự án trên thị trờng chứng khoán Mặt khác,
cần cho phép các Công ty nớc ngoài, ngời nớc ngoài đợc mua bán các loại
chứng khoán trên thị trờng. Thị trờng chứng khoán nớc ta mới hoạt động
trong một thời gian ngắn ngủi, cần có những tổng kết và đánh giá, mời các
nhà t vấn nớc ngoài có kinh nghiệm tham kiến để có thể có nhữn giải pháp
phù hợp nhằm hoàn thiện và phát triển thị trờng.
Thứ ba, nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng các loại hình kinh doanh
vốn rủi ro ở các nớc, để có thể xây dựng các quy chế, tạo ra các điều kiện
cho phép các loại Công ty kinh doanh vốn rủi ro kể cả các Công ty nớc
ngoài có thể ra đời và hoạt động ở Việt Nam. Hoạt động kinh tế đối ngoại là
một hoạt động dễ có những rủi ro, nhất là kinh doanh công nghệ cao. Do
vậy các Công ty kinh doanh vốn rủi ro là rất cần thiết.
Thứ t, xây dựng khu kinh tế mở, nớc ta đã có các khu chế xuất, các
khu công nghiệp, đang xây dựng các khu công nghệ cao, nhng cha có khu

kinh tế mở với các tiêu chí hiện đại ở một địa điểm có cảng nớc sâu có danh
tiếng trên thế giới đợc nhiều nhà đầu t nớc ngoài quan tâm: có một thể chế
kinh tế, hành chính thông thoáng phù hợp với các thông lệ quốc tế Khu
kinh tế mở này sẽ có khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả cao nhất các
Phạm Anh Dũng Lớp: 7031
21
Đề án Kinh tế chính trị Học viện Ngân hàng
dòng vốn bên ngoài và cả bên trong. Chỉ một đặc khu kinh tế Thẩm Quyến
của Trung Quốc trong nhiều năm đã thu hút đợc một khối lợng vốn FDI gần
nh bằng cả tổng giá trị FDI của Việt Nam. Cần có một chơng trình xây
dựng một số khu kinh tế mở ở Việt Nam.
Các ngành dịch vụ phải đợc phát triển và hội nhập quốc tế
Các ngành du lịch, theo cách tính của WTO, hiện có khoảng 155
ngành, bao gồm các hàng hoá ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, viễn thông,
hàng không, du lịch t vấn ở các nớc phát triển, các ngành dịch vụ đã
chiếm khoảng 60 - 70% GDP. Vai trò của nó cực kỳ quan trọng đối với toàn
bộ sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là trong thời đại chuyển sang nền
kinh tế tri thức. ở nớc ta các ngành dịch vụ hiện đại rất kém phát triển.
Không những thế quan niệm của xã hội ta vẫn xem trọng sản xuất hơn dịch
vụ, vẫn có xu hớng tập trung các nguồn lực cho sản xuất, kể cả các nguồn
lực bên gnoài. Sản xuất là quan trọng không ai phủ nhận, nhng tầm quản
trọng của nó không thể lấn át dịch vụ. Nếu ta tập trung đầu t vào sản xuất
thép, xi măng nhng không đầu t thích đáng vào các dịch vụ tài chính,
ngân hàng, bảo hiểm, t vấn thì sản xuất thép, xi măng, sẽ rơi vào tình
trạng chi phí cao, chất lợng thấp, thiếu thị trờng Một nhà đầu t nớc ngoài
vào Việt Nam chỉ đợc khuyến khích đầu t vào sản xuất khi họ bí, cần t vấn
không có, cần vậy vốn lại khó khăn, cần bảo hiểm lại quá phức tạp, cần liên
lạc viễn thông lại quá đắt Do vậy đã có nhà đầu t nớc ngoài nhận xét rằng
cho có lòng dũng cảm mới dám đầu t vào Việt Nam. Môi trờng dịch vụ hoạt
động kém là một cản trở lớn đối với các nhà đầu t từ nớc phát triển, vì họ

đang quen với môi trờng đầu t có hoạt động dịch vụ rất tốt. Điều đó giải
thích tại sao các nhà đầu t Âu, Mỹ, Nhật lại do dự khi đầu t vào Việt Nam.
Cơ cấu nhập khẩu phải phù hợp với định hớng xuất khẩu và sự phát
triển có hiệu quả của nền kinh tế đất nớc.
Cơ cấu nhập khẩu của mỗi nớc khác nhau có thể khác nhau tuỳ theo
trình độ phát triển và các điều kiện lịch sử kinh tế, văn hoá, tự nhiên khác
nhau. Trong điều kiện hiện nay, cơ cấu này phải phù hợp với cơ cấu xuất
Phạm Anh Dũng Lớp: 7031
22
Đề án Kinh tế chính trị Học viện Ngân hàng
khẩu, phù hợp với nhu cầu thị trờng thế giới và trong nớc. Nghĩa là nó phải
nhập những thứ để có thể sản xuất, gia công và xuất khẩu có hiệu quả và do
vậy đơng nhiên là có thể đáp ứng nhu cầu thay thế nhập khẩu. Một cơ cấu
nhập khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu thay thế nhập khẩu sẽ rất khó đáp ứng
cho yêu cầu xuất khẩu. Song dù khác nhau thế nào đi nữa, thì một cơ cấu
nhập khẩu có hiệu quả và hiện đại thờng bao gồm 5 nhóm hàng hoá sau:
Nguyên nhiên vật liệu: hàng tiêu dùng và dịch vụ. Cơ cấu nhập khẩu của
các nớc phát triển thờng có đủ cả 5 nhóm hàng hoá trên đây, tuy có thẻ
khác nhau về tỷ trọng. Cơ cấu nhập khẩu của các nớc đang và kém phát
triển thờng chỉ bao gồm 3 nhóm hàng hoá: máy móc thiết bị, nguyên nhiên
vật liệu và hàng tiêu dùng. Có rất ít nớc đang phát triển có một cơ cấu nhập
khẩu đủ cả 5 nhóm hàng hoá. Cơ cấu nhập khẩu có 3 nhóm hàng hoá là một
cơ cấu chỉ phù hợp với nền kinh tế hớng nội, thay thế nhập khẩu. ở những
nớc này, ngời ta nhập máy móc thiết bị cùng với nguyên vật liệu trong nớc
không có để sản xuất ra hàng hoá tiêu dùng trong nớc cần; và để có tiền
nhập khẩu, những nớc này đã xuất khẩu tài nguyên của họ nh; dầu mỏ, các
loại quặng, nông, lâm, hải sản Cần lu ý là nếu chỉ dùng ngoại tệ do xuất
khẩu tài nguyên đẻ mua máy móc thiết bị, công nghệ, thì thờng rơi vào tình
thế phải mua máy móc thiết bị cũ, đất nớc sẽ thành bãi thải công nghệ.
Cơ cấu nhâp khẩu có đủ 5 nhóm hàng hoá sẽ phù hợp với hớng xuất khẩu

và hội nhập quốc tế, bởi vì nhờ có nhập khẩu bằng phát minh sáng chế và
dịch vụ, nên các máy móc thiết bị và nguyên vật liệu nhập khẩu đợc sử
dụng có hiệu quả, có sức cạnh tranh quốc tế. Nhật Bản là một ví dụ nổi bật,
năm 1950. Nhật Bản cha phải là một nớc phát triển, cha có các công nghệ
nguồn, nên Nhật Bản đã thực thi chính sách chú trọng nhập khẩu kỹ thuật
nớc ngoài. Trong thời kỳ 1950 - 1974 tổng số vụ nhập khẩu kỹ thuật của
Nhật Bản là 15.289 trong đó gần 70% từ Mỹ, do vậy tỷ trọng hàng chế tạo
theo bằng sáng chế phát minh nớc ngoài của Nhạt bản đã ở mức cao nhất
thế giới và tính đến năm 1968, nhờ nhập khẩu kỹ thuật và các dịch vụ cần
Phạm Anh Dũng Lớp: 7031
23
Đề án Kinh tế chính trị Học viện Ngân hàng
thiết, Nhật bản đã tiết kiệm đợc trên 100 tỷ USD và đa ngành công nghiệp
chế tạo của Nhật Bản lên ngang tầm thế giới.
Cơ cấu nhập khẩu của nớc ra hiện là cơ cấu nhập khẩu 3 nhóm hàng
hoá - máy móc thết bị, nguyên vật liệu và hàng tiêu dùng, hầu nh không
nhập khẩu bằng phát minh sáng chế và dịch vụ. Trong ba nhóm hàng hoá
trên, nhóm hàng tiêu dùng thờng chiếm một tỷ trọng nhỏ và giảm dần trong
những năm gần đây. Năm 1995. Hàng tiêu dùng còn chiếm 15,2% tổng giá
trị nhập khẩu, nhng đến năm 2001, đã giảm xuống chỉ còn 5,3%. Trong
nhiều năm ta tỏ ra rất yên tâm về cơ cấu nhập khẩu này, vì cho rằng ta chỉ
nhập máy móc thiết bị, nguyên vật liệu cần cho phát triển sản xuất trong n-
ớc. Một cơ cấu cần cho phát triển sản xuất trong nớc hẳn phải là một cơ cấu
tiến bộ. Song thực tế đã không hẳnn nh vậy. Việc ta chỉ nhập khẩu ít hàng
tiêu dùng khoảng 10% tổng giá trị nhập khẩu là điều không bình thờng. Th-
ờng các nớc ở trình độ phát triển thấp nh ta, kể cả Nhật Bản thời kỳ những
năm 1950, tỷ lệ nhập khẩu hàng tiêu dùng cũng vào khoảng 20% tổng giá
trị hàng nhập khẩu. Vì hàng nhập khẩu hàng tiêu dùng chính thức chỉ có
5% với mức thuế cao và nhiều cấm đoán, nên tình trạng buôn lậu ở nớc ta
mới chỉ có 5% với mức thuế cao và nhiều cấm đoán nên tình trạng buôn lệu

ở nớc ta mới trở thành quốc nạn, và kèm theo nó là nạn tham nhũng. Nếu
cộng cả giá trị hàng nhập lậu nữa thì tỷ trọng nhập khẩu hàng tiêu dùng
chắc đã không kém 20% tổng giá trị nhập khẩu. Ta không nhập khẩu bằng
phát minh sáng chế - đó là một khiếm khuyết lớn, do vậy ta chỉ còn nhập
máy móc thiết bị. Nớc ta chỉ xuất khẩu dầu thô, nông hải sản, khó mua đợc
máy móc thiết bị hiện đại, do vậy phải mua máy móc thiết bị cũ, xuất hiện
nguy cơ biến nớc ta thành bãi thải công nghệ cũ:. Do ta không nhập bằng
phát minh sáng chế để hiện đại hoá các máy móc cũ, nên phải dùng máy
móc cũ, công nghệ lạc hậu, tiêu xài nhiều nguyên, nhiên vật liệu nhập khẩu
- làm gia tăng chi phí. Ta cũng phải không nhập khẩu các dịch vụ cần cho
phát triển công nghiệp nh các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, viễn
Phạm Anh Dũng Lớp: 7031
24
Đề án Kinh tế chính trị Học viện Ngân hàng
thông, t vấn v.v nên các máy móc thiết bị và nguyên nhiên vật liệu nhập
khẩu về đợc sử dụng càng kém hiệu quả.
Lý thuyết kinh tế học hiện đại chú trọng xuất khẩu để thu ngoại tệ,
nhng cũng đặc biệt chú trọng nhập khẩu - nhập khẩu những thứ để có thể
hiện đại hoá kinh tế đất nớc và phù hợp với định hớng xuất khẩu.
Những phân tích trên đây cho thấy nớc ta đã đến lúc phải đổi mới cơ
cấu nhập khẩu, và phải đầu t đổi mới cơ cấu nhập khẩu mới đổi mới đợc cơ
cấu xuất khẩu. Những hớng đổi mới chính là gia tăng nhập khẩu bằng phát
minh sáng chế, các công nghệ mới, cây con mới, chú trọng trọng nhập khẩu
ngay các dịch vụ cần cho phát triển kinh tế đối ngoại trớc mắt nh các dịch
vụ t vấn: Các dịch vụ cung ứng vốn: các dịch vụ t vấn: các dịch vụ cung ứng
vốn: Các dịch vụ bảo hiểm, các dịch vụ viễn thông; tăng tỷ trọng nhập khẩu
hàng tiêu dùng, giảm bớt hàng rào bảo hộ.
Tập trung đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho kinh tế đối ngoại
Các lĩnh vực kinh tế đối ngoại cần những nguồn nhân lực gì? đó là
các nhà chuyên đàm phán kinh tế trên các diễn đàn song và đa phơng để mở

cửa thị trờng; những nhà nghiên cứu đánh giá tình hình thế giới, tìm kiếm
thông tin, hoạch định chính sách, tìm hiểu thị trờng, môi giới, quảng bá đầu
t, những nhà quản lý kinh doanh đối ngoại, những công nhân, kỹ s, kỹ thuật
viên lành nghề
Đội ngũ những ngời làm các công tác trên của nớc ta hiện rất mỏng
và yếu.
Để đáp ứng đợc yêu cầu phát triển kinh tế đối ngoại, cần có những
biện pháp sau:
- Cần tuyển chọn và cử các cán bộ đi học các lớp ngắn hạn ở nớc
ngoài chuyên về các quan hệ kinh tế quốc tế và kỹ thuật đàm phán quốc tế;
xây dựng một bộ phận công tác ổn định chuyên lo việc đàm phán mở cửa
thị trờng, xử lý các rắc rối trong quan hệ quốc tế.
- Tăng cờng đầu t cho các trờng đại học đào tạo các chuyên ngành
quốc tế, cho các viện nghiên cứu quốc tế, cho các bộ phận nghiên cứu tìm
Phạm Anh Dũng Lớp: 7031
25

×