Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Quá trình cổ phần hoá của nước ta trong thập kỷ qua. Một số kiến nghị và giải pháp để tiếp tục đổi mới doanh nghiệp nhà nước.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.68 KB, 12 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa như Việt Nam hiện
nay, thì cần phải có những doanh nghiệp và Công ty có sức cạnh tranh, hiệu quả cao về
kinh tế và làm tiền đề để thúc đẩy các thành phần kinh tế.
Đó chỉ có một loại hình doanh nghiệp làm được là công ty cổ phần.
Công ty cổ phần đã được xuất hiện từ lâu ở các nước tư bản và nó rất
phổ biến ở các nước đó. Nhưng ở Việt Nam công ty cổ phần chỉ được chú ý
và phát triển trong một thập kỷ gần đây. Vậy Đảng và Nhà nước ta đã làm gì
để phát triển loại hình doanh nghiệp này chưa. Vậy trong bài tiểu luận này với
kiến thức và sự hiểu biết còn hạn chế, nhưng em mạnh dạn đề cập tới quá
trình cổ phần hoá của nước ta trong thập kỷ qua và em cũng có một số kiến
nghị và giải pháp để tiếp tục đổi mới doanh nghiệp nhà nước.
1
PHẦN I.
SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN HOÁ
1. Sự ra đời và phát triển của công ty cổ phần hoá.
Công ty cổ phần ra đời từ cuối thế kỷ 16 ở các nước phát triển đến nay
đã có lịch sử phát triển hàng mấy trăm năm. Nó được hình thành từ một kiểu
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, nó ra đời không nằm trong ý muốn
chủ quan của bất kỳ lực lượng nào mà là một quá trình phát triển kinh tế
khách quan, do những nguyên nhân sau:
Quá trình xã hội hoá tư bản, tăng cường tích lũy và tập trung tư bản
ngày càng cao để mở rộng quy mô sản xuất và hiện đại hoá các trang thiết bị
tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm. Song
đây là một pháp hết sức khó khăn và hơn nữa việc huy động vốn phải mất
nhiều thời gian mới có thể thực hiện được. Một lối thoát có hiệu quả là các
nhà tư bản vừa và nhỏ phải liên kết với nhau các nhà tư bản khác.
Sự ra đời của nền đại công nghiệp cơ khí tiến bộ kỹ thuật tạo động lực
thúc đẩy cổ phần hoá ra đời và phát triển. Công ty cổ phần hoá ra đời từ thế
kỷ 19 nó mới được phát triển rộng rãi và trở thành phổ biến ở các nước tư
bản. Công ty cổ phần được hình thành và phát triển mạnh mẽ, phù hợp với


tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và yêu cầu khắc nghiệt
của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
- Sự phát triển rộng rãi của chế độ tín dụng cũng tạo động lực thúc đẩy
công ty cổ phần ra đời và phát triển không thể nào thực hiện được nếu không
có thị trường tiền tệ phát triển không những cho doanh nghiệp và dân cư có
nhu cầu sử dụng vốn tiền tệ trên thị trường.
Như vậy công ty cổ phần hoá là một loại hình thành doanh nghiệp, một
loại hình trên cơ sở tín dụng. Trong lịch sử công ty cổ phần là một độc quyền
đã sử dụng các tổ chức tài chính đa dạng để tạo khả năng huy động vốn dưới
hình thức phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Tâm lý cũng như cơ sở pháp luật
2
thuận lợi thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá toạ điều kiện ra đời các công
ty cổ phần. Với động tác này các công ty cổ phần đã phát triển mạnh và thịnh
hành trong giai đoạn tư bản chủ nghĩa, tư bản độc quyền Nhà nước có nền
kinh tế phát triển.
2. Đôi nét định nghĩa của công ty cổ phần.
* Khái niệm.
Công ty cổ phần là một loại doanh nghiệp trong đó các thành viên chỉ
chịu trách nhiệm về nợ vdà nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong
phạm vi số vốn (tức là cổ phần) của mình góp vào doanh nghiệp.
* Một số dấu hiệu cần chú ý.
- Công ty cổ phần chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn của mình
cho nên cũng là loại công ty trách nhiệm hữu hạn.
- Công ty cổ phần phát triển cổ phiếu để huy động vốn. Mỗi cổ phiếu
có giá trị bằng nhau. Người mua cổ phiếu gọi là cổ đông.
- Cổ đông có thể là một cá nhân, một tổ chức. Số lượng cổ đông của
công ty tối thiểu là 3 không hạn chế số lượng tối đa.
- Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo
luật chứng khoán.
- Công ty cổ phần là một pháp nhân.

- Công ty cổ phần là một công ty đối vốn.
3
PHẦN II
THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ
1. Khái quát tình hình cổ phần hoá DNNN trong những năm qua
Từ năm 1992 đến nay, cả nước đã có khoảng 1000 doanh nghiệp nhà
nước được chuyển đổi sở hữu, trong đó cổ phần hoá khoảng trên 828 doanh
nghiệp, số còn lại là chuyển giao, bán và khoán kinh doanh.
Chương trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, mà trọng tâm là
cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được triển khai thí điểm từ năm 1992.
Mục đích của chương trình này là tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ
sở hữu, trong đó có chủ sở hữu là người lao động, để quản lý và sử dụng có
hiệu quả nguồn vốn, tạo cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp, đồng
thời giúp doanh nghiệp có thể huy động vốn trong toàn xã hội để đầu tư đổi
mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển doanh nghiệp.
Song do chưa có đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề này và
chư có hướng dẫn cụ thể nên từ năm 1992 đến 1997, cả nước mới chỉ có 38
doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá.
Tiến trình cổ phần háo doanh nghiệp nhà nước thực sự có bước chuyển
mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng kể từ khi chính phủ ban hành nghị
định về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần vào tháng
6/1998 trong đó nêu rõ các chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp và người
lao động tại các doanh nghiệp cổ phần hoá. Nghị định này đã trở thành đòn
bảy đưa lộ trình cổ phần hoá đi nhanh hơn.
Tính đến đầu năm 2003, cả nước đã có 828 doanh nghiệp được cổ phần
hoá, chiếm 3% tổng số vốn của doanh nghiệp nhà nước, trong đó, có khoảng
13% doanh nghiệp độc lập thuộc các bộ, 5,5% doanh nghiệp thuộc các Tổng
công ty; 81,5% doanh nghiệp thuộc các tỉnh, thành. Ngành nghề có doanh
nghiệp chuyển đổi nhất là công nghiệp - xây dựng (53,3%), thương mại - dịch
4

vụ (34,28%), giao thông vận tải (7,7%), còn lại là các ngành khác. Ngoài ra,
đã có khoảng 130 doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi theo phương thức giao
bán, khoán kinh doanh, cho thuê.
2. Một số kết quả sau khi cổ phần hoá
Việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần không
chỉ giúp nhà nước bảo tồn nguồn vốn mà còn tăng đáng kể tỉ suất lợi nhuận
trên đồng vốn. Các doanh nghiệp hoạt động năng động nhạy bén và tự chủ
hơn trong kinh doanh. Quá trình cổ phần hoá đã thu hút rộng rãi các nguồn
vốn của người lao động cả trong doanh nghiệp và ngoài xã hội, nhờ đó doanh
nghiệp có vốn đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển sản xuất kinh doanh theo
chiều sâu. Tính chung với trên 400 doanh nghiệp đã cổ phần hoá trên 1 năm,
doanh thu tăng 1,43 lần, lợi nhuận tăng 2,04 lần, nộp ngân sách tăng 1,98 lần,
thu nhập người lao động tăng 22%.
Thành phố Hồ Chí Minh là một ví dụ điển hình về kết quả khả quan cổ
phần hoá. Từ năm 1992 đến nay, thành phố đã có hơn 100 doanh nghiệp và bộ
phận doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá, chiếm 12,5% tổng số doanh
nghiệp nhà nước được cổ phần hoá cả nước. Qua khảo sát hoạt động của 22
doanh nghiệp đã cổ phần hoá, doanh thu bình quân hàng năm là 41%, lợi
nhuận tăng 39,5%, nộp ngân sách tăng 30,9%, cổ tức hàng năm từ 6% đến
24%, thu nhập người lao động tăng 10,5%.
3. Triển vọng trong tương lai
Để đẩy mạnh cải cách, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, sắp tới nhà nước sẽ đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện
khung pháp lý về đổi mới doanh nghiệp nhà nước, trong đó phân định rõ chức
năng quản lý của nhà nước và doanh nghiệp, nhất là quyền chủ sở hữu nhà
nước đối với doanh nghiệp, ban hành chế độ phân phối cổ phần hợp lý, đổi
mới phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp, giám sát hoạt động kinh
doanh và việc chấp hành quy định của nhà nước tại doanh nghiệp.
5

×