Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

BÀI THẢO LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Đề tài Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng con người.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.22 KB, 36 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA MARKETING

BÀI THẢO LUẬN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đề tài: Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng con người.
Giảng viên hướng dẫn: Ths. Ngô Thị Minh Nguyệt
Nhóm: 06
Lớp học phần: 2217HCMI0111

Hà Nội, 2022


BIÊN BẢN ĐÁNH GIÁ NHÓM 6

S
T
T

Họ và tên

Nhiệm vụ

51

Cao Thị Liên

Nội dung xây

Nhận xét



TV tự
đánh
giá

Nhóm
đánh
giá


tên
Đã ký

dựng con người
52

Dương Thị

Đề tài phụ

Đã ký

Thùy Linh
(nhóm trưởng)
53

Hồ Diệp Linh

powerpoint


Đã ký

54

Nguyễn Hiền

Nội dung xây

Đã ký

Diệu Linh

dựng con người

Phạm Khánh

Thuyết trình

55

Đã ký

Linh
56

Phan Thị

Ý nghĩa của

Thanh Loan


việc xây

Đã ký

dựng con
người
57

Dương Văn

Phương pháp

Lương

xây dựng con

Đã ký

người
58

Trần Nhật Mai

word

Đã ký

59


Hoàng Đức

Phương pháp

Đã ký

Mạnh

xây dựng con
1


người
60

Vũ Thị Mến

Ý nghĩa của việc

Đã ký

xây dựng con
người

2


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
-----------------------BIÊN BẢN THẢO LUẬN

BỘ MÔN: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Nhóm: 6
Kính gửi: Cơ Ngơ Thị Minh Nguyệt
Thành viên tham gia: Đầy đủ 10/10 thành viên
Địa điểm: Trên nền tảng zoom online
Thời gian bắt đầu: 20h00, ngày 10/02/2022
Nội dung thảo luận nhóm:
● Hướng đi cho bài thảo luận
● Nhóm trưởng lập dàn bài chi tiết và phân chia công việc cụ thể cho các thành viên
thành viên đồng thời gia hạn thời gian
● Các thành viên thực hiện nhiệm vụ phân cơng theo đúng hạn và nhóm trưởng nhận
xét, chỉnh sửa.
● Các thành viên đều đóng góp ý kiến, cùng thống nhất hướng đi chung và tham gia
thảo luận làm bài đầy đủ. (Đánh giá chi tiết nằm trong bảng đánh giá thành viên
cuối file word).
Biên bản đã được đọc trước tất cả các thành viên trong nhóm. Cả nhóm đã đồng ý với
những điều đã viết như trên.
Thời gian kết thúc: 21h30, cùng ngày
Nhóm trưởng
Dương Thị Thùy Linh

3


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………..6
CHƯƠNG I. Ý NGHĨA CỦA VIỆC XÂY DỰNG CON NGƯỜI
1.1. Xây dựng con người là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, vừa cấp
bách, vừa lâu dài, có ý nghĩa chiến lược………………………………………………7
1.2. Xây dựng con người là một trọng tâm, bộ phần hợp thành của chiến lược phát

triển đất nước, có mối quan hệ chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội.……………………………………….……………………………………7
1.3. HCM nêu 2 quan điểm về sự cần thiết xây dựng con người…………………...…8
1.3.1. Vì lợi ích trăm năm “trồng người”
1.3.2. Muốn xây dựng CNXH, trước hết cần phải có những con người XHCN
CHƯƠNG II. NỘI DUNG XÂY DỰNG CON NGƯỜI…………………………11
2.1. Có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể XHCN và tư tưởng “Mình vì mọi người; mọi
người



mình”..............................................................................................................11
2.2. Cần kiệm xây dựng đất nước, hăng hái bảo vệ Tổ Quốc………………………..13
2.3. Có lịng u nước nồng nàn, tinh thần quốc tế trong sáng………………………17
2.4. Có phương pháp làm việc khoa học, phong cách quần chúng, dân chủ và nêu
gương…………………………………………………………………………………19
CHƯƠNG III. PHƯƠNG PHÁP XÂY DỰNG CON NGƯỜI…………………...23

4


3.1. Mỗi người cần tự rèn luyện, tu dưỡng ý thức kết hợp chặt chẽ với xây dựng cơ
chế, tính khoa học của bộ máy và tạo dựng nền dân chủ.……………………...…….23
3.2. Việc nêu gương, nhất là người đứng đầu có ý nghĩa rất quan trọng…………….24
3.3. Giáo dục có ý nghĩa rất quan trọng trong xây dựng con người………………….26
3.4. Chú trọng vai trị của tổ chức Đảng, chính quyền, đồn thể quần chúng thông qua
các phong trào “thi đua yêu nước”; “người tốt việc tốt”..............................................31
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………….34
PHẦN KẾT THÚC………………………………………………………………….35


5


PHẦN MỞ ĐẦU
Trong công cuộc xây dựng đất nước tiến tới thời đại cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa,
việc phát triển và xây dựng con người đã trở thành một vấn đề không thể bỏ qua trên
nhiều phương diện. Để nói về vai trị của con người, Hồ Chí Minh khẳng định, con
người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng. Theo
Người, “vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế
cả”.
Để nghiên cứu, đi sâu hơn cũng như chứng minh quan điểm của Hồ Chí Minh về xây
dựng con người, nhóm chúng em đã phát triển đề tài ‘Quan điểm của Hồ Chí Minh
việc xây dựng con người’ thơng qua việc khai thác, chọn lọc, tham khảo nhiều nguồn
tài liệu. Từ đó, nhóm đưa ra ý kiến riêng về ý nghĩa, nội dung và phương pháp xây
dựng con người, ủng hộ quan điểm của Hồ Chí Minh về việc xây dựng con người.
Trong q trình xây dựng đề tài, nhóm có thể mắc phải một số lỗi sai khơng đáng có,
rất mong cơ có thể bỏ qua cho chúng em ạ. Nhóm xin ghi nhận những góp ý của cơ.

6


CHƯƠNG I. Ý NGHĨA CỦA VIỆC XÂY DỰNG CON NGƯỜI
1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người
Theo Hồ Chí Minh, con người là một chỉnh thể, thống nhất về trí lực, tâm lực, thể
lực, đa dạng bởi mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội (quan hệ gia đình, dịng tộc, làng
xã, quan hệ giai cấp, dân tộc...) và các mối quan hệ xã hội (quan hệ chính trị, văn hóa,
đạo đức, tơn giáo...). Trong mỗi con người đều có tính tốt và tính xấu. Người giải
thích “chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bè bạn; nghĩa rộng là đồng
bào cả nước; rộng hơn nữa là cả lồi người”. Con người có tính xã hội, là con người
xã hội, thành viên của một cộng đồng xã hội.

1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng con người
Xây dựng con người là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, vừa cấp
bách, vừa lâu dài, có ý nghĩa chiến lược.
Giải phóng con người được coi như là mục tiêu , vừa là động lực của cách mạng .
Con người là mục tiêu của cách mạng, nên mọi chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng, Chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người, có thể là lợi ích lâu
dài, lợi ích trước mắt; lợi ích cả dân tộc và lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng lớp
và cá nhân. Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành cơng của sự
nghiệp cách mạng . Hồ Chí Minh đã nhìn thấy sức mạnh của con người khi được
tổ chức lại khi Người viết rằng : “ Trong bầu trời khơng có gì q bằng nhân dân,
trong thế giới khơng gì mạnh bằng lực lượng đồn kết của nhân dân. Dễ mấy lần
khơng dân cũng chịu . Khó vạn lần dân liệu cũng xong ” . Lòng yêu nước và sự
đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi

7


Xây dựng con người là một trọng tâm, bộ phần hợp thành của chiến lược phát
triển đất nước, có mối quan hệ chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội.
Nhân dân là người sáng tạo ra mọi giá trị, cả vật chất và tinh thần, và mọi của cải.
Hồ Chí Minh khẳng định : Vơ luận việc gì, đều do con người làm ra, và từ nhỏ
đến to, từ gần đến xa, đều thế cả .
Nhưng không phải mọi con người đều trở thành động lực mà phải là những con
người được giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức,
được ni dưỡng trên nền tảng truyền thống lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm
của dân tộc Việt Nam... Chính trị, văn hóa, tinh thần là động lực cơ bản trong
động lực con người. Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi họ hoạt
động có tổ chức, có lãnh đạo. Vì vậy, cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
HCM nêu hai quan điểm về sự cần thiết xây dựng con người:

Vì lợi ích trăm năm “trồng người” : “Trồng người” là cơng việc lâu dài, gian khổ,
vừa vì lợi ích trước mắt vừa vì lợi ích lâu dài, là cơng việc của văn hóa giáo dục.
“Trồng người” phải được tiến hành thường xuyên trong suốt tiến trình đi lên chủ
nghĩa xã hội và phải đạt được những kết quả cụ thể trong từng giai đoạn cách
mạng. Nhiệm vụ “trồng người” phải được tiến hành song song với nhiệm vụ phát
triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. “Trồng người”
phải được tiến hành bền bỉ, thường xuyên trong suốt cuộc đời mỗi người, với ý
nghĩa vừa là quyền lợi vừa là trách nhiệm của cá nhân đối với sự nghiệp xây dựng
đất nước. Công việc “trồng người” là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các đồn
thể chính trị-xã hội kết hợp với tính tích cực, chủ động của từng người. “Trồng
người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng: Con
người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển, vừa nằm trong chiến
lược, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến
lược giáo dục - đào tạo theo nghĩa hẹp... Để thực hiện chiến lược “trồng người”,
8


cần có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục và đào tạo là biện pháp quan trọng bậc
nhất. Bởi vì, giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho
thanh niên. Ngược lại, giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu đến thanh niên. Nội dung và
phương pháp giáo dục phải tồn diện, cả đức, trí, thể, mỹ; phải đặt đạo đức, lý
tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu. “Trồng
người” là cơng việc “trăm năm”, khơng thể nóng vội “một sớm một chiều”, “việc
học khơng bao giờ cùng, cịn sống còn phải học”.
Muốn xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội , trước hết cần phải có những con người Xã
Hội Chủ Nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những con người xã hội chủ nghĩa, con người xã
hội chủ nghĩa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều này có nghĩa
ngay từ đầu phải đặt ra nhiệm vụ xây dựng con người mới, con người xã
hội chủ nghĩa, làm gương, lôi cuốn xã hội. Công việc này là một q trình

lâu dài, khơng ngừng hồn thiện, nâng cao và thuộc về trách nhiệm của
Đảng, Nhà nước, gia đình và bản thân của mỗi người.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa có hai mặt
gắn bó chặt chẽ với nhau. Một là, kế thừa những giá trị tốt đẹp của con
người truyền thống. Hai là, hình thành những phẩm chất mới như: có tư
tưởng xã hội chủ nghĩa; có đạo đức xã hội chủ nghĩa; có trí tuệ và bản lĩnh
để làm chủ; có tác phong xã hội chủ nghĩa; có lịng nhân ái, vị tha, độ
lượng. Không phải chờ cho kinh tế, văn hoá phát triển cao rồi mới xây
dựng con người - xã hội chủ nghĩa, cũng không phải xây dựng xong con
người - xã hội chủ nghĩa rồi mới xây dựng xã hội - xã hội chủ nghĩa. Việc
xây dựng con người phải đặt ra từ đầu và quan tâm suốt q trình.
“Trước hết cần phải có những con người xã hội chủ nghĩa” cần được hiểu
trước hết không phải tất cả mọi người phải và có thể trở thành người Xã
Hội Chủ Nghĩa thật đầy đủ, thật hoàn chỉnh ngay một lúc, mà chỉ có nghĩa
9


là, trước hết cần có những con người tiên tiến, có được những nét tiêu biểu
của người Xã Hội Chủ Nghĩa như lý tưởng, đạo đức, lối sống, tác phong xã
hội để có thể làm gương và lơi cuốn người khác cũng như tồn xã hội đồng
thời, họ cũng khơng ngừng được hồn thiện, được nâng cao. Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “Trong bất cứ phong trào cách mạng nào, tiên tiến là số ít và số
đơng là trung gian, muốn củng cố và mở rộng phong trào, cần phải nâng
cao hơn nữa trình độ giác ngộ của trung gian để kéo chậm tiến. ”
Xây dựng con người mới là đào tạo, xây dựng con người phát triển tồn
diện: Đức, Trí, Thể, Mỹ.

10



CHƯƠNG II. NỘI DUNG XÂY DỰNG CON NGƯỜI
Hồ Chí Minh quan tâm xây dựng con người toàn diện vừa hồng vừa chun với các khía
cạnh chủ yếu:

2.1. Có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể XHCN và tư tưởng “Mình vì mọi người,
mọi người vì mình”.
Luận điểm này được Người lý giải như sau: Nhà nước ta ngày nay là của tất cả
những người lao động. Vậy công nhân, nơng dân, trí thức cách mạng cần nhận rõ
rằng: Hiện nay nhân dân lao động ta là những người làm chủ nước ta, chứ không phải
là những người làm thuê cho giai cấp bóc lột như thời cũ nữa. Chúng ta có quyền và
có đủ điều kiện để tự tay mình xây dựng đời sống tự do, hạnh phúc cho mình. Nhân
dân lao động là những người chủ tập thể của tất cả những của cải vật chất và văn hóa,
đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Bởi vậy mọi người đều phải thấm nhuần sâu
sắc tư tưởng “mình vì mọi người, mọi người vì mình”.
“Muốn xây dựng XHCN phải có tinh thần XHCN, muốn có tinh thần XHCN phải
đánh bại chủ nghĩa cá nhân”. Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài nói
chuyện với sinh viên đại học vào tháng 6-1959.
Người thẳng thừng phê phán: Chủ nghĩa cá nhân, lợi mình hại người, tự do vơ tổ
chức, vơ kỷ luật và những tính xấu khác là kẻ địch nguy hiểm của chủ nghĩa xã hội.
Từ đó kết luận hết sức cụ thể về vai trò trách nhiệm của từng cá nhân: Đã là người
chủ Nhà nước thì phải chăm lo việc nước như chăm lo việc nhà. Người cơng nhân
phải u q máy móc như u q con mình, người nơng dân phải u quý trâu bò
của hợp tác xã như bản thân của mình. Mọi người phải biết giữ gìn của cơng, phải
chăm lo việc tập thể như chăm lo việc gia đình. Đã là người chủ thì phải biết tự mình
lo toan, gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ. Mỗi người phải ra sức góp cơng, góp
của để xây dựng nước nhà. Chớ nên “ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau”. Ai cũng phải là
một chiến sĩ dũng cảm phấn đấu xây dựng chủ nghĩa xã hội.

11



Đối với cán bộ và Đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn phải gạt bỏ những
thái độ sai lầm như: Thỏa mãn với thành tích bước đầu, bảo thủ, tự mãn với những
kinh nghiệm đã có, có ít nhiều tri thức thì kiêu căng, coi khinh quần chúng, hồi nghi
những sáng kiến bình thường của quần chúng; lười biếng, khơng tích cực học tập cái
mới...Chúng ta phải làm đúng lời dạy của Lênin vĩ đại: Giữ gìn sự thống nhất của
Đảng như con ngươi của mắt mình. Phải hết lịng tơn trọng tập thể, phát huy dân chủ
nội bộ; tuyệt đối khơng được độc đốn cá nhân, tự đặt mình cao hơn tổ chức, tự cho
phép mình đứng ngồi kỷ luật. Càng có cơng lao, càng phải khiêm tốn. Chớ vì có ít
nhiều cơng lao mà sinh bệnh công thần, kèn cựa, địa vị. Phải nhớ rằng: Mọi thành
cơng là do sức phấn đấu, hy sinh của tồn Đảng, tồn dân, khơng phải của một cá
nhân anh hùng nào. Sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức
tổ chức nghiêm chỉnh của cán bộ và đảng viên. Cán bộ và đảng viên càng phải nâng
cao tinh thần phụ trách trước Đảng và trước quần chúng, hết lòng hết sức phục vụ
nhân dân. Phải u kính nhân dân. Phải thật sự tơn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
Tuyệt đối không được lên mặt “quan cách mạng” ra lệnh, ra oai. Phải nắm vững quan
điểm giai cấp, đi đúng đường lối quần chúng, thành tâm học hỏi quần chúng, kiên
quyết dựa vào quần chúng, giáo dục và phát động quần chúng tiến hành mọi chủ
trương, chính sách của Đảng và của Nhà nước. Phải thật thà, ngay thẳng, không được
giấu dốt, giấu khuyết điểm, sai lầm. Phải khiêm tốn, gần gũi quần chúng, không được
kiêu ngạo; phải thực sự cầu thị, không được chủ quan. Phải luôn luôn chăm lo đến đời
sống của quần chúng. Phải “chí cơng vơ tư”, và có tinh thần “lo trước thiên hạ, vui
sau thiên hạ”. Đó là đạo đức của người cộng sản. Trái lại, đối với kẻ địch, người cộng
sản phải luôn luôn tỉnh táo, giữ vững lập trường, quyết khơng được vì hồn cảnh hịa
bình mà mất cảnh giác; phải ln ln sẵn sàng đập tan mọi âm mưu độc ác của kẻ
địch, bảo vệ những thành quả cách mạng, bảo vệ lao động hịa bình của nhân dân.
Muốn đánh thắng kẻ địch bên ngồi, thì trước hết phải đánh thắng kẻ địch bên trong là
chủ nghĩa cá nhân.

12



2.2. Cần kiệm xây dựng đất nước, hăng hái bảo vệ Tổ Quốc
Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo năng suất cao;
lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa
dẫm.
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của nhân dân,
của đất nước, của bản thân mình “Khơng xa xỉ, khơng hoang phí, khơng bừa bãi”.
Cần kiệm bao giờ cũng là hai yếu tố không thể tách rời, Hồ Chủ tịch lý giải: Nước ta
còn nghèo. Muốn sung sướng thì phải có tinh thần tự lực cánh sinh, cần cù lao động.
Phải cố gắng sản xuất. Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh
phúc của chúng ta. Trong xã hội ta, khơng có nghề nào thấp kém, chỉ có những kẻ
lười biếng, ỷ lại mới đáng xấu hổ. Người nấu bếp, người quét rác cũng như thầy giáo,
kỹ sư nếu làm tròn trách nhiệm thì đều vẻ vang như nhau. Ai sợ khó, sợ khổ, muốn
“ngồi mát ăn bát vàng”, người đó mới là kém vì khơng phải là người XHCN.
Mỗi thứ của cải chúng ta làm ra phải tốn bao nhiêu mồ hôi và sức lao động. Chúng
ta chỉ có thể xây dựng CNXH bằng cách tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Sản
xuất mà khơng tiết kiệm thì khác nào gió vào nhà trống. Cho nên phải biết giữ gìn của
cơng. Tham ơ, lãng phí tài sản của Nhà nước, của tập thể, của nhân dân là hành động
trộm cắp, mà ai cũng phải thù ghét, phải trừ bỏ. Phải biết quý trọng sức người là vốn
quý nhất của ta. Chúng ta cần hết lịng chăm sóc sức khỏe và sử dụng hợp lý sức lao
động của nhân dân ta.
Cán bộ và đảng viên cần phải nâng cao tinh thần phụ trách, nêu gương “cần kiệm
liêm chính”, khơng xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân;
phải chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh là nguồn gốc sinh ra tham ơ, lãng phí. Trong
mọi cơng việc phải tính tốn, cân nhắc cẩn thận. “Thì giờ là vàng bạc”. Phải kiên
quyết chống thói hội họp lu bù, mất thì giờ, hại sức khỏe mà khơng kết quả thiết thực.
Quá trình xây dựng đất nước bao giờ cũng đi đơi với bảo vệ tổ quốc, Tư tưởng Hồ Chí
Minh về bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa cũng là phương châm lãnh đạo của Đảng ta.
Có thể thấy bảo vệ Tổ quốc là một tất yếu khách quan trong sự phát triển lịch sử của


13


đất nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa được thể hiện
như sau:
Thứ nhất: Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan thể hiện ý chí
quyết tâm của nhân dân ta.
Tính tất yếu khách quan của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
được thể hiện và khẳng định rất rõ qua nhiều lần Hồ Chí Minh khẳng định. Ý chí
quyết tâm giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời
hoạt động của Hồ Chí Minh. Cụ thể Người đã nhấn mạnh nhiều lần với nhân dân cả
nước rằng “ Các vua Hùng đã có cơng dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy
nước”.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân đứng
lên đánh quân Pháp với tinh thần: “ Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất
nước, không chịu làm nô lệ.. .Giờ cứu nước đã đến, ta phải hy sinh đến giọt máu cuối
cùng để gìn giữ đất nước”; “ Bất kỳ đàn ơng, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ
không chia tôn giáo, Đảng phái, dân tộc. Ai có súng thì dùng súng, ai có gươm thì
dùng gươm, khơng có gươm thì dùng cuốc thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức
chống thực dân Pháp cứu nước… Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng
kiên quyết hi sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta.
Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, trước sự uy hiếp của thực
dân đế quốc và bọn phản động tay sai, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Đảng đề ra
nhiều biện pháp thiết thực, cụ thể để giữ vững chính quyền nhân dân chuẩn bị cho
kháng chiến lâu dài.
Trong lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến ngày 19/12/1946, Người nói: “ Chúng ta thà
hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước,nhất định không chịu làm nô lệ…
Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!…”
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược, Hồ Chí Minh khẳng định: “Khơng có gì

q hơn độc lập tự do”, “Hễ cịn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta cịn phải
chiến đấu quét sạch nó đi”. Trước khi đi xa trong bản di chúc Người căn dặn: “Cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước có thể cịn kéo dài, đồng bào ta có thể phải hy sinh
14


nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ đến
thắng lợi hoàn toàn”.
Thứ hai: Mục tiêu bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là
nghĩa vụ trách nhiệm của mọi công dân.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi công dân
Việt Nam. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, bảo vệ Tổ quốc là sự gắn bó chặt chẽ giữa
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là sự thống nhất giữa nội dung dân tộc,
nội dung giai cấp và nội dung thời đại.
Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng đã xác định bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là trách
nhiệm, là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi người dân Việt Nam yêu nước. Trong Bản
Tun ngơn độc lập, Người khẳng định: “Tồn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả
tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”. Khi
thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta, Người kêu gọi: Hễ là người Việt Nam
thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp cứu Tổ quốc. Trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước Người kêu gọi nhân dân cả nước quyết tâm chiến đấu thắng lợi hồn
tồn để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc tiến tới thống nhất nước nhà.
Thứ ba: Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, cả nước,
kết hợp với sức mạnh thời đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln nhất qn quan điểm: Phát huy sức mạnh tổng hợp trong
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc XHCN. Sức mạnh tổng hợp là sức mạnh của toàn dân tộc,
toàn dân, của từng người dân, của các cấp, các ngành, từ Trung ương đến cơ sở, là sức
mạnh của các nhân tố chính trị, quân sự, kinh tế, an ninh, ngoại giao, văn hoá – xã
hội, sức mạnh truyền thống với sức mạnh hiện đại, sức mạnh dân tộc với sức mạnh

thời đại. Trong sức mạnh tổng hợp đó, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng sức mạnh nhân
dân, sức mạnh lòng dân. Người khẳng định, phải “dựa vào lực lượng của dân, tinh

15


thần của dân”, “tồn dân Việt Nam chỉ có một lịng, quyết khơng làm nơ lệ; kết hợp
với sức mạnh thời đại.
So sánh về sức mạnh giữa chúng ta với quân xâm lược trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, Người phân tích: Chúng ta có chính nghĩa, có sức mạnh đồn kết tồn dân từ Bắc
đến Nam, có truyền thống đấu tranh bất khuất, lại có sự đồng tình ủng hộ rộng lớn của
các nước xã hội chủ nghĩa anh em và nhân dân tiến bộ trên thế giới, chúng ta nhất
định thắng.
Để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng xây dựng và
củng cố nền quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân, xây dựng quân đội nhân dân, coi
đó là lực lượng chủ chốt để bảo vệ Tổ quốc. Người căn dặn: Chúng ta phải xây dựng
quân đội ngày càng hùng mạnh, sẵn sàng chiến đấu để giữ gìn hồ bình, bảo vệ đất
nước, bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thứ tư: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Đảng ta là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN phải do Đảng lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “
Đảng và chính phủ phải lãnh đạo toàn dân, ra sức củng cố và xây dựng miền Bắc tiến
dần lên CNXH, đồng thời tiếp tục đấu tranh để thống nhất nước nhà, trên cơ sở độc
lập và dân chủ bằng phương pháp hồ bình, góp phần bảo vệ cơng cuộc hịa bình ở Á
đơng và trên thế giới” và khẳng định “Với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và chính
phủ, với sự đồn kết nhất chí, lịng tin tưởng vững chắc vào tinh thần tự lực cánh sinh
của mình, với sự giúp đỡ vơ tư của các nước anh em, với sự ủng hộ của nhân dân u
chuộng hồ bình trên thế giới nhất là nhân dân các nước Á phi, nhân dân ta nhất định
khắc được mọi khó khăn, làm trịn được mọi nhiệm vụ vẻ vang mà Đảng và chính phủ

đã đề ra”.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc, ngày nay toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta đang thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện được
16


thắng lợi nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, chúng ta cần thực hiện tốt một số
nội dung chiến lược sau đây:
Một là: Xây dựng tiềm lực toàn diện của đất nước, đặc biệt tiềm lực kinh tế, tạo ra thế
và lực mới cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Hai là: Xây dựng nền quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân vững mạnh, xây
dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại.
Ba là: Quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, chủ động đánh thắng địch trong mọi
hồn cảnh, tình huống chiến tranh.
Bốn là: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp quốc
phòng và an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
Trong thời đại hiện nay tình hình thế giới, khu vực và trong nước đang có nhiều biến
đổi và diễn biến phức tạp. Tuy nhiên cho đến ngày nay tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo
vệ Tổ quốc vẫn cịn ngun giá trị. Vì vậy, nghiên cứu và nắm vững những nội dung
cơ bản trên, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay đang đặt ra có tính cấp thiết cả về lý luận và
thực tiễn.
2.3. Có lịng u nước nồng nàn, tinh thần quốc tế trong sáng.
Xuyên suốt chiều dài lịch sử của đất nước, trong bối cảnh đất nước ta thường
xuyên phải đấu tranh chống lại những kẻ xâm lược ỷ cậy về quân sự, kinh tế, thì tinh
thần yêu nước luôn là nhân tố quan trọng kết thành sức mạnh vơ địch - đại đồn kết để dân tộc Việt Nam giành chiến thắng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là người đã phát
hiện và tổng kết sức mạnh đó. Trong tác phẩm “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta”
Người đã khẳng định: “Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền

thống q báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy
lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự

17


nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Lòng yêu
nước, tinh thần yêu nước của mỗi người dân Việt Nam chính là nền tảng, cơ sở để
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tập hợp lực lượng, tạo thành sức mạnh tổng hợp của
một dân tộc. Và từ đó, cho dù đất không rộng, người không đông, tiềm lực kinh tế,
quân sự của nước ta khơng lớn, song nhờ có tinh thần đồn kết, đồng lịng dưới sự
lãnh đạo của Đảng, dân tộc ta đã thốt khỏi ách nơ lệ thực dân, đế quốc, giành độc
lập, tự do; tiếp tục tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc
Mỹ xâm lược, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Khi nước nhà đã giành được độc lập, nhưng hiểm nguy từ nạn "giặc đói, giặc dốt
và giặc ngoại xâm" vẫn luôn đe dọa nền độc lập, tự do mà nhân dân ta đã giành được
sau hơn 80 năm trời nơ lệ. Chính vì vậy, Bác đã nhấn mạnh rằng: “Chúng ta phải làm
cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân
tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”; đồng thời khơi dậy tinh thần yêu nước
của mọi người dân, mọi giai tầng trong xã hội. Trong bức thư gửi cho các cụ phụ lão,
Bác đã viết: “Xưa nay, những người yêu nước không vì tuổi già mà chịu ngồi khơng”;
cho các em nhỏ: “Các em phải thương yêu nước ta” (Thư gửi thiếu nhi Việt Nam
đêm Trung thu đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa); cho một Việt kiều:
“Tơi vẫn nghe ơng là người u nước thương nịi, vậy dịp này rất thuận tiện cho ơng
tỏ lịng trung thành với Tổ quốc” (Tháng 9/1945); Thêm vào đó, Bác cịn thể hiện
lịng bao dung, vị tha với những người trót lầm đường, lạc lối: “Ai cũng có lịng u
nước, chẳng qua có lúc vì lợi nhỏ mà qn nghĩa lớn. Nói lẽ phải họ tự nghe”... để
quy tụ, tập hợp và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở
của lịng u nước chân chính, tiến hành sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc.
Cũng theo quan điểm của Bác, yêu nước nồng nàn nhưng đồng thời phải gắn với

tinh thần quốc tế cao cả. Nhất là trong xu hướng hội nhập ngày nay thì "tinh thần quốc
tế trong sáng" có vai trị vơ cùng to lớn to lớn. Vào tháng 3/1953, trong thư gửi các
đơn vị bộ đội được giao nhiệm vụ giúp bạn Lào tác chiến ở Thượng Lào, Chủ tịch Hồ
18


Chí Minh căn dặn: “Giúp bạn là tự giúp mình”. Với Bác, giúp đỡ một dân tộc khác
bảo vệ độc lập tự do của họ cũng chính là bảo vệ lợi ích của đất nước mình. Nói về
mối quan hệ giữa lòng yêu nước và tinh thần quốc tế, Người đã nhấn mạnh: "Tinh
thần yêu nước và tinh thần quốc tế liên hệ khăng khít với nhau. Vì lẽ đó, ta vừa ra sức
kháng chiến, vừa tham gia phong trào ủng hộ hịa bình thế giới. Nếu tinh thần u
nước khơng chân chính và tinh thần quốc tế khơng trong sáng có thể dẫn đến chủ
nghĩa dân tộc hẹp hịi hoặc chủ nghĩa bành trướng bá quyền, kỳ thị chủng tộc...". Có
thể nói, tinh thần quốc tế trong sáng trong đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ tình
thương u đối với con người; vì mục tiêu giải phóng các dân tộc bị áp bức, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người, mang lại tự do và bình đẳng thực sự cho con
người. Từ chủ nghĩa quốc tế trong sáng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng và
xây dựng nên tình đồn kết quốc tế rộng lớn của Nhân dân Việt Nam với các dân tộc
trên thế giới, góp phần vào những thắng lợi to lớn của Nhân dân Việt nam và Nhân
dân thế giới.
Ngày này, đất nước ta vẫn đang trong quá trình đổi mới và hội nhập sâu rộng. Hơn
bao giờ hết, lòng yêu nước, tinh thần quốc tế trong sáng đã gắn liền với trách nhiệm
và nghĩa vụ của mỗi cá nhân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Càng khó
khăn, thử thách, truyền thống yêu nước, tinh thần quốc tế trong sáng của mỗi người
dân Việt Nam được hun đúc từ bao đời, trở thành sức mạnh Việt Nam để luôn chủ
động, quyết tâm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa…
2.4. Có phương pháp làm việc khoa học, phong cách quần chúng, dân chủ và nêu
gương.

Không thể phủ nhận rằng, tư tưởng, đạo đức và phong cách, phương pháp làm việc
khoa học theo tư tưởng của Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá cho Đảng và dân
tộc ta. Theo Bác, một trong những phẩm chất quan trọng của người cán bộ, đảng viên
19


là phải có phương pháp, tác phong làm việc khoa học, trung thực, khách quan để hoàn
thành tốt các nhiệm vụ được giao, trước khi thực thi công vụ, bất kể việc gì, từ lớn
đến nhỏ đều cần xác định rõ mục đích, nội dung, chương trình, kế hoạch. Phong cách
làm việc khoa học của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn được biểu hiện rõ ở chỗ khi làm
xong một cơng việc, dù thành cơng hay thất bại đều có tổng kết rút kinh nghiệm để
tiến hành những công việc khác tốt hơn. Đặc biệt, phải biết quý trọng thời gian, biết
giờ nào làm việc ấy và có năng lực giải quyết công việc một cách tốt nhất trong một
thời gian ngắn nhất. Cuối cùng, phong cách khoa học đòi hỏi người cán bộ phải không
ngừng sáng tạo, đổi mới cái cũ, cái lạc hậu và làm những cái mới chưa có trong tiền
lệ, để tìm ra hướng đi mới, cách làm hay đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho
nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải: “có tinh thần sáng tạo, tìm tịi
cái mới, học tập cái mới, ủng hộ cái mới, thực hiện cái mới thì việc gì cũng làm
được”. Người căn dặn: “Hãy kiên quyết chống bệnh nói sng, thói phơ trương hình
thức, lối làm việc khơng nhằm mục đích nâng cao sản xuất”
Phong cách quần chúng trong tư tưởng của Bác trước hết là phải có tình thương
u bao la và niềm tin tưởng vô tận đối với quần chúng, bởi quần chúng là người sáng
tạo ra lịch sử, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, vì lợi ích của quần chúng, đi
đúng đường lối quần chúng, cần phải lắng nghe ý kiến của quần chúng, quan hệ mật
thiết với quần chúng để nắm bắt sâu sắc tình hình thực tế, nhất là thực tế đời sống,
thực tế tâm lý, văn hóa của quần chúng, từ đó, quan tâm, chăm lo lợi ích chính đáng
và thiết thực của quần chúng, coi đó là nguồn sức mạnh tạo nên mọi thắng lợi của sự
nghiệp Cách mạng. Bác yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên cần phải luôn biết phấn đấu,
hy sinh vì lợi ích của tập thể, lợi ích của nhân dân. Phải u dân, kính dân thì thì dân
mới dành cho mình sự kính u; điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong giai đoạn

hiện nay. Phong cách quần chúng không chỉ là phong cách cần thiết của cán bộ, đảng
viên trong quan hệ với dân, mà còn cần thiết trong quan hệ của cấp trên với cấp dưới,
của cán bộ lãnh đạo với cán bộ, đảng viên bình thường. Đối với người lãnh đạo cấp
trên, hiểu dân và hiểu cấp dưới đều có tầm quan trọng đặc biệt. Hiểu dân là để hiểu
20


cấp dưới được chính xác hơn, hiểu cấp dưới là để hiểu dân được đầy đủ hơn. Càng
hiểu dân và càng hiểu cấp dưới, người lãnh đạo càng hiểu chính mình và càng rút ra
được những điều bổ ích để bổ sung cho chủ trương, chính sách đã được đề ra.
Về phong cách dân chủ, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ là hành động, việc
làm thể hiện sự tôn trọng tập thể, phát huy sức mạnh tập thể, tranh thủ ý kiến sáng tạo
của nhiều người để bàn bạc dân chủ, làm cho tư tưởng thông suốt, không áp đặt, độc
đốn, chun quyền. Mọi người có quyền tham gia, bàn bạc vào công việc chung của
tập thể, ai cũng được tôn trọng, mọi thành viên trong xã hội đều có quyền được chứng
kiến quan điểm của mình. Đồng thời, khi đề ra đường lối, chính sách, giải quyết
nhiệm vụ chính trị cần phải học dân chúng, phải hỏi dân chúng, phải hiểu dân chúng,
phải dùng kinh nghiệm dân chúng để thêm cho kinh nghiệm của mình. Cơ sở của

phong cách dân chủ là tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, một lòng một dạ
phục vụ nhân dân, biết lắng nghe ý kiến của dân, quan hệ tốt với dân, học hỏi dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hành dân chủ là chìa khố vạn năng có thể giải
quyết mọi vấn đề. Người viết: “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan
hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. uy
nhiên, phong cách dân chủ khơng có nghĩa là mạnh ai nấy làm mà phải tuân thủ
chặt chẽ nguyên tắc tập thể lãnh đạo phải luôn đi đôi với cá nhân phụ trách; phải
tuyệt đối tránh phong cách quan liêu.
Nói đến phong cách Hồ Chí Minh là nói đến những đặc trưng giá trị mang đậm
dấu ấn Hồ Chí Minh, được thể hiện trong mọi lĩnh vực sống và hoạt động của Người,
trong đó, khơng thể khơng nhắc đến phong cách nêu gương. Đó là những hoạt động,

lề lối làm việc thể hiện tính tiên phong, gương mẫu, có chất lượng hiệu quả cao, để
người khác noi theo; việc tự nêu gương được thể hiện từ việc nhỏ đến lớn, thường
xuyên liên tục về mọi mặt. Phải nêu gương chủ yếu trên ba mối quan hệ là đối với
mình, đối với người và đối với việc. Đối với mình thì khơng nên tự cao tự đại, kiêu

21


ngạo mà luôn học tập, cầu tiến, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều
chưa tốt của bản thân; đối với người, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đồn
kết, thật thà, khơng dối trá, biết khoan dung, độ lượng; đối với việc, dù trong hồn
cảnh nào cũng phải giữ ngun tắc “dĩ cơng vi thượng” (để việc công lên trên, lên
trước việc tư), đã phụ trách việc gì thì phải tận tâm làm, khơng sợ khó khăn, gian khổ,
việc gì có lợi cho dân thì phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì phải hết sức
tránh. Thêm vào đó, muốn nêu gương được thì nói phải đi đơi với làm, thống nhất lời
nói với hành động. Bác từng dạy: "Nói miệng, ai cũng nói được. Ta cần phải thực
hành. Kháng chiến, kiến quốc, ta phải cần kiệm.” Để việc giáo dục nêu gương đạt
được kết quả cao, Bác chủ trương: "Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo
dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ
chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới". Trong gia đình, cha mẹ sẽ
làm tấm gương cho các con, anh chị là tấm gương cho các em; trong nhà trường thì
thầy cơ giáo sẽ là tấm gương cho học sinh noi theo hay trong các cơ quan tổ chức thì
cán bộ lãnh đạo sẽ là tấm gương cho cấp dưới.
Phong cách Hồ Chí Minh là những đặc trưng giá trị mang đậm dấu ấn Hồ Chí
Minh, thể hiện xuyên suốt mọi hành động trong cả cuộc đời cách mạng, phấn đấu hy
sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân của Người. Phong cách Hồ Chí Minh khơng phải để cho
người đời ca ngợi, sùng bái mà là tấm gương để mọi người noi theo, học tập. Không
phải chỉ người Việt Nam, từ lao động chân tay đến lao động trí óc, từ già đến trẻ, từ
miền xi đến miền ngược đều tìm thấy ở Hồ Chí Minh phong cách của chính mình,
mà cả người nước ngồi ở phương Đơng hay ở phương Tây cũng cảm thấy gần gũi,

không xa lạ với phong cách Hồ Chí Minh. Đặc biệt, phong cách của Người khơng chỉ
là bài học, là chuẩn mực cho việc xây dựng phong cách người cán bộ cách mạng mà
còn bồi dưỡng nhân cách cho các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau.

22


CHƯƠNG III. PHƯƠNG PHÁP XÂY DỰNG CON NGƯỜI
3.1. Mỗi người cần tự rèn luyện, tu dưỡng ý thức kết hợp chặt chẽ với xây dựng
cơ chế, tính khoa học của bộ máy và tạo dựng nền dân chủ.
Xuất phát từ bản chất mang tính xã hội của con người, mỗi người phải hiểu về
mình và hiểu biết lẫn nhau thì mới tạo nên được động lực phát triển bền vững cho
cả xã hội. Người đặt vấn đề hiểu chính mình lên trước hiểu người khác, tức là phải
nhìn nhận cho đúng về bản thân rồi mới đi đến nhận thức những quy luật, hiện tượng
của tự nhiên. Hồ Chí Minh cho rằng đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ
xấu, chỗ tốt, ai cũng có cái thiện, cái ác ở trong mình. Điều quan trọng là dám nhìn
thẳng vào con người mình, khơng tự lừa dối, huyễn hoặc; thấy được cái hay, cái tốt,
cái thiện để phát huy, thấy được cái dở, cái xấu, cái ác để khắc phục. Như vậy, để việc
xây dựng con người đạt được hiệu quả, cần có sự tự nhận thức, tự điều chỉnh, tự tu
dưỡng của mỗi cá nhân trong xã hội.
Mỗi cá nhân cần tự tu dưỡng hàng ngày, bền bỉ suốt đời, gắn với thực tiễn cách
mạng. Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ: mỗi người phải thường xuyên, chăm lo tu
dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hàng ngày, đó cũng là cơng việc phải làm kiên trì,
bền bỉ suốt cả cuộc đời, khơng người nào có thể chủ quan tự mãn. Trong giáo dục đạo
đức cho cán bộ, Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh tu dưỡng đạo đức là một quá
trình đấu tranh quyết liệt, lâu dài trong nội tâm của mỗi con người. Trong bài nói tại
Lớp chính Đảng Trung ương khóa 2 (tháng 3/1953), Người ví trong bản thân mỗi con
người đều có “hai phe: một phe thiện và một phe ác. Hai phe cùng đấu tranh với nhau.
Nếu đấu tranh để phe thiện thắng thì phe ác phải bại. Nếu khơng đấu tranh mà để cho
phe thiện bại, thì là hỏng”. Theo Hồ Chí Minh, đối với mỗi người, việc tu dưỡng đạo

đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong đời tư cũng như đời
công, trong mọi mối quan hệ từ hẹp đến rộng, từ nhỏ đến lớn.

23


Cần biết kế thừa những phẩm chất tốt đẹp của con người truyền thống, hình
thành những phẩm chất mới: có tư tưởng, đạo đức, trí tuệ, bản lĩnh, tác phong xã hội
chủ nghĩa. Đi đơi với nó là phải đấu tranh, phê phán chống lại những tư tưởng, tác
phong xấu, những hiện tượng phi đạo đức, phản văn hoá, những tàn dư của đạo đức
và lối sống cũ (chủ nghĩa cá nhân, quan liêu mệnh lệnh, tham ơ lãng phí, bảo thủ rụt
rè,...). Sinh thời, Hồ Chí Minh gọi đó là một loại bệnh, hơn thế nữa, là một loại giặc,
giặc nội xâm, giặc ở trong lịng. Người có bệnh thì phải uống thuốc để chữa bệnh, có
khi phải dùng “thuốc đắng” để “giã tật”. Đã là giặc thì phải có những chủ trương, biện
pháp để chống lại, loại trừ, phải chấp nhận những hy sinh, mất mát. Chủ nghĩa cá
nhân được biểu hiện đa dạng, ln biến hóa mn hình vạn trạng. Cách đây 50 năm,
trước khi về cõi vĩnh hằng, trong tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch
chủ nghĩa cá nhân” (3-2-1969), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra 10 loại bệnh nảy sinh từ
chủ nghĩa cá nhân cần nhận diện và phòng chống: bệnh quan liêu; bệnh tham lam;
bệnh lười biếng; bệnh kiêu ngạo; bệnh hiếu danh; bệnh “hữu danh vô thực”; bệnh cận
thị (biểu hiện là chỉ để ý đến cái nhỏ, vụn vặt, không thấy cái lớn, cái quan trọng);
bệnh tị nạnh; bệnh xu nịnh, a dua và bệnh kéo bè, kéo cánh. Người coi chủ nghĩa cá
nhân là “địch nội xâm” và “địch bên ngồi khơng đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ
hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra”. Nhận rõ được tác hại ghê gớm của những căn
bệnh ấy, theo Người phải ln nghiêm khắc đấu tranh phịng, chống chủ nghĩa cá
nhân, đặc biệt là trong đội ngũ cán bộ Đảng viên.
3.2. Việc nêu gương, nhất là người đứng đầu, có ý nghĩa rất quan trọng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln căn dặn cán bộ, đảng viên phải ln gương mẫu
giữa lời nói đi đơi với việc làm, giữa tư tưởng và hành động, giữa lý luận và thực
tiễn vì nêu gương là thể hiện phương thức và phong cách lãnh đạo của Đảng ta,

của mỗi cán bộ, đảng viên. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã có nhiều bài viết và nói về xây dựng Đảng, về cơng tác cán bộ, đảng
viên, trong đó nhiều lần Người nhấn mạnh trách nhiệm, bổn phận, tư cách của người
cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo rằng “Nói đi đơi với làm”, “Cố gắng làm
24


×