Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Tiểu luận: Lý luận của chủ nghĩa MácLênin về con người và sự vận dụng trong việc xây dụng con người Việt Nam phát triển toàn diện.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.12 KB, 34 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA
KHOA KIẾN THỨC CƠ BẢN

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: Triết Học Mác - Lênin
Tên đề tài: Lý luận của chủ nghĩa MácLênin về con người và sự vận dụng trong
việc xây dụng con người Việt Nam phát
triển toàn diện.

Người thực hiện: Trần
Quốc Huy
Lớp: 21DHDDL1
MSSV: D21DL012
GVHD: Hoàng Phương Liên

Pleiku, tháng 11 năm 2021


PHẦN NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN


MỤC LỤC
Lí do chọn đề tài, phạm vi nghiên cứu, đối tượng
nghiên cứu
Chương 1 Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về con
người
1. Các phương diện tiếp cận nguồn gốc và bản chất của con
người …...........1
1.1 Khái niệm con người …………………………………….…...
………...1


1.2 Các phương diện tiếp cận nguồn gốc và bản chất con
người …………..1
1.2.1 Sự hình thành và phát triển con người gắn liền với lịch
sử phát triển vật chất
……………………………………………………..………………..1
1.2.2 Con người là một chỉnh thể thống nhất giữa mặt sinh
học và mặt xã
hộ………………………………………………………………………….
….2
1.2.3 Con người là một thực thể cá nhân xã hội …………..….
…..….…....2
1.2.4 Con người là thể thống nhất giữa tất yếu và tự do
…………..…...….3
2. Vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin trong đời sống xã hội
…..…..…..…..3
2.1. Triết học Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan, phương
pháp luận khoa học và cách mạng để phân tích xu hướng của
xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại ………………………….….………...3
2.2. Triết học Mác – Lênin là cơ sở lý luận khoa học của công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và sự nghiệp đổi mới theo
định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam
………………………………………………………………….…4


Chương 2 Sự vận dụng trong việc xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện
…………………………………………………..…..…..…..4
1. Khái niệm nguồn lực con người ……….……………………….
……..…4

1.1. Đẩy mạnh phát triển nhân lực có kỹ năng nghề
…………....…………5
1.2. Kế hoạch xây dựng con người Việt Nam phát triển tồn
diện…….......6
1.2.1. Cụ thể hóa nhiệm vụ …………………..…………………..
……..…6
1.2.2. Những kết quả đạt được …………..………..………..…….
…….…8
1.2.3. Một số hạn chế yếu kém …………………...….….…...
……………9
1.2.4.Giải pháp …………...……………….……………...………….
…...10
2. Ý nghĩa của chủ nghĩa Mác trong việc phát triển con
người……..……..11
3. Tầm quan trọng trong việc phát triển trẻ em hiện nay
hướng tới sự phát triển toàn diện trong tương lai
………………………………………………13
4. Các thành tựu trong việc xây dựng con người Việt Nam
phát triển toàn
diện……………………………………………………………...……….
…..14
5. Hạn chế trong việc phát triển con người Việt Nam hiện
nay………...….14
6.Một số phương hướng phát huy nguồn nhân lực ở Việt
Nam…...…..…..15
7. Ý kiến bản thân ………………………………………………...…...
…..16
Kết luận ………………………………………………………………...
…..18



Tài liệu tham khảo ………………………………………………….....
…..19


Lí do chọn đề tài:
Nhân loại đang chứng kiến những thay đổi lớn lao trong kỷ
nguyên số của Cách mạng Cơng nghiệp 4.0, địi hỏi con người
cũng phải phát triển và đổi mới. Phát triển con người là mục
tiêu cao cả của cả nhân loại. Với tinh thần cao cả con người
mới là người làm chủ tương lai đất nước. Tại Hội nghị lần thứ
tư khóa VII, Đảng ta đã đề ra và thông qua nghị quyết lấy sự
phát triển toàn diện của con người Việt Nam là “động lực để
xây dựng xã hội mới”, cũng là mục tiêu của đấu tranh xã hội
chủ nghĩa. Đó là “ một người có trí tuệ cao cấp, thân thể
cường tráng, tinh thần phong phú và đạo đức trong sáng.”
Sự phát triển toàn diện của dân tộc Việt Nam là động lực và là
mục tiêu tiên quyết được Đảng ta xác lập. Đó là bởi, trong
điều kiện cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước và
theo định hướng chủ nghĩa xã hội, người lao động ngày càng
có vai trị quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
và sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Chất lượng người
lao động là nhân tố quyết định. Thực tiễn đã chứng minh rằng
khơng có lao động chất lượng cao. Chúng ta không thể phát
triển kinh tế và đưa đất nước ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu,
nhưng chính vì nghèo đói, kinh tế lạc hậu nên chất lượng cơng
nhân của chúng ta chưa cao. Để thốt khỏi vịng luẩn quẩn
này và tạo đà cho sự phát triển của dân tộc Việt Nam, chúng
ta cần có chính sách phát triển giáo dục trẻ em ngay từ nhỏ.
Do nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề con người, đặc

biệt là vấn đề con người trong sự nghiệp xây dựng và phát
triển đất nước nên em đã chọn đề tài tiểu luận: “Lý luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin về con người và sự vận dụng con người
Việt Nam phát triển toàn diện”.
Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: Tiểu luận nghiên cứu về lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin về con người và sự vận dụng con người Việt Nam
phát triển tồn diện.
Về khơng gian: Tiểu luận nghiên cứu ở Việt Nam và một số ví
dụ trên thế giới.
Về thời gian: Nghiên cứu và phân tích về sự phát triển con
người trong bối cảnh hiện nay.
Đối tượng nghiên cứu:


Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là con người Việt Nam và một
số ví dụ minh họa trên thế giới.


Chương 1 Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về
con người

1. Các phương diện tiếp cận nguồn gốc và bản
chất của con người
1.1 Khái niệm con người
Trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử xã hội và
về con người. Triết học Mác - Lênin đã đem lại một quan niệm
hoàn chỉnh về con người theo quan điểm chung nhất con
người là thực thể sinh học, xã hội. Con người là một sinh vật
có tính xã hội vừa là sản phẩm cao nhất trong quá trình tiến

hóa của tự nhiên và lịch sử xã hội vừa là chủ thể sáng tạo mọi
thành tựu văn hóa trên Trái Đất. Triết học Mác - Lênin đã chỉ rõ
hai mặt hai yếu tố cơ bản cấu thành con người là mặt sinh
học và mặt xã hội. Con người có mặt tự nhiên vật chất đồng
thời con người có mặt xã hội tinh thần ngôn ngữ, tư duy, lao
động, giao tiếp, đạo đức, văn hóa... Hai mặt đó hợp thành một
hệ thống năng động phức tạp luôn luôn biến đổi và phát triển.
Về vai trò của con người: Triết học Mác - Lênin khẳng định: “
Con người là chủ thể hoạt động thực tiễn, bằng hoạt động
thực tiễn con người sáng tạo ra mọi của cải vật chất tinh thần
đồng thời sáng tạo ra cả bộ óc tư duy của chính mình.’’

1.2 Các phương diện tiếp cận nguồn gốc và bản
chất con người
1.2.1 Sự hình thành và phát triển con người gắn
liền với lịch sử sản xuất vật chất
Triết học Mác - Lênin dựa trên cơ sở chủ nghĩa duy vật lịch
sử, tiếp cận sự hình thành và phát triển của loài người trong
lịch sử sản xuất vật chất. Từ đó khẳng định rằng lao động là
điều kiện chủ yếu quyết định sự hình thành và phát triển của
lồi người. Chính nhờ lao động mà con người cải tạo điều
kiện tự nhiên của thế giới bên ngồi, từ đó làm thay đổi bản
chất của giới tự nhiên, nâng cao bản năng sinh học của con
người, đồng thời phát triển phẩm chất xã hội của con người.
Sự khác nhau giữa con người và động vật là đối với động vật
sống trong tự nhiên, con người phải cải tạo thiên nhiên thông
1


qua lao động, sản xuất, tạo ra sản phẩm vật chất đáp ứng

nhu cầu ngày càng cao. Nhân loại ngày càng đa dạng hơn.
Lịch sử sản xuất vật chất cũng là lịch sử loài người cải tạo tự
nhiên để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của chính
mình. Về điều này các nhà kinh điển Mác-Xít đã khẳng định: “
Nhờ sản xuất mà giới tự nhiên biểu hiện ra là tác phẩm của
con người làm cho tự nhiên có tính người, tự nhiên được nhân
loại hóa.” Lịch sử phát triển của tự nhiên gắn bó hữu cơ với
lịch sử phát triển xã hội của lồi người. Do đó Mác đã nhấn
mạnh con người đứng trước một tự nhiên có tính lịch sử và
một lịch sử có tính tự nhiên. Con người được chuẩn bị như thế
nào về mặt sinh học để có khả năng lao động và trở thành
chủ thể sáng tạo là vấn đề do ngành sinh học và khoa học tự
nhiên có nhiệm vụ làm sáng tỏ vấn đề này. Tuy nhiên triết học
Mác - Lênin khẳng định: “ Thông qua lịch sử sản xuất vật chất
nhờ lao động mà một loài sinh vật mới ra đời, đó là con người
có lý tính con người tinh khơn mang tính chất xã hội.” Lao
động đã biến đổi bản chất tự nhiên của tổ tiên loài người.
Khoa học đã chứng minh rằng: “Con người là một tổ chức
sinh vật có trình độ phát triển cao nhất trên hành tinh, từ một
lồi sinh vật có xương sống phát triển lên là nấc thang cao
nhất trong lịch sử tiến hóa của tất cả các giống loài qua hàng
triệu năm lịch sử.” Lao động đã cải tạo khả năng sinh học của
con người, bắt bản năng phục tùng lý trí, phát triển bản năng
con người thành một trạng thái mới về chất.Về vấn đề này
Mác đã cho rằng: “ Con người ý thức thay thế bản năng hoặc
bản năng con người là bản năng đã được ý thức.” Lao động là
điều kiện chủ yếu quyết định sự hình thành phát triển bản lao
động của con người. Trong lao động tất yếu hình thành nên
quan hệ xã hội thơng qua hoạt động giao tiếp hình thành nên
ngơn ngữ nhận thức tình cảm ý chí và cả phương pháp tư duy

của con người. Chính vì vậy Ăng-ghen khẳng định: “ Trên ý
nghĩa cao cả nhất thì lao động sáng tạo ra chính bản thân
con người”. Nguồn gốc để hình thành nên ý thức con người là
hình thức xã hội. Trong hình thức xã hội có hai yếu tố tác động
biện chứng với nhau là lao động và ngơn ngữ, trong đó lao
động là yếu tố quyết định trực tiếp đến sự hình thành nên ý
thức của con người. Nhờ lao động mà con người vừa tách khỏi
tự nhiên, vừa hòa nhập với tự nhiên trở thành một thực thể
sáng tạo. Hoạt động đầu tiên mang ý nghĩa sáng tạo chân
chính của con người đó chính là biết chế tạo ra cơng cụ lao
1


động. Con người bắt đầu lịch sử của mình từ đó, nhờ có cơng
cụ lao động, tư liệu của mọi tư liệu, sức mạnh vật chất đầu
tiên mà con người tách khỏi tự nhiên, tách khỏi loài vật với tư
cách là một chủ thể hoạt động thực tiễn xã hội, đồng thời
bằng hoạt động cải tạo tự nhiên con người hòa nhập với tự
nhiên biến tự nhiên thứ nhất thành tự nhiên thứ hai, tự nhiên
thứ ba... sáng tạo ra của cải tri thức tinh thần. Như vậy sáng
tạo chính là thuộc tính tối cao của con người bản chất con
người là sáng tạo ngay từ đầu với đầy đủ ý nghĩa của nó.

1.2.2 Con người là một chỉnh thể thống nhất
giữa mặt sinh học và mặt xã hội
Chúng ta biết rằng triết học Mác - Lênin tiếp cận con người
trong tính tồn vẹn trong tính chỉnh thể khẳng định con người
là một chỉnh thể tồn tại và phát triển trong sự thống nhất giữa
mặt sinh học và mặt xã hội. Đây là một chỉnh thể phức tạp,
năng động và luôn vận động biến đổi phát triển. Về mặt sinh

học con người tồn tại ở cấp độ cơ thể biểu hiện trong các hiện
tượng sinh lí duy truyền thần kinh và các quá trình khác của
cơ thể. Về mặt này con người phục tùng các quy luật của tự
nhiên sinh học, còn về mặt xã hội con người tồn tại ở cấp độ,
nhân cách biểu hiện trong những quá trình ý thức, tính cách,
tính khí, lối sống... là chủ thể quan hệ xã hội lao động giao
tiếp tinh thần. Về mặt này con người phục tùng các quy luật
xã hội.Như vậy con người vừa chịu phục tùng các quy luật tự
nhiên sinh học, đồng thời còn phục tùng các quy luật xã hội.
Con người tồn tại và phát triển trong tính tồn vẹn thống nhất
của hai q trình sinh học và xã hội. Sự hình thành phát triển
con người thơng qua một quá trình thống nhất giữa cơ chế
duy truyền và hoạt động xã hội. Cơ chế duy truyền quyết định
q trình tiến hóa sinh học của con người tạo nên cơ sở sinh
học cho sự tiến hóa xã hội. Qúa trình gia nhập hoạt động xã
hội, gia nhập vào bối cảnh văn hóa lịch sử đã quyết định sự
hình thành phát triển những phẩm chất xã hội của con người,
đây là một quá trình thống nhất và phức tạp trong đó cơ chế
duy truyền khơng chỉ quyết định về mặt sinh học là chủ yếu
mà còn gắn liền với sự hình thành phát triển bản năng xã hội
của con người. Do đó Ăng-ghen cho rằng giới tự nhiên đạt đến
trình độ tự nhận thức được mình đó là con người.Ví dụ: Con
người đã tiến hóa về mặt sinh học như thế nào? Sự phát triển
2


về chiều cao: Trong một cuộc nghiên cứu đăng tải trên tạp chí
eLife, chiều cao của đàn ơng và phụ nữ tại nhiều quốc gia trên
thế giới - đặc biệt là phụ nữ Hàn Quốc và nam giới Iran đã cải
thiện rất nhiều, lần lượt là 20,2 cm và 16,5 cm. Về thân nhiệt,

các chuyên gia từ đại học Stanford đã xác nhận nam giới
trong thế kỉ 21 có thân nhiệt giảm đi ít nhất 0,58 độ C. Dậy thì
sớm hơn, theo một nghiên cứu từ đại học California, 15% trẻ
em gái hiện nay có thể dậy thì từ năm 7 tuổi.Về mặt xã hội,
con người có những hoạt động quan hệ xã hội như lao động
sản xuất, quan hệ kinh tế, chính trị, giai cấp, dân tộc... Việt
Nam chúng ta đang là một trong những nước đi đầu trong
việc giao thương quốc tế với các nước phát triển.

1.2.3 Con người là một thực thể cá nhân xã hội
Chúng ta biết rằng con người vừa là một chỉnh thể đơn nhất
vừa mang những phẩm chất của hệ thống các quan hệ xã hội,
đó là một hệ thống năng động phát triển, thống nhất giữa cái
chung, cái đặc thù và cái riêng. Con người là một nhân cách
mang đặc chưng chung đại biểu cho nhân loại, thuộc tính
chung nhất và cao nhất của con người là sáng tạo. Con người
mang những phẩm chất đặc thù đại biểu cho một xã hội, cụ
thể đại biểu cho một dân tộc giai cấp tập thể nhóm xã hội gia
đình... Những phẩm chất xã hội của con người mang dấu ấn
của một thời đại lịch sử và những quan hệ xã hội cụ thể,
những phẩm chất riêng của mỗi người là cái đơn nhất cái đặc
thù của cá nhân tạo nên kinh nghiệm tính đơn nhất về tâm lí
xã hội mỗi con người. Cái riêng của mỗi con người do đặc
điểm duy truyền, do điều kiện sống riêng nhờ những phẩm
chất riêng mà phân biệt được những cá nhân này và cá nhân
khác về động cơ, trí tuệ... cho nên Mác đã từng nói con người
là một thực thể xã hội mang tính cá nhân.Ví dụ: Nhờ có lao
động sản xuất con người đã sáng tạo nên những của cải vật
chất, những ngôi nhà cao tầng, những con đường phẳng tấp...
Lao động là điều kiện tiên quyết, cần thiêt và chủ yếu quyết

định sự hình thành và phát triển của con người.

1.2.4 Con người là thể thống nhất giữa tất yếu
và tự do
Hoạt động của con người thì bị chi phối bởi tính tất yếu tính
tất yếu tồn tại dưới hình thức là các quy luật khách quan mặc
3


dù con người nhận thức được quy luật khách quan hay khơng
thì lịch sử xã hội vẫn phát triển theo quy luật. Hoạt động của
con người biểu hiện ra như vậy là tất yếu mù quáng. Con
người tự do là con người nhận thức sâu sắc quy luật và hoạt
động tự giác cho nên tự do là tiền đề, là điều kiện cho hoạt
động sáng tạo của con người. Hoạt động của con người là sự
thống nhất giữa tất yếu và tự do, hoạt động con người có ý
thức tiếp dẫn, nắm bắt quy luật khách quan làm tiền đề cho
sự sáng tạo lịch sử, xã hội loài người là lịch sử con người vươn
lên giành lấy tự do ngày càng cao hơn. Con người muốn tự do
trước hết phải được giải phóng về mặt xã hội, phải có chế độ
kinh tế xã hội tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động con người
vươn tới tự do. Một xã hội bao gồm trong đó những con người
phát triển tự do tồn diện chính là mục tiêu của một xã hội đó
là xã hội cộng sản chủ nghĩa. Ví dụ: Việt Nam có 54 dân tộc,
mỗi dẫn tộc có một nền văn hóa riêng. Do vậy chúng ta phải
chung hịa và phát triển những nền văn hóa ấy từ đó phát
triển thêm những nền văn hóa trên thế giới.

2. Vai trị của chủ nghĩa Mác - Lênin trong đời
sống xã hội

2.1. Triết học Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan,
phương pháp luận khoa học và cách mạng để
phân tích xu hướng của xã hội trong điều kiện
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại.
Triết học Mác - Lênin đóng vai trị là cơ sở lý luận – phương
pháp luận cho các phát minh khoa học, cho sự tích hợp và
truyền bá tri thức khoa học hiện đại, đồng thời những vấn đề
mới của hệ thống tri thức khoa học hiện đại cũng đòi hỏi triết
học Mác - Lênin phải có bước phát triển mới.
Triết học Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp
luận khoa học, cách mạng để phân tích xu hướng vận động
của thế giới trong bối cảnh tồn cầu hóa.
Triết học Mác - Lênin tiếp tục là lý luận khoa học và cách
mạng soi đường cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động
4


trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp và giải phóng con
người hiện nay.

2.2. Triết học Mác - Lênin là cơ sở lý luận khoa
học của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
và sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
Vai trò thế giới quan, phương pháp luận của triết học Mác Lênin thể hiện rõ nét trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, đó
là đổi mới tư duy, nhất là tư duy lý luận thì sẽ khơng có sự
nghiệp đổi mới.
Thế giới quan triết học Mác - Lênin đã giúp Đảng Cộng sản
Việt Nam nhìn nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong

giai đoạn mới, đánh giá cục diện thế giới, các mối quan hệ
quốc tế, xu hướng thời đại, thực trạng tình hình đất nước và
con đường phát triển trong tương lai.
Triết học Mác - Lênin cung cấp phương pháp luận để giải
quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn đổi mới, trong tiến
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Chương 2 Sự vận dụng trong việc xây dựng
con người Việt Nam phát triển toàn diện
1. Khái niệm nguồn lực con người
Nguồn lực con người con người được hiểu là những tiêu chí
phản ánh về số lượng và chất lượng của dân số với tư cách là
lực lượng sản xuất trong xã hội cũng như vấn đề, quản lí, sử
dụng, đào tạo nguồn nhân lực.
Nguồn lực con người ở Việt Nam biểu hiện chỉ số về số lượng
như số lượng dân số, cơ cấu dân số về lao động, cơ cấu độ
tuổi, giới tính nghề nghiệp… chỉ số về chất lượng, tình trạng
sức khỏe, trình độ học vấn, trình độ tay nghề, chun mơn
nghiệp vụ, tính chuyên nghiệp trong lao động, phẩm chất về
chính trị tư tưởng, tâm lý, đạo đức, kỹ năng và năng lực làm
việc, chất lượng cuộc sống…

5


1.1. Đẩy mạnh phát triển nhân lực có kỹ năng
nghề
Giáo dục nghề nghiệp (GDNN) hiện có 5/8 bậc đào tạo trong
Khung trình độ quốc gia, có quy mơ chiếm hơn 80% lao động
qua đào tạo. Theo chiến lược và quy hoạch phát triển nhân

lực, đây là bộ phận nhân lực trực tiếp trong sản xuất, kinh
doanh và dịch vụ cho phát triển đất nước nên luôn được sự
quan tâm, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Nhất là trong bối
cảnh năng suất lao động của nước ta còn thấp so các nước
trong khu vực.
Trong những năm qua GDNN được coi là nhiệm vụ trọng tâm,
then chốt của ngành Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐTB&XH). Mạng lưới cơ sở GDNN phát triển rộng khắp cả nước,
đa dạng về loại hình, trình độ đào tạo và mơ hình hoạt động.
Trung bình mỗi năm, cả nước tuyển sinh được hơn hai triệu
người. Tỷ lệ học sinh, sinh viên tốt nghiệp có việc làm ngay
sau khi tốt nghiệp đạt 85%, những trường có uy tín về chất
lượng đào tạo nghề, có quan hệ tốt với DN thì tỷ lệ có việc
làm là 100%; GDNN của Việt Nam từ chỗ chưa được Diễn đàn
Kinh tế thế giới xếp hạng, đến nay đã đứng thứ mức 90/158
quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới, tăng 10 bậc so năm
2019. Những kết quả đạt được trong lĩnh vực GDNN đã góp
phần thực hiện các mục tiêu chung của cả nước và mục tiêu
nhiệm vụ của ngành, góp phần quan trọng nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực và phát triển KT - XH của đất nước.
Tuy nhiên công tác tuyển sinh trong hoạt động GDNN vẫn cịn
khó khăn, thách thức, đặc biệt đối với các ngành nghề nặng
nhọc, độc hại, ngành nghề đòi hỏi năng khiếu. Cơ cấu đào tạo
chưa hợp lý. Công tác phân luồng sau THCS còn thấp so mục
tiêu đề ra trong các nghị quyết của Đảng và Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ. Chất lượng, hiệu quả đào tạo ở một số
cơ sở đào tạo chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của công
việc và cơ cấu lao động vẫn còn nhiều bất cập dẫn đến năng
suất lao động thấp. Người lao động chưa đáp ứng được yêu
cầu hiện tại, có thể hồn tồn khơng hữu dụng với nền kinh tế
4.0 hoặc đang dễ dàng bị rô-bốt thay thế trong tương lai gần.

Việc thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao, năng suất lao
động thấp đang là vấn đề thách thức của Việt Nam để sẵn
sàng cho một giai đoạn mới dựa trên nền tảng khoa học công
nghiệp 4.0.
6


TS Trương Anh Dũng, Tổng cục trưởng Giáo dục nghề nghiệp,
Bộ LĐ-TB&XH cho rằng: “ Để phát huy ý nghĩa, giá trị lâu dài
của đột phá chiến lược, để đáp ứng được nhu cầu đào tạo
nguồn nhân lực tương lai phục vụ cho cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, cũng như để có thể đáp ứng tốt trước
những thay đổi của thực tế cuộc sống, thích ứng trong mọi
hồn cảnh, nhiều vấn đề đối với GDNN cần phải được xem
xét, đề cập trong Đại hội XIII của Đảng ”.
Thứ nhất: Cần có báo cáo đánh giá khách quan, tồn diện và
cụ thể các kết quả đạt được, những hạn chế, yếu kém,
nguyên nhân, bài học kinh nghiệm về việc thực hiện ba đột
phá chiến lược, trong đó có báo cáo đánh giá về GDNN để từ
đó xác định các mục tiêu, định hướng, nhiệm vụ phù hợp điều
kiện, yêu cầu mới cần tập trung vào các đột phá cho giai đoạn
10 năm tới.
Bên cạnh đó, cần đánh giá thực trạng hiện nay “ thiếu hụt
trầm trọng lao động có kỹ năng nghề phù hợp ”, từ đó trong
tầm nhìn, định hướng phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và
đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế.
Thứ hai: Tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo có kỹ năng phù hợp,
cụ thể đến năm 2025 tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 75%, đến
năm 2030 đạt 80%, tương ứng là tỷ lệ lao động qua đào tạo

có văn bằng, chứng chỉ đến năm 2025 đạt 30%, đến năm
2030 đạt khoảng 50%. Bởi xu thế phát triển GDNN hiện nay là
theo hướng mở, đa dạng, linh hoạt, hiện đại với nhiều phương
thức và trình độ đào tạo, vì vậy người lao động có nhu cầu
học tập và nâng cấp kỹ năng nghề nghiệp suốt đời để tham
gia hiệu quả vào thị trường lao động.
Thứ ba: Mục tiêu của Đề án “Giáo dục hướng nghiệp và định
hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông giai
đoạn 2018 - 2025” là tạo bước đột phá về chất lượng giáo dục
hướng nghiệp trong giáo dục phổ thơng, góp phần chuyển
biến mạnh mẽ cơng tác phân luồng học sinh sau THCS và
THPT vào học các trình độ giáo dục nghề nghiệp phù hợp yêu
cầu phát triển KT - XH của đất nước và địa phương, đáp ứng
nhu cầu nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực quốc
gia, hội nhập khu vực và quốc tế. Vì vậy cần đẩy mạnh công
tác phân luồng, hướng nghiệp cả sau THCS và THPT.
7


Thứ tư: Phát triển GDNN là một trong những nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, thích ứng những biến đổi nhanh chóng của thị trường lao
động, đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ tư, hội nhập quốc tế và phát triển bền vững của đất nước.
Vì vậy GDNN cần được ưu tiên bố trí nguồn ngân sách nhà
nước, trong ngân sách nhà nước dành cho giáo dục, đào tạo
và các chương trình, dự án của quốc gia hằng năm theo tinh
thần của Luật GDNN, trong đó xây dựng “Chương trình mục
tiêu quốc gia giảm nghèo và an sinh xã hội bền vững” với một
trụ cột quan trọng là đổi mới và nâng cao chất lượng GDNN.


1.2. Kế hoạch xây dựng con người Việt Nam
phát triển toàn diện
1.2.1. Cụ thể hóa nhiệm vụ
Xây dựng con người là nhân tố quan trọng quyết định sự
thành bại của sự nghiệp cách mạng nước ta. Sinh thời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã
hội, trước hết phải có những con người xã hội chủ nghĩa”.
Năm 2014, Hội nghị tồn thể lần thứ chín Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XI đã thơng qua
15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII về văn hóa và thơng qua Chỉ thị
“Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu vì sự phát triển bền vững của đất nước ”(Nghị
quyết số 33), trong đó thúc đẩy sự phát triển tồn diện của
cơng cuộc xây dựng con người. Một là “trau dồi lòng yêu
nước, lòng tự hào dân tộc, tư cách đạo đức, lối sống và phẩm
chất cá nhân”. Đây là xem xét tư duy liên ngành của những
người làm công tác xây dựng. Lấy lòng yêu nước, tự hào dân
tộc làm giá trị cơ bản, cốt lõi, đoàn kết mọi người Việt Nam
trong và ngoài nước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy chuẩn
mực đạo đức, lối sống, nhân cách làm tiêu chuẩn đánh giá
con người dưới góc độ tự nhiên và xã hội  và giá trị con người.
Thứ hai là “ ni dạy con người có thế giới quan khoa học,
hướng tới chân - thiện - mỹ ”. Sống trong thời đại cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, quốc tế hóa và cuộc cách mạng
4.0, mỗi người Việt Nam bắt buộc phải có thế giới quan khoa
học để tìm hiểu, đánh giá các sự vật, hiện tượng, giải quyết
các vấn đề của thực tế cuộc sống. Vấn đề cốt lõi của thế giới
quan khoa học là tư tưởng.Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

8


tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, trang bị cho cán
bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức và cải tạo thế giới.
Muốn có thế giới quan khoa học, Đảng yêu cầu: “ Nâng cao
trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế, của kinh tế tri thức và xã hội học
tập ”.
Thứ ba, “ Tổng kết và Xây dựng Hệ giá trị Chuẩn mực cho
Con người Việt Nam trong thời kỳ Cơng nghiệp hóa, Hiện đại
hóa và Hội nhập Quốc tế ”. Đây là nhiệm vụ cấp bách và kịp
thời nhằm bảo đảm sự phát triển nhanh và bền vững của đất
nước. Đảng yêu cầu các nhà quản lý, nhà khoa học nghiên
cứu toàn diện, chuyên sâu về lịch sử và con người Việt Nam
ngày nay, hình thành hệ giá trị chuẩn mực cho con người Việt
Nam, làm cơ sở pháp lý cho tương lai, tổ chức và thực hiện
chúng, với mục tiêu xây dựng một con người phát triển toàn
diện. 4. Xây dựng và phát huy lối sống mọi người vì một
người, mọi người vì một người hình thành lối sống tự trọng,
tự tơn, sống và làm việc đúng pháp luật, bảo vệ môi trường.
Đây là lối sống thể hiện bản chất của hệ thống xã hội chủ
nghĩa của chúng ta, thể hiện mối quan hệ giữa “ công ” và “
tư ”, đặt “ cái tôi ” lên trên “ cái tôi ” và khăng khăng trách
nhiệm cá nhân, gia đình và xã hội. Từ đó, Đảng ta nêu rõ
trong q trình xây dựng con người phải: “ Khẳng định, tôn
vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các
giá trị cao đẹp, nhân văn ”.
Thứ năm, văn hóa xét cho cùng là nghệ thuật hướng đến cái

đẹp, mọi hoạt động văn hóa đều được thực hiện theo quy
luật của cái đẹp. Muốn hiểu đúng về cái đẹp, chúng ta phải
giáo dục mọi người hiểu đúng về tiêu chuẩn và giá trị của cái
đẹp. Nhiệm vụ mà đảng đề ra là “ tăng cường giáo dục nghệ
thuật và nâng cao khả năng thẩm mỹ của người dân, đặc
biệt là giới trẻ ”.
Thứ sáu là x
ây dựng con người phát triển toàn diện được
xếp vào bốn giá trị cốt lõi là ba đức, thân, mỹ. Thực tế cho
thấy, thể lực, tầm vóc và sức bền của người Việt Nam còn
nhiều hạn chế. Vì vậy, Đảng ta chủ trương: “Nâng cao thể
lực, vóc dáng con người Việt Nam, kết hợp giáo dục thể chất
với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng sống, đáp ứng yêu
cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Bảy là, xây dựng và quốc phịng đi đơi với nhau. Trau dồi
phẩm chất và nhân cách tốt tình yêu thương, phẩm giá, sự
bao dung và thân thiện của con người Việt Nam đấu tranh
chống lại mọi trở ngại, suy thoái nhân cách và lối sống tốt
9


đẹp của con người. Khiêm tốn, lạc hậu, quan điểm chống đối,
hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng đến việc xây dựng văn
hóa, làm quần chúng nhân dân xa lánh. Có giải pháp khắc
phục những hạn chế của người Việt. Những nhiệm vụ cụ thể
nêu trong Nghị quyết số 33 nói trên là chỉ thị rất quan trọng
đối với hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân Việt Nam,
dân tộc Việt Nam có thể phát triển tồn diện trên cơ sở đó.

1.2.2. Những kết quả đạt được

Từ khi Nghị quyết 33 ra đời, Đảng ta đã ban hành một số văn
bản góp phần cụ thể hóa chủ trương xây dựng con người Việt
Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững. Hệ thống chính trị và các tầng lớp xã hội đã chủ động
hơn trong việc giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống,
xây dựng thế giới quan, nhân sinh quan khoa học, cách mạng,
nhân văn, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng.
Các cơ quan Trung ương và địa phương đã khẩn trương triển
khai tuyên truyền, ban hành các văn bản chỉ đạo, quản lý
theo chức năng, nhiệm vụ được giao, tạo cơ sở pháp lý và
điều kiện để các tổ chức trong xã hội tập trung trí tuệ, cơng
sức xây dựng con người. Nhận thức về quan điểm, nhiệm vụ
xây dựng con người phát triển toàn diện trong Đảng và các
tầng lớp nhân dân ngày một rõ ràng, cụ thể hơn. Vai trò của
con người ngày càng thể hiện và tác động lớn trong đời sống
chính trị, kinh tế, xã hội. Bước đầu tạo được sự gắn kết phát
triển văn hóa với xây dựng con người, lấy việc chăm lo xây
dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp làm trọng tâm.
Tinh thần yêu nước, lịng tự hào dân tộc, tính tích cực xã hội
của nhân dân được phát huy. Dân chủ xã hội được mở rộng
cùng với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng và tiếp cận với
các phương tiện truyền thông mới đã làm cho con người Việt
Nam luôn đổi mới tư duy, năng động, sáng tạo hơn, có nhiều
cơ hội tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Các giá trị đạo đức
truyền thống được giữ gìn, phát huy và thay đổi theo hướng
phù hợp với nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Hình
thành nếp sống văn minh, tác phong cơng nghiệp, tính
chun nghiệp, thiết thực, hiệu quả, đề cao, tơn trọng con
người; quan tâm nâng cao trí tuệ, cải thiện chất lượng sức

khỏe, tầm vóc con người Việt Nam. Theo Tổng điều tra Dân số
và Nhà ở năm 2019, tuổi thọ trung bình con người Việt Nam
năm 2019 là 73,6 tuổi. Từ 1990 đến 2018, tổng thu nhập bình
quân đầu người đã tăng lên 354,5%. Năm 2019, tổng thu
nhập bình quân đầu người gần 2.800 USD. Việt Nam nằm
trong nhóm các nước có tốc độ tăng trưởng chỉ số phát triển
10


con người (HDI) cao nhất trên thế giới, với tăng trưởng trung
bình HDI ở mức 1,36% trong suốt giai đoạn 1990 - 2018. Đây
là thành tựu rất đáng để Việt Nam tự hào về xây dựng con
người.
Phong trào “ Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ
vĩ đại ” được triển khai thực hiện rộng khắp trên các địa bàn
từ thành thị đến nông thôn. Năm 2018, số người tập luyện thể
dục thể thao thường xuyên trên toàn quốc đạt 32,35%; số gia
đình tập luyện thể thao thường xuyên đạt 23,41% tổng số hộ.
Thể lực, tầm vóc con người Việt Nam được cải thiện, ý thức
bảo vệ môi trường sống được nâng lên.
Cơng tác phịng, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, suy
thối tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong nội bộ cán bộ,
đảng viên, nhân dân có chuyển biến, góp phần xây dựng hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tạo mơi trường văn
hóa, xã hội lành mạnh, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất
đạo đức, trình độ chun mơn của cán bộ, đảng viên, nhân
dân; tạo niềm tin của nhân dân đối với chế độ.

1.2.3. Một số hạn chế yếu kém
Có thể thẳng thắn nhìn nhận, cơng tác tổ chức thực hiện

nhiệm vụ phát triển con người theo tinh thần Nghị quyết 33
chưa đều khắp các lĩnh vực, vùng miền. Nhận thức chung của
xã hội về vai trị, vị trí của con người theo tinh thần Nghị
quyết số 33 còn chung chung. Trong tổ chức thực hiện Nghị
quyết, quan điểm xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo
xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp chưa được
triển khai mạnh mẽ.
Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, chưa thực sự được đẩy
lùi. Một số mặt đạo đức xã hội có biểu hiện xuống cấp nghiêm
trọng. Ở một số nơi, vẫn cịn tình trạng kẻ xấu lợi dụng sự ngộ
nhận về lòng yêu nước của một bộ phận người dân phục vụ
mục đích chống phá chế độ.
Hệ giá trị và chuẩn mực văn hóa, con người Việt Nam làm cơ
sở thực tiễn chưa được ban hành. Một số cán bộ, quần chúng
sinh sống ở nước ngoài, tiêu dùng văn hóa phẩm, lối sống
thiếu chọn lọc đã ảnh hưởng đến việc bảo tồn truyền thống
văn hóa dân tộc và xây dựng con người trước những thách
thức toàn cầu. So với khu vực Đông Nam Á, chất lượng nguồn
nhân lực của Việt Nam còn thấp. Sự phối hợp giữa gia đìnhnhà trường-xã hội trong việc giáo dục con người chưa thường
xuyên. Công tác giáo dục nghệ thuật nhằm nâng cao năng
lực thẩm mỹ cho các tầng lớp nhân dân chưa được quan tâm
đúng mức. Nhiều hoạt động văn hóa, dịch vụ văn hóa cơng
11


cộng bị “thương mại hóa”, làm giảm giá trị giáo dục, hợp thị
hiếu thô tục của một số người, gây hậu quả xấu cho sự phát
triển của con người. Công tác xã hội hóa dân sinh chưa được
phát huy một cách tối đa. Chưa thực hiện được một số hoạt

động như biểu dương gương người tốt, việc tốt, điển hình tiên
tiến và các gương điển hình tiên tiến chạy theo số lượng và
hình thức.
Cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, tiêu cực xã
hội chưa thường xuyên, liên tục. Một số nơi còn coi nhẹ việc
đấu tranh, phòng chống các biểu hiện suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trên lĩnh vực văn hóa, ảnh hưởng đến nhiệm vụ xây dựng con
người. Những giải pháp mang tính đột phá khắc phục những
mặt hạn chế của con người Việt Nam chưa được đề xuất .

1.2.4. Giải pháp
Trước hết là tăng cường cơng khai, nâng cao nhận thức về
thực trạng, vai trị của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân
dân đối với sự nghiệp trẻ hóa và phát triển bền vững đất
nước. Phát huy lòng yêu nước, yêu nhân dân lòng tự hào, tơn
vinh lịch sử, văn hóa dân tộc.
Thứ hai là cập nhật công tác tư tưởng, giáo dục lý luận chính
trị, khắc phục giáo điều, máy móc, coi trong đối thoại và phản
biện xã hội trên cơ sở tổng kết thực tiễn, tăng tính thuyết
phục của kết quả. Chính sách và pháp luật của đảng và đất
nước bảo vệ nền tảng tư tưởng của đảng và xây dựng nhân
sinh quan khoa học.
Thứ ba là tiếp tục rà soát, ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật để tạo cơ sở pháp lý phát huy mọi tiềm năng của xã
hội vào sự nghiệp chăm sóc và phát triển nhân văn. Đổi mới
cơ chế, phương pháp giáo dục nhân cách, tư tưởng, lý luận
chính trị, đạo đức cách mạng phù hợp với từng đối tượng, bắt
đầu từ giai đoạn mầm non.
Khẩn trương đúc kết và sớm ban hành hệ giá trị chuẩn mực

con người Việt Nam thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội
nhập quốc tế.
Xây dựng lối sống “ một người vì mọi người, mọi người vì một
người ”, tuân thủ pháp luật, bảo vệ môi trường, uống nước
nhớ nguồn, cho đi có lại, tương thân tương ái, quan tâm giúp
đỡ người khác, tôn trọng và nhân bản giá trị văn hóa tốt đẹp.
12


Thứ tư là phổ biến rộng rãi các tác phẩm văn học, các chương
trình giáo dục văn hóa nghệ thuật truyền thống và hiện đại,
nâng cao năng lực thẩm mỹ, bồi đắp tình cảm nhân văn, tinh
thần, tạo dũng khí, phản kháng, giúp nhân dân chủ động hội
nhập quốc tế. Văn hóa, bảo vệ truyền thống văn hóa tốt đẹp
của dân tộc. Giáo dục thể chất đã đưa phong trào “ Toàn dân
rèn luyện sức khỏe theo gương Bác ” có sức lan tỏa sâu rộng
trong đời sống hàng ngày.
Thứ năm là phát huy vai trò, trách nhiệm của mỗi người, mỗi
chủ thể văn hóa, phối hợp giải quyết đồng thời, loại bỏ những
văn hóa phẩm độc hại có nội dung trái với thuần phong mỹ
tục dân tộc, có tác động xấu đến việc xây dựng con người.
Thứ sáu là phản bác các quan điểm sai trái, các khuynh
hướng phản tiến bộ, nhân văn, tha hóa trong lĩnh vực văn
hóa, văn học, nghệ thuật. Chủ động phát hiện, đấu tranh,
ngăn chặn, đẩy lùi tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống “ tự
diễn biến ”, “ tự chuyển hóa ”, tham nhũng, lãng phí của cán
bộ, đảng viên và những biểu hiện tiêu cực của nhân dân và
các biểu hiện khác.
Thứ bảy là tập trung nghiên cứu, làm rõ những hạn chế của
tiếng Việt, từ đó đề xuất cách khắc phục. Từng bước khắc

phục những mâu thuẫn trong quan niệm, lối sống của nhiều
thế hệ ở Việt Nam, thiết lập mối liên hệ và sự nhất trí cao
trong q trình xây dựng và bảo về Tổ quốc.
Cuối cùng đó là phải phát triển khoa học kỹ thuật. Tại sao
chúng ta luôn thừa hưởng những thành tựu khoa học kỹ thuật
trên thế giới mà chúng ta khơng sáng tạo ra nó. Trong đợt
covid 19 vừa rồi, hầu hết người dân chúng ta đều được tiêm
những vắc xin Astrazeneca, Pfizer, Vero cell từ những nước
phát triển hàn đầu như Mỹ, Anh, Trung Quốc... Đó là vì cơng
nghệ của họ tiên tiến, khoa học của họ phát triển và con
người của họ quá giỏi. Vậy nên chúng ta cần phải đầu tư phát
triển nền khoa học kỹ thuật của nước nhà để có thể có một
thành tựu gì đó mà thế giới có thể học hỏi.

2. Ý nghĩa của Chủ nghĩa Mác trong việc phát
triển con người
Trong quan niệm của triết học mác - xít, con người là một thực
thể trong sự thống nhất biện chứng giữa cái tự nhiên và cái xã
13


hội. Con người sinh ra từ tự nhiên, tuân theo các quy luật tự
nhiên, đồng thời con người tồn tại và phát triển gắn liền với sự
tồn tại và phát triển của xã hội.
Luận điểm nổi tiếng về con người được C.Mác viết trong Luận
cương về Phoi-ơ-bắc (1845): “ Bản chất con người khơng phải
là một cái gì trừu tượng, cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hồ những
quan hệ xã hội ” .
Với quan niệm đó, C.Mác chỉ ra rằng bản chất con người

không phải là trừu tượng mà là hiện thực, không phải tự nhiên
mà là lịch sử. Con người là một thực thể thống nhất giữa yếu
tố sinh học và yếu tố xã hội, nhưng yếu tố xã hội mới là bản
chất đích thực của con người.
Ở đây, cá nhân được hiểu với tư cách là những cá nhân sống,
là người sáng tạo các quan hệ xã hội, sự phong phú của mỗi
cá nhân tuỳ thuộc vào sự phong phú của những mối liên hệ xã
hội của nó. Hơn thế, mỗi cá nhân là sự tổng hợp khơng chỉ của
các quan hệ hiện có, mà cịn là lịch sử của các quan hệ đó.
Thơng qua hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi tự
nhiên, xã hội, biến đổi chính bản thân mình và đã làm nên lịch
sử của xã hội loài người. Vạch ra vai trò của mối quan hệ giữa
các yếu tố cấu thành bản chất của con người, quan hệ giữa cá
nhân và xã hội là một cống hiến quan trọng của triết học mác
- xit.
Người cho con người là tài sản quý nhất, chăm lo, bồi dưỡng
và phát triển con người, coi con người là mục tiêu, động lực
của sự phát triển xã hội, nhân tố quyết định thành công của
cách mạng.
Nhận thức đúng đắn và khơi dậy nguồn lực con người chính là
sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, xem con người
với tư cách là nguồn sáng tạo có ý thức, chủ thể của lịch sử.
Việc đề cao nhân tố con người, đặt con người vào vị trí trung
tâm của chiến lược phát triển là tư tưởng nhất quán của Đảng
ta, trong điều kiện nền kinh tế thị trường đang thúc đẩy sự
phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động,
tạo ra cơ sở vật chất và văn hóa tinh thần ngày càng đa dạng,
phong phú. Lợi ích cá nhân ngày càng được chú ý, tạo cơ hội
mới để phát triển cá nhân.
Tuy nhiên, cơ chế này có thể dẫn tới tuyệt đối hóa lợi ích kinh

tế, dẫn đến phân hóa giàu nghèo trong xã hội, chứa đựng
14


những khả năng đối lập giữa cá nhân và xã hội. Do đó, chúng
ta cần khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường, phát huy vai
trò nhân tố con người, thực hiện chiến lược con người của
Đảng ta là một mục tiêu có ý nghĩa quyết định để giải quyết
tốt mối quan hệ cá nhân - xã hội: Xây dựng con người Việt
Nam có tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, có ý thức
tự cường dân tộc, trách nhiệm cao trong lao động, có lương
tâm nghề nghiệp, có tác phong cơng nghiệp, có ý thức cộng
đồng, tơn trọng nghĩa tình, có lối sống văn hóa, quan hệ hài
hồ trong gia đình, cộng đồng và xã hội.
Đặc biệt, quán triệt sâu sắc tinh thần Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII của Đảng là phát huy mạnh mẽ giá trị văn
hóa, sức mạnh con người Việt Nam, khơi dậy khát vọng đất
nước, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (20212030) bổ sung, làm sâu sắc, phong phú hơn quan điểm về
nguồn lực con người: “ Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước
phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh
khối đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Phát huy nhân tố con người, coi con người là trung tâm,
chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát
triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức
mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững.
Phải có cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất
nước; mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng
vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của
Nhân dân”.
Có thể khẳng định, Luận điểm của C.Mác về bản chất con

người đến nay vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn, đó
là những bài học hết sức quý báu trong việc phát huy nguồn
lực con người đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước,
góp phần sớm hiện thực hóa mục tiêu “ đến giữa thế kỷ XXI,
nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ” .

3. Tầm quan trọng trong việc phát triển trẻ em
hiện nay hướng tới sự phát triển toàn diện trong
tương lai
Dân số trẻ em là 24.776.733 em (chiếm 25,75% trên tổng dân
số), trong đó trẻ em nam là 12.915.365 em (chiếm 52% trên
tổng dân số trẻ em), trẻ em nữ là 11.861.368 (chiếm 48%
trên tổng dân số trẻ em) (Nguồn: Tổng Cục Thống kê (theo
kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở thời điểm 01/4/2019
-công bố ngày 19/12/2019)).
15


Tỷ lệ trẻ em có hồn cảnh đặc biệt trên tổng dân số trẻ em có
xu hướng giảm, đến cuối năm 2020 còn khoảng 7% (năm
2019 là 7,16%) (Báo cáo Sở LĐTBXH các tỉnh, thành phố năm
2020.)
Sự phát triển nguồn nhân lực bắt đầu từ các trẻ nhỏ nhất. Việt
Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể về bảo vệ trẻ em
trong 30 năm qua, tuy nhiên cần có nhiều nỗ lực hơn nữa để
giải quyết các vấn đề như suy dinh dưỡng thấp còi, giáo dục
mầm non, bạo lực đối với trẻ em và trẻ em khơng có sự chăm
sóc của cha mẹ. Nghị định 1437 của TTCP về phát triển trẻ
em toàn diện là một bước tiên quan trọng trong việc tiếp cận

đến các dịch vụ đa ngành cho trẻ nhỏ và gia đình.
Giai đoạn vị thành niên rất quan trọng, đó là một giai đoạn có
nhiều cơ hội. Các thảo luận tại hội nghị cũng cho thấy sự dễ bị
tổn thương và các nguy cơ mà nhóm trẻ lớn này phải đối mặt.
Tuy nhiên, luật trẻ em lại quy định độ tuổi trẻ em dưới 16 tuổi,
và điều này đã làm cho trẻ em trong nhóm tuổi 16-17 khơng
được hưởng tồn bộ những những dịch vụ cũng như các biện
pháp bảo vệ dành cho trẻ em. “ Hậu quả của việc định nghĩa
tuổi trẻ em thấp trong Luật trẻ em ở Việt Nam là chúng ta đã
để nhóm trẻ em lớn này vào một nơi khơng thuộc về ai cả chưa là người lớn và chưa đạt đến độ tuổi trưởng thành nhưng
cũng khơng cịn là trẻ em nữa để có thể được hưởng sự bảo
vệ khỏi bị xâm hại như các trẻ em khác”, bà Rana Flowers,
Đại diện UNICEF phát biểu. Tạo hội thảo, các đại biểu đã thảo
luận về những biện pháp hiệu quả để tăng cường khung pháp
lý nhằm đảm bảo tất cả trẻ em được bảo vệ.
Một trong những biện pháp nhằm tiến tới thực hiện đầy đủ
quyền trẻ em là đảm bảo rằng những ưu tiên về trẻ em được
đưa vào các kế hoạch trung và dài hạn, cũng như vào ngân
sách quốc gia và ngân sách các tỉnh. “UNICEF rất mong và
đặt niềm tin vào Quốc hội, với thẩm quyền đưa ra các quyết
16


định quan trọng và thực hiện giám sát, đảm bảo các mục tiêu
và chỉ tiêu liên quan đến trẻ em, đặc biệt là các mục tiêu phát
triển trẻ thơ toàn diện và phát triển vị thành niên để thúc đẩy
sự phát triển toàn diện của trẻ em Việt Nam.

4. Các thành tựu trong việc xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện

Năm 2018, Việt Nam xếp hạng 118 trên trên 189 quốc gia và
vùng lãnh thổ. Từ năm 1990 đến 2018, tuổi thọ trung bình khi
sinh của người Việt Nam tăng 4,8 năm, số năm đi học trung
bình tăng 4,3 năm, số năm đi học dự kiến tăng 4,9 năm. Đang
tiệm cận nhóm phát triển cá nhân cao chỉ thiếu 0,007 điểm.
Phát triển nguồn lực con người: Hầu hết người dân Việt Nam
từ 15 tuổi trở lên biết đọc biết viết, chiếm tỷ lệ 95,8% trong
tổng dân số từ 15 tuổi trở lên. Việt Nam hiện chỉ có 8,3% trẻ
em trong độ tuổi đi học phổ thông nhưng không đến trường,
giảm 12,6 điểm phần trăm so với năm 1999 và giảm 8,1%
điểm phần trăm so với năm 2009 (năm 1999 20,9%, năm
2009 16,4%). Cả nước có 19,2% dân số từ 15 tuổi trở lên có
trình độ chun mơn kỹ thuật, tăng 5,9 điểm phần trăm so với
năm 2009, trong đó tỷ lệ dân số có trình độ đại học trở lên
tăng gấp hai lần so với năm 2009 ( năm 2019 9,3%, năm
2009 4,4%).
Phong trào “ Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ
vĩ đại ” được triển khai thực hiện rộng khắp trên các địa bàn
từ thành thị đến nông thôn. Năm 2018, số người tập luyện thể
dục thể thao thường xuyên trên toàn quốc đạt 32,35%; số gia
đình tập luyện thể thao thường xuyên đạt 23,41% tổng số hộ.
Thể lực, tầm vóc con người Việt Nam được cải thiện, ý thức
bảo vệ môi trường sống được nâng lên.
Cơng tác phịng, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, suy
thối tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong nội bộ cán bộ,
đảng viên, nhân dân có chuyển biến, góp phần xây dựng hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tạo mơi trường văn
hóa, xã hội lành mạnh, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất
17



×