Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

TIỂU LUẬN lý LUẬN của CHỦ NGHĨA mác LÊNIN về THỜI kỳ QUÁ độ lên CHỦ NGHĨA xã hội và THỰC TIỄN xây DỰNG xã hội XHCN ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (770.09 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐH DUY TÂN
KHOA KH XÃ HỘI & NHÂN VĂN

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

ĐỀ TÀI: LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
VÀ THỰC TIỄN XÂY DỰNG XÃ HỘI XHCN Ở VIỆT NAM

GVHD: THS.NGUYỄN THỊ HẢI LÊN
LỚP: POS 351
SINH VIÊN: Tôn Nữ Phiên Trân 25202216678

NĂM HỌC 2021-2022


Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI ............................................................................................................................... 4
1.1. Khái niệm ............................................................................................................... 4
1.2. Các hình thái quá độ .............................................................................................. 6
1.3. Quan niệm về quá độ gián tiếp của C. Mác và Ph.Ăngghen với Lênin ................. 7
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG LÝ LUẬN VÀO THỰC TIỄN XÂY DỰNG XÃ HỘI XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM ...................................................................................... 8
2.1. Tình hình thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ............................... 8
2.1.1. Thời gian ......................................................................................................... 8
2.1.2. Hình thái quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta ......................................... 8
2.1.3. Nguyên nhân Đảng Cộng Sản Việt Nam lựa chọn hình thái quá độ gián tiếp 9
2.2. Thực tiễn tình hình xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ............................... 12


2.2.1. Phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay ................. 12
2.2.2. Kinh tế ........................................................................................................... 17
2.2.3. Chính trị......................................................................................................... 20
2.2.4. Tư tưởng – văn hóa ....................................................................................... 21
2.2.5. Xã hội ............................................................................................................ 22
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 24


LỜI MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa xã hội khoa học, cùng với triết học và kinh tế chính trị, theo quan điểm của Ph.
Ăngghen, là ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác – Lênin. Trong suốt 75 năm kể từ ngày
bắt đầu thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn
về kinh tế – xã hội.
Trong giai đoạn thế giới liên tục thay đổi, cập nhật theo xu hướng mới trên tất cả mọi mặt
của đời sống xã hội, cùng với những tác động to lớn của đại dịch covid-19 trong suốt 2
năm vừa qua, có thể thấy nước ta đã chịu nhiều đả kích lớn và đi kèm đó là những nghi
ngại về chính sách của Đảng và nhà nước: Liệu xã hội chủ nghĩa có phải mục đích tốt đẹp
nhất? Liệu tiến trình quá độ lên xã hội chủ nghĩa có phải là con đường đúng đắn của cách
mạng Việt Nam?
Vì vậy, bài tiểu luận sau đây sẽ phân tích những cơ sở lý luận và nguyên nhân dẫn đến
quyết định của Đảng về việc tiến hành thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời là
những minh chứng cho quyết định đúng đắn này thông qua mọi mặt: Kinh tế, chính trị, tư
tưởng – văn hóa, xã hội trong suốt 75 năm qua.


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỜI KỲ
QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1.


Khái niệm

Chủ nghĩa xã hội, hay tiếng Anh là Socialism, có thể được hiểu theo nhiều cách khác
nhau. Theo Bách khoa Toàn thư về Triết học của Đại học Stanford (California, Hoa Kỳ),
chủ nghĩa xã hội là “một truyền thống phong phú về tư tưởng và thực tiễn chính trị, lịch sử,
chứa đựng một số lượng lớn các quan điểm và lý thuyết, thường khác nhau trong nhiều khái
niệm, thực nghiệm và quy phạm”. (1)

Trong từ điển Merriam Webster, chủ nghĩa xã hội được định nghĩa là “bất kỳ lý thuyết
kinh tế và chính trị khác nhau ủng hộ quyền sở hữu và quản lý các phương tiện sản xuất
và phân phối hàng hóa theo tập thể hoặc chính phủ. Một hệ thống xã hội hoặc nhóm sống
trong đó khơng có tài sản tư nhân, các phương tiện sản xuất được sở hữu và kiểm sốt bởi
nhà nước.” (2)
Có thể thấy, chủ nghĩa xã hội có thể được hiểu với nhiều tư cách khác nhau, cụ thể là
dưới ba phương diện: Chủ nghĩa xã hội là một học thuyết, chủ nghĩa xã hội là một phong
trào và chủ nghĩa xã hội là một chế độ. Với mỗi phương diện, chủ nghĩa xã hội sẽ được
diễn giải theo một hướng hoàn toàn khác, và ở đây chủ nghĩa xã hội sẽ được hiểu dựa
trên lý luận của Mác – Lênin (3) theo bốn nghĩa sau:
1. Là phong trào thực tiễn, phong trào đấu tranh của nhân dân lao động chống lại các
giai cấp thống trị.
2. Là trào lưu tư tưởng, lý luận phản ánh lý tưởng giải phóng nhân dân lao động khỏi
áp bức, bóc lột, bất công.
3. Là một khoa học – Chủ nghĩa Xã hội Khoa học, khoa học về sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân.


4. Là một chế độ xã hội tốt đẹp, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản
chủ nghĩa.
Theo học thuyết hình thái kinh tế – xã hội của chủ nghĩa Mác – Lênin, lịch sử xã hội lồi
người đã trải qua năm hình thái kinh tế – xã hội, theo xu hướng phát triển từ thấp tới cao

là: Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa. Có thể hiểu rằng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỷ cải biến cách mạng
toàn diện và triệt để từ xã hội tiền tư bản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa sang xã hội chủ
nghĩa, từ xã hội cũ sang xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực sau:
-

Kinh tế: Tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Bên cạnh các thành phần
kinh tế nhà nước và tập thể, cịn có các thành phần kinh tế khác với nhiều hình
thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất như tư nhân và có vốn đầu tư nước
ngồi.

-

Chính trị: Nhà nước được thiết lập, củng cố và khơng ngừng hồn thiện nhằm thực
hiện dân chủ cho nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng.

-

Tư tưởng – văn hóa: Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa, còn tồn tại nhiều tư
tưởng khác như tư sản, tâm lý tiểu nơng,…

-

Xã hội: Cịn tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp và khác biệt, mâu thuẫn giữa các giai
cấp, tầng lớp. Bởi vậy, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, về
phương diện xã hội là thời kỳ đấu tranh giai cấp chống áp bức, bất cơng, xóa bỏ tệ
nạn xã hội và những tàn dư của xã hội cũ để lại, thiết lập công bằng xã hội trên cơ
sở thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động là chủ đạo.

Nhìn chung, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội sẽ tồn tại những đặc điểm chung sau:

-

Sự xen kẽ và trộn lẫn của nhiều thành phần, yếu tố trong xã hội cũ và mới, nên tồn
tại những khác biệt và mâu thuẫn giữa các thành phần xã hội.

-

Là một thời kỳ lâu dài, liên tục và không ngừng tiếp diễn. Thời kỳ quá độ đạt đến
cao trào khi mâu thuẫn xã hội gia tăng.


1.2.

Các hình thái quá độ

Cần lưu ý rằng, cộng sản chủ nghĩa là hình thái cao nhất và có sự khác biệt về chất lớn
nhất trong 5 hình thái kinh tế – xã hội theo quan điểm của Mác – Lênin kể trên, trong khi
xã hội chủ nghĩa chỉ là hình thái tiền cộng sản chủ nghĩa. Như vậy, quá độ lên chủ nghĩa
xã hội có thể được nhìn nhận dưới hai hình thức như sơ đồ dưới đây:

Cụ thể:
-

Quá độ trực tiếp: Là kiểu quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Đây là
giai đoạn thấp của quá trình tiến đến cộng sản chủ nghĩa. Đối với những quốc gia
có chủ nghĩa tư bản phát triển khi thực hiện quá độ, sẽ tiến lên cộng sản chủ nghĩa,
là giai đoạn cao nhất của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa. Cho tới
hiện tại, hình thái quá độ trực tiếp ở giai đoạn cao chưa từng diễn ra.

-


Quá độ gián tiếp: Là kiểu quá độ bỏ qua hình thái tư bản chủ nghĩa, của các nước
tiền tư bản tiến lên xã hội chủ nghĩa (giai đoạn thấp), hoặc chưa trải qua tư bản
chủ nghĩa phát triển, tiến thẳng lên cộng sản chủ nghĩa (giai đoạn cao). Thế giới
trong suốt một thế kỷ qua, kể cả Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây, Trung
Quốc, Việt Nam và một số nước xã hội chủ nghĩa khác ngày nay, theo đúng lý
luận Mác - Lênin, đều đang trải qua thời kỳ quá độ gián tiếp với những trình độ
phát triển khác nhau.


1.3.

Quan niệm về quá độ gián tiếp của C. Mác và Ph.Ăngghen với Lênin

Trên thực tế, quan điểm hình thái quá độ gián tiếp của C.Mác – Ph.Ăngghen và Lênin đã
tồn tại một số khác biệt, cụ thể:
Với tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, hình thái “quá độ lên cộng sản chủ nghĩa, bỏ
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” được xem là quá độ nửa trực tiếp. Ví dụ tiêu
biểu nhất ở đây chính là nước Nga. Ngồi ra, cịn có ý kiến cho rằng q độ nửa trực tiếp
cịn cần có yếu tố là “với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản của các nước tiên tiến”. Theo
Lênin, các nước đi theo hình thức quá độ này có thể thực hiện được nhiệm vụ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, nhưng trình độ vẫn thấp hơn nhiều so với nước Nga.
Ngược lại, Lênin cho rằng hình thái “quá độ lên chủ nghĩa xã hội và không phải trải qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” được gọi là quá độ gián tiếp. Hình thái q độ gián
tiếp đơn độc và khơng có sự giúp đỡ từ giai cấp vô sản của các nước sẽ diễn ra khó khăn
hơn, nhưng nó sẽ có trình độ cao hơn. C.Mác, khi tìm hiểu về nước Nga cũng chỉ rõ:
‘‘Nước Nga... có thể khơng cần trải qua đau khổ của chế độ (chế độ tư bản chủ nghĩa –
TG) mà vẫn chiếm đoạt được mọi thành quả của chế độ ấy” (4)



CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG LÝ LUẬN VÀO THỰC TIỄN
XÂY DỰNG XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
2.1.

Tình hình thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

2.1.1. Thời gian
Khác với các quốc gia khác cùng có thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và cộng sản chủ
nghĩa, thời điểm bắt đầu quá độ của nước ta diễn ra tương đối muộn, kéo dài và phức tạp.
Về thời gian, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam có thể chia làm hai mốc
sau:
Đầu tiên, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1954, trong
hoàn cảnh nước ta vừa thắng lợi từ chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, buộc thực dân Pháp
phải ký kết Hiệp định Geneva vào tháng 7 cùng năm, cam kết chấm dứt hoàn toàn chiến
tranh và lập lại hịa bình của các nước Đơng Dương (Việt Nam – Lào – Campuchia). Vào
thời điểm này, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mới chỉ được thực hiện ở miền Bắc
nước ta. (5)
Tiếp nối thành công, đất nước ta tiếp tục tiến thêm một bước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội của Việt Nam sau khi cuộc kháng chiến chống Đế quốc Mĩ giành được
thắng lợi hoàn toàn vào năm 1975. Bắt đầu từ mốc thời gian này, thời kỳ quá độ của VN
đã được hoàn chỉnh, toàn diện hơn và được thực hiện trong cả nước. (6)
2.1.2. Hình thái quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta
Dựa trên lịch sử thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, chúng ta có thể nhìn
nhận rằng hình thái q độ chính của nước ta là kiểu quá độ gián tiếp và bỏ qua tư bản
chủ nghĩa. Tuy nhiên, cần biết rằng, ban đầu, Đảng và nhà nước đã định hướng thời kỳ
quá độ ở Việt Nam là quá độ nửa trực tiếp. Cụ thể, từ Hội nghị Trung ương 1 Đảng Cộng
sản Đông Dương (tháng 10-1930) đến Hội nghị Trung ương 9 khóa VI Đảng Cộng sản


Việt Nam (tháng 8-1990), thời kỳ quá độ luôn được xác định là: “do được các nước xã

hội chủ nghĩa giúp đỡ, nên bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”, tức là nửa trực
tiếp. Đại hội II Đảng Lao động Việt Nam (tháng 02-1951) nêu rõ: Thời kỳ quá độ ở Việt
Nam có điểm xuất phát thấp hơn, cho nên lâu dài, khó khăn hơn. Đại hội VI của Đảng
(năm 1986) mở ra thời kỳ đổi mới, bắt đầu thực hiện đa dạng hóa sở hữu - một trong
những nội dung quan trọng nhất của NEP, nhưng vẫn nêu thời kỳ quá độ ở nước ta là “bỏ
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.
Tuy nhiên, sau sự sụp đổ của chế độ Liên Xô (cũ) vào giữa thập kỷ 70, nhiều người trong
đội ngũ lãnh đạo đã cảm thấy mông lung, mất niềm tin vào đường lối do Đảng đề xuất.
Trong tình hình các thế lực thù địch, chống đối và phản động ráo riết thực hiện các âm
mưu phá hoại thành quả Cách mạng và khối bền vững dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã quyết định định hướng lại thời kỳ quá độ ở nước ta: Từ quá độ nửa trực tiếp và tranh
thủ sự giúp đỡ từ giai cấp vô sản ở các nước tiên tiến, chuyển sang quá độ gián tiếp. Cụ
thể, từ Đại hội VII của Đảng (năm 1991) đến nay, đường lối thực hiện thời kỳ quá độ
được xác định là “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”, tức là thời kỳ quá độ gián tiếp, và
được xây dựng, phát triển ngày càng hoàn thiện. Hội nghị Trung ương 8 khóa VII (tháng
1-1995) khẳng định: trong điều kiện khơng cịn sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ
nghĩa, nhưng có thể tranh thủ được nguồn lực từ hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế; bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa, nhưng kế thừa mọi thành tựu và kinh nghiệm của nhân loại, kể
cả của chủ nghĩa tư bản. Đại hội IX của Đảng nêu rõ, bỏ qua sự thống trị của quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu thành tựu khoa học và công nghệ trong chủ nghĩa
tư bản. (7)
2.1.3. Nguyên nhân Đảng Cộng Sản Việt Nam lựa chọn hình thái quá độ gián tiếp
Đầu tiên, khơng thể phủ nhận rằng hình thái quá độ gián tiếp cũng tồn tại một số mặt hạn
chế sau đây:


-

Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, lực lượng sản
xuất rất thấp, nên bỏ qua tư bản chủ nghĩa đồng nghĩa bỏ qua những năm tháng

phát triển vững mạnh về mặt phát triển kinh tế, của cải.

-

Hình thức thời kỳ quá độ gián tiếp ln kéo dài và khó khăn hơn so với trực tiếp,
vì sự thiếu thốn về cơ sở vật chất, nền tảng khoa học kỹ thuật,…

Tuy nhiên, việc Đảng Cộng Sản Việt Nam lựa chọn hình thái quá độ gián tiếp là hành
động đúng đắn, có nguyên nhân xuất phát từ tình hình thực tiễn trong và ngồi nước. Cụ
thể, ngoài nguyên nhân trực tiếp là sự sụp đổ của Liên xô và Việt Nam mất đi đồng minh
đáng tin cậy nhất, cịn có thể chia ngun nhân mà Đảng ta quyết định lựa chọn quá độ
gián tiếp thay cho các hình thức khác thành hai phần:
Tư bản chủ nghĩa có những hạn chế nhất định :
-

Nền kinh tế dưới tư bản chủ nghĩa thường phát triển nhanh, nhưng không vững
chắc nên rất dễ diễn ra các cuộc khủng hoảng kinh tế, ảnh hưởng lớn đến mọi mặt
trong đời sống xã hội. Các cuộc khủng hoảng thường diễn ra trên quy mô lớn,
phức tạp, nghiêm trọng, tiêu biểu như cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 – 2009
xuất phát từ Mĩ, khiến nền kinh tế tồn cầu thất thốt 4.500 tỷ USD vào năm 2009;
tăng trưởng toàn cầu năm 2007 đạt 4,2% đã giảm xuống còn 1,8% vào năm 2008,
sau đó bị giảm thêm vào năm 2009. (8)

-

Tư bản chủ nghĩa xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng, dẫn tới sự bất bình đẳng trong các tầng lớp xã hội, mâu thuẫn sắc tộc, chênh
lệch giàu nghèo cao, an sinh xã hội giảm sút, cơ hội tham gia và hưởng lợi ích từ
hoạt động sáng tạo bị hạn chế, thiếu việc làm và thất nghiệp, giới cầm quyền ngày
càng tỏ ra độc đoán,… (9)


-

Tư bản chủ nghĩa xuất phát từ sự cướp đoạt và thâu tóm các doanh nghiệp hay nhà
sản xuất nhỏ, dẫn đến thế độc quyền và chèn ép những người ít tiếng nói hơn,
chẳng hạn như Ủy ban Thương mại Liên bang Mỹ (FTC) nộp đơn kiện Facebook


với cáo buộc tập đồn này đang tìm cách thâu tóm, mua lại và chơn vùi đối thủ,
phá vỡ thế cạnh tranh trên thị trường. (10)
Phù hợp với hoàn cảnh của xã hội Việt Nam: Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa là con đường cách mạng tất yếu khách quan, con đường xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Như đã nói ở trên, nước ta đi
lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nghèo, lạc hậu và vừa kết thúc chế độ nửa phong kiến.
Trong tình huống rối loạn do Liên Xơ sụp đổ, tình hình chính trị và xã hội vẫn còn chưa
ổn định do sự chống phá của các thế lực thù địch, cũng như việc đan xen và mâu thuẫn
giữa nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội cũ và mới.
Rút ngắn được thời gian tiến lên chủ nghĩa xã hội – chủ nghĩa cộng sản: Dù quá độ
gián tiếp khó khăn và lâu dài hơn so với hình thức quá độ trực tiếp, tuy nhiên về tổng thể
tiến trình thì sẽ rút ngắn được thời gian tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chẳng hạn như xã hội
của người GiécManh – người GiécManh đã lựa chọn thay đổi từ xã hội công xã nguyên
thủy, bỏ qua xã hội nô lệ, cùng người La Mã đi lên xã hội phong kiến. Từ khi người
Giécmanh bắt đầu lấn át người La Mã vào thế kỷ thứ II và đánh đổ chế độ nô lệ vào thế
kỷ thứ V, họ chỉ mất 300 năm để từ cuối công xã nguyên thủy bỏ qua chế độ nô lệ lên chế
độ phong kiến. Nếu vẫn tồn tại riêng biệt, thì để có sự phát triển đó, họ phải trải qua xã
hội nơ lệ hàng nghìn năm. (11)
Khơng bỏ qua kinh tế tư bản chủ nghĩa trong khi quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội của nước ta không đồng
nghĩa với việc hoàn toàn chối bỏ và bỏ qua tất cả các mặt của tư bản chủ nghĩa. Thời kỳ
quá độ gián tiếp có một nội dung chủ yếu là, dưới sự kiểm soát, bảo đảm của nhà nước xã

hội chủ nghĩa, cần sử dụng, phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa để xây dựng LLSX. Sau
đó, tiếp tục chuyển sang thực hiện nhiệm vụ của thời kỳ quá độ trực tiếp, là xây dựng cơ
sở ban đầu cho chủ nghĩa xã hội.


Bên cạnh đó, Việt Nam vốn đã có lợi thể vì đang là nước đi sau, là nước đang phát triển
trong điều kiện đã có sẵn nhiều cơng nghệ tiên tiến và nền công nghệ đang thay đổi liên
tục. Do vậy, nước ta có thể lựa chọn tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã
đạt được dưới chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là những thành tựu về khoa học và công nghệ,
thành tựu để áp dụng vào quản lý để phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội, đặc biệt
là xây dựng nền kinh tế hiện đại, phát triển nhanh lực lượng sản xuất. (12)

2.2.

Thực tiễn tình hình xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

2.2.1. Phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Có thể thấy, việc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay là một q trình trọng
điểm và địi hỏi rất nhiều sự cố gắng, nỗ lực của không chỉ Đảng và chính quyền, mà cịn
là nhân dân, các tầng lớp trong xã hội. Tuy nhiên, để đi đến mục đích cuối cùng thuận
tiện, hiệu quả và nhanh chóng nhất, thì nước ta cần phải có những mục tiêu nhỏ hơn, đáp
ứng những nhu cầu của nhân dân, quần chúng lao động và tình hình phát triển kinh tế –
xã hội của nước ta theo từng thời kỳ:
7 phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong cương lĩnh năm 1991
Tại Đại hội Đảng lần thứ VII năm 1991, Cương lĩnh xây dựng đất nước trơng thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội đã được thông qua với 7 phương hướng như sau:
Một là, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, lấy liên minh giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng dân và tầng lớp trí thức làm
nền tảng, do đảng cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ
nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc

và của nhân dân.
Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, cơng nghiệp hố đất nước theo hướng hiện đại gắn
liền với phát triển một nền nơng nghiệp tồn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước


xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất
lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Ba là, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối,
lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
Bốn là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá làm cho
thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chỉ đạo trong đời
sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả
các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội
dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo
đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn hoá phản tiến bộ, trái với
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với
phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc
thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Thực hiện
chính sách đối ngoại hịa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước; trung thành với
chủ nghĩa quốc tế của giai cấp cơng nhân, đồn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất
cả các lực lượng đấu tranh vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế
giới.
Sáu là, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta
luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phịng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an

toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng.


Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang
tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta.
Mục tiêu tổng quát của cương lĩnh 1991 là phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là
xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng
tầng về chính trị và tư tưởng, văn hoá phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã
hội chủ nghĩa phồn vinh. (13)
8 phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong cương lĩnh năm 1991
Tại Đại hội Đảng lần thứ XI năm 2011, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên Chủ nghĩa Xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã được thông qua với 8 phương
hướng như sau:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri
thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng
cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ về công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hữu nghị, hợp tác và
phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng
cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân.


Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, Đảng yêu cầu phải đặc biệt chú

trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và
phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định
hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng
bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ;... Khơng phiến diện, cực đoan, duy ý chí.
Thực hiện tầm phương hướng và giải quyết thành công những mối quan hệ lớn chính là
đưa cách mạng nước ta theo đúng con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư sản chủ nghĩa ở nước ta. (14)
Qua 20 năm phát triển và đổi mới đất nước, phương hướng xây dựng xã hội chủ nghĩa
của nước ta đã có ít nhiều sự thay đổi, tùy thuộc theo tình hình phát triển, chính trị, kinh
tế – xã hội của trong nước và trên toàn thế giới.
Về điểm chung giữa 2 cương lĩnh năm 1991 và 2011 có thể kể đến như:
-

Xây dựng Nhà nước chủ nghĩa xã hội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

-

Củng cố khối đại đồn kết dân tộc.

-

Chính sách đối ngoại hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.

-

Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.


-

Tập trung vào quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Về điểm khác biệt, có thể chú ý đến bổ sung một số thay đổi và cập nhật của cương lĩnh
năm 2011 so với năm 1991 như sau:
-

Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh


-

Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

Thực tiễn cho thấy, nước ta hiện nay, dân chủ và việc thực hiện dân chủ giữ vị trí và vai
trị đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội: khơng những là mục tiêu, mà cịn là động
lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững, văn minh.
Việc bổ sung đặc trưng ''có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản'' thể hiện vị trí đặc biệt quan
trọng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong hệ thống chính trị của Việt Nam.
Mục tiêu căn bản của cơng cuộc đổi mới nói chung, của đổi mới chính trị và đổi mới hệ
thống chính trị nói riêng ở nước ta chính là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân.
-

Điều chỉnh ''do nhân dân lao động làm chủ'' thành ''do nhân dân làm chủ'' → Có
nội hàm rộng, cho phép thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân tộc và huy động sức
mạnh của toàn dân vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng

xã hội chủ nghĩa.

-

Thay đổi ''Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu'' bằng ''Có nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp''
→ Phù hợp với quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Dù đóng vai trị hết sức quan trọng,
song quan hệ sở hữu cũng chỉ là một trong 3 yếu tố (quan hệ sở hữu, quan hệ quản
lý và quan hệ phân phối) cấu thành quan hệ sản xuất. Đại hội VI của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã rút ra một bài học quan trọng về sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

-

Cụm từ ''được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng” được lược bỏ và xác định
thành ''Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển


tồn diện”. Sự thay đổi này là hợp lý, vì sự ''ấm no, tự do, hạnh phúc'' của con
người cũng đã bao hàm ý nghĩa được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột và bất cơng.
-

Xác định ''con người... có điều kiện phát triển tồn diện'' thay vì ''Con người... có
điều kiện phát triển tồn diện cá nhân''. Việc bổ sung cụm từ ''có điều kiện” là thể
hiện trong chủ nghĩa xã hội sự phát triển của con người luôn được tạo điều kiện,
đồng thời phải căn cứ vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

-


Thay đổi từ ''Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau
cùng tiến bộ” thành ''Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn
kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển''. Việc thay thuật ngữ ''tương trợ'' bằng
thuật ngữ ''tôn trọng'' làm cho đặc trưng này có nội dung tồn diện hơn (với 4 tiêu
chí: bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau).

-

Cập nhật “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế
giới'' thành một cách chính xác hơn - ''Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các
nước trên thế giới'' → Thể hiện mối quan hệ hữu nghị và hợp tác của Việt Nam
không chỉ với nhân dân các nước, mà cùng với nhà nước, chính phủ và các tổ chức
phi chính phủ của các nước trên thế giới.

-

Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

-

Lấy cnh, hđh làm trọng tâm thay cho công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện
đại gắn liền với phát triển một nền nơng nghiệp tồn diện → Chuyển dịch vùng
kinh tế, tập trung hơn vào lĩnh vực công nghiệp. (15)

2.2.2. Kinh tế
Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền
tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn
hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn
vinh, hạnh phúc. Trong 75 năm qua, kể từ ngày thành lập nước Cộng hòa Xã hội Chủ

nghĩa Việt Nam (02/09/1945), nước ta đã đạt được nhiều thành tựu trong việc phát triển
kinh tế. Có thể chia các giai đoạn phát triển kinh tế của nước ta thành 5 thời kỳ:


-

Thời kỳ 1945-1954: Đẩy mạnh sản xuất, xây dựng và phát triển kinh tế kháng
chiến.

-

Thời kỳ 1955-1975: Khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh, thực hiện các
chỉ tiêu trong Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm lần thứ nhất.

-

Thời kỳ 1976-1985: Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp.

-

Thời kỳ 1986-2000: Thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế.

-

Thời kỳ 2001 đến nay: Thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng.

Về kinh tế, có thể xem xét dưới 2 chỉ số cơ bản là chỉ số giá tiêu dùng CPI (%) – dùng để
đánh giá mức độ lạm phát của một nền kinh tế, và chỉ số GDP (USD) – dùng để đánh giá
mức độ phát triển của một nền kinh tế.


Biểu đồ thay đổi chỉ số giá tiêu dùng CPI
trong các giai đoạn phát triển kinh tế đất nước
định hướng CNXH (1945 - 2021)
7000%
6000%
5000%
4000%
3000%
2000%
1000%
0%
1945 - 1954

1955 - 1975

1976 - 1985

1988

1992

2000

2021

Có thể thấy, nước ta đã trải qua hai đợt lạm phát nghiêm trọng nhất kể từ khi sáng lập
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến nay:
-

Giai đoạn 1976 – 1985: Đây là thời kỳ nhà nước tiến hành nền kinh tế kế hoạch

hóa tập trung, bao cấp. Kinh tế tăng trưởng chậm làm mất cân đối cung – cầu
(thiếu hụt nguồn cung), đồng thời do bị tác động bởi việc cải cách tiền lương vào


năm 1985 đã khiến chỉ số giá tiêu dùng tăng rất nhanh, dẫn đến lạm phát trong
thời gian dài.
-

Giai đoạn 1988 – 1992: Nước ta gặp rất nhiều khó khăn trong giai đoạn này khi
Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, mất đi một đồng minh hỗ trợ xuất nhập
khẩu các mặt hàng thiết yếu. Bên cạnh đó, cấm vận từ Mĩ, mất cân đối lớn về quan
hệ tiền - hàng (thiếu hàng) với nền kinh tế trì trệ, hạ tầng yếu, quản lý kém và
chính sách phát triển sai lầm khiến lạm phát đạt đến phi mã (siêu lạm phát). (16)

Biểu đồ tăng trưởng GDP qua từng giai đoạn
phát triển kinh tế đất nước định hướng CNXH (1945-2019)
3000
2500

2000
1500
1000
500
0

1945 - 1954

1955 - 1975

1976 - 1985


1990

2002

2019

Qua biểu đồ trên, có thể thấy GDP của nước ta chỉ bắt đầu có dấu hiệu tăng tích cực từ
giai đoạn năm 2001 trở đi. Đây chính là giai đoạn bắt đầu đổi mới trong chính sách quản
lý kinh tế. Trong thời kỳ này, nước ta đã thực hiện đường lối đổi mới, chuyển đổi từ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt
động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa,
hay còn gọi là nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa.
Ngồi ra, nền kinh tế cịn có thể được quan sát dựa trên tỷ trọng các nhóm ngành nơng –
lâm – ngư nghiệp, cơng nghiệp và dịch vụ:


Từ 3 biểu đồ trên, có thể thấy: Cơ cấu các ngành tại nước ta đang thay đổi đáng kể, trong
đó:
-

GDP của nhóm ngành nơng – lâm – ngư nghiệp giảm dần qua các giai đoạn.

-

GDP của hai nhóm ngành công nghiệp và dịch vụ tăng dần và chiếm đa số. (17)

Những sự biến đổi tích cực trên từ nền kinh tế là minh chứng cho vai trò lãnh đạo của
Đảng, chính sách, đường lối nhất quán của Nhà nước về phát triển kinh tế – xã hội, thông
qua các chính sách phát triển kinh tế phù hợp và hiện đại ở nước ta. Hoạt động kinh tế đối

ngoại phát triển toàn diện và sâu rộng, đưa nước ta hội nhập ngày càng đầy đủ với kinh tế
khu vực và thế giới, thực hiện tốt mục tiêu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Dù vậy, nền kinh tế Việt Nam hiện tại vẫn cịn nhiều hạn chế như thiếu tính bền vững,
mức độ cạnh tranh còn thấp trên thị trường thế giới, hay vấn đề ô nhiễm môi trường vẫn
chưa được quan tâm đúng mức. Vậy nên, nhiệm vụ trong tương lai của Đảng, nhà nước
và nhân dân là tiến hành khai thác, sử dụng và quản lý hiệu quả tài ngun thiên nhiên;
bảo vệ mơi trường; chủ động phịng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. (18)
2.2.3. Chính trị
Hơn 30 năm qua đường lối đổi mới của Đảng ta đã và đang đạt nhiều thành tựu to lớn, có
ý nghĩa lịch sử. Đường lối này dựa trên sự vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng,


đường lối của V. I. Lênin về thời kỳ quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ đó có
một nội dung quan trọng, cơ bản là phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa dưới chế độ chính
trị xã hội chủ nghĩa.
Qua đại dịch covid-19, chúng ta lại càng chứng kiến được khả năng lãnh đạo của Đảng và
nhà nước, với những biện pháp kiện thời giúp ngăn chặn làn sóng dịch bệnh. Đồng thời,
nước ta cũng là nơi hiếm hoi ổn định về mặt đời sống, trong khi trên thế giới, đặc biệt là
các nước tư bản chủ nghĩa phải trải qua cuộc khủng hoảng nhiều mặt, cả về y tế, xã hội
lẫn chính trị, kinh tế, những bất công xã hội, đời sống của đa số dân cư lao động bị giảm
sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng, khoảng cách giàu - nghèo ngày càng lớn, làm trầm
trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột giữa các sắc tộc. (19)
Bên cạnh các chính sách của Đảng và nhà nước, ta cịn kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Củng cố,
tăng cường quốc phịng, an ninh. Xây dựng nền quốc phịng tồn dân, nền an ninh nhân
dân vững chắc; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng.
Với chính trị đối ngoại, ta chủ trương thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa
phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Đồng thời giữ vững
mơi trường hịa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
2.2.4. Tư tưởng – văn hóa
Tư tưởng là yếu tố chi phối con người trong xã hội. Do vậy, để tiến hành tốt những chính
sách của Đảng và nhà nước trong các mặt của đời sống, ta cần tiến hành đổi mới căn bản
và toàn diện giáo dục, đào tạo để giáo dục hệ thống tư tưởng của học sinh, sinh viên. Đó
là một quá trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển,
ứng dụng khoa học, công nghệ; phát huy vai trò quốc sách hàng đầu của giáo dục, đào tạo
và khoa học, công nghệ đối với sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước.


Bằng chứng là vào năm 1945, hơn 90% dân số nước ta mù chữ. Tuy nhiên đến năm 2000,
nước ta đã hoàn thành mục tiêu chống mù chữ và phổ cập giáo dục bậc tiểu học. (20)
Văn hóa là nét đặc trưng của một nền dân tộc. Từ xưa đến nay, hơn 1000 năm đô hộ giặc
Tàu và hơn 100 năm xâm lược giặc Tây, ơng cha ta vẫn gìn giữ nền văn hóa và truyền
thống nước nhà. Do vậy, trong giai đoạn mà thế giới liên tục đổi mới và nhiều luồng tư
tưởng xâm nhập, ảnh hưởng đến giới trẻ hiện nay, nhiệm vụ cấp bách của ta là tiếp tục
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam
phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thành tựu lớn lao nhất mà chúng ta có thể thấy được trong
việc truyền bá nét văn hóa đặc sắc của dân tộc là hơn 50% thế hệ trẻ (thế hệ Z) có hứng
thú và u thích với những sản phẩm, dịch vụ xây dựng hoặc có sử dụng hình ảnh gợi
nhắc đến truyền thống và văn hóa dân tộc. (21)
2.2.5. Xã hội
Phát triển xã hội là một quá trình lâu dài và ảnh hưởng sâu rộng đến toàn thể đời sống
nhân dân. Ở lĩnh vực này, có thể kể đến các hoạt động mà nước ta đã và đang làm rất tốt:
Y tế (bảo hiểm y tế), giáo dục, giao thông công cộng, dịch vụ viễn thông,… Trải qua các
giai đoạn phát triển khác nhau, giáo dục và dịch vụ công luôn là những lĩnh vực được
quan tâm hàng đầu. Thành quả là có hơn 60% xã, phường trên tồn quốc có trạm y tế,
điện lưới quốc gia, điện thoại,… (22)
Vì nước ta vẫn cịn đang trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa, nên vẫn còn tồn tại

những mâu thuẫn, tranh chấp giữa xã hội cũ và mới. Đây là một thách thức với Đảng và
nhà nước, đòi hỏi ta phải quản lý tốt sự phát triển xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, nâng
cao phúc lợi xã hội; thực hiện tốt chính sách với người có cơng; nâng cao chất lượng
chăm sóc sức khỏe nhân dân, chất lượng dân số, chất lượng cuộc sống của nhân dân; thực
hiện tốt chính sách lao động, việc làm, thu nhập; xây dựng môi trường sống lành mạnh,
văn minh, an toàn.


KẾT LUẬN
Thực tế thành công lẫn thất bại của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới một thế kỷ
qua đều chứng minh lý luận của V. I. Lênin về thời kỳ quá độ gián tiếp là đúng đắn. Có
thể thấy rằng, việc lựa chọn đi theo hình thức quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội của
Đảng không chỉ là một quyết định đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh của đất nước ta trong
thời điểm hiện tại, mà cịn là điều tất yếu của q trình tiến bộ xã hội loài người. Trong
suốt 70 năm tiến hành đường lối này, nước ta đã trải qua những bài học xương máu, rút
kinh nghiệm từ những sai lầm trong hình thức triển khai và các chính sách khơng phù
hợp với nền kinh tế – xã hội đất nước.
Thành cơng rực rỡ nhất của q trình đầy gian nan này là xã hội hạnh phúc, cùng nền
kinh tế thị trường ngày càng phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những thành
quả trên mọi mặt về kinh tế, chính trị, tư tưởng – văn hóa, xã hội là động lực và cũng là
bài học cho nước ta nhìn nhận và tiếp tục tiến lên trên con đường quá độ lên xã hội chủ
nghĩa hoàn chỉnh.
Để phát triển, tiến bộ nhanh, mạnh, bền vững, mà không lặp lại những hạn chế của chủ
nghĩa tư bản, nước ta trong tư thế là một nước đang phát triển cần phải đổi mới nhận thức
về thời kỳ đó là bỏ qua chính trị tư bản chủ nghĩa, mà vẫn sử dụng, khai thác kinh tế chủ
nghĩa tư bản để phục vụ cho chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là phát triển lực lượng sản xuất,
kinh nghiệm quản lý, trình độ khoa học - cơng nghệ... đồng thời với vai trị của nhà nước
pháp quyền xã hội sẽ điều tiết sự phát triển nhân văn hơn.



TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1):

Bách

khoa

Toàn

thư

Đại

học

Stanford,

Socialism,

(15/06/2019).

(2): wbur, What Is Socialism? A History Of The Word Used As A Scare Tactic In
American

Politics,

/>
socialist (07/03/2019).
(3): Người lao động, Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ,
(17/05/2001).

(4): Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam, Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: Lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn trên thế giới một thế kỷ qua,
(29/08/2018).
Lý luận Chính trị, Góp phần nhận thức rõ thêm thực chất của thời kỳ quá độ lên
chủ

nghĩa



hội

bỏ

qua

chế

độ



bản

chủ

nghĩa,

(26/10/2016).
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. CTQG, H.1983, tập 22, tr 636.

(5): Cổng thông tin điện tử Yên Bái, 67 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/19547/5/2021);

Sự

kiện

mang

giá

trị



(07/05/2021).

tầm

vóc

thời

đại,


(6): TS Nguyễn Duy Quý, Về thời kỳ Quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở Việt Nam, Xã hội
học,

số


2,3-1988

%2Fnoidung%2Ftapchi%2FDocuments%2FBaitapchi%2FTCXHH
1988%2FSo34%2FSo3_4_1988_NguyenDuyQuy.pdf&usg=AOvVaw0h8lvCh2d3zImZAeYHDpj0
(7): Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam, Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: Lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn trên thế giới một thế kỷ qua,
(29/08/2018).
(8): Báo điện tử Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, Cuộc khủng hoảng tài chính
10 năm nhìn lại, (14/09/2018)
(9): Nhân dân, Xã hội tư bản không phải là “thiên đường”, (04/09/2018).
(10): Báo điện tử VOV, Facebook bị tố “mua lại và chôn vùi” đối thủ,
(20/08/2021).
(11): Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam, Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: Lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn trên thế giới một thế kỷ qua,
(29/08/2018).
(12): Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam, Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: Lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn trên thế giới một thế kỷ qua,
/>

×