Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Học phần mỹ học đại cương chủ đề 10 cái bi kịch trong hình tượng nhân vật chị dậu trong tắt đèn của ngô tất tố

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.66 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

Học phần: Mỹ Học Đại Cương

Chủ Đề 10: Cái bi kịch trong hình tượng nhân
vật chị Dậu trong Tắt Đèn của Ngơ Tất Tố

Thực hiện: Nhóm 6
Đinh Thị Giang (NT), Ngơ Thị Hà
Nguyễn Thu Hồi, Cao Thị Hồi
Ngơ Mạnh Hiên

download by :


MỤC LỤC
A. Mở đầu
……………………………………………………………………………………………….

B. Nội dung
Chương 1: Những vấn đề chung
1.1: Bi kịch và nhân vật bi kịch.............................................................................................................. 1
1.2: Tác giả Ngô Tất
Tố............................................................................................................................ 2
1.2.1: Cuộc
đời.......................................................................................................................................... 2
1.2.1: Sự nghiệp sáng
tác......................................................................................................................... 3
1.3: Tác phẩm Tắt
Đèn.............................................................................................................................. 5


1.3.1: Bối cảnh lịch
sử.............................................................................................................................. 5
1.3.2: Tóm tắt tác phẩm Tắt
Đèn........................................................................................................... 8
1.3.3: Giá trị hiện thực và Giá trị nhân
đạo....................................................................................... 9
1.3.4: Nghệ
thuật....................................................................................................................................... 9
1.3.5: Mở
rộng......................................................................................................................................... 10
Chương 2: Bi kịch của chị Dậu trong tác phẩm Tắt Đèn của Ngô Tất Tố.
2.1:
Vẻ
đẹp
của
Dậu........................................................................................................10

download by :

chị


2.2:
Dậu.............................................................................................

2.3: Mở rộng.........................................................................................................................

Chương 3: Liên hệ thực tế và Bài học

C. Kết luận

...............................................................................................................................................

A. Mở đầu
Con người chúng ta thường: mất đi mới biết trân trọng, đi tìm cái cao sang mà bỏ lỡ những
vẻ đẹp giản dị mà đáng quý... Và đơi khi, chìa khố mà bạn đang tìm, lời giải mà bạn muốn
ở ngay chỗ bạn. Khơng lí gì, tự nhiên ông bà ta hay các thế hệ đi trước lại nói với chúng ta
của ngày nay rằng: “Bọn trẻ bây giờ sướng hơn chúng ta bội phần!” hay như “ Ngày trước
ơng bà lo khơng có cái mà ăn, quần áo mà mặc thì giờ chúng mày lại lo khơng biết hơm nay
ăn món gì cho ngon, mặc gì cho đẹp”. Bi kịch từ hình tượng nhân vật chị Dậu trong tác
phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố sẽ là lời giải đáp, chìa khố cho vấn đề trên.
Tác phẩm “Tắt đèn” được viết trước cách mạng tháng tám trong xã hội phong kiến đương
thời và thời kì Pháp thuộc. Hồn cảnh đó khiến nhân dân phải chịu “một cổ hai trịng”.
Song, chính xã hội bất cơng, tàn ác ấy đã làm sáng nên những vẻ đẹp đáng quý của người
nông dân thời xưa. Và chị Dậu là một nhân vật điển hình như vậy. Dù bị bi kịch cuộc đời xô
đẩy vào bế tắc chị vẫn vẹn nguyên những phẩm chất quý giá của người nông dân. Qua đó
giúp chúng ta thêm yêu, thêm thương, thêm đồng cảm, trân trọng những người phụ nữ xưa
nói riêng và người nơng dân nói chung. Điều đó, thơi thúc chúng ta ở hiện tại hãy sống và
trở thành những con người tử tế. Hãy trân trọng mọi thứ xung quanh chúng ta bởi tất cả
những gì chúng ta có được ngày hôm nay là cả bao mồ hôi nước mắt của biết bao người đi
trước, là công lao của biết bao anh hùng đã đổ máu đổi lấy độc lập, tự do, hồ bình.
Để đạt được mục đích trên chúng em xin được làm sáng tỏ qua chủ đề “Phân tích cái bi
kịch từ hình tượng nhân vật chị Dậu”. Cụ thể, chủ đề đó sẽ được phân tích, chứng minh
qua các phần:
Chương 1: Những vấn đề chung
1.1.
1.2.

Những nét cơ bản về cái bi kịch.
Tác giả Ngô Tất Tố.


download by :


1.3.

Tác phẩm “Tắt đèn”

Chương 2: Bi kịch của chị Dậu trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố
2.1
2.2
2.3

Vẻ đẹp của chị Dậu
Tác giả Ngô Tất Tố.
Tác phẩm “Tắt đèn”

Chương 3: Liên hệ thực tế, bài học.

B. Nội dung
Chương 1 : Những vấn đề chung.
1.1. Những nét chung về bi kịch
*Khái niệm về cái bi kịch.
Cái bi kịch gắn liền với quan niệm về một cuộc đấu tranh căng thẳng và đầy gian
nguy vì những mục đích chân chính và dẫn tới kết quả là con người tiến hành cuộc đấu
tranh đó phải chết hoặc thất bại.
Cái bi kịch thích ứng với những mâu thuẫn và xung đột gay gắt, quằn quại trong đời
sống xã hội và cá nhân, và một phần lớn, trong những hoàn cảnh nhất định, tỏ ra không
giải quyết được. Theo Ph. Ăngghen, cái bi kịch biểu hiện sự mâu thuẫn “giữa yêu cầu tất
yếu về mặt lịch sử và tình trạng khơng thể thực hiện nó đượctrong thực tiễn”.
*Phân loại bi kịch: 2 loại

- Bi kịch lịch sử: Những câu chuyện oai hùng về các nhân vật giữ các vị trí quan trọng đối
với cộng đồng, dân tộc, đất nước có lí tưởng, tài năng, đức độ nhưng vì nhược điểm nào đó
mà phải chết, thất bại khi sự nghiệp còn dở dang. VD: An Dương Vương, Hàm Nghi…
- Bi kịch của con người đời thường: Câu chuyện bi thương, bất hạnh về những con người
bình thường mà tốt bụng, tử tế trong cuộc sống: VD: Chị Dậu, Chí Phèo, Lão Hạc…
*Nhân vật bi kịch.
1. Bi kịch của những nhân vật chết trong đêm trường đen tối.
Đây là dạng thức bi kịch lịch sử điển hình - bi kịch của cái mới, cái tiến bộ, cái cách
mạng nhưng còn ở trong thế yếu, ở một hoàn cảnh đã nảy sinh nhu cầu tất yếu thay đổi lịch
sử hiện hành nhưng điều kiện để thực hiện nó lại chưa chín muồi. Nhân vật bi kịch trong
đây không đại diện cho cá nhân, cho một bộ phận người nhỏ bé, mà đại diện cho giai cấp,
dân tộc, cộng đồng, cho những trào lưu có ý nghĩa xã hội rộng lớn. Do vậy, cái chết của họ
là cái chết vĩ đại, có tác dụng thúc đẩy mọi người lao vào cuộc đấu tranh cho lẽ phải, cho sự
công bằng và tiến bộ xã hội.

download by :


2. Bi kịch của các nhân vật chết trước bình minh.
Đây cũng là một dạng thức bi kịch lịch sử - bi kịch của cái mới, cái tiến bộ, cách
mạng đã ở thể thắng toàn cục, nhưng một bộ phận nào đó lâm vào hồn cảnh lâm nguy và
người anh hùng bị tiêu vong. Sự hi sinh của nhân vật bi kịch trong đây là sự hi sinh ở một
thời điểm quan trọng – trước ngưỡng cửa chiến thắng. Sự hi sinh đó có ý nghĩa làm bật tung
cánh cửa, đưa mọi người tràn ra ánh sáng từ bóng tối. Bi kịch này có khi cịn được gọi là bi
hùng kịch.
3. Bi kịch của cái cũ những chưa cũ hẳn.
Điều kiện của bi kịch này là cái cũ chưa trở thành cái phản động mà ít nhiều vẫn cịn
mang sứ mệnh lịch sử. Bản thân cái cũ còn tin vào tính chất hợp lí của nó. Bi kịch này chủ
yếu không phải do xung đột giữa cái cũ và cái mới sinh ra, mà là bi kịch của những người
chưa nhận ra được tính tất yếu của q trình đang chết dần của cái cũ nên vẫn ra sức bảo vệ

nó nên khơng tránh khỏi sự thất bại, tiêu vong.
4. Bi kịch của sự nhầm lẫn, kém hiểu biết hoặc ngu dốt .
Về cơ bản, nhân vật bi kịch trong đây đều là những người tốt, có nhân cách hoặc có
động cơ sống tử tế. Bi kịch của sự nhầm lẫn được nêu ra như một bài học xương máu nhắc
nhở con người. Trong đời sống, sự kém hiểu biết, ngu dốt của con người cũng có thể gây ra
những bi kịch. Bi kịch này không do lực lượng xã hội nào gây nên, mà thường do cá nhân tự
chuốc lấy, mắc phải do chưa biết được giới hạn của mình.
5. Bi kịch của những khát vọng của con người trong những điều kiện ngặt nghèo không thể
thực hiện được.
Dạng bi kịch này thể hiện những đau khổ, dằn vặt của cá nhân song lại chạm đến lẽ
sống, tình yêu, bổn phận của con người nên nó thường day dứt lịng người. Nhân vật bi kịch
trong đây khơng phải là người anh hùng xuất chúng song là những người có phẩm chất,
đáng yêu, đáng trọng. Do vậy, bi kịch của họ có ý nghĩa tố cáo gay gắt những thế lực xấu xa
và bản chất đen tối của xã hội.
Có thể nói, ở các trạng huống khác nhau, các dạng thức của cái bi kịch rất đa dạng, thể
hiện sự phức tạp của chính cuộc đời. Song dù ở trạng thái nào thì tình huống của cái bi kịch
cũng thuộc về những vấn đề có ý nghĩa xã hội rộng lớn, ảnh hưởng đến lẽ sống, tình yêu và
thân phận của con người. Xung đột giữa cái cách mạng và cái phản động trong đây phải
được xem là trung tâm của cái bi kịch thời đại.
1.2. Tác giả Ngô Tất Tố.
1.2.1. Cuộc đời.
Nhà văn hiện thực phê phán Ngô Tất Tố sinh năm 1893 sinh ra trong một nhà nho
nghèo làng Lộc Hà, tổng Hội Phụ,phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Giang. Ngô Tất Tố được coi là nhà
văn hàng đầu của trào lưu hiện thực phê phán ở Việt Nam trước 1945 với các tác phẩm tiêu
biểu như "Tắt đèn", "Việc làng", "Tập án cái đình". Ơng nội Ngơ Tất Tố bảy lần thi
hương,nhưng chỉ đỗ tú tài.Còn bố cũng sáu lần lều chõng nhưng cũng khơng đỗ đạt gì.Cịn
bản thân ông, lúc ông 22 tuổi đã đỗ đầu trong kì thi hai hạch ở địa phương nên được người
ta gọi là ơng Đầu xứ Tố.Sau đó, ơng cùng ơng Đỗ Ngọc Toại theo khóa thi Ất Mão, khoa

download by :



cuối cùng của của Nho học tại trường thi Hà Nam, nhưng đều bị hỏng.
Ngô Tất Tố xuất thân từ trong một nhà nho nghèo nhưng cả ông nội và bố đều là
những người có học. Gia đình ơng cũng chỉ là gia đình nơng dân nghèo, cịn phải chịu thêm
ruộng làng để cày cấy và trả nợ lãi khủng khiếp của bọn quan lại. Chính những hiện thực đó
nên những tác phẩm ông viết chủ yếu hướng về những người nơng dân lao động ,có sức
phản kháng mạnh mẽ.
Có lẽ thời xưa nam nhi phải “năm thê bảy thiếp” mới được gọi là giàu có và đó là
điều hiển nhiên của mỗi gia đình. Nhưng đối với ơng, thì lại cảm thấy khơng thích về
chuyện này, dường như dun số đã đẩy ông vào hai cô vợ xinh đẹp, mà hai người vợ lại là
hai chị em ruột.
Ngô Tất Tố xuất thân nho học nhưng đã sớm bỏ bút lông, cầm bút sắt, hăng hái bước
vào làng văn cương Việt Nam, ơng tự tạo cho mình một ít riêng biệt khơng giống ai. Ơng bắt
đầu con đường hoạt động văn học với những bản dịch chữ Hán “Cẩm hương đình” năm
1923. Cho đến năm 1926, Tản Đà mở “An Nam tạp chí” và Ngơ Tất Tố được mời ra Hà Nội
công tác thế là ông đã làm nghề báo từ đó. Chính sự tình cờ đó mà ơng có cơ hội viết lên
những áng văn của riêng mình phản ánh và đi sâu vào từng ngóc ngách của xã hội thối tha,
đểu trá, người nông dân sống trong thời đại khổ cực, những lối sống phè phỡn của bọn
thống trị.
Sau khi ra được 10 số, “An Nam tạp chí” bị đình bản, lúc này Ngơ Tất Tố trở về q.
Năm sau, ơng vào Sài Gịn tiếp tục viết cho các tờ báo: “Đông Pháp thời báo”, “Thần
Chung” đén năm 1930. Đến 1935, ông mở tại Hà Nội hiệu thuốc bắc “Thọ dân y quán”,
đồng thời dịch sách y học cho “Nhật Nam thư quán” và viết phóng sự: “Dao cầu thuyền tán”
đăng trên báo “Cơng dân”. Sau đó ơng bị chính phủ thực dân cấm khơng cho viết tờ “Hải
Phòng tuần báo”, bắt đầu dời hiệu thuốc về quê và bị trục xuất khỏi các thành phố lớn.
Ông dành dụm tiền mua lại của ông anh họ tuần phủ mảnh đất và ngôi nhà cũ để làm
chỗ ở riêng cho bà Hai. Ngơi nhà ấy hiện cịn lưu giữ hầu như nguyên vẹn tại làng Lộc Hà.
Trong thời gian này, một loạt các tác phẩm của Ngô Tất Tố ra đời như: Tắt đèn, Lều chõng,
Việc làng. Rồi phê bình “Nho giáo” của Trần Trọng Kim, Đường thi (dịch), sau đó lầ Lão

Tử, Mặc Tử, rồi văn học đời Lý, văn học đời Trần, Hồng Lê nhất thống chí (dịch). Khi
cách mạng thành cơng thì ơng đã mở lịng ra chào đón và ơng đã thực sự hịa nhập cùng
cách mạng. Ở quê Lộc Hà, ông đã tham gia Ủy ban giải phóng xã. Năm 1946, ơng gia nhập
Hội văn hóa cứu quốc và là nhà văn cao tuổi nhất lên chiến khu Việt Bắc tham gia kháng
chiến tại vùng Yên Thế, Bắc Giang.
Ngày 1/5/1948, ông được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Đông Dương cùng với Văn
Cao và Kim Lân. Trong Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ nhất, ông được bầu vào Ban
chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam. Tại Yên Thế, Bắc Giang,sau một thời gian bị đau nặng,
Ngô Tất Tố đã từ trần vào ngày 20/4/1954(tức 18/3 năm Giáp Ngọ) trước ngày kháng chiến
chống pháp thắng lợi, mộ của ông được đặt tại nghĩa trang liệt sĩ xã Mai Lâm.
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác.
*Vị trí trong nền văn học.
Ngơ Tất Tố là một cây bút hiện thực xuất xắc của nền văn học Việt Nam. Các tác

download by :


phẩm ông viết được nhiều người biết đến và thay đổi được nhận thức của họ. Ngô Tất Tố
được Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thật năm 1996.
*Nội dung và nghệ thuật.
Về nội dung, thời kháng chiến chống Pháp vô cùng gian khổ, cuộc sống bị đẩy xuống
thảm hại đến mức phải tự kết liễu đời mình.Chính vì thế nhà văn dùng ngịi bút của mình để
viết lên những áng văn phản ánh đúng hiện thực phũ phàng đó. Qua cuộc đời và số phận của
nhân vật, Ngô Tất Tố muốn tố cáo và lên án chế độ sưu thuế, đánh đập con người một cách
tàn bạo, khơng cho con người được tự do sống với chính mình. Cái sân đình để vui chơi giờ
đây đã trở thành trại giam, nơi hành hạ con người đổ máu. Khơng chỉ vậy, tình vợ chồng,
tình mẹ con, tình nghĩa xóm làng giữa con người cùng khổ nói đến một cách chân thực, số
phận người phụ nữ, những em bé, những người cùng đinh được tác giả nêu lên với bao xót
thương đau lịng.
Về nghệ thuật, thơng qua nhưng bi kịch đau đơn của nhân vật, Ngô Tất Tố đã thể hiện

được những giá trị nhân đạo cao cả, vừa bộc lộ nỗi xót thương vơ hạn cho thân phận những
con người bất hạnh trong xã hội cũ. Với lối hành văn chân thực, chi tiết đan cài chặt chẽ, ấn
tượng với đọc giả đã làm cho các nhân vật được thể hiện chân thực, những vẻ đẹp từ nhân
vật chị Dậu. Những xung đột, những tình huống đẫ cho người phụ nữ ấy thể hiện đúng bản
chất của người phụ nữ thương chồng yêu con, dù có khó khăn đến mấy chị cũng chịu được.
Đặc biệt hơn, ngôn ngữ trong tác phẩm gần gũi với người dân nông thôn chất phác, giúp họ
tiếp thu nhanh với tác phẩm.
*Phong cách sáng tác.
Ngô Tất Tố là nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam thời kì kháng
chiến chống Pháp , ông chuyên viết về đề tài người nơng dân, người lao động trước cách
mạng. Ơng được coi là nhà văn hàng đầu của phong trào hiện thực phê phán, ông luôn khai
thác và khám phá những thứ bên trong phẩm chất con người . Không chỉ vậy, với ngịi bút
tài hoa này ơng đã thắp lên ngọn lửa thù hận, cổ vũ nhân dân kháng chiến chống Pháp,
muốn cho người nơng dân thốt khỏi kiếp nơ lệ tù đày, cuộc sống ấm no hạnh phúc. Nổi bật
trên hiện thực đó ơng đã viết lên tác phẩm “Tắt đèn” trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” là
một trong số những tác phẩm tiêu biểu của văn học hiện thực phê phán kể về cuộc sống lầm
than của nhân dân dưới ánh đô hộ của thực dân Pháp. Sự thành công của tác phẩm được thể
hiện rõ nhất qua nhân vật Chị Dậu, chính nhân vật đã làm cho con người thời đó có thêm
sức mạnh, sự can đảm, tình u thương,...
Nhân vật chị Dậu đã tốt lên những vẻ đẹp cần có của người phụ nữ. Chị là một người
có tình u thương gia đình vơ cùng, hiếu thảo với mẹ,...Dù người phụ nữ đó có tình u
đến mấy, vĩ đại đến mấy nhưng vẫn phải chịu cuộc sống khổ cực, bị rơi vào hoàn cảnh
nghiệt ngã, phải lựa chọn giữa tình mẫu tử với tiền bạc. Có lẽ, nhân vật này là một nhân vật
bi đáp nhất là bởi dù có mạnh mẽ đến đâu nhưng vẫn phải chịu đựng bọn quan lại, dù có
yêu con đến đâu cũng phải bỏ con để lấy mấy đồng trả nợ, sống qua ngày… Tất cả nhằm tố
cáo sự thối nát của xã hội phong kiến, lũ cướp nước ức hiếp dân nghèo, đẩy họ vào con
đường cùng.
Ông rất thành công ở nhiều lĩnh vc khác nhau như: khảo cứu, dịch thuật, viết báo, đặc
biệt là viết văn. Về phương diện học thuật, ơng là tác giả nhiều cơng trình nghiên cứu triết
học, văn học cổ, lịch sử có giá trị. Cuốn ký sự lịch sử “Vua Hàm Nghi với việc kinh thành


download by :


thất thủ” (1935) đã biểu lộ một tinh thần yêu nước, thái độ căm ghét bọn tướng giặc và bọn
Việt gian bán nước. Tuy xuất thân là một người cựu học như Ngô Tất Tố không phải là một
người bảo thủ mà luôn luôn cố gắng vươn tới những tư tưởng tiến bộ của thời đại.Trong
cuốn phê bình “Nho giáo” của Trần Trọng Kim (1940), ông phê phán nhắm mắt đề cao,
xuyên tạc đối với Nho giáo của Trần Trọng Kim. Trong bộ Văn học Việt Nam, Ngô Tất Tố
đã thiết tha mong muốn được giữ những bản sắc dân tộc, nét đẹp văn hóa dân gian. Và ơng
đặc biệt đề cao tư tưởng độc lập tự cường của văn chương thời Trần và phê phán tinh thần
nô lệ bạc nhược, “bị trói buộc trong xiềng xích của nghề từ chương” đầy rẫy những văn
chương học thuật phong kiến.
Về dịch thuật, bản dịch ‘Đường thi” (1940) và “Hoàng Lê nhất thống chí” (1942) là
những cơng trình nhiều giá trị.
Trên lĩnh vực báo chí, ơng là “ Một tay ngơn luận xuất sắc trong đám nhà nho” (nhận
xét của Vũ Trọng Phụng). Từ những năm 20, ơng thường xun có mặt trên nhiều tờ báo ở
Trung, Nam, Bắc: An Nam tạp chí, Thần chung, Thực nghiệp, Đơng phương, Cơng dân,
Tương lai… với nhiều bút danh: Lộc Hà, Lộc Đĩnh, Phó Chi, Thơn dân, Hy Cừ… Đặc biệt
trong thời kì mặt trận dân chủ, do ảnh hưởng của phong trào đang dâng lên sơi sục, ngịi bút
sắc bén của ơng tỏ ra xơng xáo, tung hồnh. Với tấm lịng ưu ái trước thời thế, luôn luôn băn
khoan về số mệnh đất nước, nhân dân. Ông đã đứng khá vững trên lập trường dân chủ, dõng
dạc kết án tội ác của bọn thống trị và lên tiếng ủng hộ nhân dân đứng lên chống lại. Ông đã
nhiều lần tố cáo những thủ đoạn cho vay nặng lãi cắt cổ của bọn nhà giàu và viết lên với các
bài viết: “Rõ thật rắc rối cái con đường quan báo”, “Về cách làm giàu của nhiều quan lại An
Nam” và viết một phóng sự vạch mặt bọn thâm ô bip bợm trên bài viết: “Dao cầu thuyền
tán”. Ngơ Tất Tố cịn vạch trần tính giàu và viết các bài viết:”Rõ thật rắc rối cái con đường
quan báo”, “Về cách làm giàu của nhiều quan lại An Nam”. Ông đã viết nhiều về cuộc sống
nêu lên tình cảnh thê thảm bị áp bức bóc lột, bị thiên tai phá hoại mùa màng như: “Mời ông
Gô đa thăm mới nơi này”, “Bắc Ninh cấp cứu”… Tuy chưa có được nhận thức cách mạng

và vượt khỏi tư tưởng chính trị cải lương nên có những lệch lạc khơng tránh khỏi, nhưng
ngịi bút của ơng vẫn đầy tính chiến đấu và rất gần gũi với cách mạng.
Về sáng tác văn học, những sáng tác của Ngô Tất Tố trước cách mạng là “Tắt đèn”
(1939), “Lều chõng” (1939), “Việc làng” (1939). Ngồi ra cịn một số tác phẩm tiêu biểu
khác được đăng ở các bài báo. Với sự ra đời của tác phẩm “Tắt đèn” đã đánh dấu được
bước chuyển nghệ thuật viết văn của Ngô Tất Tố và ông được mọi người biết đến. Tuy
xuất thân từ một nhà Nho được học tập ở nền giáo dục cũ nhưng ông vẫn tỏ ra là người
biết kịp thời đại. Có lẽ trong cuộc đời của ơng, chỉ có sáng tác văn học mới làm ơng thỏa
mãn nhất, chỉ có con mắt của ơng mới nhìn thấu được nổi khổ của nhân dân lao động.
*Những tác phẩm tiêu biểu.
Tắt đèn, Lều chõng, Thơ và Tình, Địa dư Việt Nam, Kinh dich, Suói thép, Trước lửa
chiến đấu, Lão Tử, Đường Thi, Đề Thám, Trời hửng, Duyên máu, Việc làng, Địa dư các
nước Châu Âu, Văn học đời Lý và văn học đời Trần,.....Tất cả tác phẩm của ông đều
hướng tới con người và số phận con người.

download by :


1.3: Tác phẩm Tắt Đèn.
1.3.1: Bối cảnh lịch sử.
*Bối cảnh chung:
a) Bức tranh nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng 8:
Nhắc đến Ngô Tất Tố, người ta không thể không nghĩ đến cái làng quê nghèo Việt
Nam thời Pháp thuộc mà tiếng trống thúc thuế hằng năm đe dọa người nông dân như một tai
họa khủng khiếp, đồng thời cũng là xứ sở của những nhiều hủ tục nặng nề được duy trì từ
ngàn xưa cùng với chế độ phong kiến.
Trước Cách mạng tháng Tám 1945, ở nước ta dân số nông dân chiếm tới trên 90%
dân số cả nước. Người nơng dân bị hai trịng áp bức là: thực dân và phong kiến. Phần lớn
ruộng đất đều nằm trong tay địa chủ và chủ đồn điền của thực dân, có tới gần 60% số hộ
dân khơng có ruộng đất, phải làm thuê, nộp tô nộp tức, sưu cao thuế nặng, quanh năm lam

lũ, quanh năm đói rách. Cơ sở vật chất - kỹ thuật nơng nghiệp cịn hạn chế khơng đáng kể
đến. Hệ thống đê điều được hình thành từ mấy trăm năm trước, hàng năm không được tu bổ
đầy đủ, nên chỉ trong 40 năm (tính từ năm 1900) đã có tới 16 lần vỡ đê lớn. Hệ thống thủy
nông chỉ tưới được cho phần nhỏ diện tích (15%), cịn phần lớn phải dựa vào các trận mưa,
vì vậy thường gặp phải cảnh "chiêm khê, mùa thối". Hầu hết diện tích chỉ cấy được một vụ
lúa với năng suất rất thấp. Lương thực hàng năm không đủ dùng trong nước, nhưng bọn
thực dân vẫn vơ vét để xuất khẩu, làm cho người dân sống trong cảnh năm nào cũng có
người chết đói. Đặc biệt năm 1945 nước ta vừa gặp thiên tai, vừa bị phát xít Nhật bắt phá
lúa trồng đay, đốt thóc làm nhiên liệu, nên có đến 2 triệu người chết đói,...
"Tàu cười, Tây khóc, Nhật lo,
Việt Nam hết gạo chết co đầy đường."
"Đất này đất tổ đất tiên
Đất này chồng vợ bỏ tiền ra mua
Bây giờ Nhật, Pháp kéo hùa
Chiếm trồng đay lạc, ức chưa hỡi trời."
b) Đường lối chính sách của Đảng đối với đời sống của người nông dân trước Cách mạng

tháng 8:
Giai cấp nông dân là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng,
của dân tộc ta. Lịch sử hơn 80 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng đã khẳng định những đóng
góp to lớn của nơng dân đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng, bảo vệ
Tổ Quốc.

download by :


Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nông dân nước ta chiếm hơn 90% dân số, là
nạn nhân chủ yếu của chế độ thực dân. Giải phóng dân tộc, mà chủ yếu là nông dân là
nhiệm vụ quan trọng số một của cách mạng. Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái
Quốc - chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định cần phải thu hút đại bộ phận giai cấp nông dân

vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng do Đảng lãnh đạo.
Năm 1927, Trong tác phẩm "Đường cách mệnh", Nguyễn Ái Quốc đã xác định khái
niệm lực lượng cách mạng một cách đúng đắn, khoa học dựa vào tiêu chí "bị áp bức"; "Ai
mà bị áp bức càng nặng thì lịng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết".
Theo tiêu chí đó, Người xếp giai cấp cơng nơng là "gốc cách mệnh", khơng chỉ vì họ chiếm
số đông trong dân chúng mà cơ bản là họ bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất, tàn bạo nhất.
Nguyễn Ái Quốc coi "học trị, nhà bn nhỏ, điền chủ nhỏ" là "bầu bạn cách mệnh của công
nông". Những chỉ dẫn cơ bản này chính là nền tảng lý luận để hình thành khối liên minh
cơng nơng và Mặt trận dân tộc thống nhất trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam
sau này.
Đến năm 1930, trong "Cương lĩnh đầu tiên" chủ trương của Đảng là "thu phục cho
được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh
úp bọn đại địa chủ và phong kiến". Đảng ta cũng chủ trương xây dựng khối đoàn kết rộng
rãi các giai cấp, tầng lớp nhân dân yêu nước và các tổ chức cách mạng, chỉ đánh đổ những
lực lượng và đảng phái phản cách mạng: "Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức,
trung nơng, Thanh niên, Tân Việt,...để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp . Cịn đối với bọn
phú nơng, trung tiểu địa chủ và tư sản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi
dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng
Lappj Hiến,...) thì phải đánh đổ". Trong khi liên lạc với các giai cấp, không được nhân
nhượng lợi ích của công nông mà đi vào con đường thỏa hiệp.
Chủ trương trên cho thấy, chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã nắm chắc tình hình
thực tiễn Việt Nam, đánh giá đầy đủ và đúng đắn vị trí, vai trò, khả năng của các giai cấp,
tầng lớp trong sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam một cách triệt để.
Nắm vững lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, "Đảng ta vừa mới ra đời
đã nắm ngay quyền lãnh đạo cách mạng, bởi vì Đảng ta sớm đã vây dựng được “Khối liên
minh công nông”. Uy tín chính trị và quyền lãnh đạo cách mạng của Đảng ta sở dĩ là tuyệt
đối, không ai tranh chấp nổi, bởi vì nó bắt nguồn từ sức mạnh của Đảng, của quần chúng
công nông. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhưng trong điều kiện như nước ta,
một nước thuộc địa, phong trào cách mạng thực sự phải là một phong trào dân tộc mà trong
đó đội quân chủ lực phải bao gồm hai lực lượng cơ bản là cơng nhân và nơng dân. Có dựa

trên lực lượng cơ bản vững chắc đó, đảng ta mới có khả năng mở rộng đội ngũ cách mạng
tới các giai cấp và tầng lớp khác có tinh thần yêu nước trong dân tộc. Xuất phát từ đặc điểm
nông dân nước ta, đảng đã quan tâm giáo dục nông dân, lãnh đạo họ đi theo

download by :


cách mạng, từng bước đem lại quyền lợi thiết dân cho nông dân, xây dựng cũng cố khối liên
minh công nông thành đạo quân chủ lực của cách mạng. Trong "Luận cương chính trị" năm
1930, Đảng ta xác định: "Trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp và nơng
dân là hai động lực chính, nhưng vơ sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi
được".
Những điều đó đã nói lên tính chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác -Lênin vào
những thập niên đầu thế kỷ XX ở Việt Nam, một đường lối Cách mạng đúng đắn của chủ
tịch Hồ Chí Minh, đồng thời thể hiện rõ nét sự trưởng thành của giai cấp nông dân Việt
Nam về mặt giác ngộ dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là nguồn sức mạnh cơ bản làm nên
những thắng lợi vẻ vang của cách mạng nước ta từ khi có Đảng.
*Bối cảnh riêng: Hoàn cảnh ra đời tác phẩm “Tắt đèn”
Nhà văn Ngô Tất Tố viết tác phẩm Tắt Đèn vào năm 1930. Năm đó mưa nhiều, lũ lụt
triền miên dẫn đến mất mùa đói kém, nhân dân ta lâm vào cảnh lầm than, đặc biệt là tầng
lớp nơng dân. Cái đói hồnh hành cộng thêm các chính sách sưu cao - thuế nặng khiến
người dân rơi vào đường cùng. Họ đã đứng lên chống lại các chính sách bất cơng của bọn
thực dân, quan lại, địa chủ, cường hào, đòi cải thiện đời sống cho dân cày. Đó cũng là một
đề tài lớn, phổ biến của văn học, nơi để lại những thành tựu nghệ thuật đáng giá cho những
nhà văn lớn như: Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan,... Tuy vậy nhưng khơng có một cây
bút nào đề cập đến vấn đề nông dân một cách tha thiết, tập trung như Ngơ Tất Tố. Một lịng
u nước, thương dân, tình cảm gắn bó với số phận người nơng dân lao động là vốn động
lực trong ngịi bút của Ngơ Tất Tố.
1.3.2: Tóm tắt tác phẩm Tắt Đèn.


download by :


1.3.3: Giá trị hiện thực và Giá trị nhân đạo.
*Giá trị hiện thực:
Qua cuộc đời và số phận các nhân vật, tác giả đã tố cáo và lên án chế độ sưu thuế dã
man của thực dân Pháp, đã bần cùng hóa nhân dân ta. Sưu thuế đánh cả vào người chết là
một điều vơ lí, một hành động bất nhân - bất nghĩa. Có biết bao người phải bán vợ dợ con
để trang trải "món nợ Nhà nước". Vụ sưu thuế đến, xóm thơn rùng rợn trong tiếng trõng

download by :


ngũ liên, thúc liên hồi suốt ngày đêm. Bọn cường hào bắt trói, đánh đập tàn nhẫn những kẻ
thiếu sưu, thiếu thuế. Cái sân đình đã trở thành trại giam hành hạ những người nông dân
nghèo khổ, hiền lành vô tội. Có thể nói "Tắt Đèn" là một bức tranh xã hội chân thực, một
bản án đanh thép kết tội chế độ thực dân nửa phong kiến đã áp bức bóc lột, đã bần cùng hóa
nhân dân ta, đẩy người nông dân nghèo khổ vào bước đường cùng không lối thốt.
*Giá trị nhân đạo:
Tình vợ chồng, tình mẹ con, tình nghĩa xóm - làng giữa những con người cùng khổ
được nói đến một cách chân thực. Số phận người phụ nữ, những đứa trẻ nhỏ, những người
cùng đinh được tác giả nêu lên với tấm lịng xót thương, nhức nhói đến đau lòng. "Tắt Đèn"
đã xây dựng nhân vật chị Dậu - một hình tượng chân thực, đẹp đẽ về người phụ nữ nơng dân
Việt Nam. Chị Dậu có bao phẩm chất tốt đẹp: cần cù, tần tảo, giàu tình thương, nhẫn nhục
và dũng cảm chống bọn cường hào, chống áp bức xã hội. Chị Dậu là hiện thân của người
vợ, người mẹ vừa sắc sảo, vừa đôn hậu, trong sạch, giữ đúng phẩm giá của một người vợ.
1.3.4: Nghệ Thuật.
"Tắt Đèn" là một cuốn tiểu thuyết có quy mơ nhỏ, trên dưới 200 trang nhưng lại có
giá trị nghệ thuật đặc sắc:
- Có kết cấu chặt chẽ, tập trung. Các tình tiết, chi tiết đan xen với nhau đầy ấn tượng làm

nổi bật nên chủ đề của bài. Hầu như nhân vật chị Dậu đã xuất hiện trong tác phẩm từ đầu tới
cuối tạo thành một mạch xen kẽ.
- Trong bài xuất hiện các tính xung đột, tính bi kịch hấp dẫn tới người đọc.
- Tác giả đã khắc họa thành cơng hình ảnh các nhân vật điển hình. Các hạng người, tầng
lớp từ dân cày nghèo khổ đến bọn địa chủ phong kiến....
- Ngôn từ trong "Tắt Đèn" từ miêu tả, tự sự đến ngôn ngữ nhân vật đều nhuần nhuyễn ,
đậm đà sắc thái riêng. Câu văn xi thì thanh thốt.

1.3.5: Mở rộng.
*Ý nghĩa nhan đề "Tắt Đèn".
Từ xã hội phong kiến đương thời, một xã hội thối nát đã đẩy con người vào bước
đường cùng của sự tuyệt vọng, khiến họ phải liều mạng vùng vẫy chống lại cái xã hội - chế
độ bào mòn sức người đó. Nhân vật chính trong tác phẩm là chị Dậu, một người phụ nữ với
vẻ đẹp đặc trưng của người phụ nữ nông dân Việt Nam, vừa giàu sự u thương và mạnh mẽ
nhưng điều đó lại khơng thể chống trả lại cái xã hội phong kiến mục nát, lạc hậu

download by :


ấy. Cũng như tác phẩm "Tắt Đèn" khi chị Dậu vùng lên chạy ra khỏi nhà cụ cố Thượng, một
lão già biến thái trong đêm tối đen như mực không thể thấy được điều gì trước mắt. Chứng
tỏ "Tắt Đèn" đã báo hiệu cho chúng ta một cái kết - một kết cục khốn cùng, tuyệt vọng, một
cuộc sống không có lối thốt cho những mảnh đời, những gia đình cùng đinh thời đó. Chỉ
khi nào họ dám đứng lên cùng đấu tranh, khởi nghĩa đòi lại các quyền tự do của bản thân thì
mới có khả năng xoay chuyển thế cục của cuộc đời họ.
*Tác phẩm Tắt Đèn của Ngơ Tất Tố từng bị Pháp cấm lưu hành vì:
Tác phẩm của ơng tác phẩm của ơng đã kích thích (hay cịn gọi là xui khiến) nơng
dân đứng lên chống lại chế độ áp bức của bọn thực dân phong kiến.
Trước cách mạng tháng 8/1945: Vũ Trọng Phụng (Số đỏ), Ngơ Tất Tố (Tắt Đèn),
Nguyễn Cơng Hoan (Mất ví), Ngun Hồng (Bỉ vỏ) , Nam Cao (Chí Phèo, Lão Hạc)… là

những cái tên nổi tiếng trong nền văn học hiện thực phê phán. Những tác phẩm của họ đã
nói lên nỗi khổ - sự bần cùng hóa, sự tàn bạo dã man - những con quỷ hút máu (Thực dân
phong kiến)
Các nhà văn hiện thực phê phán đã góp một phần làm thức tỉnh người nông dân
đứng lên đấu tranh địi lại quyền lợi của mình. Và chỉ khi họ đi theo con đường Cách mạng
của Đảng, tiếp thu Chủ nghĩa Mác - Lênin (giác ngộ cách mạng) tập hợp đứng lên chống
chủ nghĩa thực dân phong kiến thì mới có khả năng giành lại Độc lập - Tự do, những quyền
lợi vốn nên có.
Chương 2: Bi kịch của chị Dậu trong tác phẩm Tắt Đèn của Ngô Tất Tố.
2.1. Vẻ đẹp của chị Dậu.
Trong tác phẩm Tắt Đèn của Ngơ Tất Tố ta có thể thấy nổi bật nhất chính là nhân vật
chị Dậu một người phụ nữ Việt Nam điển hình cho tầng lớp nơng dân thấp cổ bé họng thời
bấy giờ, phải sống trong một xã hội thối nát. Phẩm chất tốt đẹp của chị Dậu được làm rõ nét
nhất qua một chuỗi diễn biến sự việc. Chị là một người vợ tảo tần, đảm đang, tháo vát hết
lịng u chồng thương con. Tính tình dịu dàng, tình cảm , là trụ cột gia đình khi anh Dậu bị
bọn cai lệ bắt vì khơng có tiền nộp sưu. Khi anh Dậu được thả về thì chị ân cần dịu dàng
tình cảm với chồng. Khi mà bọn cai lệ và người nhà lí trưởng đến ban đầu chị nhẹ nhàng nài
nỉ, nhún nhường, nhẫn nhịn và van xin một cách tha thiết. Vì lịng thương chồng, thương
con mà chị hạ giọng cầu xin một cách đầy xót xa. Lần thứ hai chị ngang hàng nói lí lẽ với
bọn cai lệ tàn ác, tác quai tác quái áp bực vợ chồng chị “Con giun xéo lắm cũng quằn”
không thể nhẫn nhịn được nữa khi bọn cai lệ động tay động chân với chồng chị, chị đứng
lên phản kháng trống trả một cách quyết liệt và mạnh mẽ. Qua chi tiết chị đứng lên phản
kháng bọn cai lệ, có thể thấy được sức sống tiềm tàng phản kháng kẻ thù trống trả một cách
quyết liệt, đứng lên trên kẻ thù. Như vậy, tổng thể ta nhận thấy được chị Dậu là người điển
hình của tầng lớp phụ nữ nơng dân lúc bấy giờ hội tụ đầy đủ những

download by :


phẩm chất tốt đẹp có mạnh mẽ, có dịu dàng đan xen cả sức mạnh của tình yêu thương. Một

người nông dân nghèo khổ, túng quẫn, nhưng vẫn giữ trong mình một thái độ lễ phép nhân
nhịn, chịu đựng và hết lịng vì chồng vì con. Chị là người phụ nữ có tinh thần phản kháng
kẻ thù.
2.2. Những bi kịch của chị Dậu.
Hơn hai nghìn năm trước, Trang Tử đã từng có một triết lí rất hay về biển cả “Biển cả
là nơi mà tất cả các nguồn nước trên thế gian này đều đi ra từ đó, nhưng nó khơng vơi, và nó
cũng là nơi đón nhận tất cả các nguồn nước, nhưng nó khơng đầy”. Văn học cũng như
những nguồn nước – đều đi ra từ biển cả cuộc đời. Và hàng ngày, tiếng sóng thủy triều vẫn
âm vang chuyên chở ấy có bao giờ ngừng nghỉ, cũng như mảnh đất hiện thực có bao giờ vơi
đi những người nghệ sĩ đến đó để chở nắng, chở gió cuộc đời và tưới mát muôn cây?
Ngô Tất Tố cũng giống như bao người nghệ sĩ khác, tâm hồn ông, niềm vui nỗi khổ
của ông luôn gắn chặt với mỗi cảnh đời, mỗi con người để từ đó kết tinh thành những trang
văn tài hoa, nhức nhối. Có thể thấy, chị Dậu mang đầy đủ những phẩm chất của người phụ
nữ Việt Nam truyền thống: hiền lành, thật thà, chăm chỉ làm ăn, đảm đang thương chồng,
thương con hết mực,…. Chị xứng đáng được hưởng một cuộc sống bình yên hạnh phúc
bên những người thân yêu của mình. Ấy vậy mà cuộc sống của chị khơng hề dễ dàng, khó
khăn ln ập tới gia đình chị Dậu. Một trong những bi kịch của chị Dậu chính là sống trong
một xã hội nửa thực dân nửa phong kiến đầy áp bức, bóc lột khơng có sự liêm chính cơng
bằng. Ít người biết rằng trước khi lâm vào hồn cảnh khốn khó trải đầy dẫy bi kịch, chị Dậu
sống trong một gia đình khá giả nhưng khi lấy chồng rồi thì chị lao đầu vào làm nhưng vẫn
không đủ ăn đủ mặc, ngày càng tũng quẫn cùng cực, cơ hàn nghèo khó. Tất cả cũng chỉ bởi
cái nạn sưu cao thuế nặng. Bởi đó mà những người nơng dân Việt Nam nói chung, cũng như
gia đình chị Dậu nói riêng lâm vào cảnh bước đường cùng. Đồng thời cũng cái nạn ấy chính
là đối tượng mà tác giả hướng đến, là cơng cụ đắc lực cho bọn cường hào trực tiếp và gián
tiếp lộng hành. Mỗi lần sưu thuế là mỗi lần bọn quan lại, cường hào sâu mọt tìm cách đục
khoét, hà hiếp, đánh đập. Những cảnh ấy diễn ra hàng ngày và ở mọi nơi. “ Khơng cịn gì
hết, đứa nào mà trái ý, đánh luôn”. Thứ thuế vô nhân đạo, đó là ngun nhân trực tiếp đẩy
người nơng dân vào bước đường cùng. Chị Dậu bị đánh đập tàn bạo, bóp chẹt từng xu, từng
hào. Đây lại chính là cơ hội cho bọn tay sai tha hồ đánh đập, cường hào tha hồ đục khoét.
Càng đục khoét, càng đào sâu thì càng mở đường thuận lợi cho bọn địa chủ Nghị Quế “Lên

mặt” tha hồ giở các trò, các thủ đoạn cho vay nặng lãi. Qua đó đã làm nổi lên bộ mặt của
bọn địa chủ gian ác, góp phần lên án tố cáo cả một bộ máy thống trị ở nông thôn lúc bấy
giờ: quan lại, nghị viên, địa chủ, cường hào gian ác dâm dục. Nghị Quế nhân vật điển hình
cho địa chủ của nơng thơn Việt Nam trước Cách mạng. Là tên địa chủ dốt nát, bủn xỉn, luôn
chờ cơ hội đục nước thả câu. Lời lẽ thì

download by :


đay nghiến, độc ác, xem mạng người dân không bằng con chó: “Tơi mướn nó để nó coi nhà.
Ni chó cịn hơn là ni đứa ở”. Ngồi giai cấp địa chủ, tay sai đắc lực, bức tranh xã hội
Viêt Nam trước Cách mạng sẽ thiếu hồn thiện nếu khơng nhắc đến những quan phụ mẫu
có bộ râu “đen như hắc ín, cong như lưỡi liềm, dưới thì vành khăn xếp nhiễu tay, mặt thì
phèn phẹt, ln hầm hầm như sắp đánh rơi xuống sông cái huỵch”. Với không biết bao
nhiêu thủ đoạn ti tiện, hách dịch, cái triết lý sống “quan chỉ vớ thằng có tóc, ai vớ chi thằng
trọc đầu”. Nhưng cái lối vừa đánh vừa xoa ấy của các quan lại ai cịn lạ gì. Chúng đều là
thứ rắn hổ mang, rắn cạp nong có hai đầu và đầu nào cũng đốt chết người cả. Tội ác của
chúng bành ra khắp nơi từ làng – xã, khắp thôn thậm chí trong từng căn buồng của từng
ngơi nhà tranh lụp xụp. Tiếng trống ngũ liên, tiếng tù và tiếng mõ đốc sưu nổi lên suốt đêm
ngày nghe rất rùng rợn, cổng làng bị bọn cường hào đóng chặt để tróc sưu. Bọn cai lệ, bọn
tay chân lí trưởng với roi song, tay thước, dây thừng, nghênh ngang đi lại ngồi đường thét
bắt trói kẻ thiếu sưu. Lí trưởng làng Đông Xá ra lệnh cho lũ tay chân: "Tha hồ đánh! Tha hồ
trói! Thằng nào bướng bỉnh đánh chết vơ tội vạ! Anh Dậu vì tội thiếu sưu mà bị bọn cường
hào “bắt trói như trói chó để giết thịt!”. Em trai anh Dậu chết từ năm ngoái nhưng anh Dậu
vẫn phải nộp thay vì “Chết cũng khơng trốn được sưu Nhà nước!”. Có biết bao gia đình
nơng dân nghèo khổ bị điêu đứng bị bắt đánh trói dã man. Gia đình chị Dậu cũng vậy, lâm
vào hồn cảnh cùng đinh trong làng, tiếng thúc sưu thuế vang lên đầy nghiệt ngã, chị bán cả
gánh khoai trong nhà đi nhưng vẫn không đủ tiền nộp sưu cho chồng. Chị đưa ra quyết định
bán ổ chó đi mà tiền vẫn cịn thiếu, dứt ruột cắn răng đầy đau đớn chị phải bán cái Tý là đứa
con gái đầu lòng mới tám tuổi của mình cho ơng Nghị Quế. Đơn đáo xoay sở tiền đóng sưu

nhưng cũng chỉ đủ để nộp cho chồng. Chú Hợi là anh ruột của anh Dậu chết từ năm ngối
nhưng cũng khơng tránh khỏi nộp sưu. Bọn quan lại tham ơ tìm mọi cách, bày ra đủ thứ
thuế, hàng nghìn điều lệ để hầu bao của chúng được đầy ắp rủng rỉnh tiền. Chúng không
cần biết dân con sống đói khổ ra sao, thiếu thốn như nào mà chỉ biết đày ải bóc lột áp bức
đày dọa.
Bi kịch nối tiếp bi kịch, anh Dậu đang nằm kiệt quệ thoi thóp ốm nặng, bọn cường
hào trói anh suốt ngày đêm sai bọn tay chân vác anh về như một cái xác chết rũ rượi. Mọi
gánh nặng lại dồn lên đôi vai nhỏ bé của người phụ nữ tảo tần chính là chị Dậu đã nghèo
đói thiếu thốn nhưng bọn cường hào vẫn đày đọa áp bức, tác quai tác qi khơng cịn có
một chút nhân tính của con người. Tiền sưu thuế đã dồn người nông dân tới một cuộc sống
lầm than cơ cực. Đó là giai đoạn với bao nỗi kinh hoàng khi bọn thực dân phong kiến ra sức
bóc lột nơng dân với đủ thứ thuế. Chị Dậu cũng như bao người nông dân lúc bấy giờ là nạn
nhân của một xã hội tha hóa chỉ vì đồng tiền. Những bi kịch đầy chua xót ấy đã ăn mịn
thân xác chị khiến cho gia đình nhỏ của chị thao túng vì đồng tiền sống dở chết dở, đầy rẫy
những áp bức đọa đầy. Đằng sau thân hình của một người phụ nữ nhỏ bé bình thường ấy lại
là sự mạnh mẽ rất đỗi phi thường một mình gồng gánh cả gia đình, cố gắng

download by :


cứu chồng thoát khỏi chiếc dây tiền quyền do bọn cường hào trói buộc. Sức nặng của đồng
tiền sưu thuế, sự đàn áp của bọn quan lại, một xã hội tha hóa khơng có tính nhân đạo đã
hành hạ những người dân hiền lành thật thà, chất phát một cách tàn nhẫn khơng chút
thương tiếc.
Khơng chỉ vậỵ, chị cịn bị thúc giải lên quan do phạm tội đánh người nhà nước. Khi
chị gặp mặt tên quan đấy hắn nổi tính dâm đãng gây khó dễ cho chị và điều ép chị hơm sau
lên hầu quan. Đó cũng chỉ là cái cơ để giở trò đồ bại. Khi hắn định giở trị thì chị Dậu đã
phản kháng quyết liệt dứt khốt, thấy chị khơng đồng tình né tránh tên quan ơ đó lơi tiền ra
để dụ dỗ chị nhưng chị vẫn ln giữ trong mình giới hạn khơng bị đồng tiền làm mờ mắt và
ln giữ tình thủy chung của mình cho anh Dậu ở nhà. May lúc đó vợ của tên quan từ trên

tỉnh trở về nên lão đã buông tha cho chị. Ra đi trong đêm tối trên người không một cắt bạc
chị van xin người đàn bà bán quán ngồi nhờ thì chị may mắn gặp được một người nhà quan
ở trên tỉnh. Người này cho chị hai đồng nộp nốt tiền sưu thuế và hứa hẹn cho chị cơng việc
vắt sữa của mình để quan cụ uống (do quan cụ này tuổi cao sức già răng rụng không ăn
được cơm nên phải uống sữa). Về tới nhà chị bàn với anh Dậu về công việc được người đàn
bà kia giới thiệu, đắn đo lắm cuối cùng anh chị cũng quyết định lên tỉnh làm vú sữa cho
quan cụ để có tiền trang trải cuộc sống. Sau khi đưa ra quyết định đó chị và chồng cho cái
Tỉu làm con ni nhà hàng xóm, để khi chị khơng có nhà mà đứa con khơng bị bơ vơ đói
khát và giảm bớt khó khăn cho gia đình. Mọi chuyện xong suôi chị lên tỉnh làm việc. Thời
gian đầu, chị làm được tiền và gửi về cho anh Dậu. Nhưng vào một đêm tối khuya khoắt,
lão quan cụ mò vào buồng của chị giở trò đồi bại với chị… Tác phẩm kết thúc bằng câu “
Chị vùng chạy ra ngoài giữa lúc trời tối đen như mực, đen như cái tiền đồ của chị vậy!’’. Ta
thấy được bi kịch cứ ăm ắp vây quanh lấy chị, những bi kịch ấy cứ vùi dập chèn ép chị đến
đáng thương đầy nghẹn ngào, bị kịch nọ nối tiếp bi kịch kia cứ vây của lấy con người chị.
Đến cuối tác phẩm cũng nói “đen như cái tiền đồ của chị vậy” khiến độc giả phần nào đoán
được cuộc đời chị sau này lại vẫn cứ trải dài trên chuỗi bi kịch đau đớn của xã hội thối nát
tha hóa. Điều đó cũng nói lên rằng con người nơng dân lúc bấy giờ sống trong xã hội nửa
thực dân nửa phong kiến thì chỉ có bi kịch chứ khơng có n bình, hay cơng bằng mà chỉ
tồn sự dơ bẩn tồi tàn của lũ quan lại tham, ô đồ bại, dung tục và mất nhân tính. Ngơ Tất Tố
đã miêu tả xây dựng một cách chân thực và tinh tế, một hoàn cảnh bi đát đau thương nhưng
lại tỏa sáng với sự dũng cảm, kiên cường của chị Dậu hay những người dân đen lúc bấy giờ
khơng chịu khuất phục trước hồn cảnh trớ trêu đầy bi kịch trái ngang và khơng có cơng
bằng. Có thể nói “Tắt đèn” là bức tranh chân thực về xã hội nông thôn đen tối trước cách
mạng, đồng thời là bản án đanh thép đối với cái xã hội ấy. Đọc “Tắt đèn”, ta rùng mình cảm
thấy“cái tối giời tối đất của đồng lúa ngày xưa ” như Tố Hữu đã viết:

download by :


“Nửa đêm thuế thúc trống dồn,

Sân đình máu chảy, đường thơn lính đầy...”
(30 năm đời ta có Đảng)
Như vậy Ngơ Tất Tố đã thành công xây dựng nhân vật chị Dậu một người phụ nữ
điển hình cho những người nơng dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám cần cù, chịu
khó và có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ vượt qua mọi bi kịch trớ trêu gian chuân đầy rẫy
những bi kịch, những trông gai.
2.3: Mở rộng.
Trước cách mạng tháng Tám, số phận của những người nông dân thấp cổ bé họng gần
như rơi vào tuyệt vọng bởi sự chà đạp bất công của những tên “cai trị” hống hách, ngang
ngược, lộng hành, vơ nhân tính thêm vào đó là một xã hội đầy rẫy những bất cơng, đẩy tình
cảnh của những người ngông dân nghèo rơi vào bế tắc. Truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam
Cao cũng như vậy, Lão Hạc cũng rơi vào bế tắc khi mất mùa liên miên, sức khỏe lão lại yếu
không thể đi làm công như trước mà lão lại không muốn ăn vào mảnh vườn mà lão để lại
cho con. Lão bán đi con chó mà cậu con trai mua cho, con chó chính là người bạn duy nhất
của lão và lão sống trong hoàn cảnh thiếu thốn chỉ để giữ vườn cho con. Một ngày, lão xin
Binh Tư- người làm nghề ăn trộm trong làng ít bả chó, biết chuyện, ơng Giáo cứ nghĩ lão đã
biến chất nhưng không phải như vậy, dù trong hồn cảnh nghèo đói, lão Hạc vẫn giữ cho
mình phẩm chất tốt đẹp vốn có. Lão xin bả chó khơng phải là để làm chuyện xấu mà chính
là để kết liễu cuộc sống của mình, để khơng phải phạm phải tội lỗi, để chết đi trong sạch
còn hơn là sống mà biến chất. Dù trong hoàn cảnh túng quẫn như vậy mà Lão Hạc vẫn giữ
cho mình đức tính lương thiện cho dù là Lão phải trả giá bằng cái chết. Thật vậy, những
người nơng dân ấy khơng vì hồn cảnh trớ trêu mà cho phép bản thân mình mất đi những
phẩm chất đáng quý. Qua hình ảnh chị Dậu cũng như lão hạc đã gợi lên trong lòng ta niềm
thương xót ngậm ngùi về số phận bi thảm của chị cũng như của bao người nông dân lương
thiện, những người nơng dân ấy khơng vì hồn cảnh trớ trêu mà cho phép bản thân mình
mất đi những phẩm chất đáng quý. Như NguyễnTtuân đã từng nhận xét ''chị Dậu là tất cả
của tắt đèn, trên cái tối giời tối đất của đồng lúa ngày xưa hiện lên một cái chân dung lạc
quan của chị Dậu” trắc trở mà vẫn giữ được nét đẹp ngàn năm của người nông dân chất
phát, lương thiện, thật thà.


Chương 3: Liên hệ thực tế và Bài học

download by :


Bi kịch, biến cố là những vị khách không hẹn mà gặp trong cuộc đời của mỗi chúng ta.
Chúng dẫm lên, đề bẹp cuộc đời mỗi người. Chúng ta chỉ có thể đứng lên khi những trái tim
đồng lịng, chung sức và kéo nhau vực dậy. Bởi vậy, sẽ không có ai bị bỏ lại phía sau, cũng
chẳng có ai một mình chịu khổ đau, cũng chẳng sợ khơng có ai thấu hiểu, giúp đỡ. Chị Dậu
cũng vậy! Chị không cơ đơn, khơng một mình chống chọi với hiện thực khốc liệt, ngang
trái, khơng sợ khơng có người đồng cảm với số phận cay đắng, tủi hờn của chị. Bởi chị cịn
có những người bạn cùng chung hồn cảnh như Mị, Thị Nở. Họ cũng giống như Chị Dậu
sống trong một xã hội đầy rẫy những điều phi lí, bất cơng. Nơi có những con quỷ máu lạnh,
độc ác mất hết tính người, đang ngày một hút hết sự sống của người dân. Chính cái xã hội
thực dân nửa phong kiến ấy đã đẩy con người ta vào bước đường cùng với số phận đau
thương. Tuy vậy, khổ là thế, đau là vậy, căm ghét, oán hận xã hội đấy, họ vẫn giữ cho mình
những vẻ đẹp đáng quý của người phụ nữ thời đấy nói riêng cũng như người nơng dân nói
chung ln giàu lịng u thương, tinh thần phản kháng, dám đấu tranh để giành lại hạnh
phúc. Bởi vậy, họ xứng đáng được ngợi ca, tôn trọng. Hành động, vẻ đẹp của họ cần được
lan toả, nhân rộng. Khơng chỉ có những người bạn cùng cảnh ngộ như Mị, Thị Nở… Chị
Dậu cịn có người bạn tri kỉ, tâm giao Ngơ Tất Tố - Người đã đem hình ảnh chị đến gần với
mọi độc giả qua nhiều thế hệ, xuyên qua mọi khoảng cách để chinh phục trái tim, sự tôn
trọng của tất cả mọi người thông qua vẻ đẹp của chị. Đồng thời ông cũng là người giúp chị
địi lại cơng lý, lên án tố cáo xã hội phong kiến đương thời tàn ác, bất nhân, khiến con người
trở thành con rối chạy theo đồng tiền, quyền lực, trở thành công cụ đắc lực cho bọn tay sai,
thưc dân. Và đúng như Nguyễn Minh Châu đã từng viết: “Nhà văn tồn tại ở trên đời trước
hết để làm công việc như kẻ nâng giấc cho những con người cùng đường tuyệt lộ, bị cái ác
và số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường để bênh vực cho những con người
khơng có ai bênh vực”.
“Tắt đèn” của Ngô Tất Tố là một tác phẩm hay, giàu giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc.

Ngày nay, giá trị ấy vẫn vẹn nguyên. Thông qua tác phẩm, chúng ta thấy được hồn cảnh và
cuộc sống người nơng dân trước cách mạng tháng tám vơ cùng khó khăn, thiếu thốn, bị áp
bức nặng nề “một cổ hai tròng”. Nhờ vậy, nó như một bài học nhắc nhở chúng ta phải trân
trọng những gì chúng ta có hiện tại, phải biết ơn sự hi sinh, đấu tranh của các thế hệ đi
trước đã ngã xuống để đổi lấy hoà bình, tự do cho chúng ta ngày nay. Đồng thời, phải biết
thấu hiểu, chia sẻ, giúp đỡ những người gặp hoạn nạn, phát huy tối đa tinh thần tương thân
tương ái. Không chỉ vậy, qua nhân vật Chị Dậu chúng ta học thêm được nhiều bài học đáng
quý! Đó là thêm yêu và trân trọng những người phụ nữ xung quanh chúng ta. Bởi cuộc đời
phụ nữ chịu nhiều biết bao khó khăn, sóng gió vì thế hãy động viên, thấu hiểu, quan tâm họ
nhiều hơn. Người phụ nữ tần tảo sớm tối, chăm lo, vun vén hạnh phúc gia đình hãy yêu
thương, trân trọng họ nhiều hơn. Hơn hết, hãnh đồng hành, ở bên họ trên mọi

download by :


chặng đường, chia sẻ ngọt bùi đắng cay với họ. Song, sống trong thời đại ngày nay, người
phụ nữ đã được tơn trọng hơn, khơng cịn chịu cảnh khổ cực làm việc ngày đêm, khơng cịn
phải chịu những bất cơng. Tục ngữ đã có câu:”Giàu vì bạn Sang vì vợ”, như vậy chứng tỏ
người phụ nữ là người vô cùng quan trọng trong gia đình. Hiện nay cũng có nhiều cuộc thi
sắc đẹp cho phụ nữ, để họ thể hiện những tài lẻ của mình, những phong cách riêng của
mình. Và họ có thể tự lo cho bản thân thành công trong sự nghiệp. Truyền thống một người
phụ nữ đẹp sẽ không mất đi mà ngày một phát triển lên vẻ đẹp trong nhận thức, trí thơng
minh, dịu dàng sẽ vẫn mãi trong họ.

C. Kết Luận
Qua chủ đề trên, chúng ta hiểu rằng, bi kịch là điều không ai mong muốn xảy ra nhưng nó
là một phần của cuộc sống. Bản chất của bi kịch là những mâu thuẫn, xung đột gay gắt
giữa đời sống xã hội và cá nhân. Nó thúc đẩy, gắn liền với các cuộc đấu tranh khiến con
người phải đấu tranh để đi đến kết quả đó là phải chết hoặc thất bại.
Bi kịch của chị Dậu là bi kịch của con người đời thường. Một người nơng dân tốt, giàu tình

u thương, nghị lực, sống sống mạnh mẽ nhưng bị chính bi kịch của thời đại, của xã hội
phong kiến xô đẩy vào bong tối, đẩy xuống vực thẳm của cuộc đời với một tương lai mù
mịt, tăm tối.
Thông qua nhân vật chị Dậu trong tác phẩm “Tắt đèn” của nhà văn Ngô Tất Tố, chúng ta
rút ra được nhiều bài học sâu sắc:
1. Đồng cảm, thương xót cho số phận người nơng dân trước cách mạng tháng tám.
2. Lên án, phê phán xã hội phong kiến đương thời, bọn thực dân đã đàn áp, bóc lột,
3.
4.
5.
6.
7.

chà đạp lên số phận của người nơng dân.
Đồng tiền khiến con người ta bị tha hoá mất hết nhân tính.
Hãy trân trọng những gì chúng ta đang có hiện tại.
Biết ơn sự hi sinh, đóng góp của các thế hệ đi trước để chúng ta có một cuộc sống
tự do, tốt đẹp như hiện nay.
Yêu thương, trân trọng, tôn trọng những người phụ nữ.
Phấn đấu trở thành những công dân tốt xây dựng, phát triển nước nhà.

download by :


download by :



×