Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (494.39 KB, 16 trang )

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI
----------------

BÀI KIỂM TRA KẾT THÚC HỌC KỲ

MÔN: LUẬT DÂN SỰ 2
ĐỀ TÀI:
Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự 2015
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Họ và tên: Vũ Mạnh Tuân
Lớp: VB2 - K3
SBD: TKS000017

Hà Nội, thán 3 năm 2022


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU………………………………………………………...1
PHẦN NỘI DUNG………………………………..….….………………2
I. Khái quát chung về hợp đồng …..…………………………………...2
1. Khái niệm hợp đồng……………………………………………………2
2. Đặc điểm hợp đồng………………………………………………….....2
3. Phân loại hợp đồng………………………………………………….....4
4. Quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng…..……………….....7
II. Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của Bộ Luật dân sự 2015,
một số vấn đề lý luận và thực tiễn……………………..………………………8
1. Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự 2015……….8
2. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn………………………………...….11
PHẦN KẾT LUẬN…………...…………………….……….…….........13
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………...….…………..……14




1
PHẦN MỞ ĐẦU
Hợp đồng dân sự là một trong những phương thức hữu hiệu để các chủ
thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình. Hơn nữa, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế các mối quan hệ
dân sự cũng được mở rộng và phát triển. Cùng với đó các tranh chấp về hợp
đồng dân sự cũng ngày một gia tăng và mức độ phức tạp ngày càng cao đòi hỏi
pháp luật về hợp đồng dân sự phải hồn thiện hơn để giải quyết một cách triệt
để. Khó khăn trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến hợp đồng dân
sự là do các bên không tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Vì vậy,
những quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng có vai trị quan trọng
trong việc điều chỉnh những quan hệ giao lưu dân sự của nền kinh tế thị trường,
vì vậy em xin chọn đề tài “Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của Bộ Luật
dân sự 2015 - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”. Làm bài thi kết thúc học kỳ
của mình.
Trong quá trình làm bài em đã cố gắng nhiều, song với trình độ hiểu biết
vấn đề cịn hạn chế nên bài viết khó thể tránh khỏi những thiếu sót. Bởi vậy, em
rất mong có thể nhận được sự đóng góp ý kiến từ phía thầy cơ. Em xin chân
thành cảm ơn!

PHẦN NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG
1. Khái niệm hợp đồng


2
Để tồn tại và phát triển, mỗi cá nhân cũng như mỗi tổ chức phải tham gia
nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau. Trong đó, việc các bên thiết lập với nhau

những quan hệ, để qua đó chuyển giao cho nhau các lợi ích vật chất nhằm đáp ứng
nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, đóng một vai trị quan trọng, là một tất yếu đối với
mọi đời sống xã hội. Tuy nhiên việc chuyển giao các lợi ích vật chất đó khơng phải
là tự nhiên hình thành bởi tài sản, chúng khơng thể tự tìm tới nhau để thiết lập các
quan hệ. Các quan hệ tài sản chỉ được hình thành từ những hành vi có ý chí của các
chủ thể. Nếu chỉ có một bên thể hiện ý chí của mình mà khơng được bên kia chấp
nhận cũng khơng thể hình thành một quan hệ để qua đó thực hiện việc chuyển giao
tài sản hoặc làm một công việc đối với nhau được. Do đó chỉ khi nào có sự thể hiện
và thống nhất ý chí giữa các bên thì quan hệ trao đổi lợi ích vật chất mới được hình
thành. Quan hệ đó được gọi là hợp đồng.
Như vậy, hợp đồng chính là một giao dịch dân sự mà trong đó các bên tự
trao đổi ý chí với nhau nhằm đi đến sự thỏa thuận cùng nhau làm phát sinh các
quyền và nghĩa vụ nhất định. Dưới góc độ pháp lý thì hợp đồng được hiểu là sự
thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự (theo Điều 385 Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2015). Hợp đồng là một bộ
phận các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ
thể với nhau. Trên cơ sở định nghĩa về hợp đồng ta rút ra được các đặc điểm của
hợp đồng.
2. Đặc điểm của hợp đồng
Theo Điều 385 Bộ luật dân sự 2015 định nghĩa về hợp đồng thì hợp đồng
có hai nét cơ bản đó là: Sự thỏa thuận giữa các bên và làm phát sinh hậu quả
pháp lý.
Hợp đồng trước hết phải là một thỏa thuận có nghĩa là hợp đồng phải
chứa đựng yếu tố tự nguyện khi giao kết nó phải có sự trùng hợp ý chí của các
bên. Việc giao kết hợp đồng phải tuân theo các nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng,


3
thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng, tự do giao kết hợp đồng, nhưng

không được trái với pháp luật và đạo đức xã hội.
Thỏa thuận theo từ điển tiếng Việt có nghĩa là: Đi tới sự đồng ý sau khi
cân nhắc, thảo luận. Thỏa thuận cũng có nghĩa là sự nhất trí chung (khơng bắt
buộc phải được nhất trí hồn tồn) được thể hiện ở chỗ khơng có một ý kiến đối
lập của bất cứ một bộ phận nào trong số các bên liên quan đối với những vấn đề
quan trọng và thể hiện thông qua một quá trình mà mọi quan điểm của các bên
liên quan đều phải được xem xét và dung hoà được tất cả các tranh chấp; là việc
các bên (cá nhân hay tổ chức) có ý định chung tự nguyện cùng nhau thực hiện
những nghĩa vụ mà họ đã cùng nhau chấp nhận vì lợi ích của các bên. Sự đồng
tình tự nguyện này có thể chỉ được tuyên bố miệng và được gọi là thoả thuận
quân tử (hợp đồng quân tử) hay được viết thành văn bản gọi là hợp đồng viết
hay hợp đồng thành văn. Tuỳ theo từng trường hợp được gọi là hợp đồng hay
hiệp định; vd. hiệp định mua bán, hợp đồng đại lí.
Yếu tố thỏa thuận đã bao hàm trong nó yếu tố tự nguyện, tự định đoạt và
sự thống nhất về mặt ý chí. Đây là yếu tố quan trọng nhất tạo nên sự đặc trưng
của hợp đồng so với các giao dịch dân sự khác, đây cũng là yếu tố làm nên bản
chất của luật dân sự so với các ngành luật khác.
Về chủ thể tham gia hợp đồng: Chủ thể giao kết, thực hiện hợp đồngphải
có ít nhất từ hai bên trở lên, vì hợp đồng là một giao dịch pháp lý song phương
hay đa phương. Các chủ thể khi giao kết, thực hiện hợp đồng đều phải có tư
cách chủ thể tức là phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật đối
với một chủ thể của quan hệ dân sự (ví dụ: nếu chủ thể là cá nhân thì phải đáp
ứng được các yêu cầu về năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự…).
Mục đích hướng tới của các bên khi tham gia hợp đồng là để xác lập thay
đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Quyền và nghĩa vụ trong phạm vi
hợp đồng có phạm vi rất rộng, trước đây trong Pháp lệnh hợp đồng ngày 29-41991 (Điều 1) quy định hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên về việc xác lập,


4
thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên trong mua bán, thuê,

vay, mượn, tặng, cho tài sản, làm một hoặc không làm công việc, dịch vụ hoặc
các thỏa thuận khác mà trong đó một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh
hoạt, tiêu dùng.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì khơng liệt kê cụ thể các quyền
và nghĩa vụ dân sự cụ thể đó tuy nhiên về bản chất thì các quyền và nghĩa vụ mà
các bên hướng tới khi giao kết, thực hiện hợp đồng là những quyền và nghĩa vụ
để đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu trong sinh hoạt, tiêu dùng, đó cũng chính là một
trong những đặc điểm cơ bản để phân biệt giữa hợp đồng và các hợp đồng kinh
tế, thương mại.
Yếu tố này giúp phân biệt hợp đồng với hợp đồng kinh tế:
- Mục đích của hợp đồng kinh tế khi các bên chủ thể tham gia là mục đích
kinh doanh (nhằm phát sinh lợi nhuận) trong khi đó hợp đồng các bên tham gia
nhằm thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng.
Chủ thể tham gia hợp đồng kinh tế phải là các thương nhân, các công ty,
đơn vị kinh doanh (nếu chủ thể là cá nhân thì phải có đăng ký kinh doanh).
3. Phân loại hợp đồng
Theo Điều 402 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã đưa ra định nghĩa một số hợp
đồng cơ bản, tuy nhiên, trong thực tiễn có rất nhiều loại hợp đồng, ta có thể dựa
vào các căn cứ khác nhau để phân biệt các loại hợp đồng.
Thứ nhất: Phân loại hợp đồng dựa vào mối liên quan giữa chúng
Nếu dựa vào mối liên quan về hiệu lực và chức năng giữa hai hợp đồng với
nhau thì các hợp đồng này được xác định thành:
Hợp đồng chính: Là hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng kia.
Hợp đồng phụ: Là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào họp đồng chính.


5
Theo đó, hợp đồng phụ có chức năng hỗ trợ, bảo đảm cho việc thực hiện
hợp đồng chính, hợp đồng phụ được thực hiện khi hợp đồng chính khơng được
thực hiện hoặc chỉ được thực hiện một phần khi đến hạn. Cũng vì vậy, nếu hợp

đồng chính vơ hiệu thì hợp đồng phụ cũng vô hiệu, trừ trường hợp hợp đồng
chính vơ hiệu nhưng đã được thực hiện tồn bộ hoặc một phần.
Chẳng hạn, giữa hợp đồng vay tài sản với hợp đồng thế chấp tài sản để bảo
đảm thực hiện hợp đồng vay thì hợp đồng vay tài sản là hợp đồng chính, hợp
đồng thế chấp tài sản là hợp đồng phụ. Trong trường hợp hợp đồng vay vô hiệu
và chưa được thực hiện thì hợp đồng thế chấp cũng bị vô hiệu. Nếu hợp đồng
vay vô hiệu nhưng bên cho vay đã chuyển tài sản cho bên vay thì hợp đồng thế
chấp vẫn có hiệu lực pháp luật và bên nhận thế chấp phải bảo đảm việc trả lại tài
sản vay mà bên vay đã nhận.
Thứ hai: Phân loại hợp đồng dựa vào quyền và nghĩa vụ của các bên và
ý nghĩa của việc phân loại
Căn cứ vào quyền và nghĩa vụ của các bên, hợp đồng được phân thành hai
loại sau:
Hợp đồng đơn vụ: Là hợp đồng làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ giữa các
bên tham gia hợp đồng mà trong quan hệ nghĩa vụ đó chỉ một bên có nghĩa vụ.
Hợp đồng song vụ: Là hợp đồng làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ giữa các
bên tham gia hợp đồng mà trong quan hệ nghĩa vụ đó mỗi bên đều có nghĩa vụ
đối với nhau.
Như vậy, khi xác định một hợp đồng là đơn vụ hay song vụ phải dựa vào
quyền và nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm có hiệu lực của hợp đồng (chính
là thời điểm phát sinh quan hệ nghĩa vụ giữa các bên). Vì vậy, có thể cùng loại
hợp đồng nhưng ở trường hợp này là hợp đồng song vụ, ở trường hợp khác lại là
hợp đồng đơn vụ. Chẳng hạn, hợp đồng cho vay được thỏa thuận là có hiệu lực
từ thời điểm các bên cùng ký vào văn bản hợp đồng thì hợp đồng vay này là hợp
đồng song vụ vì từ thời điểm đó đã phát sinh một quan hệ nghĩa vụ và trong đó


6
cả bên cho vay và bên vay đều có nghĩa vụ (bên cho vay có nghĩa vụ giải ngân,
bên vay có nghĩa vụ trả nợ). Nếu hợp đồng cho vay được thỏa thuận là chỉ có

hiệu lực khi bên cho vay đã chuyển tài sản vay cho bên vay thì hợp đồng vay
này là hợp đồng đơn vụ vì vào thời điểm hợp đồng có hiệu lực, bên cho vay
khơng còn nghĩa vụ.
Thứ ba: Phân loại hợp đồng dựa vào sự trao đổi ngang giá và ý nghĩa
của việc phân loại
Hợp đồng có đền bù: Là hợp đồng mà trong đó, một bên nhận được lợi ích từ
bên kia chuyển giao thì phải chuyển giao lại cho bên kia một lợi ích tương ứng.
Hợp đồng khơng có đền bù: Là hợp đồng mà trong đó, một bên nhận được lợi
ích do bên kia chuyển giao nhưng không phải chuyển giao lại bất kỳ lợi ích nào.
Như vậy, căn cứ vào sự trao đổi ngang giá (có đi có lại về lợi ích giữa các
bên) để xác định hợp đồng nào là có đền bù, hợp đồng nào là khơng có đền bù.
Chẳng hạn, hợp đồng mua bán tài sản luôn ln là hợp đồng có đền bù vì
khi bên mua nhận được tài sản do bên bán chuyển giao thì phải chuyển giao lại
cho bên bán một khoản tiền tương đương với giá trị tài sản đã nhận; hợp đồng
cho vay có lãi là hợp đồng có đền bù vì khi bên vay nhận được lợi ích là được sở
hữu vốn vay trong thời hạn nhất định thì phải chuyển giao cho bên cho vay một
khoản lợi ích là tiền lãi tương ứng với vốn vay và thời gian vay; hợp đồng cho
vay khơng có lãi là hợp đồng khơng có đền bù vì bên vay nhận được lợi ích là
được sở hữu vốn vay trong một thời hạn nhất định nhưng không phải chuyển
giao cho bên cho vay một lợi ích nào tương ứng với việc được sở hữu khoản vay
trong thời hạn nhất định.
Thứ tư: Phân loại hợp đồng theo thời điểm có hiệu lực
Hợp đồng ưng thuận: Là hợp đồng có hiệu lực trước thời điểm các bên
chuyển giao đối tượng của hợp đồng cho nhau.
Ví dụ: Hợp đồng mua bán tài sản có hiệu lực từ thời điểm giao kểt, các bên
có nghĩa vụ chuyển giao tài sản và trả tiền cho nhau sau thời điểm này là một
hợp đồng ưng thuận.


7

Hợp đồng thực tế: Là hợp đồng chỉ có hiệu lực khi các bên đã chuyển giao
đối tượng của hợp đồng cho nhau.
Ví dụ: Hợp đồng tặng cho ln là hợp đồng thực tế, vì pháp luật đã quy
định hợp đồng này chỉ có hiệu lực vào thời điểm bên được tặng cho đã nhận
được tài sản tặng cho.
Hợp đồng luôn là một công cụ quan trọng, được sử dụng rộng rãi nhằm
phục vụ nhu cầu và lợi ích khác nhau của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Liên
quan đến quy định về giai đoạn tiền hợp đồng và điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng, Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 đã có những thay đổi phù hợp để tạo
thuận lợi tối đa cho các bên tham gia giao dịch.
4. Quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
Một trong những nội dung có ý nghĩa quan trọng để hợp đồng có thể được
xác định là một căn cứ pháp lý phát sinh nghĩa vụ là nội dung liên quan đến các
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Theo BLDS 2015, có 4 điều kiện về hiệu
lực của hợp đồng.
Điều kiện về chủ thể giao kết hợp đồng được quy định tại Điều 117 BLDS
2015 “Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp
với giao dịch dân sự được xác lập”.
Việc sử dụng thuật ngữ “chủ thể” thay cho thuật ngữ “người tham gia giao
dịch” như ở BLDS 2005 cho thấy được sự toàn diện và cách hiểu thống nhất về
những đối tượng có thể tham gia xác lập giao dịch, tránh được cách hiểu phiến
diện chỉ là cá nhân.
Điều kiện về tính tự nguyện của chủ thể khi giao kết hợp đồng được quy
định “chủ thể tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện”. Điều này thể hiện một
phần nguyên tắc “tự do hợp đồng” trong lý luận về hợp đồng truyền thống,
được hiểu là ý chí bên trong của mỗi chủ thể và sự thể hiện ý chí đó ra bên ngồi


8
có sự thống nhất với nhau. Khi vi phạm điều kiện về tính tự nguyện, hợp đồng

có khả năng bị tun bố vơ hiệu.
Mục đích và nội dung của hợp đồng cũng là một trong những yêu cầu cần
phải đáp ứng khi xem xét tính có hiệu lực của một hợp đồng. Theo nguyên tắc
chung, “việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm
đến lợi ích Nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác”. Từ “và” ở đây được sử dụng thể hiện tính chặt chẽ trong quy định pháp
luật về nội dung này mà những chủ thể tham gia xác lập hợp đồng phải đảm bảo.
Khác với ba điều kiện trên, điều kiện về hình thức khơng phải là điều kiện
có hiệu lực đối với mọi hợp đồng: “Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện
có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định”. Việc sửa
đổi thuật ngữ “pháp luật” thành “luật” mang lại một ý nghĩa to lớn khi quy định
hình thức hợp đồng trong các văn bản dưới luật khơng có giá trị áp dụng, tạo
thuận lợi cho các chủ thể giao kết hợp đồng khi không phải tra cứu quá nhiều
văn bản để rà soát những quy định pháp luật về điều cấm.
II. HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG THEO QUY ĐỊNH BỘ LUẬT DÂN
SỰ NĂM 2015- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Hiệu lực của hợp đồng theo quy định Bộ Luật Dân Sự năm 2015
Theo quy định tại Điều 401 Bộ Luật Dân Sự năm 2015 về Hiệu lực của hợp
đồng như sau:
“1. Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác.
2. Từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực, các bên phải thực hiện quyền và
nghĩa vụ đối với nhau theo cam kết. Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ
theo thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật”.
Việc xác định hiệu lực của hợp đồng có ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm các bên tham gia hợp đồng chính


9
thức bị ràng buộc bởi các thỏa thuận của mình trong hợp đồng. Luật pháp các

nước quy định hợp đồng được giao kết hợp pháp có giá trị là luật của các hên.
Do vậy, khi hợp đồng đã được giao kết hợp pháp, hợp đồng có hiệu lực
pháp luật, điều đó có nghĩa là một trong các bên khơng thể sửa đổi hoặc hủy bỏ
thỏa thuận đã được giao kết. Các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng có
thế được thực thi ngay vào thời điểm giao kết hoặc vào một thời điểm nào đó do
luật quy định hoặc các bên thỏa thuận.
Hiện nay, theo quy định của pháp luật thì việc xác định thời điểm có hiệu lực
của hợp đồng đang tồn tại ở nhiều văn bản luật khác nhau, điều này đã và đang gây
khơng ít khó khăn trong thực tế hiện nay. Khoản 1 Điều 401 Bộ luật dân sự năm
2015 của nước ta quy định hợp đồng phát sinh hiệu lực vào thời điểm giao kết hợp
pháp, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan quy định khác.
Như vậy, có ba căn cứ xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng như đã
phân tích ở trên và thứ tự ưu tiên để áp dụng các căn cử đó lần lượt là:
+ Một là: Theo quy định của luật liên quan;
+ Hai là: Theo thỏa thận của các bên;
+ Ba là: Theo thoời điểm giao kết hợp đồng.
Về thời điểm giao kết hợp đồng dân sự được Điều 400 Bộ luật dân sự năm
2015 quy định theo nguyên tắc chung, hợp đồng được giao kết vào thời điểm
bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng. Ngồi ra, tùy theo
hình thức, cách thức giao kết mà thời điểm giao kết hợp đồng được duy định
khác nhau, và vì vậy, hợp đồng được coi là có hiệu lực vào một trong các thời
điểm sau đây:
- Hợp đồng bằng lời nói hoặc hợp đồng giao kết bằng lời nói và sau đó được
xác lập bằng văn bản thì thời điểm giao kết hợp đồng được xác định tại thời điểm
các bên đã trực tiếp thỏa thuận với nhau về những nội dung của hợp đồng.
Ví dụ: A điện thoại cho B thỏa thuận về hợp đồng lao động thỏa thuận về
các điều khoản liên quan. Ngày hôm sau A mới đến công ty của B để ký kết hợp
đồng lao động.



10
- Hợp đồng bằng văn bản thường có hiệu lực tại thời điểm bên sau cùng ký
vào văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản.
Ví dụ: Hình thức điểm chỉ, ký tên, đóng dấu, ...
- Hợp đồng bằng văn bản có chứng nhận, chứng thực, đăng ký hoặc xin
phép có hiệu lực tại thời điểm hợp đồng đó được cơng chứng, chứng thực, đăng
ký hoặc cho phép.
Ví dụ: Hợp đồng mua bán nhà thường có hiệu lực khi đã được cơng chứng,
chứng thực...
- Trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết
thì hợp đồng cũng được xem là giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận
được đề nghị vẫn im lặng.
Ví dụ: A và B có thỏa thuận mua một lơ hàng theo đó A cho B thời gian để
suy nghĩ là 5 ngày nếu như sau 5 ngày mà B không trả lời thì coi như là đã chấp
nhận giao kết hợp đồng.
- Bên cạnh đó, hợp đồng cịn có thể có hiệu lực sau thời điểm nói trên nếu các
bên đã tự thỏa thuận với nhau hoặc trong trường hợp pháp luật đã quy định cụ thể.
Ví dụ: Khoản 2 Điều 459 Bộ luật dân sự năm 2015 xác định rõ: “Hợp đồng
tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản
không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kéo từ thời
điển chuyển giao tài sản ”.
2. Một số vấn đề lí luận và thực tiễn
Theo khoản điều 401 Bộ Luật Dân Sự năm 2015 quy định rằng:
“Từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực, các bên phải thực hiện quyền và
nghĩa vụ đối với nhau theo cam kết. Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ
theo thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật”.
Từ điều trên ta có thể hiểu rằng vậy, theo Bộ luật dân sự năm 2015 của Việt
Nam, trên thực tế sẽ có những trường hợp đã giao kết nhưng chưa có hiệu lực
pháp luật.



11
Ví dụ: Tại khoản 2 Điều 459 Bộ luật dân sự năm 2015 về hợp đồng tặng
cho bất động sản “2. Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời
điểm đăng ký; nếu bất động sản khơng phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng
tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản”.
Đặt ra vấn đề: trong thời gian từ lúc giao kết đến trước khi hợp đồng có
hiệu lực, làm sao có thể ràng buộc được trách nhiệm của bên giao kết một khi
bên này phá vỡ cam kết?
Ví dụ: a tặng cho b bất động sản nhưng vì một lí do nào đó a khơng thể
cùng b thực hiện việc đăng ký hoặc hoàn thành các thủ tục giấy tờ. Vì vậy trong
trường này cũng khơng áp dụng chế độ trách nhiệm trong hợp đồng được mặc
dù hai bên đã có thỏa thuận và nếu xét cho cùng trong trường hợp này hợp đồng
vẫn chưa có hiệu lực.
Bộ luật dân sự lại chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm trong giai đoạn
chuẩn bị hợp đồng nên cơ chế xử lý tranh chấp chắc chắn phải dựa trên trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng.
Vì vậy, quy định tại khoản 2 Điều 401 bộ luật dân sự năm 2015 “Từ thời
điểm hợp đồng có hiệu lực, các bên phải thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với
nhau theo cam kết”
Tôi nhận thấy rằng không ổn về mặt logic và cũng như tính khả quan khi áp
dụng khoản này trên thực tế khi có một hợp đồng được giao kết mà hợp đồng đó
lại chưa có hiệu lực của pháp luật khi mà bên có quyền lợi bị xâm phạm quyền
lợi của mình thì khơng bảo vệ được quyền lợi của mình trong hợp đồng mà chỉ
bảo vệ quyền lợi của mình ngồi hợp đồng.
Mặt khác, dẫn đến sự nhầm lẫn giữa hiệu lực của hợp đồng và thực hiện
hợp đồng vì có thể gây ra hồn cảnh hợp đồng có hiệu lực nhưng các bên chưa
phải thực hiện ngay.
Việc xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng có ý nghĩa rất quan
trọng, xác định được thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là xác định được thời



12
điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên với nhau, và đặc biệt là khi giải
quyết các tranh chấp về tài sản trong hợp đồng mà quy ra thành tiền thì xác định
giá trị của tài sản đó theo giá thị trường tại thời điểm hợp đồng có hiệu lực.
Đồng thời, hiệu lực của hợp đồng cũng là một trong những căn cứ để xem xét về
tính hợp lệ và thời hiệu khởi kiện trong vụ án dân sự.
Ví dụ: Khi hợp đồng được giao kết nhưng chưa có hiệu lực thì các tranh
chấp nếu có sẽ khơng được Tòa án thụ lý giải quyết tại thời điểm đó.
Hiệu lực của hợp đồng: Theo Điều 401 của BLDS 2015, hợp đồng được
giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác. Như vậy, từ thời điểm hợp
đồng có hiệu lực, các bên phải thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo
cam kết. Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ theo thỏa thuận của các
bên hoặc theo quy định của pháp luật. Và quy định này là nhẳm đảm bảo việc
thực hiện hợp đồng của các bên, đồng thời rõ ràng hơn trong việc thay đổi nội
dung hợp đồng (tức là phải có sự thỏa thuận giữa các bên).

PHẦN KẾT LUẬN
Việc xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng có ý nghĩa rất quan
trọng, xác định được thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là xác định được thời
điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên với nhau, và đặc biệt là khi giải
quyết các tranh chấp về tài sản trong hợp đồng mà quy ra thành tiền thì xác định
giá trị của tài sản đó theo thời giá thị trường tại thời điểm hợp đồng có hiệu lực.
Đồng thời hiệu lực của hợp đồng cũng là một trong những căn cứ để xem xét về
tính hợp lệ và thời hiệu khởi kiện trong vụ án dân sự (ví dụ: khi hợp đồng được


13

giao kết nhưng chưa có hiệu lực thì các tranh chấp nếu có sẽ khơng được Tịa án
thụ lý giải quyết tại thời điểm đó).
Để một hợp đồng có hiệu lực thì bản thân hợp đồng đó phải tn thủ các
điều kiện có hiệu lực của một hợp đồng dân sự, các điều kiện đó tùy theo tính
chất, đặc điểm của các hợp đồng mà sẽ có sự khác nhau. Tuy nhiên, tựu trung lại
thì có ba điều kiện cơ bản để một hợp đồng khi đáp ứng các điều kiện đó sẽ có
hiệu lực theo luật định là điều kiện về mặt chủ thể; điều kiện về mặt nội dung và
điều kiện về mặt hình thức.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Thuvienphapluat.vn
3. 123.doc.
4. Giáo trình luật dân sự Đại học Luật Hà Nội.




×