Tải bản đầy đủ (.pdf) (255 trang)

hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.98 MB, 255 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
---------YZ---------



LÊ MINH HÙNG



HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG
THEO QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 62.38.50.01

LUẬN ÁN TIẾN SỸ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học:
TS. PHAN HUY HỒNG


PGS.TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT







TP. HỒ CHÍ MINH - 2010
i




LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung
thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong luận án chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.




Tác giả luận án




ii


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................................1
Chương 1.

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HIỆU LỰC HỢP ĐỒNG
........................8
1.1. Khái niệm, bản chất của hợp đồng .........................................................................................8
1.2. Khái niệm hiệu lực hợp đồng, hiệu lực tương đối của hợp đồng .........................................16
1.3. Cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng ...................................................................... 29
Chương 2.
ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG
..........................................39
2.1. Các điều kiện bắt buộc để hợp đồng có hiệu lực..................................................................39
2.2. Hình thức hợp đồng – điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong trường hợp pháp luật
có qui định ...................................................................................................................................49
2.3. Một số bất cập trong các qui định pháp luật hiện hành về hình thức hợp đồng và định
hướng hoàn thiện .........................................................................................................................66
Chương 3.
THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG
.........................................85
3.1. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng: khái niệm và qui định chung ....................................85
3.2. Một số bất cập trong pháp luật và thực tiễn áp dụng các qui định về thời điểm có hiệu
lực của hợp đồng ......................................................................................................................... 95
3.3. Kiến nghị hoàn thiện các qui định pháp luật về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng........ 116
Chương 4.
HIỆU LỰC RÀNG BUỘC CỦA HỢP ĐỒNG
............................................125
4.1. Hiệu lực ràng buộc của hợp đồng: khái niệm và các qui định ...........................................125
4.2. Một số bất cập trong pháp luật và thực tiễn áp dụng các qui định về hiệu lực ràng
buộc của hợp đồng..................................................................................................................... 134
4.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng ................................142
Chương 5.
HIỆU LỰC HỢP ĐỒNG KHI HOÀN CẢNH THAY ĐỔI
......................154

5.1. Điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi: khái niệm và nội dung cơ bản......155
5.2. Điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi (hardship clause) trong pháp
luật các nước và trong tập quán thương mại quốc tế.................................................................161
5.3. Thực trạng pháp luật và thực tiễn pháp lý Việt Nam về điều khoản sửa đổi hợp đồng
khi hoàn cảnh thay đổi...............................................................................................................171
5.4. Kiến nghị xây d
ựng và hoàn thiện các qui định của pháp luật hiện hành về sửa đổi
hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi...............................................................................................186
KẾT LUẬN
.............................................................................................................................198
NHỮNG CÔNG TRÌNH TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
iii

DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

BLDS Bộ luật Dân sự
BLDS 1995 Bộ luật Dân sự 1995
BLDS 2005 Bộ luật Dân sự 2005
DLB 1931 Bộ Dân luật Bắc Kỳ 1931
DLSG 1972 Bộ Dân luật Sài Gòn 1972
DLT 1936 - 1939 Bộ Dân luật Trung kỳ 1936 - 1939
HĐND Hội đồng nhân dân
HĐTP Hội đồng thẩm phán
HP 1992
Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị quyết
51/2001/QH
10


LNO 2005 Luật Nhà ở 2005
LSHTT 2005 Luật Sở hữu trí tuệ 2005
LTM 1997 Luật Thương mại 1997
LTM 2005 Luật Thương mại 2005
PECL
Principles of European Contract Law (Bộ Nguyên tắc Luật
Hợp đồng châu Âu)
PICC
Principles of International Commercial Contract (Bộ
Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế của UNIDROIT)
TAND Tòa án nhân dân
TANDTC Tòa án nhân tối cao
UBND Ủy ban nhân dân
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hợp đồng là một trong những phương tiện pháp lý chủ yếu để cá nhân, tổ chức
trao đổi lợi ích nhằm thỏa mãn các nhu cầu nhân sinh. Hợp đồng cũng đóng vai trò
quan trọng trong quá trình vận hành của nền kinh tế, vì nó là hình thức pháp lý cơ bản
của sự trao đổi hàng hóa trong xã hội. Trong hầu hết các BLDS cổ điển, hợp đồng
“chiếm một vị trí trung tâm và đượ
c chế định với dung lượng lớn nhất so với các chế
định khác” do “vai trò trung tâm của nó đối với trật tự thị trường…”[336, tr.900]. Xã
hội càng phát triển, hợp đồng ngày càng được sử dụng như là một chuẩn mực ứng xử
phổ biến giữa tư nhân với nhau, giữa tư nhân với cơ quan nhà nước, thậm chí là giữa
xã hội với nhà nước (như quan niệm của Rousseau [229]) trong các l
ĩnh vực dân sự,
kinh doanh, thương mại và trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống.
Ngày nay, chế định hợp đồng và hiệu lực hợp đồng trở thành một chế định quan
trọng trong hệ thống pháp luật hợp đồng Việt Nam.Vì vậy, đã có nhiều nghiên cứu,

phân tích về chế định hợp đồng, đặc biệt là những vấn đề hiệu lực hợp đồng. Hiệ
u lực
của hợp đồng nói ở đây chính là sự tạo lập ra quyền và nghĩa vụ giữa các bên giao kết
[249, tr.24], là hiệu lực ràng buộc như pháp luật đối với các bên tham gia [299, tr.
1550]. Một hợp đồng được ký kết, nếu không có hiệu lực thì hợp đồng đó chưa thể tạo
ra quyền và nghĩa vụ giữa các bên, chưa ràng buộc các bên với nhau và pháp luật cũng
chưa tác động
đến cách xử sự của các bên theo qui định của hợp đồng đó. Vì vậy,
trước khi giao kết hợp đồng, thậm chí ngay trong quá trình thực hiện hợp đồng, các
bên tham gia hợp đồng phải biết về hợp đồng và những qui định của pháp luật liên
quan đến tính hiệu lực của hợp đồng. Có thể nói, pháp luật về hợp đồng và hiệu lực
của hợp đồng càng hoàn thiện thì việc giao kế
t và thực hiện hợp đồng của các chủ thể
ngày càng thuận lợi.
Tuy vậy, xét trên nhiều phương diện, vấn đề hiệu lực của hợp đồng là một vấn
đề pháp lý rất phức tạp cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật.Về mặt
lý luận, các học giả vẫn chưa thống nhất được với nhau trong việc xác đị
nh nội dung
của hiệu lực hợp đồng. Nhận xét về thực tế này, có luật gia cho rằng: “Dù luật gia nào
cũng nói tới hiệu lực của hợp đồng, nhưng khi được hỏi nó là gì và nội dung ra sao thì
phần lớn chỉ nói tới điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng” [38, tr. 37].
2
Trong thực tiễn lập pháp, vấn đề hiệu lực của hợp đồng đã được qui định khá cụ
thể trong Bộ luật Dân sự 2005 (BLDS 2005). Tuy nhiên, một số quy định về hiệu lực
hợp đồng trong BLDS 2005 cũng đã bộc lộ nhiều bất cập, gây khó khăn cho công tác
giải quyết các tranh chấp có liên quan. Vấn đề điều kiện có hiệu lực của hợp đồng hiện
vẫn là vấn đề còn gây nhiều tranh cãi trong giới luật học, đặc biệt là điều kiện hình
thức và đường lối xử lý các hợp đồng vi phạm hình thức. Qui định về thời điểm giao
kết và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng vẫn còn nhiều điểm chưa phù hợp với thực

tế và không khả thi. Những bất cập trên đây cầ
n phải được nghiên cứu làm rõ và đề
xuất các giải pháp pháp lý nhằm khắc phục, hoàn thiện.
So với pháp luật hợp đồng của một quốc gia (Pháp, Đức, Anh, Mỹ, Nga…), các
Bộ nguyên tắc hợp đồng quốc tế (PICC, PECL), qui định trong luật Việt Nam về hiệu
lực của hợp đồng vẫn còn nhiều điểm chưa tương đồng. Trong bối cảnh Việt Nam hội
nhập kinh tế ngày càng sâu rộ
ng vào các thể chế kinh tế quốc tế đòi hỏi cần phải có sự
cải cách thích ứng hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật về hợp đồng, theo hướng
tiếp thu có chọn lọc những điểm tiến bộ trong pháp luật hợp đồng của các nước và của
các Bộ nguyên tắc hợp đồng quốc tế, làm cho pháp luật hợp đồng Việt Nam ngày càng
hoàn thiện và có sự t
ương đồng hơn so với pháp luật của các quốc gia trên thế giới.
Từ những lý do trên tác giả lựa chọn đề tài “Hiệu lực của hợp đồng theo qui
định của pháp luật Việt Nam” để làm luận án tiến sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu vấn đề hiệu lực của hợp đồng đã được nhiều nhà khoa học
pháp lý trong và ngoài nước quan tâm, d
ưới những góc độ khác nhau.
2.1. Ở nước ngoài: Có nhiều công trình nghiên cứu về pháp luật hợp đồng nói chung,
trong đó có đề cập đến các vấn đề có liên quan đến điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng, giao kết hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi, như: các sách
chuyên khảo về Luật hợp đồng The Modern Law of Contract, 5
th
ed của Richard Stone
[341], European Contract Law, Vol 1 – Formation, Validity and Content of Contract…
của Hein Kotz & Axel Flessner [321], Elements of the Law of Contract của MacMillan
C.A. & R. Stone [324], The Oxford Handbook of Comparative Law của M. Reinmann
& R. Zimmermann [336], The German Law of Contract – A Comparative Treaties, 2
nd


ed. của Basil Markesinis & others [328], Bài báo Competing Approaches to Force
Majeure and Hardship của Catherine Kessedjian [318]…
3
Các công trình này không nghiên cứu chuyên biệt về hiệu lực hợp đồng nói
chung, và hiệu lực hợp đồng theo qui định của pháp luật Việt Nam, nói riêng.
2.2. Ở trong nước: Có một số Luận án tiến sỹ nghiên cứu các đề tài có liên quan đến
hiệu lực hợp đồng, như đề tài “Chế độ hợp đồng trong nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay” của TS. Phạm H
ữu Nghị; “Hợp đồng kinh tế vô hiệu
và hậu quả pháp lý của hợp đồng kinh tế vô hiệu” của TS. Lê Thị Bích Thọ [247];
“Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô
hiệu” của TS. Nguyễn Văn Cường [44]...
Hiện còn có một số sách chuyên khảo, công trình nghiên cứu có liên quan tới
một số khía cạnh pháp lý của vấn đề hiệu lực h
ợp đồng, như quyển “Việt Nam Dân
luật - luợc khảo” của GS. Vũ Văn Mẫu, [168], “Pháp luật về hợp đồng” của TS.
Nguyễn Mạnh Bách [5], “Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam” của TS.
Nguyễn Ngọc Khánh [108], “Cẩm nang pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại
điện tử” của GS.TS. Nguyễn Thị Mơ [174], “Lu
ật Hợp đồng Việt Nam – Bản án và
Bình luận bản án”, của TS. Đỗ Văn Đại [54]. Ngoài ra, còn có nhiều bài báo khoa học
đăng trên các tạp chí, như “Hiệu lực và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng” của
PGS.TS. Đinh Văn Thanh [240], “Điều chỉnh thông tin bất cân xứng và quản lý rủi ro
trong pháp luật hợp đồng Việt Nam” của PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa [201], “Thời điểm
có hi
ệu lực của hợp đồng” của TS. Phạm Công Lạc [115]…
Những công trình khoa học trên là tài liệu vô cùng quí báu giúp tác giả có
thêm nhiều thông tin quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu luận án, nhưng các công
trình kể trên không nghiên cứu riêng và toàn diện về hiệu lực của hợp đồng theo qui

định của pháp luật Việt Nam. Bởi vậy, việc lựa chọn đề tài “Hiệu lực của hợp đồng
theo qui định của pháp luật Việ
t Nam” để làm luận án tiến sỹ luật là không trùng lặp
với các công trình khoa học đã được công bố.
3. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của đề tài là thông qua việc nghiên cứu các vấn đề lý luận, khảo sát
thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về hiệu lực hợp đồng ở Việt Nam,
trên cơ sở đối chiếu vớ
i qui định về hiệu lực hợp đồng của một số quốc gia trên thế
giới và một số Bộ nguyên tắc hợp đồng quốc tế nhằm góp phần làm rõ và làm phong
4
phú thêm về cơ sở lý luận, thực tiễn và pháp lý của vấn đề hiệu lực hợp đồng, tiếp thu
có chọn lọc những điểm tiến bộ trong pháp luật quốc tế về hợp đồng; đồng thời đưa ra
những kiến nghị cụ thể để sửa đổi, bổ sung các qui định còn bất cập, thiếu sót trong
pháp luật hiện hành, hoàn thiện cơ chế pháp lý
điều chỉnh hiệu lực hợp đồng theo xu
hướng hiện đại và hội nhập, qua đó nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật Việt
Nam về hiệu lực của hợp đồng.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
Đề tài có nhiệm vụ giải quyết những vấn đề sau đây:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về hiệu lực củ
a hợp đồng, như: làm
rõ khái niệm và bản chất của vấn đề hiệu lực của hợp đồng, xây dựng khái niệm cơ chế
pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng; làm rõ cơ sở lý luận và các vấn đề pháp lý liên
quan đến hiệu lực của hợp đồng như điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và ảnh hưởng
của nó
đối với hiệu lực pháp luật của hợp đồng, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng,
hiệu lực ràng buộc của hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi.
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về hiệu lực

hợp đồng ở Việt Nam, bao gồm cả việc nghiên cứu về m
ối quan hệ giữa các văn bản
pháp luật liên quan và những điểm thiếu sót, chồng chéo, mâu thuẫn, bất cập của pháp
luật về hiệu lực của hợp đồng, đánh giá thực trạng của qui định pháp luật về hiệu lực
của hợp đồng, để từ đó xác định được những điểm cần sửa đổi, bổ khuyết trong các
văn bả
n pháp luật về hợp đồng hiện hành của Việt Nam.
- Trên cơ sở những bất cập đã được xác định để từ đó đề xuất những kiến nghị,
giải pháp pháp lý cụ thể trong việc sửa đổi, bổ sung các qui định pháp luật Việt Nam
hiện hành về hiệu lực của hợp đồng, đồng thời xác định cơ sở lý luận và thực tiễn cầ
n
thiết làm căn cứ cho việc đề xuất những kiến nghị và giải pháp cụ thể đó.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt nội dung: Hiệu lực của hợp đồng là vấn đề rất rộng. Mặt khác, vấn đề
hiệu lực hợp đồng là vấn đề mang tính nguyên lý chung của hợp đồng và được qui
định chủ yếu trong BLDS, nên nội dung của Luận án tập trung phân tích các qui đị
nh
trong phần chung về hợp đồng trong BLDS 2005. Điều này không có nghĩa Luận án
chỉ nghiên cứu về hợp đồng trong lĩnh vực dân sự. Bởi lẽ, khái niệm hiệu lực hợp đồng
được trình bày trong Luận án là khái niệm chung nhất cho mọi hợp đồng, bao gồm cả
5
hợp đồng dân sự, kinh doanh – thương mại và các hợp đồng khác. Tuy nhiên, trong
phạm vi nghiên cứu, luận án giới hạn việc phân tích chỉ những vấn đề hiệu lực của hợp
đồng theo nghĩa rộng (bao gồm chủ yếu là các hợp đồng kinh doanh – thương mại và
hợp đồng dân sự), như qui định tại Điều 1 BLDS 2005,
1
mà không phân tích các hợp
đồng trong lĩnh vực lao động. Bên cạnh đó, luận án còn phân tích về các qui định có
liên quan đến hiệu lực của hợp đồng trong Luật Thương mại 2005 và các văn bản liên
quan khác, cũng như thực tiễn giải quyết tranh chấp trong các lĩnh vực này.

Ngoài ra, nội hàm của khái niệm hiệu lực của hợp đồng là vấn đề pháp lý rất
phức tạp và có mối liên hệ biện chứng với nhi
ều vấn đề pháp lý quan trọng khác của
pháp luật hợp đồng, như qui định về việc thực hiện hợp đồng, tạm hoãn thực hiện hợp
đồng do có sự vi phạm hoặc dự đoán có sự vi phạm hợp đồng của bên kia, chấm dứt
hợp đồng, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, giải thích hợp đồng, hiệu lực của hợp
đồng đối với ngườ
i thứ ba, phân chia rủi ro, thông tin bất cân xứng… Tuy nhiên,
đề tài cũng không có tham vọng giải quyết mọi vấn đề khác có liên quan tới hiệu lực
của hợp đồng, mà chỉ đi sâu tìm hiểu các vấn đề về điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, hiệu lực ràng buộc của hợp đồng, sự hạn
chế hi
ệu lực của hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi.
- Về mặt thời gian: Cùng với việc nghiên cứu các qui định của pháp luật, đề tài
cũng dành một liều lượng thích hợp để nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về hiệu
lực của hợp đồng để giải quyết các tranh chấp hợp đồng (dân sự, kinh doanh – thương
mại) trên thực tế, tại Tòa án và Trọng tài Thương m
ại Việt Nam, tính từ ngày BLDS
1995 được ban hành, đặc biệt là từ khi BLDS 2005 có hiệu lực đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng các phương pháp của Chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-Lê
nin và các phương pháp chuyên ngành khoa học pháp lý để giải quyết những vấn đề lý
luận và pháp lý liên quan đến các qui định về hiệu lực của hợp đồng. Trong đó, chú
trọng sử dụng phương pháp lô ghích pháp lý, phương pháp lịch sử
và phương pháp so
sánh pháp luật để làm rõ mối quan hệ giữa qui định về hiệu lực của hợp đồng trong
phần chung BLDS với các qui định về hiệu lực của các hợp đồng dân sự thông dụng


1

Điều 1 BLDS 2005 qui định: “Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của
cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong các quan hệ
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự)…”
6
trong BLDS, và với các qui định về hiệu lực của hợp đồng trong các luật chuyên
ngành. Trong một số vấn đề cụ thể (thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, hiệu lực của
hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi) cũng có so sánh với pháp luật hợp đồng của một số
nước như Pháp, Đức, Nga, Nhật, Trung Quốc... Đề tài cũng sử dụng phương pháp
phỏng vấn chuyên gia trong một vài vấn đề cụ thể, và phương pháp khảo sát đánh giá
thực tiễn để tìm hiểu thêm quan điểm của các luật gia làm công tác thực tiễn pháp lý,
qua đó góp phần làm rõ thêm thực trạng áp dụng các qui định về hiệu lực của hợp
đồng trong việc giải quyết tranh chấp về hiệu lực của hợp đồng tại Việt Nam từ khi
BLDS 1995 được ban hành đến nay.
Cách nghiên cứu v
ấn đề theo “chiều dọc” nhằm làm rõ toàn bộ các nội dung
pháp lý liên quan tới hiệu lực hợp đồng trong mối quan hệ biện chứng từ khi giao kết,
xác lập, thực hiện hợp đồng đến khi sửa đổi, chấm dứt hợp đồng, và từ những qui định
mang tính nguyên tắc chung cho đến ngoại lệ của nguyên tắc hiệu lực hợp đồng. Mặt
khác, trong mỗi vấn đề, tác giả cũ
ng sử dụng cách thức truyền thống là đi từ nghiên
cứu lý thuyết cơ bản cho đến thực trạng pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng, và cuối
cùng là các kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
6. Ý nghĩa khoa học
Đề tài nghiên cứu có hệ thống về các vấn đề pháp lý liên quan tới hiệu lực hợp
đồng, đưa ra những định hướng và đề xuất các kiến nghị cụ thể
mà kết quả của nó sẽ là
cơ sở khoa học cho việc xây và hoàn thiện pháp luật hợp đồng Việt Nam, góp phần
tăng cường hiệu quả điều chỉnh của pháp luật hợp đồng trong điều kiện kinh tế thị
trường ở Việt Nam, trong xu hướng hội nhập quốc tế của hệ thống pháp luật nói riêng
và của đất nước Việt Nam nói chung, vào trào lưu chung của th

ế giới.
Góp phần làm hoàn thiện pháp luật hợp đồng cũng là góp phần vào việc bảo
đảm cho các quan hệ hợp đồng ở Việt Nam được ổn định, an toàn pháp lý và tránh
được các rủi ro cho các bên chủ thể, bảo đảm quyền tự do giao kết hợp đồng, quyền
được pháp luật bảo vệ khi tham gia các quan hệ hợp đồng và các quyền, lợi ích chính
đáng của các bên trong hợp đồng.
Kết quả nghiên cứu đề tài cũ
ng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo hữu
ích cho việc nghiên cứu và giảng dạy chuyên ngành luật hợp đồng trong các trường
đào tạo về luật.
7
7. Những điểm mới của luận án
Kết quả nghiên cứu được thể hiện trong luận án có một số điểm mới sau đây:
- Một là, nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề hiệu lực hợp đồng, phân tích và
làm rõ nội hàm của các khái niệm hiệu lực tương đối của hợp đồng, hiệu lực ràng
buộc của hợ
p đồng (chương 1) kiến nghị thay thuật ngữ ‘hợp đồng dân sự’ trong qui
định tại Điều 388 BLDS 2005 bằng thuật ngữ ‘hợp đồng’ (chương 1);
- Hai là, xây dựng các khái niệm mới hiệu lực của hợp đồng (chương 1), cơ chế
pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng (chương 1), điều khoản điều chỉ
nh hợp đồng khi
hoàn cảnh thay đổi theo quan niệm pháp lý Việt Nam (trên cơ sở tiếp thu từ khái niệm
hardship trong thực tiễn thương mại quốc tế), và làm rõ nội hàm của các khái niệm này
(chương 5). Đây là những khái niệm mới chưa được đề cập trong các công trình khoa
học pháp lý trước đây.
- Ba là, trong mỗi chương, tác giả đều chỉ ra những điểm bất cập, thiếu sót của
pháp luật hiện hành và c
ủa thực tiễn áp dụng, đồng thời dựa trên những kết quả đó để
đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về các qui định tương ứng, như các kiến
nghị: hoàn thiện các qui định về hình thức hợp đồng và hậu quả pháp lý khi hợp đồng

vi phạm qui định bắt buộc về hình thức (chương 2) [Xem Phụ lục 12]; sửa đổi, bổ sung
các qui định về thời
điểm giao kết hợp đồng và thời điểm có hiệu lực hợp đồng
(chương 3) [Phụ lục 13]; bổ sung qui định về nguyên tắc và ngoại lệ của nguyên tắc
hiệu lực ràng buộc hợp đồng, đồng thời hoàn thiện các giải pháp khắc phục do vi phạm
việc thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng (chương 4) [Phụ lục 14].
- Bốn là, phân tích thực tiễ
n pháp luật về xu hướng cho phép điều chỉnh hiệu
lực của hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi (hardship), tìm hiểu kinh nghiệm xây dựng
và áp dụng pháp luật về nội dung tương ứng trong pháp luật của nước ngoài và của các
bộ nguyên tắc quốc tế về hợp đồng, từ đó kiến nghị Việt hóa khái niệm này thành khái
niệm ‘sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi’, và đề xuất b
ổ sung vào trong BLDS
2005 căn cứ cho phép sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi với những tiêu chí,
đường lối, giải pháp cụ thể (chương 5) [Phụ lục 15].
8. Kết cấu của luận án
Ngoài Phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục, nội
dung của Luận án gồm 5 chương.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HIỆU LỰC HỢP ĐỒNG
Vấn đề hiệu lực của hợp đồng bao gồm và liên quan tới nhiều nội dung phức tạp
của hợp đồng như điều kiện có hiệu lực, thời điểm có hiệu lực, hiệu lực ràng buộc của
hợp đồng… Để làm rõ nội dung và ý nghĩa pháp lý của vấn đề hiệu lực hợp đồng, tạo
tiền đề lý luận cho việc nghiên cứ
u tiếp các phần sau của luận án, chương này trình
bày khái quát hiệu lực hợp đồng, gồm ba nội dung sau đây: khái niệm và bản chất của
hợp đồng, khái niệm hiệu lực hợp đồng và cơ chế điều chỉnh hiệu lực hợp đồng.
1.1. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT CỦA HỢP ĐỒNG
1.1.1. Khái niệm hợp đồng

Để có thể tồn tại và phát triển, các chủ thể trong xã h
ội phải tham gia vào các
giao dịch nhất định thông qua việc trao đổi, dịch chuyển các lợi ích do mình tạo ra và
nhận lại những lợi ích vật chất cần thiết từ các chủ thể khác nhằm thỏa mãn các nhu
cầu chính đáng của mình. Một trong những phương thức cơ bản để thực hiện việc trao
đổi lợi ích trong xã hội chính là sự thỏa thuận giữa các bên, dựa trên các nguyên tắc tự
do, tự nguyệ
n, bình đẳng và được đặt dưới sự bảo trợ của luật pháp. Hiện tượng đó
được định danh trong luật bằng thuật ngữ pháp lý: ‘Hợp đồng’.
Ngày nay, hợp đồng là công cụ pháp lý quan trọng và phổ biến để con người
thực hiện các giao dịch nhằm thỏa mãn hầu hết mọi nhu cầu của mình. Tuy vậy, trong
lịch sử lập pháp của nhân loại, để tìm ra được một thuậ
t ngữ chính xác, như thuật ngữ
“hợp đồng” đang được sử dụng trong pháp luật của hầu hết các quốc gia ngày nay, là
việc không dễ dàng. Nhiều luật gia cho rằng thuật ngữ ‘hợp đồng’ (contractus) được
hình thành từ động từ ‘contrahere’ trong tiếng La-tinh, có nghĩa là ‘ràng buộc’, và
xuất hiện lần đầu tiên ở La Mã vào khoảng thế kỷ V – IV TCN [108, tr.29; 291, tr.162-
3]. Ban đầu, người La Mã cũng không có khái niệm chung ‘contractus
’ mà sử dụng
các thuật ngữ riêng biệt để chỉ các hợp đồng cụ thể phổ biến như mua bán (sponsio),
vay mượn (mutuum), gửi giữ (depositum), ủy thác (mandatum)… Mãi đến thời của
luật gia La-be-ôn (thế kỷ 1 sau CN), người La Mã mới chính thức sử dụng thuật ngữ
‘contractus’ trong luật, và quan hệ hợp đồng được pháp luật công nhận và bảo vệ dưới
thời Justinnian [61, tr.81]. Sau này, pháp luậ
t các nước phương Tây đã kế thừa và phát
triển quan niệm pháp lý từ thời La Mã và đã sử dụng chính thức thuật ngữ ‘hợp đồng’,
mà trong tiếng Anh được viết là ‘contract’, và trong tiếng Pháp là ‘contrat’.
9
Ở Việt Nam, trong thực tế đời sống, có nhiều thuật ngữ khác nhau được sử
dụng để chỉ về hợp đồng: khế ước, giao kèo, văn tự, văn khế, cam kết, tờ giao ước, tờ

ưng thuận… Trong cổ luật, dựa vào các cứ liệu lịch sử còn lại cho đến ngày nay, thuật
ngữ ‘văn tự’ hay
‘văn khế’[289, Điều 363 và 366], hay mua, bán, cho, cầm đã được sử
dụng khá sớm, trong Bộ Quốc triều Hình luật [167, tr.156; 286, tr.57- 8]. Sau này,
thuật ngữ ‘khế ước’ mới được sử dụng chính thức trong Sắc lệnh ngày 21/7/1925
(được sửa đổi bởi Sắc lệnh ngày 23/11/1926 và Sắc lệnh ngày 06/9/1927) ở Nam phần
thuộc Pháp, trong Bộ Dân luật Bắc 1931 (sau đây viết là DLB 1931), và trong Bộ Dân
lu
ật Trung 1936 – 1939 (DLT 1936 – 1939). Thuật ngữ ‘khế ước’ cũng được sử dụng
trong Sắc lệnh 97/SL của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được Hồ Chủ tịch ký ban
hành ngày 22/5/1950 (Điều 13). Thuật ngữ “khế ước” cũng được sử dụng trong Bộ
Dân luật 1972 của chế độ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam trước 30/4/1975 (DLSG
1972) (Điều 653). Ngoài ra, trong DLB 1931, DLT 1936 - 1939 và DLSG 1972 còn sử
dụng thuật ngữ ‘
hiệp ước’, trong đó nhà làm luật xem ‘khế ước’ là một ‘hiệp ước’ [13,
Điều 664; 91, Điều 680] hoặc đồng nhất giữa ‘khế ước’ với ‘hiệp ước’ [14, Điều 653].
Các văn bản pháp luật hiện hành của nhà nước ta không còn sử dụng thuật ngữ
‘khế ước’ hay ‘hiệp ước’ như trước đ
ây mà sử dụng các thuật ngữ có tính “chức năng”,
“công cụ” [110, tr.40] như hợp đồng dân sự [15, Điều 388], hợp đồng lao động [23,
Điều 26-43], hợp đồng thương mại [154, khoản 1 Điều 3]. Trong pháp luật của nhiều
nước (như sẽ trình bày ở các trang 3 – 5 dưới đây) chỉ sử dụng thuật ngữ ‘hợp đồng’,
chứ không sử
dụng các thuật ngữ hợp đồng dân sự, hợp đồng thương mại, hợp đồng
lao động… như luật Việt Nam.
Ngoài việc chọn ‘hợp đồng’ làm thuật ngữ pháp lý chính thức trong các văn bản
pháp luật, các luật gia cũng quan tâm tới việc làm rõ nội hàm của khái niệm ‘hợp
đồng’. Về mặt học thuật và pháp lý, các luật gia cũng đã gặp nhiều khó kh
ăn trong
việc đưa ra một định nghĩa về hợp đồng. Đúng như một luật gia đã nhận xét, hợp đồng

“dường như là một trong những hiện tượng có thể nhận thức được rất dễ dàng nhưng
thật khó khăn để có thể đưa ra được một định nghĩa về nó” [302, tr.14].
Trên thực tế, sự tiếp cận khái niệm hợ
p đồng trong các hệ thống pháp luật cũng
khác nhau. Quan niệm của các luật gia thuộc hệ thống Civil Law xem hợp đồng như
một kết quả phức hợp của ý chí tự do cá nhân cùng nhiều nguyên tắc pháp lý cơ bản
của Luật Tư. Theo Geoffrey Samuel,
10
Khái niệm hợp đồng trong hệ thống Civil law bị chi phối bởi ba nguyên tắc. Thứ nhất,
hợp đồng được xem là kết quả chung của sự gặp gỡ ý chí của các bên. Thứ hai, đó là pháp
luật do các bên lập ra để ràng buộc chính các bên trong hợp đồng. Vì sự ràng buộc của hợp
đồng không chỉ là hiệu lực pháp lý được dự liệu bởi các bên, mà đó còn là hiệu lực được đảm
bảo bởi pháp luậ
t, bởi tập quán hoặc bởi yêu cầu của nguyên tắc thiện chí, nhằm xác lập
trách nhiệm thực thi hợp đồng phù hợp với bản chất của hợp đồng. Nguyên tắc thứ ba là tự do
hợp đồng: các bên được tự do, trong phạm vi giới hạn của luật công và trật tự công cộng, để
tạo ra loại hợp đồng mà họ muốn, thậm chí điều đó có thể là vô lý theo cách nhìn nhậ
n của
người khác
[339, tr.278].
Khác với quan niệm của các nước theo hệ thống Civil Law, trong hệ thống
Common Law (Thông luật), ban đầu người ta xem hợp đồng như là kết quả của các
cam kết đơn giản, thể hiện bằng những hành vi pháp lý cụ thể của mỗi bên. Sau
này,“các thẩm phán theo chủ nghĩa thực dụng (pragmatic) ở Anh đã xem xét hợp đồng
như là một nghĩa vụ được tạo ra bởi sự gặp gỡ ý chí gi
ữa các bên” [339, tr.283 - 84].
Có thể nói, thuật ngữ ‘hợp đồng’ là một phạm trù đa nghĩa và có thể được xem
xét nhiều góc độ khác nhau. Các luật gia Việt Nam thường hiểu khái niệm ‘hợp đồng’
theo hai nghĩa: nghĩa khách quan và nghĩa chủ quan. Theo nghĩa khách quan, ‘hợp
đồng’ là một bộ phận của chế định nghĩa vụ trong Luật Dân sự, bao gồm các “qui

phạm pháp luật được qui định cụ thể trong BLDS nhằ
m điều chỉnh các quan hệ xã hội
(chủ yếu là quan hệ tài sản) trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các
chủ thể với nhau”. Theo nghĩa chủ quan, hợp đồng “là sự ghi nhận kết quả của việc
cam kết, thỏa thuận giữa các chủ thể giao kết hợp đồng” hay “là kết quả của việc thỏa
thuận, thống nhất ý chí của các bên,
được thể hiện trong các điều khoản cụ thể về
quyền và nghĩa vụ mỗi bên để có cơ sở cùng nhau thực hiện” [239, tr.19].
Trong phạm vi mục này, tác giả chỉ bàn về khái niệm hợp đồng hiểu theo nghĩa
chủ quan (nghĩa hẹp). Theo đó, ngoài việc được ghi nhận chính thức trong các văn bản
pháp luật của nhiều nước trên thế giới, khái niệm hợp đồng còn được nhi
ều học giả
đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau. Một trong những định nghĩa sớm nhất về hợp đồng
thường được nhiều học giả ngày nay nhắc đến và chấp nhận, là định nghĩa của học giả
người Pháp - Pothier trong tác phẩm “Traité des obligations” năm 1761: “Hợp đồng là
sự thỏa thuận theo đó hai hoặc chỉ một bên hứa, cam kết với người khác để chuyể
n
giao một vật, để làm một công việc hoặc không làm một công việc” [321, tr.3]. Định
nghĩa này không khác gì so với định nghĩa hợp đồng trong các BLDS hiện đại ngày
11
nay. BLDS Pháp cũng có định nghĩa hợp đồng giống gần như hoàn toàn định nghĩa
của Pothier: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó một hoặc nhiều người
cam kết với một hoặc nhiều người khác về việc chuyển giao một vật, làm hoặc không
làm một công việc nào đó” [19, Điều 1101].
Theo qui định tại Điều 1378 BLDS 1994 của Bang Québec (Canada): “Hợp
đồng là s
ự thống nhất ý chí, theo đó một hoặc nhiều chủ thể phải thực hiện những cam
kết đã định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác”. Tuy có tính khái quát hơn,
nhưng định nghĩa này cũng không hoàn toàn “thoát ly” khỏi định nghĩa tại Điều 1101
BLDS Pháp. Cả hai định nghĩa trên đều thể hiện rõ bản chất của hợp đồng là sự “thỏa

thu
ận” hay “thống nhất ý chí” giữa các bên. Tuy nhiên, nội dung định nghĩa chỉ thể
hiện chức năng của hợp đồng mà chưa chỉ ra được dấu hiệu đặc trưng thứ hai của hợp
đồng: nhằm tạo ra hiệu lực ràng buộc pháp lý về quyền và nghĩa vụ giữa các bên.
Định nghĩa “hợp đồng” cũng được qui định tại Điều 1-201 Bộ luậ
t Thương mại
Thống nhất Hoa Kỳ (Uniform Commercial Code of United State of America, viết tắt là
UCC): “Hợp đồng là tổng hợp các nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ sự ‘thỏa thuận’ của
các bên…”. Văn bản Pháp điển xuất bản lần hai (Restatement 2
nd
) có nêu một định
nghĩa cụ thể hơn: Hợp đồng là “một hay một tập hợp các cam kết mà nếu vi phạm
những cam kết này thì bị buộc phải thực hiện bằng sự cưỡng chế cuả pháp luật, hoặc
nói cách khác pháp luật công nhận việc thực hiện những cam kết này là một nghĩa
vụ”. Trong Bách Khoa toàn thư về Pháp luật của Hoa Kỳ cũng có định nghĩa hợ
p
đồng: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai thực thể pháp lý, tạo ra một sự ràng buộc
nghĩa vụ nhằm để làm một việc, hoặc để không làm một việc, giao một vật xác định”
[306, tr.53]. Định nghĩa này thể hiện rõ ràng hơn bản chất và mục đích cơ bản của khái
niệm hợp đồng và nội dung của nó cũng có tính “hội nhập” hơ
n với khoa học pháp lý
của các quốc gia khác trên thế giới.
Tại Điều 2 của Luật Hợp đồng Trung Quốc (1999) qui định: “Hợp đồng theo
qui định của Luật này là sự thỏa thuận về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự giữa các chủ thể bình đẳng tự nhiên nhân, các tổ chức khác. Các thỏa
thuận liên quan đến quan hệ hôn nhân, nhận con nuôi, giám hộ… thích dụng v
ới qui
định của các luật khác”. Tương tự, theo qui định tại khoản 1 Điều 420 BLDS Nga
(1994): “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về việc xác lập, thay đổi,
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Định nghĩa hợp đồng trong Luật Hợp đồng Trung

12
quốc tương đối dài, vì bao hàm cả các nguyên tắc khái quát trong việc giao kết thực
hiện hợp đồng mà người Trung Quốc muốn nhấn mạnh, đó là nguyên tắc “bình đẳng”
giữa các bên tham gia hợp đồng. Định nghĩa “hợp đồng” trong BLDS của Nga cũng có
nội dung tương tự nhưng cách diễn đạt khái quát và ngắn gọn hơn cả. A.L Makovsky
và S.A. Khoklov đã bình luận về định nghĩa này như sau: “Hợp đồng được
định nghĩa
ngắn gọn mang tính truyền thống. Đó là sự thoả thuận của hai hay nhiều người về việc
thiết lập, thay đổi, hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự (Điều 420). Tuy
nhiên, về cơ bản không có điểm gì mới trong định nghĩa này. Quan trọng trên hết, cơ
sở của những thoả thuận như thế này không phải là ý chí cuả một bên, mà là ý chí củ
a
nhiều bên để ràng buộc các bên trong thực hiện nghĩa vụ…” [325, tr. xciv].
Điều 388 BLDS 2005 định nghĩa hợp đồng như sau: “Hợp đồng dân sự là sự
thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự”. Có thể dễ dàng thấy rằng, qui định tại Điều 388 BLDS Việt Nam (2005) cũng gần
giống như qui đị
nh của Luật hợp đồng Trung quốc (1999) và đặc biệt là hoàn toàn
giống với qui định tại khoản 1 Điều 420 BLDS Nga (1994).
Xét về bản chất, hợp đồng được tạo ra bởi sự thỏa thuận của các bên, là kết quả
của quá trình thương thảo và thống nhất ý chí giữa các bên để làm phát sinh, thay đổi,
chấm dứt các quyền và nghĩa vụ đối với nhau, trừ những quyền và nghĩa vụ mà pháp
luật có qui định là không thể thay đổi hoặc chấm dứt bằng thỏa thuận của các bên. Xét
về vị trí, vai trò của hợp đồng, theo nghĩa hẹp, thì hợp đồng là một loại giao dịch dân
sự, là một căn cứ pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự.
Như vậy, hợp đồng là phương tiện pháp lý để các bên tạo lập quan hệ nghĩa vụ. Có thể
nói, định nghĩa trên
đã hàm chứa tất cả dấu hiệu mang tính bản chất của hợp đồng và
thể hiện rõ chức năng, vai trò của hợp đồng trong việc làm phát sinh, thay đổi, chấm
dứt quan hệ pháp luật.

Định nghĩa trên đây của BLDS 2005 được xem là hợp lý và thuyết phục nhất ở
Việt Nam từ trước đến nay vì có nội dung ngắn gọn, chuẩn xác; vừa mang tính khái
quát cao, phản ánh đúng bản chất của thuậ
t ngữ ‘hợp đồng’, vừa thể hiện rõ vai trò của
hợp đồng như là một căn cứ pháp lý (phổ biến) làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
quyền và nghĩa vụ (dân sự) của các bên. Đây là định nghĩa được hầu hết các luật gia
đồng tình và chấp nhận, trừ ‘cái đuôi’ ‘dân sự’ kèm theo [86, tr.57; 108, tr.38-41].
13
Tác giả cho rằng, cần bỏ từ ‘dân sự’ kèm theo khái niệm ‘hợp đồng’. Bởi lẽ,
thuật ngữ ‘dân sự’ vừa có thể được hiểu theo nghĩa rộng, nhưng cũng vừa có thể được
hiểu theo nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, khái niệm ‘dân sự’ bao hàm cả các lĩnh vực
khác, như lĩnh vực dân sự, thương mại, lao động, hôn nhân, gia đình [15, Điều 1]. Còn
theo nghĩa hẹp, khái niệ
m ‘dân sự’ chỉ được dùng trong các quan hệ dân sự (để phân
biệt với các quan hệ pháp luật khác: hình sự, hành chính…). Trong pháp luật tố tụng,
từ ‘dân sự’ cũng được hiểu theo nghĩa hẹp, nhằm phân biệt giữa các ‘Tòa dân sự’,
‘Tòa Kinh tế’, ‘Tòa lao động’… Trở lại khái niệm ‘hợp đồng dân sự’, câu hỏi đặt ra là,
từ ‘dân sự’ có ý nghĩa gì khi được đặt kèm theo khái niệm ‘hợp đồng’. Về mặt lô
ghích, từ ‘dân sự’ đượ
c đặt ở vị trí này là nhằm xác định rõ nghĩa của khái niệm ‘hợp
đồng’, nhằm để chỉ đây là ‘hợp đồng dân sự’ chứ không phải là hợp đồng khác
(thương mại, lao động). Trong khi đó, khái niệm ‘hợp đồng dân sự’ được qui định tại
Điều 388 BLDS 2005 với chủ định xem đây khái niệm chung được sử dụng để chỉ mọi
hợp đồng, chứ không phải ch
ỉ dành cho riêng ‘hợp đồng dân sự’. Do vậy, không nên
đặt từ ‘dân sự’ ngay sau khái niệm ‘hợp đồng’ vì dễ gây hiểu lầm, và không cần thiết.
Tóm lại, định nghĩa hợp đồng (dân sự) tại Điều 388 BLDS 2005 là chấp nhận
được. Tuy vậy, để đảm bảo tính chuẩn xác của thuật ngữ này, tác giả kiến nghị Quốc
hội cần sửa đổi Điều 388 BLDS 2005 theo hướng bỏ hai từ ‘dân s
ự’ kèm theo sau

thuật ngữ ‘hợp đồng’.
1.1.2. Bản chất của hợp đồng
Như đã được thể hiện trong khái niệm hợp đồng, bản chất của hợp đồng được
tạo nên bởi hai yếu tố pháp lý là sự thỏa thuận và sự ràng buộc pháp lý giữa các bên.
1.1.2.1. Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên
Hợp đồng là một giao dịch có nhi
ều bên tham gia để tạo lập sự ràng buộc pháp
lý với nhau dựa trên sự cam kết, thỏa thuận. Bởi vậy, mặc dù trong luật thực định và
trong lý luận có nhiều định nghĩa khác nhau về hợp đồng, nhưng chung qui lại, tất cả
các định nghĩa đó đều thể hiện một quan điểm nhất quán là luôn xem sự thỏa thuận
giữa các bên là một trong các yếu tố thể hiệ
n bản chất của hợp đồng.
Yếu tố thỏa thuận vừa là nguồn gốc, vừa là cơ sở nền tảng tạo nên hợp đồng.
Không có hợp đồng nào mà không do thỏa thuận và không có hợp đồng nào được tạo
ra mà thiếu yếu tố thỏa thuận. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng, “yếu tố thỏa thuận của các
chủ thể là tiền đề của hợ
p đồng và được xem là tuyệt đối” [239, tr.20].
14
Theo nghĩa thông thường, thỏa thuận là “nhất trí, đồng ý với nhau sau khi bàn
bạc” [217, tr.1578]. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, thỏa thuận là “sự nhất trí
chung được thể hiện ở chỗ không có một ý kiến đối lập của bất cứ một bộ phận nào
trong số các bên liên quan đối với những vấn đề quan trọng và thể hiện thông qua quá
trình mà mọi quan điểm của các bên liên quan đều phả
i được xem xét và dung hòa.”
[93, tr.238].
Trên phương diện pháp lý, để có thể hình thành nên hợp đồng, pháp luật qui
định các bên tham gia cùng thương lượng, trao đổi, bàn bạc để đi đến sự nhất trí
chung, dựa trên sự đề nghị của một bên và sự chấp nhận hoàn toàn của bên kia. Nhưng
sự thỏa thuận với tư cách là một yếu tố thể hiện bản chất của hợp đồng còn có ý nghĩa
tích cực h

ơn, so với các khái niệm thương lượng, bàn bạc, đồng ý. Nếu khái niệm
‘thương lượng’ hay ‘bàn bạc’ dùng để chỉ quá trình thương thuyết, giao dịch giữa các
bên và khái niệm ‘đồng ý’ dùng để chỉ kết quả của quá trình đó, thì khái niệm ‘thỏa
thuận’ ở đây được hiểu là toàn bộ quá trình, từ sự thương lượng đến sự ‘thống nhấ
t ý
chí’. Đó là quá trình ‘dung hòa’ giữa ý chí các bên, đi từ sự đồng ý của từng bên, đến
sự hiệp ý hay gặp gỡ ý chí của hai hay nhiều bên khác nhau, nhằm đạt được ‘sự nhất
trí chung’, hay ‘sự đồng thuận’ giữa hai hay nhiều bên đó.
Bản chất của sự thỏa thuận của là kết quả của sự thống nhất giữa ‘ý chí’ với ‘sự

bày tỏ ý chí’ của mỗi bên, đặt trong mối liên hệ thống nhất với sự ‘ưng thuận’ tương
ứng của một hoặc các bên khác, tạo thành sự ‘đồng thuận’ của các bên, nhằm đạt một
mục đích xác định. Bởi thế, có ý kiến cho rằng, “thỏa thuận là sự trùng hợp ý muốn
của các bên về một điều gì đó mà các bên mong muốn đạt được” [257, tr.10].
Xét về nội dung, sự thỏa thuận không chỉ là sự nhất trí, đồng ý chung chung mà
còn phải có nội dung cụ thể, mục đích rõ ràng, tức phải xác định được bản chất của
quan hệ hợp đồng mà các bên muốn xác lập. Theo đó, các bên phải thống nhất về mục
đích của hợp đồng là chuyển giao một vật hoặc làm một việc gì cụ thể. Nếu một bên
thể hiệ
n ý chí muốn bán một ngôi nhà mà bên kia chỉ muốn thuê ngôi nhà đó thì không
thể có một sự ‘hiệp ý’. Hơn nữa, nếu các bên đồng ý cùng nhau mua bán một ngôi nhà,
nhưng không nhất trí được với nhau về giá bán, thời điểm giao kết hợp đồng, thời hạn
giao nhà, trả tiền thì hợp đồng chưa chắc được thiết lập.
Tuy vậy, những thỏa thuận thiếu vắng các nội dung cụ thể là chuyện phổ bi
ến
trong thực tế, vì có thể do các bên sơ suất hoặc cố ý để ngỏ những điều khoản như vậy.
15
Trong trường hợp có tranh chấp, những nội dung còn thiếu sẽ được tòa án xem xét và
áp dụng các điều khoản dự phòng của pháp luật, hoặc có thể bổ túc thông qua việc giải
thích hợp đồng. Hợp đồng được coi là hoàn thành, nếu các bên đã thỏa thuận được

những nội dung chủ yếu. Hợp đồng được coi là chưa hoàn thành, nếu thiếu những nội
dung chủ yếu mà tòa án không thể bổ túc được. Mộ
t thỏa thuận chỉ được coi là có giá
trị pháp lý, nếu nội dung và mục đích của nó không vi phạm điều cấm của pháp luật và
không trái đạo đức xã hội.
Ngoài ra, thỏa thuận chỉ có thể làm phát sinh hiệu lực ràng buộc đối với các bên
nếu tuân thủ các yêu cầu do pháp luật qui định như điều kiện về chủ thể, điều kiện về
nội dung và mục đích, đ
iều kiện về sự tự nguyện, và điều kiện về hình thức hợp đồng
trong trường hợp pháp luật có qui định. Đây gọi là các điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng. Các nội dung này sẽ được trình bày trong chương hai của Luận án.
Tóm lại, thông qua sự thỏa thuận các bên đã làm nên hợp đồng, tức làm phát
sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong hợ
p đồng. Vì vậy, thỏa
thuận vừa là tiền đề làm nên hợp đồng, vừa là yếu tố cơ bản cho sự tồn hợp đồng.
1.1.2.2. Hợp đồng là thỏa thuận để tạo ra sự ràng buộc pháp lý giữa các bên
Một sự thỏa thuận không phải là hợp đồng, nếu không tạo nên hiệu lực ràng
buộc giữa các bên. Bởi vậy, dấu hiệu thứ hai thể hiện bản ch
ất của hợp đồng là sự thỏa
thuận giữa các bên phải nhằm tạo ra một sự ràng buộc pháp lý, tức là sáng tạo ra các
quyền và nghĩa vụ mới, ngoài những quyền và nghĩa vụ luật định, hoặc làm thay đổi
hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ ấy.
Một sự thỏa thuận mang tính chất xã giao hoặc một lời hứa danh dự, như lời
hứa sẽ t
ặng quà nhân ngày sinh nhật, hoặc thỏa thuận sẽ đến dự tiệc ở nhà bạn, hay
cùng đi ăn tối với người khác cũng không phải là hợp đồng, vì các thỏa thuận này
không tạo ra sự ràng buộc quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên. Sự vi phạm lời hứa
danh dự hoặc các cam kết mang tính chất xã giao như trên có thể làm cho người thất
hứa bị mất uy tín, bị dư luận chê trách, nhưng không làm phát sinh trách nhiệ
m pháp lý

và không thể bị áp dụng chế tài dân sự như trường hợp vi phạm hợp đồng.
Trong xã hội ngày nay, người ta cũng sử dụng nhiều hình thức cam kết mang
tính chất thỏa thuận nội bộ trong một khu vực dân cư, một đơn vị hành chính, một địa
phương để cùng làm một việc hay cùng thực hiện một cuộc vận động gì đó của địa
phương, đơn vị
. Ví dụ như bản cam kết thực hiện cuộc vận động “nói không với tiêu
16
cực” giữa các nhà giáo với lãnh đạo ngành giáo dục, hay cam kết “thực hiện nếp sống
văn minh đô thị” của hộ gia đình với chính quyền địa phương. Những cam kết như vậy
cũng mang tính thỏa thuận, nhưng không phải là hợp đồng, vì không làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Các cam kết này có thể mang tính “ràng
buộc”, thậm chí sự “vi phạm” các cam kế
t ấy có thể bị áp dụng các biện pháp “cưỡng
chế” (về mặt đạo đức) hay chế tài nhất định (như các chế tài hành chính), nhưng sự “vi
phạm” đó không làm phát sinh trách nhiệm dân sự trong hợp đồng.
Cũng có những thỏa thuận đặt các bên vào một quan hệ nghĩa vụ luật định,
chẳng hạn như các thỏa thuận kết hôn, thỏa thuận về việc nuôi con nuôi. Theo qui định
củ
a pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết đó không phải là hợp đồng. Quan điểm
của các luật gia cũng thừa nhận đây chỉ là những thỏa thuận tư nhân nhằm “thừa nhận
một qui chế pháp định”, chấp nhận thực hiện các nghĩa vụ “luật định sẵn”, chứ không
phải là hợp đồng [168, tr.59].
Tóm lại, mọi hợp đồng đều là sự th
ỏa thuận giữa các bên, nhưng không phải sự
thỏa thuận nào của các bên cũng là hợp đồng [26, tr.96]. Chỉ những thỏa thuận tạo ra
một sự ràng buộc pháp lý mới được coi là hợp đồng. Bởi vậy, “sự thỏa thuận” và “sự
tạo ra một ràng buộc pháp lý” là hai dấu hiệu cơ bản tạo nên bản chất của hợp đồng.
Nghiên cứu bản chất hợ
p đồng là tiền đề lý luận để xác định các điều kiện có hiệu lực
(hay tính hợp pháp) của hợp đồng, nguyên tắc tự do hợp đồng, giá trị pháp lý của hợp

đồng, trình tự giao kết hợp đồng, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng và các vấn đề
pháp lý quan trọng khác của chế định hợp đồng, đặc biệt là hiệu lực hợp đồng.
1.2. KHÁI NIỆM HIỆU LỰC HỢP ĐỒNG, HIỆU LỰC TƯƠNG ĐỐI CỦA HỢP
ĐỒNG
Hiệu lực hợp đồng là vấn đề mang tính bản chất của hợp đồng, vì suy cho cùng,
các bên thiết lập hợp đồng là để ràng buộc quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Khi thiết
lập một hợp đồng, người ta luôn hướng đến việc tạo lập “sự ràng buộc pháp lý” đố
i
với nhau và trông đợi bên kia cùng thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng, nhằm
thỏa mãn các lợi ích các bên. Nội dung sau đây làm rõ khái niệm hiệu lực hợp đồng.
1.2.1. Khái niệm hiệu lực hợp đồng
Hiệu lực của hợp đồng đối với sự tồn tại của hợp đồng có thể được ví giống như
là ‘hơi thở’ hay ‘linh hồn’ đối với s
ự sống của con người. Một hợp đồng không có hiệu
lực cũng có nghĩa là giữa các bên không tồn tại quan hệ hợp đồng. Tuy nhận thức
17
được tính chất quan trọng của hiệu lực hợp đồng là như vậy, nhưng để đưa ra một định
nghĩa chính xác về hiệu lực của hợp đồng, quả là điều không dễ.
Trong hầu hết các quyển Từ điển Tiếng Việt và Từ điển chuyên ngành Luật ở
Việt Nam hiện nay (trừ quyển “Từ điển giải thích thuật ng
ữ Luật học” của Trường Đại
học Luật Hà Nội) đều không có mục từ “hiệu lực của hợp đồng” mà chỉ có các mục từ
khác gần với nó, như “hiệu lực pháp luật của di chúc” hay “hiệu lực của các văn bản
pháp luật” [92, tr.289; 225, tr.203-4]. Theo các Từ điển này thì hiệu lực pháp luật (của
văn bản pháp luật nói chung) “là tính bắ
t buộc thi hành của văn bản…”, “là giá trị
pháp lý của văn bản…, hoặc (giá trị) áp dụng của văn bản đó,… thể hiện phạm vi tác
động hoặc phạm vi điều chỉnh của văn bản về thời gian, không gian và về đối tượng
áp dụng” [225, tr.202; 287, tr.357-58].
Trong Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học có giải thích khái niệm “hiệu lực

c
ủa hợp đồng dân sự” là “giá trị bắt buộc thi hành đối các chủ thể tham gia giao kết
hợp đồng” [241, tr.65]. Tuy ngắn gọn, nhưng định nghĩa này cũng phản ánh được bản
chất của khái niệm hiệu lực hợp đồng. Tuy vậy, nội hàm của định nghĩa này vẫn chưa
đầy đủ, và nếu giải thích rõ ra thì cũng có phần chưa chính xác. Bởi lẽ, hiệu lực củ
a
hợp đồng, hiểu theo đúng bản chất của nó, thì không chỉ là ‘giá trị bắt buộc thi hành’
mà còn bao gồm cả việc sáng tạo ra các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể tham
gia hợp đồng. Giá trị bắt buộc thi hành còn là đặc điểm chung của nhiều loại giao dịch
pháp lý khác, chứ không phải là đặc trưng riêng có của hiệu lực hợp đồng. Mặt khác,
trong định nghĩa này s
ử dụng cụm từ “đối với các chủ thể giao kết hợp đồng” là có
phần chưa chính xác. Bởi vì, chủ thể giao kết hợp đồng hoặc chủ thể thực hiện hợp
đồng chưa chắc là chủ thể của hợp đồng đó. Ở đây nếu sử dụng cụm từ “chủ thể tham
gia xác lập và thực hiện hợ
p đồng” thì đúng hơn và rõ nghĩa hơn.
Khái niệm hiệu lực hợp đồng cũng không được tìm thấy trong một số từ điển
của nước ngoài bằng tiếng Anh, như quyển “Oran’s Dictionary of The Law - 3
rd
ed.”
[334], “A Oxford Dictionary of Law – 5
th
ed.” [329] hay quyển “Dictionary of Law -
4
th
ed.” [307]. Tuy vậy, trong quyển Từ điển Bách khoa pháp luật Hoa Kỳ có đưa ra
định nghĩa về ‘hiệu lực’ (valid): “Hiệu lực là sự ràng buộc; sự cưỡng chế pháp lý…”
[306, tr.203]. Trong quyển “Black’ Law Dictionary – 6
th
ed.” của Henry Campell

Black cũng không nêu khái niệm hiệu lực hợp đồng mà chỉ nêu khái niệm hợp đồng có
hiệu lực như sau: “Hợp đồng mà trong hợp đồng đó có đầy đủ các yếu tố pháp lý thì
18
có hiệu lực như pháp luật đối với các bên. Khi một hợp đồng được công nhận có hiệu
lực thì có sự ràng buộc pháp lý” [299, tr.1550]. Như vậy, trên phương diện giải thích
thuật ngữ, các từ điển trên đã đưa ra khái niệm hiệu lực hợp đồng với dấu hiệu đặc
trưng cơ bản của nó là giá trị ràng buộc các bên phải thi hành nghiêm túc. Tuy vậ
y,
chỉ với dấu hiệu này, các khái niệm về hiệu lực hợp đồng trong các từ điển trên vẫn
chưa phản ánh đầy đủ các dấu hiệu thể hiện bản chất của hiệu lực hợp đồng.
Trong luật thực định, khái niệm hiệu lực hợp đồng cũng được qui định trong
các văn bản pháp luật của một số qu
ốc gia. Chẳng hạn, BLDS Pháp có qui định: “Hợp
đồng được giao kết hợp pháp có giá trị là luật đối với các bên”, “chỉ có thể bị hủy bỏ
trên cơ sở có thỏa thuận chung, hoặc theo những căn cứ do pháp luật qui định” và
“phải được thực hiện một cách thiện chí” [19, Điều 1134]. Theo qui định này, hợp
đồng có hiệu lực thì có giá trị là luật đố
i với các bên, được pháp luật tôn trọng và bảo
vệ, được các bên phải tuân thủ và thực hiện hợp đồng đó một cách nghiêm túc, có
thiện chí. Các bên không thể hủy bỏ hợp đồng nếu không dựa trên ý chí tự nguyện của
tất cả các bên hoặc các căn cứ do pháp luật qui định.
Trong luật thực định Việt Nam, qui định về “hiệu lực hợp đồng” cũng được tìm
thấy trong mộ
t số BLDS ở Việt Nam trước đây. Theo Điều 673 DLB 1931 và Điều
713 DLT 1936-1939, “các hợp ước được kết lập theo pháp luật cũng có hiệu lực như
luật pháp đối với các bên kết ước”. Điều 687 DLSG 1972 cũng có qui định về “hiệu
lực của khế ước”, với nội dung cũng tương tự như Điều 1134 BLDS Pháp.
BLDS 1995 từng có qui định về hiệ
u lực hợp đồng như sau: “1. Hợp đồng được
giao kết hợp pháp có hiệu lực bắt buộc đối với các bên; 2- Hợp đồng chỉ có thể bị sửa

đổi hoặc huỷ bỏ, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định…” [16, Điều 404].
BLDS 2005 không qui định cụ thể về hiệu lực của hợp đồng, mà chỉ qui định khái quát
là: “hợp đồ
ng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác” [15, Điều 405]. Có thể nói,
qui định này không thể hiện được bản chất của khái niệm hiệu lực hợp đồng – đó là giá
trị pháp lý ràng buộc đối với các bên, mà chủ yếu là để xác định thời điểm phát sinh
hiệu lực của hợp đồng. Ngoài ra, tại Điều 4 BLDS 2005 cũng có qui định chung về
hiệu lực của các cam kết dân sự: “cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc
thực hiện đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng”.
19
Tóm lại, qua nghiên cứu khía cạnh pháp lý và từ điển của khái niệm hiệu lực
hợp đồng, chúng ta thấy có hai dấu hiệu thể hiện bản chất của nó, đó là: (i) giá trị pháp
lý của hợp đồng giống như pháp luật; và (ii) hiệu lực ràng buộc mang tính cưỡng chế
nhằm buộc các bên phải tôn trọng và thực thi đầy đủ các cam kết trong hợp đồng. Giá
trị pháp lý và hiệu l
ực ràng buộc các bên phải tôn trọng và thực hiện đúng hợp đồng
là hai mặt không thể thiếu của hiệu lực hợp đồng. Trên cơ sở nhận thức bản chất của
‘hiệu lực hợp đồng’, tác giả xin đưa ra khái niệm hiệu lực hợp đồng như sau:
Hiệu lực hợp đồng là giá trị pháp lý của hợp đồng làm phát sinh các quyền và
nghĩ
a vụ của các bên tham gia, và giá trị pháp lý ràng buộc các bên tham gia hợp
đồng phải tôn trọng và phải thi hành nghiêm túc các quyền và nghĩa vụ đó.
Về phương diện lý luận, việc nhận thức đúng khái niệm hiệu lực hợp đồng là cơ
sở để tiếp cận các vấn đề khác có liên quan đến việc nghiên cứu quá trình tạo lập, xác
nhận giá trị pháp lý và thực thi hợp đồng. Khái niệm này cũng thể hiện rõ các y
ếu tố
quan trọng mang tính bản chất của hiệu lực hợp đồng, đó là sáng tạo ra, làm thay đổi,
chấm dứt các quyền và nghĩa vụ giữa các bên; đồng thời tạo ra sự ràng buộc pháp lý
nhằm bắt buộc các bên tôn trọng và nghiêm túc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó.

Khi bàn về hiệu lực của hợp đồng, người ta thường nhìn nhận hiệu lực hợp
đồng ở nhiề
u khía cạnh: điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng, hiệu lực ràng buộc của hợp đồng, và hiệu lực tương đối của hợp đồng. Ba
nội dung đầu sẽ được lần lượt trình bày trong các chương 2, chương 3, chương 4 của
Luận án. Nội dung cuối được trình bày trong mục 1.2.2. dưới đây.
1.2.2. Hiệu l
ực tương đối của hợp đồng
Xét về phạm vi chủ thể, hiệu lực của hợp đồng chỉ ràng buộc đối với các bên
tham gia. Đây là hiệu lực tương đối của hợp đồng. Tuy nhiên, trong pháp luật hợp
đồng hiện đại, đôi khi hợp đồng còn có giá trị pháp lý đối với một số chủ thể khác.
Thậm chí có ý kiến còn cho rằng, “hợp đồng có hiệu l
ực áp dụng ngay cả đối với tòa
án” [227, tr.7].
1.2.2.1. Hiệu lực đối với các bên trực tiếp tham gia
Trong quan hệ hợp đồng thường có từ hai bên hoặc nhiều hơn hai bên tham gia,
gọi là các bên chủ thể hợp đồng. Các bên chủ thể hợp đồng rất đa dạng, bao gồm cá
nhân, pháp nhân, và các loại chủ thể khác theo qui định của pháp luật.
20
Như đã trình bày, bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận nhằm làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên. Theo đó, trong quan hệ hợp đồng,
quyền của bên này tương ứng với nghĩa vụ của bên kia; quyền và nghĩa vụ của các bên
trong hợp đồng thường đối lập nhau một cách tương xứng.
Thường thì các bên có thể nhân danh chính mình để trực tiếp xác lậ
p, thực hiện
hợp đồng, hoặc có thể gián tiếp tham gia hợp đồng thông qua trung gian là người đại
diện hợp pháp. Tuy vậy, người đại diện hợp pháp không phải là chủ thể của hợp đồng
mà chỉ là người thay mặt và nhân danh chủ thể hợp đồng để xác lập, thực hiện hợp
đồng. Trong trường hợp này, quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng không có giá trị pháp
lý ràng buộc người đại di

ện (trực tiếp giao kết, thực hiện hợp đồng) mà chỉ có giá trị
ràng buộc đối với người được đại diện.
Riêng đối với những hợp đồng mang tính chất “gia nhập” thì các bên không cần
phải tham gia ngay từ đầu, mà có thể tự nguyện tuyên bố gia nhập sau khi hợp đồng
xác lập. Việc chủ thể tuyên bố ý chí tham gia hợp đồng sau khi hợp đồng đã được xác
lập và được s
ự “chấp nhận” của các bên có liên quan trong hợp đồng, thì cũng được
xem là chủ thể, có quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng kể từ thời điểm đó. Ví dụ: trong
hợp đồng hợp tác để thành lập tổ hợp tác. Ban đầu, hợp đồng chỉ được ký kết bởi các
thành viên “sáng lập” tổ hợp tác. Sau này, nếu có người muốn gia nhập, thì có thể làm
đơn xin gia nhập gửi cho tổ hợp tác [182,
Điều 7]. Khi có sự đồng ý của đa số tổ viên,
thì người đó trở thành thành viên của tổ hợp tác [15, Điều 118], theo đó coi như người
xin “gia nhập” tổ hợp tác đã mặc nhiên chấp nhận nội dung hợp đồng hợp tác mà
không cần trực tiếp tham gia ký kết hợp đồng.
Như vậy, khác với hiệu lực của pháp luật có giá trị bắt buộc chung đối với mọ
i
người trong xã hội, hiệu lực của hợp đồng có giá trị ràng buộc trước hết và chủ yếu là
đối với các bên trực tiếp tham gia hợp đồng - những người đã tự nguyện thỏa thuận
xác lập hợp đồng. Sở dĩ hợp đồng chỉ có hiệu lực ràng buộc đối với các bên tham gia
là vì hợp đồng được tạo ra bằng sự thỏa thuận của các bên, dự
a trên nguyên tắc tự
nguyện và tự do ý chí. Bởi vậy, đối với các bên đã tự nguyện thỏa thuận tạo lập hợp
đồng thì phải chấp nhận sự ràng buộc quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đó.
Tóm lại, theo nguyên tắc hiệu lực tương đối, hợp đồng có hiệu lực ràng buộc
chủ yếu đối với các bên tham gia hợp đồng, trừ những trườ
ng hợp ngoại lệ sau đây:
1.2.2.2. Hiệu lực của hợp đồng đối với người thứ ba là người kế vị pháp lý
21
Khái niệm các bên hợp đồng không phải chỉ dùng để chỉ người trực tiếp tham

gia hợp đồng hoặc người gián tiếp tham gia hợp đồng thông qua người đại diện hợp
pháp, mà các bên hợp đồng nói ở đây còn bao gồm cả những người kế vị pháp lý.
Người kế vị pháp lý không phải là người thứ ba bên ngoài hợp đồng, mà là
người thay thế tư cách pháp lý của chủ thể hợp đồ
ng để trở thành một bên chủ thể của
hợp đồng đó, bao gồm các trường hợp thay thế chủ thể hợp đồng do chuyển nhượng
quyền hoặc chuyển giao nghĩa vụ [15, các Điều 309-317], hoặc do cải tổ các pháp
nhân [15, điểm a khoản 1 Điều 99 và các Điều 94-97], hoặc do thừa kế tài sản có kèm
theo việc thực hiện quyền và nghĩa vụ [15, Điều 634, 637]. Nh
ưng tư cách của người
kế vị pháp lý có hai điểm khác biệt so với các bên trực tiếp xác lập hợp đồng:
+ Một là, theo qui định của BLDS 2005, có những loại nghĩa vụ mà theo pháp
luật hoặc theo thỏa thuận, chủ thể phải tự mình thực hiện thì không thể chuyển giao
cho người kế vị pháp lý (Điều 424, khoản 8 & 9 Điều 374, Điều 384, Điều 385). Ví
dụ: khi ngườ
i ủy quyền hoặc người được ủy quyền chết thì hợp đồng ủy quyền chấm
dứt (khoản 4 Điều 589); hay trong hợp đồng thuê nhà, khi bên thuê chết mà không có
ai cùng chung sống thì hợp đồng thuê chấm dứt (khoản 3 Điều 499). Trong các trường
hợp này, tuy người thừa kế của người đã chết không kế vị pháp lý đối với hiệu lực hợp
đồng, nhưng lại kế vị
pháp lý để giải quyết hậu quả pháp lý của việc chấm dứt hợp
đồng. Ví dụ: đòi bồi thường, đòi thực hiện các nghĩa vụ chưa thực hiện hoặc đòi hoàn
lại các khoản thanh toán còn thừa, sau khi trừ đi giá trị của phần nghĩa vụ đã thực hiện.
+ Hai là, sự kế vị pháp lý thông qua việc thừa kế tổng quát hoặc thừa kế đặ
c
định một tài sản cụ thể có kèm theo nghĩa vụ thích ứng của người tham gia hợp đồng,
thì người thừa kế chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi giới hạn của giá trị phần di
sản mà mình được hưởng [15, Điều 637]. Về nguyên tắc, một bên trong hợp đồng có
thể loại trừ trong hợp đồng việc chuyển giao nghĩa vụ hợp đồng cho ngườ
i thừa kế

thực hiện. Tuy nhiên, các bên hợp đồng không thể thỏa thuận và qui định trong hợp
đồng điều khoản chuyển giao nghĩa vụ trong hợp đồng đó cho người thừa kế thực hiện,
vì điều này trái với nguyên tắc hiệu lực tương đối của hợp đồng, trừ trường hợp việc
chuyển giao cho người kế vị pháp lý những lợi ích gắn liề
n với nghĩa vụ hợp đồng. Ví
dụ: khi hợp đồng thuê nhà đang còn hiệu lực, bên cho thuê nhà chết để lại thừa kế ngôi
nhà đang cho thuê. Trường hợp này, người thừa kế được kế vị toàn bộ các quyền và
nghĩa vụ của hợp đồng thuê nhà.

×