Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.85 MB, 20 trang )

NỘI DUNG SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
NAM HIỆN NAY
CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU (Hòa)
1.1. Lý do chọn đề tài
Chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời với mục đích để nghiên cứu, làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân, luận chứng những điều kiện, những con đường để giai cấp công nhân hồn
thành sứ mệnh lịch sử đó của mình. Hơn nữa, chủ nghĩa xã hội khoa học còn chỉ ra những luận cứ
chính trị - xã hội rõ ràng, trực tiếp nhất để chứng minh, khẳng định sự thay thế tất yếu của chủ
nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội. Trong cơng cuộc chuyển biến hình thái xã hội mang tính lịch
sử đó, giai cấp cơng nhân chính là người nắm vai trò chủ chốt. Sứ mệnh lịch sử vĩ đại của giai cấp
công nhân được chủ nghĩa xã hội khoa học khẳng định: họ chính là giai cấp duy nhất có khả năng
lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột trong cuộc đấu tranh từng bước xóa bỏ
chủ nghĩa tư bản và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Trước sự khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu từ đầu
những năm 90 của thế kỷ trước, nhiều người đã bộc lộ dao động và hồi nghi về sứ mệnh lịch sử
của giai cấp cơng nhân. Các thế lực chống cộng có cơ hội mới để phủ nhận sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chủ nghĩa xã hội. Đến tận những năm
gần đây, các thế lực chống đối trong và ngồi nước vẫn khơng ngừng xuyên tạc, đưa ra những luận
điệu thiếu căn cứ, nhằm đánh lừa dư luận, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chúng sử dụng các phương tiện truyền thông, các
trang mạng xã hội để thực hiện nhiều chiến dịch tuyên truyền, hòng làm lung lay lòng tin trong
nhân dân, bác bỏ sứ mệnh lịch sử và bản chất cách mạng thuộc về giai cấp công nhân của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Trong bối cảnh đó, việc làm sáng tỏ và nhận thức một cách đúng đắn hơn về
giai cấp cơng nhân, về vai trị sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không chỉ có ý nghĩa lý luận
sâu sắc, mà cịn có ý nghĩa thực tiễn hết sức to lớn.
Trong giai đoạn mới hiện nay, cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố đang diễn ra trên
tồn thế giới, đang ở trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
toàn thế giới. Xã hội lồi người cịn đang có nhiều biến động, tiêu cực… thì vấn đề làm sáng tỏ sứ


mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được đặt ra trở nên bức thiết hơn bao giờ hết, cả trên hai


phương diện lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ lý do trên, nhóm chúng em chọn đề tài “Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân việt nam hiện nay” làm đề tài tiểu luận kết thúc học phần.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Làm sáng tỏ khái niệm về giai cấp công nhân và nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp
cơng nhân thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
- Làm rõ, khẳng định khái niệm về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân theo chủ nghĩa Mác – Lênin.
- Nhận định thực trạng việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện nay.
- Xác định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam, đặc biệt là trong thời kỳ đổi
mới.
1.3. Phương pháp nghiên cứu
- Tra cứu tài liệu và Internet, tổng hợp và chọn lọc lại thơng tin, phân tích, nghiên cứu và
từ đó đưa ra nhận xét, đánh giá.
- Đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lê-nin.
- Vận dụng quan điểm toàn diện và hệ thống, kết hợp khái qt và mơ tả, phân tích và
tổng hợp, các phương pháp liên ngành khoa học xã hội và nhân văn.

CHƯƠNG 2: LÝ LUẬN CHUNG
2.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân ngày nay (Vy)
2.1.1. Quan niệm về giai cấp công nhân
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, cũng như mọi hiện tượng xã hội khác, giai cấp cơng
nhân là sản phẩm của hồn cảnh lịch sử cụ thể và cùng với sự tiến triển của lịch sử, giai cấp công
nhân luôn phát triển và được bổ sung những đặc trưng mới. C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng
nhiều thuật ngữ khác nhau để trình bày quan niệm của mình về giai cấp công nhân như: giai cấp
vô sản, giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ dựa vào việc bán sức lao động của mình, lao động làm thuê
ở thế kỷ XIX, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp cơng nhân hiện đại, giai cấp cơng nhân cơ khí,



giai cấp công nhân đại công nghiệp, v.v.. Những cụm từ đồng nghĩa nêu trên được C.Mác và
Ph.Ăngghen sử dụng trong các ngữ cảnh khác nhau, song có cùng một mục đích là biểu thị quan
niệm về giai cấp cơng nhân - con đẻ của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu
cho lực lượng sản xuất tiên tiến phương thức sản xuất hiện đại. C.Mác và Ph.Ăngghen cịn dùng
những thuật ngữ có nội dung hẹp hơn để chỉ các loại công nhân trong các ngành, nghề khác nhau
như: cơng nhân khống sản, cơng nhân cơng trường thủ công, công nhân công xưởng, công nhân
nông nghiệp, v.v. và những thuật ngữ khác để chỉ những người công nhân gắn với các giai đoạn
phát triển của công nghiệp là: công nhân thủ công, công nhân công trường, cơng nhân cơ khí,
cơng nhân hiện đại. Đồng thời, C.Mác và Ph.Ăngghen cịn phân biệt các loại cơng nhân khác
nhau trong nền công nghiệp hiện đại như công nhân thực sự đứng máy (những người trông coi
máy phát động, cho máy móc ăn than, dầu) và những người giúp việc cho những cơng nhân ấy.
Bên cạnh những loại thợ chính cịn có những người thợ phụ, với một số lượng không đáng kể,
làm công việc kiểm tra hệ thống máy móc và một số người thường xuyên sửa chữa, bảo dưỡng
máy móc như kỹ sư, thợ máy, thợ mộc,… Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, trong giai cấp cơng nhân,
có một bộ phận công nhân cao cấp; trong số này, một số có tri thức khoa học, phần cịn lại có
tính chất thủ cơng, đứng ngồi giới cơng nhân cơng xưởng và chỉ được kết hợp với những người
công nhân cao cấp. Đây là “sự phân cơng lao động đó có tính chất thuần túy kỹ thuật”. Vì vậy,
C.Mác và Ph.Ăngghen nhấn mạnh rằng: “Vấn đề là ở chỗ tìm hiểu xem giai cấp vơ sản thực ra
là gì, và phù hợp với tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vơ sản buộc phải làm gì về mặt lịch
sử”. Dù khái niệm giai cấp cơng nhân có nhiều tên gọi khác nhau và thời cuộc có biến đổi ra sao
đi nữa thì theo C.Mác và Ph.Ăngghen: giai cấp cơng nhân vẫn chỉ mang hai thuộc tính cơ bản là
hai tiêu chí khẳng định rõ lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin như thế nào là người
công nhân, giai cấp cơng nhân, đó là:
- Về phương thức kinh tế - xã hội:
Là sản phẩm và là chủ thể của nền sản xuất đại công nghiệp, giai cấp công nhân là những
người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các cơng cụ sản xuất có tính chất cơng nghiệp
ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao. Họ lao động bằng những phương thức công nghiệp ngày
càng hiện đại với những đặc điểm nổi bật; sản xuất bằng máy móc, lao động có tính chất xã hội
hóa, năng suất lao động cao và tạo ra nhiều của cải, vật chất cho xã hội mới.



Mơ tả q trình phát triển của giai cấp cơng nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: trong
công trường thủ công và trong nghề thủ công, người công nhân sử dụng cơng cụ của mình, cịn
trong cơng xưởng thì người cơng nhân phải phục vụ máy móc. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen,
công nhân công nghiệp công xưởng là bộ phận tiêu biểu cho giai cấp công nhân hiện đại.
Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản”, các ông nhấn mạnh: “ ... các giai
cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, cịn giai cấp vơ
sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp và công nhân cũng là một phát minh của
thời đại mới, giống như máy móc vậy... cơng nhân Anh là đứa con đầu lịng của nền cơng nghiệp
hiện đại”.
- Về phương diện chính trị - xã hội:
Từ lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp cơng nhân cịn là sản phẩm của xã
hội, của quá trình phát triển tư bản chủ nghĩa, một xã hội có điều kiện tồn tại dựa trên cơ sở chế
độ làm thuê. Trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp vô sản là giai cấp những cơng
nhân làm th hiện đại, vì mất các tư liệu sản xuất của bản thân, nên buộc phải bán sức lao động
của mình để sống. C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ, đó là giai cấp của những người lao động khơng
có sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Họ phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà
tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Đối diện với nhà tư bản, công nhân là những người lao động tự
do, với nghĩa là tự do bán sức lao động của mình để kiếm sống. Chính điều này khiến cho giai
cấp cơng nhân trở thành giai cấp đối kháng với giai cấp tư sản. Trong tác phẩm Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Những công nhân ấy, buộc phải bán mình để
kiếm ăn từng bữa một, là một hàng hóa, tức là một món hàng đem bán như bất cứ món hàng nào
khác, vì thế, họ phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường”.
Mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất xã hội ngày càng rộng lớn với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ
tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Mâu thuẫn cơ bản này thể hiện về mặt xã hội là mâu
thuẫn về lợi ích giữa giai cấp công nhân và giai cấp vô sản. lao động sống của công nhân là
nguồn gốc của giá trị thặng dư và sự giàu có của giai cấp tư sản cũng chủ yếu nhờ vào việc bóc
lột được ngày càng nhiều hơn giá trị thặng dư.



Mâu thuẫn đó cho thấy tính chất đối kháng khơng thể điều hịa giữa giai cấp cơng nhân
(giai cấp vơ sản) với giai cấp tư sản trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa về trong chế độ
tư bản chủ nghĩa.
Từ phân tích trên theo chủ nghĩa Mác - Lênin giai cấp cơng nhân là một tập đồn xã hội,
hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, họ lao động
bằng phương thức ngày càng hiện đại và gắn liền với quá trình sản xuất vật chất hiện đại, đại
biểu cho phương thức sản xuất mang tính xã hội ngày càng cao. Họ là người làm th. Do khơng
có tư liệu sản xuất, buộc phải bán sức lao động để kiếm sống và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị
thặng dư, vì vậy lợi ích cơ bản của họ đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản. Đó là giai
cấp sứ mệnh phủ định chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản trên toàn thế giới.
2.1.2. Đặc điểm của giai cấp công nhân
Nghiên cứu giai cấp công nhân (giai cấp vô sản) từ phương diện từ phương diện kinh tế xã hội và chính trị - xã hội trong chủ nghĩa tư bản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã không những đưa
lại quan niệm khoa học về giai cấp cơng nhân mà cịn làm sáng tỏ những đặc điểm quan trọng
của nó với tư cách là một giai cấp cách mạng có sứ mệnh lịch sử thế giới. Có thể khái quát
những đặc điểm chủ yếu của giai cấp công nhân bao gồm:
- Đặc điểm nổi bật giữa giai cấp công nhân là lao động bằng phương thức công nghiệp
với đặc trưng công cụ lao động là máy móc, tạo ra năng suất lao động cao, quá trình lao động
mang tính chất xã hội hóa.
- Nền sản xuất công nghiệp và phương thức sản xuất tiên tiến đã dẫn đường cho giai cấp
công nhân những phẩm chất đặc biệt về tính tổ chức, kỷ luật lao động, tinh thần hợp tác và tâm
lý lao động công nghiệp. Đó là một giai cấp cách mạng và có tinh thần cách mạng triệt để.
Những đặc điểm ấy là những phẩm chất cần thiết để giai cấp cơng nhân có vai trò lãnh đạo cách
mạng.
2.1.3. Nội dung sứ mệnh lịch sử tồn thế giới của giai cấp cơng nhân
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa
học. Phát hiện ra sứ mệnh của lịch sử giai cấp công nhân là một trong những cống hiến vĩ đại
nhất của C. Mác và Ph.Ăngghen, đã làm cho chủ nghĩa xã hội từ không tưởng thành khoa học.
Mục tiêu tổng quát về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân: C. Mác đã chứng minh một cách

khoa học rằng, chính sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản, những điều kiện vật chất và


lực lượng sản xuất mới đã tạo ra một khối lượng của cải “khổng lồ” so với hàng trăm năm trước
cộng lại. Đó là kết quả tất yếu của nền sản xuất đại công nghiệp. Gắn liền với điều kiện vật chất
ấy, một lực lượng xã hội mới đã hình thành và phát triển, có sứ mệnh lịch sử vĩ đại là xóa bỏ mọi
áp bức, bóc lột, bất cơng trong chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng thành công chế độ xã hội chủ
nghĩa, tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Nói một cách khác, sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân là
xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng nhân loại khỏi
mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh. Mục
tiêu cụ thể thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân: Để hồn thành sứ mệnh lịch sử của
mình, trước tiên giai cấp công nhân phải làm cuộc cách mạng xã hội, giành lấy chính quyền về
tay mình, thiết lập chun chính vô sản, phải “tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình
trở thành dân tộc”. “Phải nhận lấy sứ mệnh đại biểu cho tồn bộ lợi ích của một dân tộc và do đó
lãnh đạo dân tộc ấy về chính trị”. Sau khi đã giành chính quyền về tay mình, giai cấp cơng nhân
phải cùng giai cấp nơng dân và toàn thể nhân dân ra sức xây dựng xã hội mới dựa trên cơ sở chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất, tiến tới xã hội không có giai cấp. Chưa đạt được mục tiêu này
thì giai cấp cơng nhân cũng như tồn xã hội chưa được giải phóng hồn tồn. Ph.Ăngghen khẳng
định: “Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy, đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện
đại”. V.I.Lênin cũng nhấn mạnh: “Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng
rõ vai trị lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa”.
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về giai cấp công
nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân (Quân)
2.2.1. Quan niệm về giai cấp cơng nhân
a. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giai cấp cơng nhân Việt Nam:
Trong những bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh mình, trên cơ sở vận dụng
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp công nhân và căn cứ vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam, với tư duy lý luận sắc bén và hành động thực tiễn cách mạng phong phú,
Người đã luận giải toàn diện những vấn đề cơ bản về giai cấp cơng nhân Việt Nam; đây chính
là kim chỉ nam cho sự nghiệp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh

cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.


- Thứ nhất, quan niệm về giai cấp công nhân và đặc điểm giai cấp công nhân Việt
Nam. Trong tác phẩm “Thường thức chính trị”, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tất cả
những người khơng có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động mà sống, là công nhân. Bất kỳ
họ lao động trong công nghệ hay là trong nơng nghiệp, bất kỳ họ làm nghề gì, cũng đều thuộc
về giai cấp công nhân”. Tuy nhiên, để Người cũng giải thích, trong số đó, khơng phải tất cả
họ đều là giai cấp công nhân và chỉ ra tiêu chí căn bản để xác định đó là giai cấp cơng nhân
đúng nghĩa mang đầy đủ “đặc tính” của giai cấp công nhân quốc tế theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, Người viết: “Chủ chốt của giai cấp ấy, là những cơng nhân ở các xí
nghiệp như: nhà máy, hầm mỏ, xe lửa, v.v.. Những công nhân thủ công nghệ, những người
làm thuê ở các cửa hàng, những cố nông, v.v. cũng thuộc về giai cấp công nhân. Nhưng chỉ
cơng nhân cơng nghệ là hồn tồn đại biểu cho cái đặc tính của giai cấp cơng nhân”.
Về đặc điểm giai cấp cơng nhân Việt Nam, theo Hồ Chí Minh, giai cấp công nhân Việt
Nam mang đầy đủ đặc điểm của giai cấp cơng nhân quốc tế, đó là: “Đặc tính cách mạng của
giai cấp cơng nhân là: kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật. Lại vì là giai cấp tiên
tiến nhất trong sức sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc, để xây dựng
một xã hội mới, giai cấp cơng nhân có thể thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức là
chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng
lớp khác”.
- Thứ hai, về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam, theo Người, giai cấp
công nhân Việt Nam là một bộ phận hữu cơ của giai cấp công nhân thế giới, cũng có vai trị sứ
mệnh lịch sử, trước hết đối với dân tộc của mình: “Chỉ có giai cấp cơng nhân lãnh đạo thì
kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành cơng”. Vai trị đó được thể hiện ở đường lối
chiến lược của Đảng Cộng sản, Đảng lãnh đạo toàn dân tộc Việt Nam từng bước thực hiện
thắng lợi đường lối chiến lược, sách lược đó. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt
Nam được thể hiện ngay từ Luận cương Chính trị của Đảng năm 1930: Giai cấp cơng nhân
Việt Nam thơng qua Đảng của mình lãnh đạo toàn dân làm cuộc cách mạng tư sản dân quyền
là thời kỳ dự bị của xã hội cách mạng, bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa, phát triển tiến thẳng

lên chủ nghĩa xã hội. Người chỉ rõ: “Giai cấp công nhân Việt Nam đã đem ánh sáng Cách
mạng Tháng Mười soi tỏ cho con đường cách mạng Việt Nam. Năm 1930, Đảng Cộng sản


Đơng Dương, chính đảng của giai cấp cơng nhân thành lập, đã vạch rõ cách mạng Việt Nam
trải qua hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Lần đầu
tiên cách mạng Việt Nam có một Cương lĩnh chính trị tồn diện do Đảng của giai cấp công
nhân đề ra. Cách mạng Việt Nam từ đó được giai cấp cơng nhân và chính đảng của nó thống
nhất lãnh đạo, đã phát triển nhanh chóng và vững chắc”. Người khẳng định: “… phải kinh
qua giai cấp công nhân tổ chức, đấu tranh cách mạng. Kinh qua trường kỳ xây dựng, để thực
hiện chế độ cộng sản”.
- Thứ ba, về điều kiện giai cấp công nhân Việt Nam làm trịn sứ mệnh lịch sử của
mình, Hồ Chí Minh chỉ rõ:
+ Một là, điều kiện tiên quyết là giai cấp công nhân Việt Nam phải tổ chức ra chính
đảng của mình. Vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện lịch
sử cụ thể của Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là người sáng lập, giáo dục và rèn luyện
Đảng ta, Người khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đồng
thời là Đảng của dân tộc Việt Nam. Trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, thông qua
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 03 tháng 02 năm 1930), Hồ Chí Minh chỉ
rõ: “Đảng là đội tiên phong của vơ sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp
mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”.
Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (tháng 02
năm 1951), Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng
của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt
Nam”. Tháng 01 năm 1957, nói chuyện ở Trường Cán bộ Cơng đồn, Người khẳng định:
“Giai cấp mà khơng có Đảng lãnh đạo thì khơng làm cách mạng được, Đảng mà khơng có
giai cấp cơng nhân cũng khơng làm được gì. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời cũng là đội tiên phong của dân tộc”. Theo Hồ Chí Minh, lợi ích của Đảng với lợi
ích của giai cấp cơng nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc là thống nhất. Về vấn đề

này, trong tác phẩm Thường thức chính trị, Người giải thích:


“Đảng Lao động là tổ chức cao nhất của giai cấp cần lao và đại biểu cho lợi ích của
cả dân tộc. Vì những điều sau này mà quyết định tính chất ấy.
1- Đảng kết hợp phong trào cách mạng Việt Nam với chủ nghĩa Mác - Lênin. Đảng
giác ngộ giai cấp công nhân rành mạch, lập trường giai cấp dứt khoát, tác phong giai cấp
đúng đắn. Tư tưởng của Đảng là tư tưởng của giai cấp cơng nhân, nó đấu tranh cho lợi ích
của tồn dân.
Vì vậy, trong Đảng khơng thể có những tư tưởng, lập trường và tác phong trái với tư
tưởng, lập trường và tác phong của giai cấp cơng nhân.
2- Đảng có chính cương rõ rệt: Hiện nay thì giai cấp cơng nhân lãnh đạo tồn dân
chống đế quốc và phong kiến, để giải phóng dân tộc và thực hiện dân chủ mới. Ngày sau thì
tiến đến chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
3- Đảng có kỷ luật rất nghiêm khắc, tất cả đảng viên đều phải tuân theo. Tư tưởng,
chính trị và tổ chức của Đảng đều phải thống nhất. Trong Đảng không thể có những phần tử
lạc hậu và đầu cơ.
4- Tất cả đảng viên phải kiên quyết phục tùng sự lãnh đạo tập trung của Đảng. Trong
Đảng khơng thể có những phần tử hèn nhát lung lay.
5- Đảng phải luôn luôn giáo dục đảng viên về lý luận cách mạng. Đối với những đảng
viên xuất thân là trí thức, tiểu tư sản, nơng dân thì Đảng phải ra sức cải tạo tư tưởng khiến
cho những đồng chí ấy thành những chiến sĩ của giai cấp cơng nhân.”
Luận điểm của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công
nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam vừa khẳng định bản chất giai cấp công nhân
của Đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa thể hiện được nét đặc thù của Đảng ta - một Đảng
ra đời từ phong trào công nhân và phong trào yêu nước của dân tộc ở một nước thuộc địa nửa
phong kiến. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã gắn bó mật thiết với nhân


dân lao động và dân tộc, hịa mình cùng dân tộc, gắn bó với sứ mệnh của dân tộc; kết hợp

giữa giai cấp và dân tộc, dân tộc với thời đại, giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ
nghĩa quốc tế vô sản.
+ Hai là, giai cấp công nhân phải liên minh với các giai tầng và nắm quyền lãnh đạo
khối liên minh ấy. Theo Hồ Chí Minh, cách mạng xã hội chủ nghĩa là “Cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất”, do đó phải phát huy sức
mạnh toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
các tầng khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Thực hiện cho được liên minh cơng nơng
vì đó là sự bảo đảm chắc chắn nhất những thắng lợi của cách mạng. Chỉ có khối liên minh
cơng nơng do giai cấp cơng nhân lãnh đạo mới có thể kiên quyết và triệt để đánh đổ các thế
lực phản cách mạng, giành lấy và củng cố chính quyền của nhân dân lao động, hoàn thành
nhiệm vụ lịch sử của cách mạng dân tộc, dân chủ và tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Theo Người,
giai cấp công nhân mà đội tiền phong là đảng cộng sản phải “dựa vào giai cấp công nhân, lấy
liên minh cơng nơng làm nền tảng vững chắc để đồn kết các tầng lớp khác trong nhân dân.
Có như thế mới phát triển và củng cố được lực lượng cách mạng và đưa cách mạng đến
thắng lợi cuối cùng”. Người nhấn mạnh “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh
cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài. Nhân dân ta hãy đoàn kết chặt chẽ dựa trên nền
tảng liên minh công nông, bền bỉ phấn đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, thì
chúng ta nhất định thắng lợi”.
Trong khối liên minh đó, giai cấp công nhân Việt Nam phải nắm quyền lãnh đạo, kể cả
họ chưa phải là lực lượng đông đảo nhất. Để giúp mọi người hiểu rõ vì sao giai cấp cơng nhân
Việt Nam với số lượng ít lại có thể lãnh đạo được cách mạng Việt Nam, Người viết: “Có
người nói: Giai cấp cơng nhân Việt Nam số người cịn ít, khơng lãnh đạo được cách mạng.
Nói vậy khơng đúng. Lãnh đạo được hay là khơng, là do đặc tính cách mạng, chứ khơng phải
do số người nhiều ít của giai cấp. Giai cấp cơng nhân có chủ nghĩa Mác - Lênin. Trên nền
tảng đấu tranh, họ xây dựng nên Đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin là Đảng Lao động Việt
Nam. Đảng đề ra chủ trương, đường lối, khẩu hiệu cách mạng, lôi cuốn giai cấp nông dân và
tiểu tư sản vào đấu tranh, bồi dưỡng họ thành những phần tử tiên tiến. Lại có những phần tử
trí thức tham gia cách mạng và vơ sản hóa. Thành thử đội ngũ chính trị của giai cấp cơng



nhân ngày càng phát triển. Mai sau, công nghệ của ta ngày càng phát triển, thì số cơng nhân
ngày càng tăng thêm. Tuy hiện nay ở nước ta giai cấp cơng nhân cịn nhỏ, song ở thế giới thì
giai cấp công nhân rất to lớn. Cho nên quyền lãnh đạo cách mạng chỉ do giai cấp công nhân
nắm”. Theo Người, đặc tính cách mạng của giai cấp cơng nhân là kiên quyết, triệt để, tập thể,
có tổ chức, có kỷ luật. Là giai cấp tiên tiến nhất trong sức sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ
chế độ tư bản và đế quốc để xây dựng một xã hội mới, giai cấp cơng nhân có thể thấm nhuần
một tư tưởng cách mạng nhất, tức là chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, tinh thần đấu tranh
của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp khác. Người giải thích “Lại vì là giai cấp tiên tiến
nhất trong sức sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc, để xây dựng
một xã hội mới, giai cấp công nhân có thể thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức là
chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các
tầng lớp khác. Vì vậy, về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động, giai cấp công nhân
đều giữ vai trò lãnh đạo”.
+ Cuối cùng, Người rút ra bài học kinh nghiệm về tính tất yếu giai cấp công nhân phải
liên minh với các giai tầng và nắm quyền lãnh đạo khối liên minh ấy là: “Ngay từ lúc đầu,
Đảng đã giương cao ngọn cờ cách mạng dân tộc dân chủ, lãnh đạo phong trào giải phóng
dân tộc. Trong lúc đó, giai cấp phong kiến đã đầu hàng đế quốc, giai cấp tư sản non yếu thì
chỉ mong thỏa hiệp với đế quốc để tìm một lối sống. Các tầng lớp tiểu tư sản tuy là sôi nổi,
nhưng tư tưởng bế tắc, khơng có đường ra. Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách
mạng nhất, ln ln gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng
tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là
người lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam”. Trong bài viết
“Những lời thắm thiết”, Người đã đúc rút chân lý phổ biến: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã
hội, mà xa rời sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và của Đảng, là một điều không thể tưởng
tượng”.
Ngồi ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh u cầu giai cấp công nhân Viê ~t Nam cần phải nêu
cao tinh thần quốc tế vô sản và thực hiện tốt các nghĩa vụ quốc tế: “Bác mong các cô, các chú
giữ vững và phát huy truyền thống đấu tranh cách mạng của dân tộc ta, của giai cấp ta. Phải
hăng hái thi đua sản xuất nhanh, nhiều, tốt, rẻ. Phải có tinh thần đồn kết quốc tế vơ sản và



phải học tập nâng cao trình độ về mọi mặt để xứng đáng là giai cấp công nhân, giai cấp lãnh
đạo cách mạng”.
Giai cấp công nhân Việt Nam là cơ sở chính trị - xã hội của Đảng và Nhà nước, là lực
lượng nịng cốt trong khối liên minh cơng - nơng - trí thức và khối đại đồn kết tồn dân tộc.
Do đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về giai cấp cơng nhân Việt Nam chính là ngọn cờ lý luận chỉ
đạo toàn diện sự nghiệp xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam, để họ “hồn
thành nhiệm vụ Đảng và Chính phủ giao cho để xứng đáng là ông chủ, bà chủ, xứng đáng là
vai trị của giai cấp cơng nhân Việt Nam, xứng đáng là một bộ phận trong gia đình xã hội chủ
nghĩa” như điều mong mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
b. Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về giai cấp công nhân:
“Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm
những người lao động chân tay và trí óc, làm cơng hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh
doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất cơng nghiệp”.
Xây dựng giai cấp công nhân nước ta lớn mạnh trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống
chính trị, của mỗi người cơng nhân và của toàn xã hội. Sự quan tâm của Đảng đối với giai cấp
công nhân đã được khẳng định ngay từ khi thành lập Đảng và được minh chứng ngay trong các
văn kiện của Đảng ta qua các kỳ Đại hội nhất là từ sau Đại hội Đổi mới toàn diện đất nước đến
nay.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991
đã khẳng định: “Phát triển giai cấp công nhân về số lượng và chất lượng để xứng đáng là giai cấp
tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội… Đặc biệt coi trọng việc xây dựng một
đội ngũ công nhân lành nghề, những nhà kinh doanh có tài, những nhà quản lý giỏi và các nhà
khoa học, kỹ thuật có trình độ cao”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã xác định: “Mục tiêu của cơng nghiệp
hố, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước cơng nghiệp có cơ sở vật chất – kỹ thuật
hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu,



nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Từ nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX của Đảng ta có những bước tiến mới trong nhận
thức, lý luận về giai cấp cơng nhân trong q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát
triển kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. “Đối với giai
cấp công nhân, phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức; nâng cao giác ngộ và bản lĩnh
chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Giải quyết việc làm, giảm tối đa số công nhân thiếu việc làm
và thất nghiệp. Thực hiện tốt chính sách và pháp luật về lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hộ lao động, chăm sóc, phục hồi sức khoẻ đối với cơng
nhân; chính sách ưu đãi nhà ở đối với cơng nhân bậc cao. Xây dựng tổ chức, phát triển đoàn viên
cơng đồn, nghiệp đồn đều khắp ở các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế.
Thường xuyên chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp
của cơng nhân và những người lao động, chú trọng công nhân làm việc ở các khu công nghiệp và
đô thị lớn. Chăm lo đào tạo cán bộ và kết nạp đảng viên từ những công nhân ưu tú.”
Để giai cấp công nhân Việt Nam hồn thành nhiệm vụ lịch sử của mình, văn kiện Đại hội
X của Đảng tiếp tục chỉ rõ: “Đối với giai cấp công nhân, phát triển về số lượng, chất lượng và tổ
chức, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực
lượng đi đầu trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Tại Hội nghị lần thứ VI
Ban chấp hành Trung ương khóa X ngày 28/1/2008, Ban chấp hành Trung ương đã ban hành
Nghị quyết số 20-NQ/TW về tiếp tục xây dựng giai cấp cơng nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước cũng đã nhấn mạnh mục tiêu: Xây dựng giai cấp công
nhân lớn mạnh, phát triển nhanh về số lượng, nâng cao chất lượng, có cơ cấu đáp ứng yêu cầu
phát triển đất nước; ngày càng được trí thức hố: có trình độ học vấn, chun mơn, kỹ năng nghề
nghiệp cao, có khả năng tiếp cận và làm chủ khoa học - công nghệ tiên tiến, hiện đại trong điều
kiện phát triển kinh tế tri thức; thích ứng nhanh với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế;
có giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tác phong cơng nghiệp và kỷ luật lao động
cao.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Quan tâm giáo

dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao
bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn chun môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ


luật lao động, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định: “Quan tâm giáo dục, đào
tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh
chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao
động của công nhân; bảo đảm việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện làm việc, nhà ở,
các cơng trình phúc lợi phục vụ cho cơng nhân; sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật về
tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp,... để bảo vệ quyền lợi, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của công nhân”.
Kế thừa những quan điểm trên, văn kiê ~n Đại hô ~i XIII của Đảng đưa ra chủ trương: “Phát
triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh, trình độ, kỹ năng nhằm
thích ứng với cuộc Cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư; đổi mới tổ chức và hoạt động của cơng
đồn phù hợp bối cảnh, điều kiện mới”. Như vậy, chủ trương phát triển giai cấp công nhân và tổ
chức Công đồn trong Dự thảo các văn kiê ~n Đại hơ ~i XIII của Đảng vẫn “phát triển giai cấp công
nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chun mơn, kỹ
năng nghề nghiệp”; nhưng đã bổ sung điểm mới rất quan trọng là phát triển giai cấp cơng nhân
“nhằm thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; đổi mới tổ chức và hoạt động của
cơng đồn phù hợp bối cảnh, điều kiện mới”.
Với tất cả sự quan tâm trên của Đảng ta và cả hệ thống chính trị, giai cấp công nhân đã
phát triển mạnh mẽ và tự ý thức được vai trò tiên phong lãnh đạo cách mạng xây dựng CNXH
của mình. Tuy chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 14% dân số, 27% lực lượng lao động xã hội, song hằng
năm giai cấp công nhân Việt Nam đã tạo ra trên 65% giá trị tổng sản phẩm xã hội và hơn 70%
giá trị thu ngân sách nhà nước. Về trình độ chun mơn, lực lượng lao động đã qua đào tạo có
văn bằng, chứng chỉ chiếm 22,37% (trong đó, lao động có trình độ đại học trở lên chiếm 10,82
%; cao đẳng chiếm 3,82%; trung cấp chiếm 4,65% và sơ cấp chiếm 3,08% (số liệu Tổng cục
Thống kê, quý II/ 2019).

Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh trong điều kiện nước ta tham gia nhiều hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới, những rào cản về khơng gian kinh tế, hàng hóa, dịch vụ, vốn, khoa
học - công nghệ, thị trường lao động được gỡ bỏ thì sự cạnh tranh giữa các nước càng trở nên
gay gắt và tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với nhiều thuận lợi, nhưng cũng
khơng ít khó khăn, thách thức; lực lượng lao động dịch chuyển nhiều hơn; số lượng doanh


nghiệp nhà nước giảm, doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước phát triển đa dạng, lao động khu
vực phi chính thức tăng. Do vâ ~y, đòi hỏi phải phát huy cao nhất hiệu quả các chủ trương của
Đảng, cơ chế, chính sách của Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ dành cho phát triển giai cấp cơng
nhân thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
2.2.2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất và cách mạng nhất,
là lực lượng xã hội duy nhất có sứ mệnh lịch sử.
Sứ mệnh lịch sử là sự tổng quát của giai cấp công nhân thơng qua chính đảng tiền phong, giai
cấp cơng nhân tổ chức, lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh xóa bỏ các chế độ người bóc lột
người, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, giải phóng giai cấp cơng nhân nhân dân lao động khỏi mọi sự áp
bức, nghèo nàn, lạc hậu xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân cần phải trải qua hai bước.
- Bước thứ nhất: giai cấp công nhân biến thành giai cấp thống trị và giành lấy chính quyền
nhà nước vào tay giai cấp mình.
- Bước thứ hai: giai cấp công nhân dùng sự thống trị của mình để từng bước đoạt lấy tồn bộ
tư bản trong tay giai cấp tư sản để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà
nước từ đó tiến hành tổ chức xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
Hai bước này quan hệ chặt chẽ với nhau, giai cấp công nhân không thực hiện được bước thứ
nhất thì cũng khơng thực hiện được bước thứ hai nhưng bước thứ hai là quan trọng nhất để giai
cấp cơng nhân hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân bắt nguồn từ địa vị kinh tế - xã hội khách
quan:

- Giai cấp công nhân ra đời và phát triển dưới chủ nghĩa tư bản, là bộ phận quan trọng nhất,
cách mạng nhất của lực lượng sản xuất có trình độ xã hội hóa cao.
- Giai cấp cơng nhân khơng có tư liệu sản xuất nên buộc bán sức lao động của mình cho nhà
tư bản để sống. Họ bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư mà họ đã tạo ra trong thời gian lao
động.


- Địa vị kinh tế xã hội giúp cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp cách mạng triệt để
và có khả năng thực hiện sứ mệnh lịch sử, đó là khả năng đồn kết tồn thể giai cấp công nhân
và các dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế chống chủ nghĩa đế quốc.
Trong suốt những năm qua, giai cấp công nhân Việt Nam đã khẳng định được vai trị của
mình, xứng đáng là bộ phận của giai cấp công nhân thế giới, tiếp tục lấy chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng. Ngày nay, công nhân Việt Nam chủ động tham
gia giải quyết các vấn đề là thu hút sự quan tâm hàng đầu của Việt Nam nói riêng và thế giới nói
chung. Các vấn đề đó có tính thời sự cao như dân số, mơi trường, văn hóa, năng lượng, lương
thực,…
Giai cấp cơng nhân là lực lượng kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
không chấp nhận chế độ đa đảng, đa ngun chính trị.
Giai cấp cơng nhân tham gia đơng đảo vào các thành phần kinh tế, lấy mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh để phấn đấu.
Giai cấp công nhân là lực lượng tiên phong trong đấu tranh phòng chống tiêu cực, tham
nhũng, tệ nạn xã hội, là lực lượng chính trị – xã hội quan trọng trong việc bảo vệ tổ quốc, giữ gìn
an ninh chính trị, trật tự xã hội, xây dựng nền quốc phịng tồn dân.
Kết luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân Việt Nam là xóa bỏ chế độ tư bản chủ
nghĩa, xóa bỏ chế độ bóc lột, tự giải phóng, giải phóng nhân dân lao động và tồn thể nhân loại
khỏi sự áp bức, bóc lột, xây dựng thành công xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn
và nghề nghiệp thực hiện “tri thức hóa cơng nhân”, nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ vào
sản xuất nhằm tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả làm việc, xứng đáng với vai trò lãnh đạo
cách mạng trong thời kỳ mới.

CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN VẬN DỤNG
3.1. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam ngày nay
Trong giai đoạn hiện nay khi mà đất nước ta đã và đang tiến hành công cuộc đổi mới trên
tất cả các lĩnh vực thì giai cấp cơng nhân Việt Nam phải “tự mình trở thành dân tộc”, tiêu biểu
cho quyền lợi của dân tộc, đặt quyền lợi dân tộc lên trên quyền lợi giai cấp, giữ vững bản chất
cách mạng, bản lĩnh chính trị của mình, lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân
chủ văn mình để phấn đấu và đặc biệt là trở thành lực lượng đi đầu trong công cuộc công nghiệp


hoá - hiện đại hoá, xây dựng đất nước thời kỳ đổi mới. Qua đó, giai cấp cơng nhân Việt Nam đã
khẳng định được vai trị của mình, xứng đáng là bộ phận của giai cấp công nhân thế giới, tiếp tục
lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng. Đặc biệt, giai đoạn
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay, giai cấp công nhân Việt Nam cần:
- Chủ động tham gia giải quyết các vấn đề là thu hút sự quan tâm hàng đầu của Việt Nam
nói riêng và thế giới nói chung. Các vấn đề đó có tính thời sự cao như dân số, mơi trường, văn
hóa, năng lượng, lương thực,…
- Là lực lượng kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, không chấp nhận
chế độ đa đảng, đa ngun chính trị.
- Tham gia đơng đảo vào các thành phần kinh tế, lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng dân chủ văn minh để phấn đấu.
- Là lực lượng tiên phong trong đấu tranh phòng chống tiêu cực, tham nhũng, tệ nạn xã
hội, là lực lượng chính trị – xã hội quan trọng trong việc bảo vệ tổ quốc, giữ gìn an ninh chính
trị, trật tự xã hội, xây dựng nền quốc phịng tồn dân.
Qua những phân tích nêu trên ta kết luận giai cấp cơng nhân Việt Nam có sứ mệnh lịch sử
như sau:
- Một là, xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ bóc lột, tự giải phóng, giải phóng
nhân dân lao động và tồn thể nhân loại khỏi sự áp bức, bóc lột, xây dựng thành công xã hội
cộng sản chủ nghĩa.
- Hai là, phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị,
trình độ học vấn và nghề nghiệp thực hiện “tri thức hóa cơng nhân”, nâng cao năng lực ứng dụng

công nghệ vào sản xuất nhằm tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả làm việc, xứng đáng với vai
trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới.
3.2. Mục tiêu xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam ngày nay
Xây dựng đội ngũ công nhân Việt Nam vừa có sức vừa có tài, đáp ứng yêu cầu cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; xây dựng đội ngũ công nhân Việt Nam gắn với thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế theo hướng công nghiệp và hiện đại, tạo ra một cơ cấu công nhân đơng
đảo, trẻ hóa, có tri thức ngày càng sâu rộng, hăng say trong lao động.
Nâng cao sự giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, hiểu biết pháp luật, tác phong công
nghiệp, kỷ luật lao động; xây dựng lối sống lành mạnh trong công nhân, nhất là công nhân trẻ,
cho đội ngũ cơng nhân tỉnh nói chung. Chú ý phát triển lực lượng công nhân trong các doanh


nghiệp Nhà nước, sao cho họ trở thành lực lượng nịng cốt trong giai cấp cơng nhân cả về số
lượng, chất lượng và sự giác ngộ chính trị.
Giáo dục truyền thống đấu tranh cách mạng, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, ý thức và vai
trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân để thực hiện tốt các nhiệm vụ trong q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập với khu vực và thế giới.
Điều quan trọng là vừa kế thừa được tinh hoa của nhân loại nhưng phải giữ gìn phát huy
được bản sắc tốt đẹp của dân tộc, phát huy được nội lực, sức mạnh Việt Nam trong q trình phát
triển.
3.3. Một số nhóm giải pháp chủ yếu để xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam ngày nay
Giai cấp công nhân nước ta không những bất cập so với yêu cầu phát triển chung của thời
đại mà đang thực sự bất cập với chính yêu cầu phát triển của bản thân sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa hiện nay. Chúng ta khơng phủ định mặt tích cực và những đóng góp chung to
lớn của đội ngũ giai cấp công nhân nước ta, bởi họ là lực lượng đang vận hành những cơ sở vật
chất và các phương tiện sản xuất hiện đại nhất của xã hội, quyết định phương hướng phát triển
chủ yếu của nền kinh tế, nhưng trước mặt trái của cơ chế thị trường và diễn biến phức tạp của
tình hình thế giới, nhiều cơng nhân lao động có biểu hiện phai nhạt về chính trị, một bộ phận chỉ
lo lắng nhiều đến những vấn đề thiết thực trước mắt, ít quan tâm đến những vấn đề lâu dài có
tính chiến lược như định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò vị trí của giai cấp cơng nhân. Dựa trên

phương hướng phát triển:
- Một là: Cần định hướng lại mục tiêu của giáo dục cho sát với yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực thích ứng với mục tiêu phát
triển cụ thể của từng giai đoạn.


Thực hiện nhất quán chủ trương xã hội hóa giáo dục, trong đó Nhà nước và các tổ
chức xã hội có nhiệm vụ đào tạo cơ bản ban đầu, các doanh nghiệp trực tiếp sử
dụng công nhân phải có trách nhiệm đào tạo nâng cao tay nghề, cập nhật kiến
thức chun mơn, tiêu chuẩn hóa chức danh nghề nghiệp trong mỗi doanh nghiệp.



Quan tâm đến đội ngũ giai cấp công nhân hiện nay là phải quan tâm đến trình độ
văn hóa, năng lực chun mơn, phẩm chất nghề nghiệp và ý thức chính trị của họ.
Xây dựng giai cấp công nhân phải thể hiện trước hết ở việc tổ chức đào tạo bồi
dưỡng nâng cao tay nghề và trình độ chun mơn.




Cần xem việc đào tạo nghề nghiệp, nâng cao trình độ chuyên môn là một trong
những chỉ tiêu pháp lệnh như mọi chỉ tiêu phát triển kinh tế – xã hội khác. Một
thế hệ công nhân mới giỏi về chuyên mơn, vững vàng về ý thức chính trị, tự họ sẽ
vươn lên làm chủ và đủ sức đối đầu với mọi thách thức.

Nâng tầm trí tuệ, năng lực chun mơn và ý thức chính trị cho đội ngũ giai cấp cơng
nhân, chính là nhân tố góp phần bảo đảm sự ổn định chính trị, củng cố vững chắc cơ sở chính trị
– xã hội của Đảng trong thời kỳ mới.
- Hai là: Phải xem công tác xây dựng Đảng, củng cố các đồn thể quần chúng là nhiệm

vụ có ý nghĩa sống cịn đối với phong trào cơng nhân hiện nay.
Để làm được điều này chúng ta phải thẳng thắn trả lời một câu hỏi lớn. Vì sao Đảng của
giai cấp cơng nhân, Cơng đồn của cơng nhân, Đồn Thanh niên là tổ chức chính trị của tuổi trẻ
cơng nhân, nhưng một bộ phận công nhân chưa thiết tha vào Đảng vào Đồn, chưa hồn tồn
xem cơng đồn là tổ chức của họ. Thực tế cho thấy công tác xây dựng Đảng và tổ chức cơng
đồn, đồn thanh niên chưa theo kịp yêu cầu phát triển của sự nghiệp đổi mới.
Một mặt do áp lực của những điều kiện khách quan, mặt khác bản thân các tổ chức đảng, cơng
đồn cũng bộc lộ những bất cập yếu kém, tự thân không theo kịp yêu cầu của sự phát triển,
nhưng không có những chấn chỉnh kịp thời. Đã đến lúc khơng chỉ dừng lại ở những chỉ thị nghị
quyết mà nên có những văn bản pháp luật thể chế rõ chỉ thị nghị quyết thành những quy định cụ
thể.
Đảng ta là Đảng cầm quyền, hoạt động của các tổ chức đảng, cơng đồn, đồn thanh niên
phải được hình thành trong từng doanh nghiệp bất kỳ thuộc thành phần kinh tế nào. Tuy nhiên
hoạt động của các tổ chức trên đây phải góp phần làm cho doanh nghiệp phát triển, sản xuất kinh
doanh đạt hiệu quả cao. Đời sống vật chất, tinh thần và các quyền lợi khác của người công nhân
phải được bảo đảm tốt hơn. Các chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước phải được thực thi và chấp hành nghiêm túc.
- Ba là: Phải thực sự chăm lo đến đời sống vật chất tinh thần của công nhân.
+ Ký các hợp đồng lao động với công nhân phải được xem là tiêu chuẩn bắt buộc đối với
các chủ doanh nghiệp. Ngoài hợp đồng lao động cần chú trọng thanh kiểm tra điều kiện làm việc
và cường độ lao động, không để và không cho phép chủ lao động ép công nhân làm việc vượt


quá mức về cường độ, thời gian làm việc. Vấn đề này cần phải sớm được pháp luật quy định cụ
thể.
+ Quan tâm thích đáng đến đời sống tinh thần, hình thành những tiêu chí có tính pháp
quy về ăn ở, nơi vui chơi giải trí, các tiện ích văn hóa cơng, chế độ nghỉ dưỡng, thưởng thức các
chương trình văn hóa nghệ thuật ở trong từng doanh nghiệp, ở mỗi cụm dân cư và các khu công
nghiệp tập trung.
+ Khuyến khích động viên và khen thưởng, cổ vũ mạnh mẽ các doanh nghiệp làm tốt,

phê bình và xử lý thích đáng các đơn vị cố tình khơng làm tốt, hoặc làm có tính chất đối phó,
chiếu lệ…
Sự thiếu thốn và nghèo nàn về đời sống văn hóa tinh thần sẽ làm cho đại bộ phận lao
động trẻ sống và làm việc trong mơi trường khơng có cảm hứng sáng tạo, tính tích cực xã hội
khơng có điều kiện phát huy, lao động chắc chắn sẽ không đem lại hiệu quả mong muốn, thiệt
thịi trước hết cho chính các doanh nghiệp.
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN (Hịa)
Tóm lại, từ các phân tích trên về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân cả về lý luận lẫn thực
tiễn đã khẳng định tính khách quan của sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân, đúng như lời của
C.Mác nói. Hiểu được rõ về giai cấp công nhân, đặc biệt là hiểu được sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân là một vấn đề hết sức quan trọng trong nhận thức của mỗi chúng ta, giúp ta có
những nhận thức đúng đắn đối với các giai cấp trong xã hội nói chung và giai cấp cơng nhân nói
riêng. Qua đó, mỗi cá nhân trong xã hội cần không ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm về giai
cấp, về nhận thức xã hội để nâng cao tri thức văn hóa của mình.
Trước những địi hỏi mới của cơng cuộc đổi mới hiện nay, để đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp
công nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, Đảng ta ln địi hỏi phải tăng cường hơn nữa bản chất
giai cấp công nhân thì mới đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới.
Cùng với việc đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước hiện nay, giai cấp công nhân
Việt Nam sẽ tăng nhanh về số lượng. Việc tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, giáo dục đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong giai cấp công nhân là
một yêu cầu cấp thiết cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân
dân ta đã lựa chọn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO



×