Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Tài liệu Đề cương ôn tập môn ngân hàng phát triển pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.22 KB, 63 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN
NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN

1
Câu 1: Vấn đề cơ bản về học thuyết Cung tiền: M1?
- Trong quá trình cung tiền, ai là người quyết định cung tiền trong nền kinh tế?
 Ý 1:cung tiền chỉ lượng cung cấp tiền tệ trong nền kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu mua hàng
hóa, dịch vụ, tài sản, v.v của các cá nhân (hộ gia đình) và doanh nghiệp(không kể các tổ chức
tín dụng).
M1: bằng tổng lượng tiền mặt (M0) và tiền mà các ngân hàng thương mại gửi tại ngân hàng trung ương.
M1 còn được gọi là đồng tiền mạnh.Có 4 đối tượng quyết định cung tiền trong nền kinh tế
- Ngân Hàng trung ương
Ngân hàng trung ương (có khi gọi là ngân hàng dự trữ, hoặc cơ quan hữu trách về tiền tệ) là cơ quan đặc
trách quản lý hệ thống tiền tệ của quốc gia/nhóm quốc gia/vùng lãnh thổ và chịu trách nhiệm thi
hành chính sách tiền tệ. Mục đích hoạt động của ngân hàng trung ương là ổn định giá trị của tiền tệ, ổn
định cung tiền, kiểm soát lãi suất, cứu các ngân hàng thương mại có nguy cơ đổ vỡ. Hầu hết các ngân
hàng trung ương thuộc sở hữu của Nhà nước, nhưng vẫn có một mức độ độc lập nhất định đối với Chính
phủ.
- Các tổ chức nhận tiền gửi
Hay còn gọi là Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với
nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Tổ chức tín dụng bao gồm hai loại: ngân hàng và tổ chức tín dụng phi ngân hàng.
- Những người gửi tiền
- Những người đi vay
Từ đây giúp ta biết được nhưng chủ thể mà ta cần tác động đến nếu muốn điều chỉnh cung tiền.
 Ý 2:Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô do Ngân hàng trung ương khởi thảo và
thực thi, thông qua các công cụ , biện pháp của mình nhằm đạt các mục tiêu: ổn định giá trị đồng
tiền, tạo công ăn việc làm ,tăng trưởng kinh tế .
Chúng ta có thể hiểu, chính sách tiền tệ là tổng hòa các phương thức mà NHTW thông qua các hoạt động
của mình tác động đến khối lượng tiền tệ trong lưu thông, nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu
2


kinh tế - xã hội của đất nước trong một thời kì nhất định. Mặt khác, nó là một bộ phận quan trọng trong hệ
thống chính sách kinh tế - tài chính vĩ mô của chính phủ.
Tùy điều kiện mỗi quốc gia, chính sách tiền tệ có thể được xác lập theo hai hướng: chính sách tiền tệ mở
rộng (tăng cung tiền, giảm lãi suất để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, giảm thất nghiệp nhưng lạm phát tăng
- chính sách tiền tệ chống thất nghiệp) hoặc chính sách tiền tệ thắt chặt (giảm cung tiền, tăng lãi suất làm
giảm đầu tư vào sản xuất kinh doanh từ đó làm giảm lạm phát nhưng thất nghiệp tăng - chính sách tiền tệ
ổn định giá trị đồng tiền).
Mục tiêu cuối cùng của CSTT:
- Ổn định giá trị đồng tiền:
- Tăng trưởng kinh tế
- Đảm bảo công ăn việc làm
Ngân hàng trung ương có thể sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ
- Ngân hàng trung ương có thể thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các ngân hàng thương mại, qua đó thay
đổi lượng tiền dự trữ R, và tổng lượng cung tiền M.
rrr tăng (giảm) ->rr tg (g)-m
m
tg (g) -> MS g (tg) và I tg (g)
- Thông quan lãi xuất triết khấu ( là lãi suất do ngân hàng TM vay để duy trì dự trữ)
MS=(1+Cr)/(rr+Cr) *B
+LSTK g -> B tg và rr giảm ->so nhân tiền m
m
tg - MS tg , i giảm
Và ngược lại
- Ngân hàng trung ương còn có thể điều chỉnh, bán các giấy tờ có giá của mình đối với các tổ chức
tín dụng, từ đó tác động tới lượng vốn khả dụng của các tổ chức này. Khi đó lượng cung tiền cũng
sẽ được điều tiết.
TH1: khi ngân hàng TW mua trải phiếu
B tg MS tg và i giảm  C tg, I tg  AD tg (slg Y tg, thất nghiệp tăng, giá tăng)
Mua khi nền kinh tế suy thoái
3

Và ngược lại khi bán trái phiếu khi nền kinh tế lạm phát cao
- Ý nghĩa của học thuyết cung tiền trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam?
Gắn liền với công cuộc đổi mới & mở cửa của nước ta, có nhiều yêu cầu cần giảI quyết cùng lúc như: vừa
ổn định vừa phát triển KT trong nước,vừa mở rộng giao lưu, quan hệ quốc tế, thu hút vốn đầu tư nước
ngoài,nhu cầu mở rộng lượng tiền cung ứng ngày càng lớn dẫn đến sự xác lập quan hệ cung-cầu mới về
tiền, trong khi đó vẫn phải tiếp tục ổn định KT Vĩ mô với hạt nhân là ổn định tiền tệ,tạo lập nền tảng cho
sự phát triển chung.
Ở Việt Nam,Dựa vào học thuyết cung tiền, Ngân hàng nhà nước đã đẩy mạnh dùng các công cụ sẵn có để
thực thi chính sách tiền tệ cho việc ổn định tình hình kinh tế cho từng thời điểm thích hợp.
Ta có lấy ví dụ về việc khi ngân hàng NNVN quyết định tung trái phiếu ra bán ở thời kỳ 1999 để thu hồi
1 lượng lớn tiền mặt đang có trong dân giảm lạm phát.
Hay việc thắt chặt tiền tệ khi ngân hàng NNVN sử dụng vào năm 2011, với mức dự trữ bắt buộc tăng lên
gấp đôi, giảm bớt múc tăng trưởng tín dụng…giúp nền kinh tế nước ta dần hồi phục trước tình hình khủng
hoảng chung trên toàn thế giới.
Bước vào thế kỉ 21, Việt Nam xác định mục tiêu tăng trưởng KT &công bằng XH, vì vậy việc lựa chọn
giaỉ pháp nào để xây dựng &điêù hành chính sách tiền tệ quốc gia có hiệu quả nhất vẫn là 1 vấn đề khó
khăn,phức tạp.
Câu 2: Vai trò trung gian tài chính
Các tổ chức tài chính trung gian là các tổ chức tài chính thực hiện chức năng dẫn vốn từ người có vốn tới
người cần vốn. Tuy nhiên không như dạng tài chính trực tiếp, người cần vốn và người có vốn trao đổi trực
tiếp với nhau ở thị trường tài chính, các trung gian tài chính thực hiện sự dẫn vốn thông qua một cầu nối.
Nghĩa là người cần vốn muốn có được vốn phải thông qua người thứ ba, đó chính là các tổ chức tài chính
gián tiếp hay các tổ chức tài chính trung gian.
Vốn luân chuyển trong nền kinh tế chủ yếu thông qua các tổ chức tài chính, các ngân hàng
thương mại mà không phải qua thị trường tài chính bởi có những chi phí thông tin và chi phí giao dịch lớn
trong nền kinh tế.
Để những người cho vay nhân ra được những người muốn vay và để những người đi vay nhận ra
được những người muốn ch vay là một vấn đề đòi hỏi chi phí đắt tiền. Khi một người cho vay tìm ra được
4
một người muốn cho vay, người này còn có thêm một khó khăn là phải chi phí thì giờ và tiền cho một

cuộc kiểm tra tín nhiệm để biết được liệu người vay có thể hoàn trả vốn của ông ta không. Ngoài các chi
phí thông tin này, quá trình thực tế cho vay hoặc mua một chứng khoán cần đến các chi phí giao dịch ;
trong trường hợp cho vay vốn, phải viết ra một hợp đồng vay thích hợp, còn trong trường hợp mua một
chứng khoán, phải thanh toán cho người môi giới.
Trung gian tài chính và ngân hàng thương mại có thể giúp giảm chi phí giao dịch trên cơ sở: tiết
kiệm do quy mô( góp những vốn muốn cho vay của nhiều nhà đầu tư với nhau cho vậy họ có thể thu được
lợi ích nhờ phương pháp tiết kiệm do quy mô, tức là, sự giảm chi phí giao dịch cho mỗi đô la đầu tư khi
quy mô giao dịch tăng lên) và mở rộng hiểu biết để giảm chi phí ( chẳng hạn, một ngân hàng có thể chi
nhiều tiền trong việc thuê một luật sư để soạn một hợp đồng pháp lý vay tiền hoàn hảo thì họ có thể sử
dụng hợp đồng này nhiều lần trong những giao dịch cho vay của họ, như thế hạ thấp chi phí về luật pháp
cho mỗi giao dịch). Như vậy, trung gian tài chính có thể cung cấp cho các khách hàng của mình những
dịch vụ linh hoạt, tức là những dịch vụ làm dễ dàng cho các khách hàng thực hiện giao dịch.
Hơn nữa, trong nền kinh tế luôn tồn tại tình trạng thông tin không cân xứng nên xuất hiện rủi ro
đạo đức và lựa chọn đối nghịch trong hoạt động luân chuyển vốn. Là nơi nắm bắt nhiều thông tin của
khách hàng cũng như các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, các trung gian tài chính sẽ giúp làm giảm những
loại rủi ro này và khiến cho các đồng vốn được đảm bảo an toàn hơn. Người cho vay sẽ an tâm hơn về
khoản tiền của mình.
Một đặc điểm nữa khiến các trung gian tài chính và ngân hàng thương mại được ưa chuộng hơn
thị trường tài chính, đó là: đối với những người có quy mô vốn nhỏ thì khả năng họ có thể tham gia thị
trường tài chính là rất thấp bởi những rào cản về chi phí hay điều kiện để tham gia. Còn đối với những
người có nhu cầu sử dụng vốn không quá lớn nhưng vẫn muốn có nhu cầu sử dụng vốn cho công việc của
mình thì việc tham gia trên thị trường tài chính là điều không thể. Trong những trường hợp trên, phương
án khôn ngoan nhất chính là thông qua tổ chức tài chính trung gian để đáp ứng nhu cầu về vốn của mình.
2. Tại sao vốn luân chuyển trong nền kinh tế lại chủ yếu thông qua các tổ chức tài chính, các
NHTM mà không phải qua thị trường tài chính?
Các tổ chức tài chính trung gian là các tổ chức tài chính thự chiện chức năng dẫn vốn từng
ườicóvốntớingườicầnvốn.Tuynhiênkhôngnhưdạngtàichínhtrựctiếp,ngườicầnvốnvàngườicóvốntraođổitrựct
iếpvớinhauởthịtrườngtàichính,cáctrunggiantàichínhthựchiệnsựdẫnvốnthôngquamộtcầunối.Nghĩalàngườicầ
nvốnmuốncóđượcvốnphảithông qua ngườithứba, đóchínhlàcáctổchứctàichínhgiántiếp hay
cáctổchứctàichínhtrunggian.

5
Vốnluânchuyểntrongnềnkinhtếchủyếuthông qua cáctổchứctàichính,
cácngânhàngthươngmạimàkhôngphải qua thịtrườngtàichínhbởicónhững chi phíthông tin và chi
phígiaodịchlớntrongnềnkinhtế.
Đểnhữngngườichovaynhânrađượcnhữngngườimuốnvayvàđểnhữngngườiđivaynhậnrađượcnhữngn
gườimuốnchvaylàmộtvấnđềđòihỏi chi phíđắttiền.Khimộtngườichovaytìmrađượcmộtngườimuốnchovay,
ngườinàycòncóthêmmộtkhókhănlàphảichiphíthìgiờvàtiềnchomộtcuộckiểmtratínnhiệmđểbiếtđượcliệungườ
ivaycóthểhoàntrảvốncủaông ta không.Ngoàicác chi phíthông tin này,
quátrìnhthựctếchovayhoặcmuamộtchứngkhoáncầnđếncác chi phígiaodịch ; trongtrườnghợpchovayvốn,
phảiviếtramộthợpđồngvaythíchhợp,còntrongtrườnghợpmuamộtchứngkhoán,phảithanhtoánchongườimôigi
ới.
Trunggiantàichínhvàngânhàngthươngmạicóthểgiúpgiảm chi phígiaodịchtrêncơsở: tiếtkiệm do
quymô(gópnhữngvốnmuốnchovaycủanhiềunhàđầutưvớinhauchovậyhọcóthểthuđượclợiíchnhờphươngphá
ptiếtkiệm do quymô, tứclà, sựgiảm chi phígiaodịchchomỗiđô la
đầutưkhiquymôgiaodịchtănglên)vàmởrộnghiểubiếtđểgiảm chi phí( chẳnghạn, mộtngânhàngcóthể chi
nhiềutiềntrongviệcthuêmộtluậtsưđểsoạnmộthợpđồngpháplývaytiềnhoànhảothìhọcóthểsửdụnghợpđồngnày
nhiềulầntrongnhữnggiaodịchchovaycủahọ, nhưthếhạthấp chi phívềluậtphápchomỗigiaodịch). Nhưvậy,
trunggiantàichínhcóthểcungcấpchocáckháchhàngcủamìnhnhữngdịchvụlinhhoạt,
tứclànhữngdịchvụlàmdễdàngchocáckháchhàngthựchiệngiaodịch.
Hơnnữa,trongnềnkinhtếluôntồntạitìnhtrạngthôngtin
khôngcânxứngnênxuấthiệnrủirođạođứcvàlựachọnđốinghịchtronghoạtđộngluânchuyểnvốn.
Lànơinắmbắtnhiềuthông tin củakháchhàngcũngnhưcácdoanhnghiệp, tổchứckinhtế,
cáctrunggiantàichínhsẽgiúplàmgiảmnhữngloạirủironàyvàkhiếnchocácđồngvốnđượcđảmbảo an toànhơn.
Ngườichovaysẽantâmhơnvềkhoảntiềncủamình.
Mộtđặcđiểmnữakhiếncáctrunggiantàichínhvàngânhàngthươngmạiđượcưachuộnghơnthịtrườngtàic
hính,đólà:
đốivớinhữngngườicóquymôvốnnhỏthìkhảnănghọcóthểthamgiathịtrườngtàichínhlàrấtthấpbởinhữngràocảnv
ềchiphíhayđiềukiệnđểthamgia.Cònđốivớinhữngngườicónhucầusửdụngvốnkhôngquálớnnhưngvẫnmuốncó
nhucầusửdụngvốnchocôngviệccủamìnhthìviệcthamgiatrênthịtrườngtàichínhlàđiềukhôngthể.Trongnhữngtr
ườnghợptrên,phươngánkhônngoannhấtchínhlàthôngquatổchứctàichínhtrunggianđểđápứngnhucầuvềvốncủ

a mình.
Câu 3: Vai trò của tổ chức chuyên biệt với nền kinh tế
6
d) Các công ty Tài chính Phát triển (Development Finance Companies DFC.s)
Thuộc loại này có thể bao gồm nhiều loại thể chế tài chính khác nhau. Tuy nhiên, đặc tính chung
của thể loại này là cung cấp tài chính dài hạn cho các dự án phát triển. Loại hình DFC thường hay gặp
nhất là ngân hàng phát triển, trong đó có một số chuyên doanh theo loại hình cho vay vốn, chủ yếu là cho
vay nông nghiệp hoặc công nghiệp.
Mặc dầu hiện nay các DFC thường hay chỉ có tại các quốc gia đang phát triển, thực tế không phải
lúc nào cũng đúng như vậy. Vấn đề đặt ra ở đây là tại sao các nước đang phát triển lại áp dụng hình thức
Tổ chức Tài chính Phát triển với một sự say mê rõ rệt tới như vậy, và liệu làm như vậy là có đúng không?
Câu hỏi thức nhất có thể được trả lời theo hai cách khác nhau. Thứ nhất, khu vực tư nhân không
cung cấp đủ các loại hình thể chế cũng như vốn để có thể cho vay dài hạn nhằm mục đích đầu tư. Hậu quả
của việc không tồn tại các thể chế tài chính tại nhiều nước lại bị làm trầm trọng thêm bởi việc không có
thị trường chứng khoán (bất kể là có tổ chức hay không có tổ chức) cũng như bởi sự khan hiếm của nguồn
vốn tự có (retalned earings) là loại vốn đáp ứng phần lớn nhu cầu về vốn cho khu vực công nghiệp và
dịch vụ tại Anh và Mỹ trong thể kỷ 19. Thứ hai, vai trò trung tâm trong phát triển kinh tế của chính phủ
đã buộc họ phải thành lập nên các thể chế để có thể xác định, đánh giá, khuyến khích, cấp tài chính và
thực hiện các dự án phát triển. Loại thể chế như vậy chính là ngân hàng phát triển. Tại nhiều nước vai trò
chủ đạo của chính phủ trong việc thúc đẩy phát triển không phải là xuất phát từ ý muốn “xã hội hóa” hoặc
“tập trung hóa” nền kinh tế, mà chính là từ việc nhận thức được sự thiếu hụt của khu vực tư nhân trong
việc đáp ứng nhu cầu đầu tư của quốc gia. Do vậy, ngân hàng phát triển đảm nhiệm một vai trò lớn hơn so
với trường hợp chúng chỉ đơn thuần là một thể chế tài chính của khu vực tư nhân. Loại hình ngân hàng
phát triển đã trở thành một công cụ chính sách của chính phủ, và thường được mong đợi là sẽ hoạt động
phù hợp với lợi ích phát triển kinh tế lâu dài của quốc gia. Đây là một chức năng thường mâu thuẫn với
tiêu chí hoạt động có lợi nhuận của những ngân hàng này.
Những mục đích rộng lớn hơn mà chính phủ mong đợi các ngân hàng phát triển thường có:
+ Tạo công ăn việc làm
+ Tiết kiệm hoặc tạo ngoại lệ
+ Phân phối thu nhập (giữa các giai cấp xã hội, các khu vực, các nhóm chủng tộc và thậm chí

giữa nam và nữ)
+ Đa dạng hóa công nghiệp
7
+ Hiện đại hóa nông nghiệp
+ Phát triển doanh nghiệp nhỏ
+ Khuyến khích hoạt động kinh doanh sáng tạo
+ Phát triển thị trường vốn
Do vậy, các Tổ chức tài chính Phát triển (DFC) có thể sẽ buộc phải cho vay vốn cho các dự án
theo đó:
+ Cơ cấu tài chính không đáp ứng được các tiêu chuẩn thương mại thông thường. Nhìn chung,
điều này có nghĩa là hệ số giữa vốn vay và vốn cổ phần thường quá cao do việc các cơ quan chủ quan dự
án không có khả năng huy động đủ vốn cổ phần. Các DFC có thể bổ xung cho nguồn vốn cổ phần còn
thiếu đó bằng cách đầu tư cổ phần vào một phần của dự án, mặc dầu làm như vậy có nghĩa là làm tăng rủi
ro của tổ chức đó tới một mức độ không còn được coi là hợp lý.
+ Ngân lưu của dự án không đáp ứng được các điều kiện thanh toán nợ thông thường. Khi đó, các
DFC buộc phải gia hạn thời gian ấn hạn, hoặc các thời hạn cho vay thông thường. Có thể các DFC sẽ làm
được như vậy nhưng đối với một DFC hoạt động trên cơ sở vốn lưu chuyển tuần hoàn, việc dự án chậm
thanh toán sẽ làm hại tới khả năng cấp vốn vay cho các dự án khác trong tương lai (và có thể là những dự
án đáng được cấp vốn vay hơn).
+ Ít hoặc không có hình thức bảo lãnh thế chấp phù hợp. Điều này thường đúng đối với trường
hợp các doanh nghiệp nhỏ (theo Kitchen, 1978) hoặc các doanh nghiệp đã mang thế chấp các tài sản hiện
có. Trong trường hợp các doanh nghiệp bị thất bại, thị trường mua bán các loại tài sản này lại rất có thể
chỉ mang tính chất hạn hẹp, do vậy khi đem bán chẳng thu được là bao. Tại các quốc gia càng nhỏ và
càng nghèo thì điều này càng đúng.
+ Các doanh nghiệp chủ đầu tư có ít kinh nghiệm trong lĩnh vực đang xin đầu tư hoặc trong các
lĩnh vực khác. Những rủi ro này rất có thực nếu như ngành công nghiệp hoặc loại hình công nghệ liên
quan là mới đối với quốc gia đó.
Như vậy, một điều rõ ràng là DFC phải chịu những rủi ro thương mại và tài chính rất lớn, và căn
cứ theo lý thuyết thị trường vốn, điều này sẽ đòi hỏi phải có một tỷ lệ sinh lợi. Tuy nhiên, việc phải đáp
ứng được các mục tiêu quốc gia của chính phủ lại thường có nghĩa là các tổ chức ngày thường buộc phải

cấp vốn cho các dự án có mức sinh lời dự kiến tương đối thấp, thấp hơn mức sinh lợi có thể chấp nhận
được theo tiêu chuẩn thương mại thông thường. Hơn nữa, các mục tiêu của chính phủ có thể sẽ làm cho
8
các DFC chỉ tập trung vốn cho vay và đầu tư cho một số ngành hoặc lĩnh vực nhất định (ví dụ: nông
nghiệp), do vậy làm các tổ chức này mất đi khả năng đa dạng hóa hình thức đầu tư của mình. Dường như
là các mục tiêu tài chính và quốc gia mà các DFC phải đáp ứng thường khó hòa hợp với nhau. Chỉ riêng
đáp ứng các yêu cầu tài chính của các tổ chức này cũng đã là một kế hoạch đầy tham vọng, nên việc đòi
hỏi chúng phải hoạt động như một tổ chức “xã hội” có thể là quá mức. Việc tồn tại nhiều dự án vừa khả
thi về tài chính lại vừa đáng mong ước về mặt xã hội sẽ loại bỏ được sự phân lập này. Tuy nhiên, những
biến dạng trong nền kinh tế nhiều nước đang phát triển lại có nghĩa rằng các tổ chức DFC chưa sẵn sàng
thỏa mãn được những mục tiêu mâu thuẫn này. Đồng thời, còn có mối nguy hiểm khác nữa là các tổ chức
DFC này sẽ trở thành “người cho vay cuối cùng” (lender of last resort) chuyên cấp vốn cho các dự án mà
các tổ chức tài chính tư nhân không chấp nhận cho vay.
Lý thuyết thị trường vốn có liên quan nhiều tới các ngân hàng phát triển. Trong lĩnh vực nhiều rủi
ro, việc theo đuổi mức sinh lợi cao là một việc quan trọng. Việc nhận thức được rằng một số lĩnh vực đầu
tư mang tính rủi ro cao hơn so với các lĩnh vực khác sẽ giúp các ngân hàng thấy phải sử dụng mức chiết
khấu cao hơn đối với các dự án nhiều rủi ro. Đồng thời, các tổ chức DFC cần phải đầu tư vào nhiều hình
thức vốn nợ và vốn cổ phần khác nhau để có thể đa dạng hóa các rủi ro riêng có. Nguyên tắc đa dạng hóa
lập luận rằng không nên thành lập các tổ chức tài chính mang tính chuyên doanh cao do các tổ chức đó sẽ
bị hạn chế trong việc đa dạng hóa rủi ro. Nếu các tổ chức DFC được vận hành theo đúng những nguyên
tắc nêu trên thì kết quả hoạt động của chúng sẽ ngày càng được cải thiện, giúp chúng thu hút được thêm
nguồn vốn mới (ví dụ thông qua phát hành trái phiếu), tạo điều kiện cho việc vay và đầu tư tăng thêm, và
nêu một tấm gương sáng cho khu vực tư nhân thấy là doanh nghiệp có thể hoạt động có lãi. Một tổ chức
DFC yếu kém vè mặt tài chính thường khó có thể tư vấn cho khách hàng cách thức vận hành doanh
nghiệp hoặc cách thức huy động thêm vốn cho mình trên thị trường. Tuy vậy, chúng ta cũng nêu nêu lên
rằng huy động vốn là vai trò thứ yếu của các DFC. Dĩ nhiên, các tổ chức này có thể tham gia vào thị
trường vốn thông qua hình thức phát hành trái phiếu và cổ phiếu (cho mình và cho khách hàng) nhưng các
tổ chức đó không được trang bị để huy động những khoản tích lũy nhỏ trên qui mô toàn quốc. Sẽ có hiệu
quả hơn nếu để cho các ngân hàng tiết kiệm và cho vay chuyên doanh hoặc các bưu điện thực hiện những
chức năng đó,

Đây có thể là một quan điểm gây nhiều tranh cãi, nhưng xem ra chúng ta nên tạo điều kiện cho
DFC hoạt động như là những thể chế tài chính tốt hơn là như những tổ chức xã hội và nên để cho chính
phủ tập trung giải quyết hoặc giảm bớt các biến dạng kinh tế thường buộc các tổ chức DFC phải giải
quyết những mục tiêu kinh tế và xã hội có thể mâu thuẫn nhau. Mối nguy hiểm của csc dự án yếu kém về
tài chính là ở chỗ mức sinh lợi của các dự án này thấp hoặc lâu sinh lợi (hoặc cả hai). Nếu phải cấp tài
chính cho những dự án như vậy, thì khả năng cấp vốn tài chính cho các dự án tương lai của các DFC sẽ bị
9
hạn chế, gây hại cho tăng trưởng kinh tế và tài chính quốc gia. Kinh nghiệm của DFC (Công ty Tài chính
Quốc Tế) là một ví dụ minh họa cho sự hoạt động kém hiệu quả của các DFC, IFC thu được mức sinh lợi
trung bình là 15% cho toàn bộ hoạt động đầu tư của mình, nhưng phần đầu tư của IFC vào các tổ chức
DFC chỉ mang lại được mức sinh lợi 10%.
Lý do tồn tại của một tổ chức DFC trong một nền kinh tế thị trường (hoặc hỗn hợp) là để nhằm
cung cấp vốn dài hạn (vốn vay hoặc vốn cổ phần) mà thị trường tài chính không có khả năng cung cấp.
Chúng ta không thể phủ nhận được rằng những khoản vốn đó là cần thiết cho công nghiệp, nông nghiệp,
một số ngành dịch vụ nhất định và các dự án cơ sở hạ tầng trong những trường hợp chính phủ không trực
tiếp cấp tài chính hoặc không dùng được vốn ngắn hạn để cấp vốn do không có khả năng có vốn liên tục
để cấp. Các tổ chức DFC đã cung cấp được nguồn vốn dài hạn tới mức độ mà các tổ chức đó có thể làm
được. Câu hỏi lúc này đặt ra là liệu các tổ chức DFC lẽ ra đã có thể làm việc đó một cách hiệu quả hơn
theo một phương thức khác tốt hơn hay không? Đồng thời, chúng ta cũng có thể thấy một điều rằng các tổ
chức DFC thường hay cấp vốn tài chính với mức lãi suất thấp hơn mức thị trường, mọt phần là do các tổ
chức này được nhận vốn ưu đãi từ chính phủ và đợc hưởng lợi bởi chính sách kiềm dchees lãi suất. Các tổ
chức này còn đóng vai trò là cơ quan cho vay lại (on-lending) các khoản vốn của các cơ qan cho vay nước
ngoài, chủ yếu cấp cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa là những doanh nghiệp cũng thường được nhận mức
lãi suất ưu đãi. Trong hầu hết mọi trường hợp, các tổ chức này có một vị trí được ưu ái và bảo hộ trong
khu vực tài chính, là nơi cũng ít diễn ra sự cạnh tranh giữa các thể chế tài chính.
Ở những nước chỉ có một số ít các tổ chức tài chính (và các tổ chức này lại hạn hẹp trong chiến
lược cho vay) và các hoạt động kinh doanh chỉ tập trung vào mục đích chộp giật cũng như khả năng bảo
lãnh vay nợ còn bị hạn chế, thì sự tồn tại của các tổ chức DFC là một sự cần thiết. Phần lớn các nước kém
phát triển đều ở trong tình trạng như miêu tả trên đây, nhưng các chính phủ theo đuổi mục đích phát triển
một khu vực tài chính cạnh tranh và ngày càng lớn cũng cần phải thấy rằng về lâ dài, vị trí được ưu ái của

DFC là không phù hợp với mục tiêu mà chính phủ đó đang theo đuổi. Hơn nữa, một tổ chức DFC được
bảo hộ thậm chí còn đưa tới tình trạng không khuyến khích được sự phát triển của các thể chế tài chính
thuộc khu vực tư nhân do khu vực tư nhân sẽ không thể cạnh tranh và hậu quả là việc phát triển khả năng
cung cấp tài chính dài hạn của khu vực tư nhân sẽ bị hạn chế. Tại một số nước, trong đó có cả Indonesia
và Philippine, các ngân hàng phát triển tư nhân cùng tồn tại với các ngân hàng phát triển của chính phủ và
điều đó cho thấy các ngân hàng tư nhân hoàn toàn có thể hoạt động được trong điều kiện hạn chế về
thương mại. Ngân hàng phát triển của Singapore là một công ty công cộng, có cổ phiếu niên giá trên thị
trường chứng khoán. Do đó, xét về mục đích lâu dài xem ra các chính phủ nên cho tư nhân hóa các ngân
hàng phát triển của mình và khuyến khích các tổ chức này phát triển và đa dạng hóa sang các loại hình
hoạt động khác như: cho thuê tài chính, quĩ vốn rủi ro như các loại hình dịch vụ tài chính khác.
10
Nếu trong trường hợp không phát triển hình thức các tổ chức DFC thì liệu có phương thức cung
cấp vốn dài hạn nào khác được phát triển thay thế hay không? Giải pháp thay thế có khả năng xảy ra
nhiều nhất là các ngân hàng thương mại thực hiện chức năng cấp vốn tài chính dài hơi hơn, và trên thực tế
sẽ trở thành các ngân hàng tổng hợp, hoặc nếu không thì theo một giải pháp khác thị trường vốn sẽ phải
phát triển mạnh hơn, trong đó có sư tham gia tích cực của các ngân hàng đầu tư, các tổ chức tài chính
(như công ty bảo hiểm, quĩ hưu trí) cho vay dài hạn và tham gia đầu tư cổ phần, đồng thời thị trường
chứng khoán sẽ phải phát triển mạnh hơn. Tại nhiều nước, giải pháp huy động vốn dài hạn thông qua thị
trường chứng khoán là không thể nghĩ tới trong những năm 50, 60 và thậm chí hiện nay vẫn còn đúng đối
với nhiều nước do ở đó có các tổ chức tài chính và thị trường chứng khoán bị hạn chế rất nhiều do không
có nhu cầu, thu nhập thấp, hoặc do chính sách kiềm chế tài chính. Trong hoàn cảnh đó, giải pháp thay thế
đối với nhiều nước cho mô hình các tổ chức DFC chuyên doanh sẽ là các ngân hàng thương mại sẽ
chuyển thành các ngân hàng tổng hợp. Điều này sẽ đòi hỏi phải có sự thay đổi lớn trong hoạt động của
ngân hàng, đi ngược lại với triết lý kinh doanh của ngân hàng cao tuổi. Đơn giản hơn, các ngân hàng
nước ngoài tại nhiều nước đang phát triển sẽ ngần ngại tham gia vào các cuộc chơi dài hạn khi tương lai
của các cuộc chơi này là không chắc chắn. Việc một số quốc gia ngần ngại trong việc cho phép các ngân
hàng nước ngoài gắn bó lâu dài với quốc gia mình cũng đã làm cho các ngân hàng nước ngoài càng thêm
gắn với quan điểm nêu trên. Mặc dù ngày nay các ngân hàng thương mại có xu hướng tham gia nhiều hơn
vào hoạt động cho vay dài hạn, xem ra ít có ngân hàng nào lúc trước đây lại sẵn lòng trở thành ngân hàng
tổng hợp. Do vậy, chúng ta hoàn toàn có thể kết luận được rằng trong những năm 1950 và 1960, không có

giải pháp thực tiễn nào thay thế cho hình thức DFC. Tuy nhiên rất nhiều quốc gia và nhiều tổ chức DFC
tại các nước đó hiện đã đạt tới mức độ chín muồi nhất định để có thể xem xét kỹ tới vai trò tương lai của
các tổ chức DFC đó.
(e) Các ngân hàng đầu tư theo kiểu Anh (merchant bank)
Các ngân hàng đầu tư là hình thức bổ trợ cho các ngân hàng thương mại theo kiểu Anh. Ở Mỹ,
chúng mang tên gọi là Investment Bank. Với việc loại bỏ các ủy ban chứng khoán nhỏ tại Mỹ vào năm
1975, các ngân hàng đầu tư đã chuyển hóa thành các tập đoàn tài chính lớn và tình hình hiện nay cho thấy
là các ngân hàng đầu tư của Anh cũng sẽ phát triển theo hướng tương tự khi chúng ta xét tới thỏa thuận về
việc xóa bỏ các ủy ban chứng khoán nhỏ tại đây. Nhìn chung, các ngân hàng tổng hợp thực hiện chức
năng của cả ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư. Do vậy, chúng ta sẽ thường chỉ thấy hình thức
đầu tư này (merchant bank) tại những nước có ngân hàng thương mại theo kiểu Anh hoặc Mỹ.
Trước đây, các ngân hàng đầu tư này chủ yếu chuyên doanh cung cấp tài chính thương mại, đặc
biệt là chuyên chấp nhận hối phiếu. Trong thế kỷ vừa qua, các ngân hàng này chuyển dần thành các ngân
11
hàng phát hành và kinh doanh chứng khoán, lúc đầu chủ yếu là các loại cổ phiếu của Chính phủ nước
ngoài và sau đó là cổ phiếu công ty. Các ngân hàng này cũng cung cấp nhiều loại dịch vụ công ty khác
nhau và thực hiện cả dịch vụ quản lý đầu tư (porttolio manager) cho các công ty và cá nhân. Khác với các
ngân hàng đầu tư kiểu Mỹ và các ngân hàng tổng hợp, các ngân hàng này không trực tiếp kinh doanh
chứng khoán. Trong cơ cấu tài chính kiểu Anh hiện nay, chức năng kinh doanh chứng khoán được dành
cho các công ty môi giới và kinh doanh chứng khoán. Mặc dù các ngân hàng đầu tư kiểu Anh có cung
cấp tài chính công ty (corporalefinace) và nhận tiền gửi, tổng lượng huy động trực tiếp của các ngân hàng
này thường là rất nhỏ. Các sản phẩm tài chính trọn gói chủ yếu bao gồm vốn của các tổ chức khác, phần
lớn là của các ngân hàng và các thể chế thương mại. Theo quan điểm của chúng tôi, tầm quan trọng chính
của các ngân hàng này chính là ở vai trò của chúng trên thị trường chứng khoán, và do vậy tôi sẽ để dành
mục này cho chương 6.
(g) Các quỹ tiết kiệm tại bưu điện (Posst Olllce SavingsBunks – FOSB).
Tại rất nhiều nước đang phát triển, bưu điện chính là thể chế nhận tiền gửi tiết kiệm dễ tiếp cận
nhất đối với đại bộ phận dân chúng, do bưu điện có chi nhánh ở khắp nơi, đặc biệt là các vùng nông thôn,
đồng thời lại không quá uỷ quyền trong con mắt của các tầng lớp thấp. Do đó, loại thể chế này huy động
được những khoản tích luỹ mà lẽ ra đã được cất kỹ trong gương hoặc đem ra chi dùng. Đồng thời, phương

thức này cũng không đòi hỏi chi phí tốn kém trong khâu điều hành do việc nhận gửi tiết kiệm chỉ là một
trong nhiều chức năng của bưu điện. Tuy nhiên, bưu điện không cung cấp tín dụng, do đó không thể được
coi là các tổ chức tài chính trung gian. Nguồn vốn huy động được của bưu điện thường được dùng để đầu
tư vào tín phiếu và trái phiếu chính phủ, do vậy góp phần vào tài chính Chính phủ. Trong chừng mực mức
lãi suất bị kiềm chế, chính phủ sẽ nhận được một nguồn vốn tài chính với giá rẻ từ các cơ quan bưu điện,
với phần thiệt thuộc về những người gửi phải chịu mức lãi suất bị kiềm chế. Hơn nữa, quy trình này
thường có xu hướng hút vốn ra khỏi các vùng nông thôn nghèo khó để đưa tới các vùng trung tâm.
UNESCO (1973) đã có nhận xét như sau trong bối cảnh của châu Phi: “Về việc huy động tích luỹ, các
quỹ tiết kiệm tại bưu điện là một hình thức thể chế thụ động và nên có một nỗ lực tích cực hơn đối với
nền kinh tế, đặc biệt là ở cấp địa phương”. UNESCO (1973) cũng chỉ ra rằng mức tiền gửi tiết kiệm tại
các tổ chức bưu điện ở Châu Phi cũng đã ở mức trì trệ, thậm chí giảm sút, nhưng tại thời điểm đó chỉ có
hai quốc gia Châu Phi là Algeria và Swaziland là đã thành công trong việc thay thế hình thức quỹ tiết
kiệm tại bưu điện bằng các loại hình thể chế thích hợp hơn đối với việc huy động tiền tiết kiệm của các hộ
gia đình – như Caisse Nationale d’Epargne et du Prevoyance (1966) và Ngân hàng Tín dụng và Tiết kiệm
Swaziland (1965). Rõ ràng, các quỹ tiết kiệm có thể được thực hiện được nhiều loại hình dịch vụ (đặc biệt
là cung cấp tín dụng) và có thể vận hành như là một thể chế địa phương hoặc khu vực, do đó có thể
12
khuyến khích kinh tế địa phương. Các tổ chức này cũng có thể cung cấp tín dụng của khu vực tư nhân
cũng như của Chính phủ.
(g) Các công ty bảo hiểm và quỹ hưu trí.
Các thể chế này tạo ra những cơ chế vô cùng quan trọng cho tích luỹ tại các nước phát triển và
các khoản đầu tư của các thể chế này chiếm vị trí chủ yếu trên thị trường chứng khoán. Ngược lại, tại các
nước đang phát triển, tầm quan trọng của các thể chế tài chính loại này lại rất hạn chế. Thứ nhất, yêu cầu
của loại hình thể chế này đòi hỏi người tích luỹ phải góp theo định kỳ (thường là theo thang), do vậy chỉ
hạn chế ở những người có thu nhập thường xuyên ổn định. Số người này ở các nước đang phát triển có ít
hơn là ở các nước phát triển. Thứ hai, các khoản góp nhiều khi không được khuyến khích do không có các
chính sách thuế cần thiết. Thứ ba, các thể chế thuộc loại này thường bị buộc phải đầu tư một phần đáng kể
(thậm chí toàn bộ) phần vốn của mình để mua chứng khoán chính phủ, mà những chứng khoán loại này ở
các nước bị kiềm chế tài chính lại thường chỉ mang lại mức sinh lợi thực (rcal) thấp hoặc âm. Ngoài ra,
những đòi hỏi như vậy còn hạn chế việc dùng vốn góp để đầu tư mua trái phiếu và cổ phiếu của công ty

mà lẽ ra các công ty bảo hiểm và quỹ hưu trí có thể thực hiện, vì vậy gây kiềm chế sự tăng trưởng của thị
trường chứng khoán và hạn chế nguồn vốn dài hạn dành cho khu vực tư nhân.
Mặc dù tầm quan trọng của các thể chế này trong tiết kiệm và đầu tư vẫn còn nhỏ bé tại các nước
đang phát triển, hiện tình hình cho thấy tại một số nước, các tổ chức này đang phát triển rất nhanh.
UNESCO (1973) có nhận xét về: “tốc độ tăng trưởng của các công ty bảo hiểm tại châu phi”. Tại
Indonesia, nguồn vốn huy động được bởi các công ty bảo hiểm nhân thọ và quỹ bảo hiểm xã hội tăng
47% và 45% trong các năm 1978 và 1979. (Mức tăng ưowng ứng trong chỉ số CPI là 28%). Xu hướng các
chính phủ thường cho phép cơ chế tích luỹ này được ưu đãi về thuế sẽ kích thích sự tăng trưởng của hình
thức này, mặc dù khi đó thị trường tài chính sẽ bị thêm nhiều biến dạng. Ngoài ra, có thể chế này đôi lúc
bị coi là những đối tượng đầu tư quá dè dặt và bảo thủ, không chạy theo mức sinh lợi cao. Trên thực tế, có
một số trường hợp chỉ mang lại sức sinh lợi vô cùng thấp. Trong những trường hợp như vậy, tác động của
sự biến động trên thị trường có thể dẫn tới tình trạng vốn bị hướng vào các khoản đầu tư an toàn nhưng
lợi tức thấp thay vì vào các khoản đầu tư mới, rủi ro cao hơn nhưng lợi tức hứa hẹn cũng cao hơn. Sự tăng
trưởng của bảo hiểm nhân thọ cũng chịu tác động của tỷ lệ lạm phát cao và tình trạng bị kiềm chế của thị
trường tài chính. Emery (1970) có cân nhắc rằng “khu vực bảo hiểm tại hầu hết các nước Đông Nam Á
không phải là một nguồn vốn đáng kể”. Chỉ có ở Malaysia các công ty bảo hiểm mới có vai trò quan
trọng trong việc cung cấp nguồn vốn phí ngân hàng. Ở Singapre, Philippine và Miến điện, các công ty
này chỉ đóng một vai trò tương đối quan trọng. Tại các nước khác, khu vực này luôn hoàn toàn không
quan trọng. Emery cho rằng sự tăng trưởng của khu vực này bị hạn chế do “chỉ có một bộ phận nhỏ dân
13
chúng có quan tâm tới bảo hiểm nhân thọ “và “tỷ lệ lạm phát cao ở indonesia và Việt Nam, 2 trong số
nhiều nước khác, cũng làm cho việc bán dịch vụ bảo hiểm bị hạn chế. Đối với các nước Mỹ la tinh, Riette
(1979) cũng nhận thấy rằng “tỷ lệ tích luỹ qua hình thức bảo hiểm nhân thọ đã ngày một giảm trong
những năm gần đây, chủ yếu là do tác động của lạm phát đã hạn chế việc bán các hợp đồng và chính sách
bảo hiểm nhân thọ”.
Các số liệu về nguồn vốn đầu tư cho hình thức bảo hiểm nhân thọ tại các nước thứ ba không được
đầy đủ lắm, mặc dù cảm giác chung là doanh số không lấy gì làm quan trọng. Rietti (1979) cho rằng tại
Châu Mỹ la tinh, chí có khoảng 5% bộ phận dân chúng tham gia hoạt động kinh tế là có mua bảo hiểm
sinh mạng, và trong toàn khu vực, chỉ khoảng 25% thu nhập quốc dân được mua bảo hiểm nhân thọ, trong
khi đó tại các nước phát triển, con số này là 100%.

Tương tự, các quỹ hưu trí cũng không có vị trí quan trọng. Emery (1970) báo cáo rằng chỉ có 4
nước Đông Nam Á (trên tổng số 10 nước) là có những quỹ hưu trí chính thức. Đó là Malaysia, Singapore,
Phillipine và Miến điện. Tuy nhiên, nguồn quỹ từ các thể chế này tại Malaysia, Singapore và Phillipine
cũng chiếm vị trí là một nguồn vốn dài hạn quan trọng và ở Malaysia, tính tại thời điềm cuối năm 1967,
tổng đầu tư của các quỹ hưu trí của cán bộ công nhân viên cũng chiếm tới 80% tổng vốn cho vay và đầu
tư của các ngân hàng thương mại. Kể từ đó tới nay, khu vực này cũng đã được mở rộng tại các nước khác
trong khu vực, trong đó có cả Indonesia. Việc đầu tư của các quỹ hưu trí cũng phải chịu những quy định
hạn chế của luật pháp và quy chế. Ở Nigeria chẳng hạn, Quỹ Hưu trí Quốc gia do chính phủ sở hữu đầu tư
phần lớn nguồn vốn của mình vào chứng khoán Chính phủ (theo Ajayi và Ojo). Tại Kenya, tình hình cũng
tương tự. Mức độ tăng hoặc huy động tích luỹ của các quỹ hưu trí bắt buộc cũng chưa được xác định rõ
ràng. Rất nhiều thành viên của các quỹ này có lẽ cũng sẽ tích luỹ một khoản đang kể phần đóng góp của
mình tại các quỹ tương tự và sự đóng góp của cán bộ công nhân viên trong các chương trình do chính phủ
đưa ra cũng chỉ là một khoản thuế lượng phát sinh thêm mà thôi. Nhưng tác động của các quỹ này, đặc
biệt đối với các quỹ do chính phủ lập ra, là đã hướng vốn tích luỹ vào trong tay chính phủ. Các quy này
còn thực hiện chức năng chuyển hoá thời hạn, do tính chất dài hạn của phí bảo hiểm cho phép vốn được
cấp vay trên cơ sở dài hạn. Phương án tích luỹ khác (ví dụ: gửi tiền tại ngân hàng thương mại) có sẽ
không cho phép thực hiện chức năng chuyển hoá thời hạn như vậy.
(h) Các công ty cho vay xây dựng nhà ở (Housing Finance Companies)
Các tổ chức này thường nhận tiền gửi của hội viên để cho các hội viên khác vay mua nhà. Người
tích luỹ thường gửi tiền nhằm mục đích có đủ tieu chuẩn vay mua nhà. Trên thực tế, có lẽ đây là lý do duy
nhất của việc tích luỹ theo phương thức này do một số công ty cho vay xây dựng nhà ở k hông dành cho
người gửi những điều khoản ưu đãi lắm. Phần lớn những khoản vốn gửi sẽ được dùng để cho vay mua
14
nhà hoặc xây nhà, và đáy là phương tiện quan trọng để có vốn xây dựng nhà ở. Phần vốn vay khả dụng
được dùng để đầu tư mua chứng khoán, thường là trái phiếu Chính phủ. Tại một số nước, các Chính phủ
thường có chính sách ưu đãi thuế đối với tiền gửi và tiền trả lãi vay thế chấp nhằm khuyến khích người
dân mua nhà, sở hữu nhà và tăng cường chất lượng nhà ở nói chung. Mặc dù mục tiêu là chính đáng, kết
quả thực tế lại là những biến dạng trên thị trường tài chính, theo đó tiền được đổ vào đầu tư nhà ở đạt mức
cao hơn so với trường hợp không có ưu đãi về thuế. Tại Anh, việc cấp vốn vay tài chính đầu tư nhà ở đôi
khi bị chỉ trích do đã hút một khoản quá lớn tiền tích luỹ vào mục đích đầu tư nhà ở, làm ảnh hưởng tới

đầu tư công nghiệp và kích thích giá nhà tăng cao.
Dĩ nhiên, các tổ chức này vay ngắn cho vay dài. Do vậy, chức năng chính của loại hình thể chế
này là chuyển hoá thời hạn, và cũng vì vậy mà các tổ chức này rất dễ bị đổ (run). Nhưng nhìn chung, họ
cũng tránh được rủi ro này thông qua việc nhận tiền gửi của nhiều đối tượng gửi nhờ, phần lớn các đối
tượng muốn gửi tiền để có đủ tiêu chuẩn vay đầu tư nhà ở. Mức tiền gửi ổn định và người vay trả nợ đúng
hạn là các yếu tố quan trọng đối với hoạt động của các tổ chức này. Tại một số nước, các tổ chức này
được chính phủ bảo đảm (thậm chí do chính phủ sở hữu). Tại các nước khác, như ở Anh chẳng hạn các tổ
chức này được bảo đảm bởi các thoả thuận “cứu hộ” ký kết giữa các tổ chức với nhau nhằm được giúp đỡ
trong trường hợp đổ bể. Các tổ chức này thường thu hút những người tích luỹ nhỏ và có cạnh tranh với
ngân hàng và bưu điện trong việc thu hút vốn gửi. Tuy nhiên, đối với người gửi tiền thì động cơ chính
chính là lời hứa sẽ được vay đầu tư nhà ờ sau khi đã đạt được một mức tiền gửi nhất định hoặc sau một
thời hạn tích luỹ nhất định. Vì lý do đó, các tổ chức cấp vốn vay xây nhà cũng có tác dụng khuyến khích
tích luỹ và có thể cũng tăng được tích luỹ, chứ không chỉ đơn thuần chuyển tích luỹ từ hình thức thể chế
này sang hình thức thể chế khác.
Một điều thú vị là nguồn gốc của các tổ chức cho vay đầu tư xây dựng bắt đầu tư những thể chế
tiết kiệm và cho vay phi chính thức tại miền bắc nước Anh trong thế kỷ 19. Có một số tồn tại mãi, song
cũng có một số chấm đứt hoạt động sau khi các thành viên của mình đã mua nhà xong. Quy mô và tầm
quan trọng của loại hình tổ chức này trong khu vực tài chính của Anh cho thấy tiềm năng phát triển thành
các tổ chức chính thức của các tổ chức tài chính phi chính thức tại các xã hội đang phát triển.
Tại các thuộc địa của Anh, mô hình này cũng diễn ra tương tự, ví dụ như tại Malaysia. Tuy nhiên,
tại các nước khác, các ngân hàng tiết kiệm và cho vay và các ngân hàng cho vay thế chấp mua nhà thường
là nguồn cung cấp vốn vay đầu tư ở nhà chính.
(i) Các ngân hàng tiết kiệm và cho vay (Savings and Loans Banks).
15
Các ngân hàng tiết kiệm (tên gọi tắt của các loại tổ chức nêu trên) là những trung gian tài chính
phi lợi nhuận, có những mục tiêu sau đây:
+ Nhận tiền gửi tiết kiệm cho đầu tư xây dựng nhà ở, đặc biệt cho nhóm người có thu nhập thấp.
+ Cấp tín dụng cho người gửi tiết kiệm và cho các đối tượng khác, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ
và cá nhân đóng trong vùng hoạt động.
Các tổ chức này có thể do chính phủ sở hữu hoặc do chính quyền địa phương, khu vự sở hữu,

nhưng cũng có thể hoạt động dưới hình thức hợp tác xã. Các tổ chức này có một lịch sử rất lâu đời, bắt
nguồn từ Scolland vào năm 1810. Ngân hàng tiết kiệm tín thác được thành lập ở Anh vào năm 1817 và đã
phát triển nhanh chóng, đạt số lượng 400 chi nhánh với tổng lượng tiền gửi 14 triệu Bảng Anh của
400,000 người gửi. Các tổ chức này không hoàn toàn đạt được mục tiêu của mình, vì hấp dẫn với cả tầng
lớp trung lưu cấp thấp, tầng lớp tư sản lẫn người nghèo, và vì vậy đã dẫn tới hình thức quỹ tiết kiệm tại
bưu điện vào năm 1861. Fishlow (1961) có nhận xét rằng:
Các quỹ tiết kiệm tại bưu điện được thành lập vào năm 1861 chính là để bù đắp cho sự thất vọng
với hoạt động của các ngân hàng tiết kiệm. Hình thức mới này nhanh chóng vượt ngân hàng tiết kiệm cả
về mức tiền gửi lẫn số lượng người gửi tiền. Đồng thời, hình thức này có thể thu hút được người gửi
thuộc tầng lớp thấp một cách có hiệu quả hơn. Ngân hàng Tín thác, vốn được thành lập với những niềm
hy vọng to lớn, mau chóng bị đưa xuống vai trò th ứ yếu trong việc thu hút các khoản tích luỹ nhỏ.
Mặc dù khái niệm về hình thức ngân hàng tiết kiệm rất hấp dẫn đối với các nước đang phát triển
do thu hút được các khoản tích luỹ mà lẽ ra đã không được sử dụng, hình thức này không thể mặc nhiên
được coi là liều thuốc chữa bệnh đối với khu vực tài chính của các nước đang phát triển. Một điều thú vị
là UNESCO (1973) đã có báo cáo rằng xu hướng chung của các nước châu Phi là thực hiện tổ chức lại
các quỹ tiết kiệm tại bưu điện thành các ngân hàng tiết kiệm, hoặc thành lập những ngân hàng tiết kiệm
mới. Cuối những năm 60 và trong những năm 70 một số nước cũng đi theo một trong số các mô hình trên.
Chúng ta hãy cùng đánh giá hoạt động của các tổ chức này sau 10 – 15 năm hoạt động.
Cơ cấu cho vay của các ngân hàng tiết kiệm tại các nước rất khác nhau. Tại Mỹ, các hiệp hội cho
vay và tiết kiệm là nguồn cấp vốn lớn nhất cho đầu tư nhà ở nhưng Viện Ngân hàng Tiết kiệm Quốc tế
lại không phân loại đó là một ngân hàng tiết kiệm. Các tổ chức cho vay đầu tư xây dựng cũng không được
phân vào loại này. Tuy nhiên, một điều rõ ràng là nhìn chung một trong những chức năng cho vay chính
của các ngân hàng tiết kiệm là cung cấp tài chính xây dựng nhà ở. Tại Tây Ban Nha, các tổ chức này cung
cấp tới 75% lượng vốn cho vay thế chấp nhà ở. Ở Ý và Đan Mạch, con số tương ứng khoảng 70%. Tại
Argentina, lượng vốn cho khu vực công cộng vay chiếm khoảng 40% tổng lượng cho vay của các ngân
16
hàng tiết kiệm, tại Úc con số này là 35%, tại Thái Lan là 30%. Có một số cho vay các doanh nghiệp nhỏ
tại địa phương là chủ yếu. Các tổ chức xây dựng, quỹ tiết kiệm tại bưu điện, ngân hàng cho vay và tiết
kiệm đều có một chức năng chung là huy động các khoản tích luỹ nhỏ của tư nhân. Tại nhiều nước, các tổ
chức này cùng tồn tại một lúc, (Tại Anh, các tổ chức thuộc loại này cùng tồn tại với Ngân hàng Tiết kiệm

Quốc gia của Chính phủ, có chức năng tương tự) và cùng cạnh tranh để thu hút vốn. Tuy nhiên, các tổ
chức này lại rất khác nhau trong việc cấp tín dụng. Hiện còn chưa rõ đâu là giải pháp cho phép tối đa hoá
nguồn vốn huy động hoặc đâu là giải pháp ít tốn kém nhất. Tuy nhiên, việc các tổ chức cho vay và tiết
kiệm phát triển với chi nhánh khắp nơi trong nước xem ra là rất hấp dẫn đối với các nước đang phát triển
do các tổ chức này có thể thu hút những khoản tích luỹ nhỏ, tại khu vực nông thôn, đồng thời cung cấp tín
dụng cho các loại hình hoạt động khác nhau.
Các tổ chức cho vay và tiết kiệm tại các nước châu Mỹ la tinh có xu hướng theo mô hình của Mỹ,
với phần lớn là các tổ chức cho vay xây dựng, trừ lại các thuộc địa cũ của Anh. Tổ chức cho vay và tiết
kiệm đầu tiên trong khu vực được thành lập tại Peru vào năm 1957 nhưng sau đó trong những năm 60 và
70, rất nhiều nước khác thành lập theo. Kết quả là hầu như mọi quốc gia trong vùng đều có loại tổ chức
này. Tuy nhiên, ngay từ năm 30, 40, 50 các ngân hàng thế chấp cũng đã được thành lập để cung cấp vốn
xây dựng nhà ở (chủ yếu cho giới trung lưu).
Cho tới năm 1970, Philiopine là nước duy nhất ở Châu Á có các tổ chức cho vay và tiết kiệm. Ở
đó cũng có các ngân hàng tiết kiệm và các tổ chức cho vay xây dựng. Tại Hồng Kông có các tổ chức cho
vay và xây dựng, trong khi đó tại Malaysia và Singapore có các công ty cho vay xây dựng Emery (1970)
có nhận xét: một trong các nhóm thành công nhất chính là các tổ chức cho vay xây dựng của Malaysia và
Singapore… Sự hoạt động của các tổ chức này có thể được coi là hình mẫu cho các nước Đông Nam Á
khác.
2. CÁC TỔ CHỨC BÁN CHÍNH THỨC VÀ KHÔNG CHÍNH THỨC.
(a) Các hợp tác xã tín dụng và các hiệp hội tín dụng.
Các chương trình cho vay và tiết kiệm hợp tác xã hay tiết kiệm tương hỗ là khu vực chính thức
tương đương với các chương trình cho vay và tiết kiệm không chính thức (xem dưới đây). Các tổ chức
này chính thức ở chỗ chúng có đăng ký với Cục Đăng ký (hay phòng đăng ký) của các hợp tác xã hay các
Cục đăng ký của các Tổ chức Tương hoá xã hội. Cả Emery (1970) và Drake cho rằng các hợp tác xã
thành công nhất là các hợp tác xã đô thị, nơi mà hầu hết thành viên là những người làm công việc văn
phòng “công nhân cổ trăng”. Các tổ chức này dường như là cung cấp tín dụng tiêu dùng hơn là các quỹ
đầu tư. Các hợp tác xã nông nghiệp, mặt khác đôi thi được các chính phủ và các FDI sử dụng như là
17
phương tiện để chuyển các khoản vay cho các tiểu nông để mua thiết bị, cải thiện đất đai và sử dụng vào
vốn lưu động và vì vậy chúng ngay lập tức được coi là công cụ để cung cấp các tài trợ đầu tư. Hoạt động

của chúng đã trở nên rất tồi tệ ở một số nước do việc thất thu các khoản nợ. Hoạt động của chúng đã trở
nên rất tồi tệ ở một số nước do việc thất thu các khoản nợ. Mặc dầu các tổ chức tín dụng hợp tác xã có
thể là nguồn tài chính cho các tiểu nông, cấc tổ chức này, về mặt số lượng, ít khi cung cấp một khoản lớn
tín dụng nếu xét trong tổng tín dụng quốc gia.
Các hiệp hội tín dụng thực hiện các chương trình tiết kiệm hợp tác xã tức là cung cấp tín dụng
cho các thành viên. Với sự động viên của Uỷ ban hiệp hội tín dụng thế giới và một số các Hiệp hội Quốc
gia của các hiệp hội tín dụng như ở Canada hay ở Mỹ, chúng ta được thành lập ở một số lớn các nước
đang phát triển. Các tổ chức này thường là các tổ chức địa phương xét về mặt các thành viên và các hoạt
động của chúng, chủ yếu tập trung tại các làng, cơ sở làm việc, thậm chí các tổ chức như nhà thờ. Các tổ
chức này rất thịnh hành tại một số nước. Emery (1970) ghi lại rằng ở Philippin có hơn 1000 các hiệp hội
tín dụng vào cuối năm 1967. Vào cuối năm 1972, 21 nước Châu phi có các hiệp hội tín dụng. Các tư cách
pháp nhân của các hiệp hội tín dụng ở các nước khác nhau thì khác nhau. Các tư cách pháp nhân của các
hiệp hội tín dụng ở các nước khác nhau thì khác nhau; ở một số nước chúng là các tổ chức pháp lý do Nhà
nước quản lý; ở một số nước khác chúng không có tư cách pháp nhân và thực sự thuộc về khu vực tài
chính không chính thức.
Thường các tổ chức này bao gồm ít thành viên tham gia (tối thiểu là 25 thành viên) và khối lượng
vốn nhỏ, các tổ chức này trả lãi cho các khoản tiền gửi và thu lãi (thậm chí lãi cao hơn rất nhiều) đối với
các khoản cho vay đối với các thành viên. Các khoản vay thường là ngắn hay trung hạn (lên tới 2 năm),
hầu hết cho các mục đích tiêu dùng như là cưới xin, ma chay, mua sắm ô tô và phần trả trước cho việc
mua nhà cửa. Trong nhiều trường hợp cấc tổ chức này cung cấp cách tiếp cận các tín dụng mà các khu
vực (ví dụ như các ngân hàng thương mại). Việc giám sát và quản lý thường do các chuyên viên được bổ
nhiệm theo tinh thần tự nguyện thực hiện, nhằm giữ các chi phí ở mức thấp, nhưng việc quản lý kém có lẽ
là nhược điểm lớn nhất của các tổ chức này. Thêm vào đó, chúng cũng gặp các trường hợp vay nợ không
trả được và đặc biệt khi việc giám sát kém dẫn đến biến thủ vốn. Các tổ chức này không cấp tín dụng cho
những người ngoài tổ chức và vì số lượng nhân viên hạn hẹp các tổ chức này có rất ít cơ hội để phát triển.
Trong nhiều trường hợp chúng cung cấp tín dụng với lãi suất thực âm cho những người gửi tiền dẫn đến
không khuyến khích việc tiết kiệm.
Sai lầm của các hiệp hội và hiệp hội và hợp tác xã tín dụng, rất dễ xảy ra, và cần phải thừa nhận
rằng mối quan hệ của tác giả với các tổ chức tín dụng (ở Zambia) cho thấy rằng các tổ chức này còn phải
phấn đấu nhiều hơn nữa. Vì vậy thật là hài lòng khi ghi nhận một báo cáo gần đây rằng một số các tổ

18
chức và hiệp hội tín dụng thành công trong việc cung cấp tín dụng nông nghiệp và nông thôn ở Châu Phi
(Van Pizchke và Rouse, 1983). Báo cáo cho biết tổ chức Caisse Nationale de Crelit Agricole (Morocco)
chương trình tiết kiệm hợp tác xã của Kenya, các hiệp hội tín dụng ở Camcroun, các câu lạc bộ tiết kiệm
nông thôn ở Zimbabwe và các nhóm tín dụng ở Malawi đã thành công hay ít nhất là một phần nào đó
thành công. Những tổ chức này đối ngược với các thất bại chung của các tổ chức tự chovay nông thôn
huy động các nguồn vốn nội bộ”.
(b) Các hội Cho vay và Tiết kiệm không chính thức.
Các chương trình tín dụng hợp tác xã và các hiệp hội tín dụng thường đăng ký với chính phủ hay
là một phần của phong trào quốc gia và vì thế được coi là chính thức hoặc là các tổ c hứ bán chính thức.
Ngoài các tổ chức kiểu này, các hội cho vay và tiết kiệm không chính thức với chức năng như là các câu
lạc bộ tiết kiệm cho các thành viên và cũng cung cấp các khoản vay cho các thành viên. Chủng được sử
dụng bởi phần lớn những người không thể tiếp cận được với các hiệp hội cho vay và tiết kiệm không
chính thức, và không có các tài khoản ngân hàng, hoặc là vì các tổ chức chính thức không gần về mặt địa
lý, hoặc vì các cá nhân không có vị trí tài chính và xã hội thích hợp. Vì vậy hình thức này rất phổ cập ở
các vùng nông thôn nói chung có thể cung cấp các thông tin rẻ hơn những người cho vay khác, và cũng
rất phổ cập tại các vùng đô thị nơi mà chúng cung cấp những lãi suất hấp dẫn hơn so với các tổ chức tín
dụng đông đúc khác cho những người tiết kiệm.
Các hội hội cho vay và tiết kiệm không chính thức có thể hoạt động theo nhiều cách khác nhau.
Có thể là các quỹ có vốn cố định (như các ngân hàng), có nguồn vốn biến động, trong đó các thành viên
đóng góp theo từng tháng, lần lượt, cố định hay theo kỳ. Họ có thể cho vay vì bất cứ mục đích nào hay có
thể giới hạn việc cho vay cho một số các mục đíc nhất định như nhà cửa hay giáo dục. Chúng có thể tồn
tại để tiết kiệm việc chi tiêu của cộng đồng, như là các nhà máy cung cấp điện của làng xã. Việc quản lý
thường được các thành viên cung cấp miễn phí và vì vậy chi phí rẻ hơn. Trong khi các hiệp hội có thể
quan trọng đối với các thành viên, nhưng thực tế thì chúng chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng tiết kiệm
của toàn đất nước. Tuy nhiên, Begashaw (1977) ước lượng rằng ở Ethiopia, các hiệp hội không chính
thức thực hiện tiết kiệm và cho vay lên tới 8% hay hơn của tổng thu nhập đất nước.
Các ngân hàng di động có thể hoạt động trên cơ sở không chính thức, cung cấp các dịch vụ cho
các thương nhân và tại thị trường. Chúng có thể trong một số trường hợp hoạt động như là các đại lý của
những người cho vay hoặc các thương nhân trong khu vực không chính thức, như ví dụ ở Đông Phi theo

Miracle, và Cohen (1980). Những người cầm đồ trên toàn thế giới cung cấp các tín dụng trên khu vực
không chính thức ở các nước như Đông Nam bao gồm Indonêsia vàMiến Điện thì do chính phủ sở hữu và
điều khiển hoạt động. Các tổ chức này có thể khá lớn nhưng các số liệu về chúng thì còn rất hạn chế. Ở
19
Indônêsia năm 1979, ví dụ các hiệu cầm đồ cho vay cỡ khoảng 90 tỷ rupi, trong khi đóng góp bảo hiểm
nhân thọ chỉ khoảng 66 tỷ rupi (theo báo cáo thường niên của Ngân hàng Indonesia 1980/ 1981). Emery
(1970) báo cáo rằng ở Thái Lan các hiệu cầm đồ cung cấp một nguồn rất quan trọng đứng khoảng thứ tư
sau các ngân hàng thương mại, Ngân hàng Tiết kiệm Chính phủ và Ngân hàng Trung ương, năm 1968.
(c) Tín dụng nông nghiệp và các thị trường tín dụng nông thôn không chính thức.
Khu vực tài chính nông thôn ở những nước đang phát triển còn rất rời rạc khác biệt với khu vực
tài chính đô thị. Thường thì các tổ chức đô thị thường tiếp cận các vùng nông thôn một các chắp vá. Tuy
nhiên các cơ hội đối với tiết kiệm và tín dụng ở các vùng nông thôn rất hạn hẹp và ít hơn nhiều so với
thành thị, thường nảy sinh các "sở hữu tay đôi về tài chính". Tại các vùng nông thôn khu vực tài chính
không chính thức trở nên quan trọng hơn tại các vùng đô thị, và các tổ chức bán chính thức như các hợp
tác xã tín dụng thường được thấy nhiều hơn là các ngân hàng và các hiệp hội địa ốc. Nhiều chính phủ (và
các tổ chức trợ giúp) đã cố gắng thiết lập các tổ chức tín dụng nông nghiệp với mục đích là chuyển tín
dụng (thường là tín dụng trợ cấp) cho các tiểu nong. Các tổ chức như vậy thường không nhận tiền gửi và
cũng không huy động vốn.
Thực tế là các chính phủ đã bỏ nhiều công nghiên cứu vấn đề này cho rằng chức năng của các tín
dụng nông thôn không thể thực hiện một cách thích đáng bởi khu vực tư nhân hay ít nhất là khu vực tư
nhân chính thức. Các ngân hàng thương mại cho rằng khối lượng kinh doanh ở các vùng nông thôn là
thấp. Tính đến chi phí cố định tương đối cao của các chi nhánh ngân hàng, các ngân hàng thấy rằng khó
có thể hoạt động hiệu quả ở nhiều vùng, đặc biệt là nếu họ không được phép điều chỉnh chênh lệch giữa
lãi suất cho vay và lãi suất vay để trang trải các chi phí giao dịch. Thậm chí nếu họ muốn làm điều này họ
có thể sẽ thành công chỉ khi họ phải di chuyển đi lại nhiều. Thứ đến họ luôn coi tín dụng nông thôn và
trang trại nhỏ là tín dụng có rủi ro cao và thường có xu hướng giảm lợi nhuận trừ khi họ có thể tăng lãi
suất cho vay mà không giảm cầu về vay.
Vì vậy đối với các vùng rộng lớn trên thế giới, các thị trường tài chính nông thôn thường hoạt
động trên các chương trình hợp tác xã không chính thức hoặc bán chính thức, với những người cho vay
truyền thống (bao gồm thương nhân, người môi giới và các địa chủ). Những người cho vay này thường bị

phê phán vì đã thu những lãi suất quá đáng. Bottomley (1963, 1964, 1975) đã phân biệt 4 nhân tố quyết
định lãi suất ở các vùng nông thôn.
- tỷ lệ lãi suất phi rủi ro (đây là chi phí cơ hội của huy
động vốn);
Cộng với - phần thu bù đắp rủi ro.
20
Cộng với - phần thu bù đắp chi phí giao dịch
Cộng với - nhân tố của lợi nhuận độc quyền.
Khó mà có thể thực hiện việc phân chia các lãi suất nông thôn theo 4 nhân tố này. Thường thì,
mặc dù kết quả thu được là lãi suất thương mại tại các vùng nông thôn thường lớn hơn nhiều so với lãi
suất các tổ chức tín dụng chính thức thu của khách hàng. Ngân hàng thế giới (1975) đã ghi lại lãi suất
danh nghĩa và lãi suất thực tế đối với nông dân, theo nguồn cho vay. Tại tất cả các nước được liệt kê, lãi
suất thương mại do các cá nhân cho vay thu thường cao hơn nhiều so với lãi suất các tổ chức tín dụng thu.
Lãi suất thực tế được liệt kê cho tất cả các ngân hàng thương mại và các tổ chức cho vay ở 23 nước. Tóm
tắt một cách sơ lược, lãi suất thực tế thu, trung bình trên 23 nước, là 3.6% đối với các tổ chức cho vay và
54% đối với các cá nhân cho vay. Sự chênh lệch thật sửng sốt.
Tất nhiên hầu hết các tổ chức tín dụng đều được trợ cấp, nhưng người ta buộc phải nói đến lý do
khác đối với việc thu lãi suất quá cao của các cánhan cho vay. Trong số 4 nhân tố quyết định cho
Bottomley đưa ra, 3 lý do hoàn toàn có thể giải thích cho việc thu lãi quá cao này. Trên tất cả thị trường
tài chính, lãi suất bao gồm tỷ lệ phi rủi ro cộng với phần trả cho rủi ro chấp nhận cộng với chi phí giao
dịch là rất phổ biến. Thực tế, thị trường tiền tệ không thể tồn tại nếu không có cơ sở như vậy cho lãi suất.
Điều mà không thể chấp nhận được (không nghi ngờ gì chỉ có thể chấp nhận được đối với người cho vay)
là nhân tố lợi nhuận độc quyền, mà tôi sẽ trình bày một cách kỹ hơn dưới đây. Một giải thích có thể nữa
là đối với lãi suất rất cao là những người cho vay thường dự đoán quá cao rủi ro của tín dụng nông thôn,
và vì vậy đã thu phí rủi ro cao. Chúng tôi có ý định không đề cập nhiều đến lý do này vì cho rằng những
người cho vay có kinh nghiệm và hiểu công việc kinh doanh của họ. Phần thu bù đắp cho rủi ro có thể cao
nhưng dẫu sao cũng có thể điều chỉnh được. Tuy vậy còn có một lý do nữa không được nói đến trong các
nhân tố quyết định của Bottomely là sự thiếu hiểu biết của người vay. Thật đơn giản là họ không nhận
biết được lãi suất thực sự mà họ trả, đặc biệt đối với tín dụng ngắn hạn. Hơn nữa, họ không biết các
nguồn vốn rẻ hơn để xin vay hoặc là chính thức hoặc là không chính thức. Gần đây chính phủ Anh đã đưa

ra yêu cầu rằng tất cả những người cho vay cần phải đưa ra giá thực tế tính theo năm và đầy là điều cần
thiết để bảo hộ người vay, người không bao giờ nhận ra được giá thực của khoản vay. Vấn đề cần phải
bàn kỹ hơn đối với các nước đang phát triển nơi mà giáo dục và máy tính cá nhân còn chưa được sử dụng
rộng rãi. Tuy vậy, bằng chứng về vấn đề này dường như là cá biệt hơn là hệ thống.
Các tác giả khác nhấn mạnh các nhân tố khác mà tồn tại tại các thị trường chưa hoàn hảo. Long
(1973) bao gồm:
- Khan hiếm tư bản;
21
- Chi phí quản lý cao;
- Tỷ lệ không trả được nợ cao;
- Tính thời vụ của nhu cầu tín dụng.
Là các lý do có sự chênh lệch giữa lãi suất trong thị trường chính thức và không chính thức. Các
chi phí quản lý và tỷ lệ không trả được nợ cao cũng được miêu tả trong sách của Bottomley, nhưng sự
khan hiếm vốn và tính thời vụ của cầu tín dụng được nhấn mạnh ở sự khác biệt giữa cung và cầu giữa khu
vực không chính thức và chính thức. Wai (1975, 1997) đề cập tới cung (thiếu vốn, lợi nhuận độc quyền,
bảo đảm thiếu tin cậy, tỷ lệ không trả nợ) và cầu (mức thu nhập thấp của nông nghiệp, vay phục vụ nhu
cầu sơ đẳng về thức ăn, quần áo và chỗ ở, nhu cầu thời vụ; và mức giáo dục và tỷ lệ biết chữ thấp) để giải
thích cho lãi suất trong thị trường không chính thức.
Lợi nhuận độc quyền là nhân tố của tín dụng nông thôn mà gây nên tranh luận trong giới giáo dục
và đã trở thành mục tiêu của những nhà quản lý cop, những người muốn giảm ảnh hưởng bằng việc cung
cấp các tín dụng rẻ và các tín dụng từ các tổ chức tín dụng để thay thế. Nhưng mức lợi nhuận độc quyền
để đến mức độ nào? Không may là các bằng chứng còn rất hạn chế. Xin trích dãn lời Ngân hàng thế giới
(1975).
Rất ít nghiên cứu cho thấy các vấn đề về lãi suất trên thị trường không chính thức. Các nghiên
cứu chỉ ra rằng ở Ecuador, Ấn Độ, Indonesia, Thai Lan và Cộng hòa Việt Nam, cho thấy lãi suất đối với
các khoản vay thương mại không quá cao so vói lãi suất trên thị trường. Nhưng ở Malaysia và Chi lê, lãi
suất là quá cao do độc quyền mà những người cho vay có được (p.29).
Wai (1977) đã tính toán một cách sơ bộ sự chênh lệch giữa lãi suất tại các thị trường tiền tệ có tổ
chức và không có tổ chức, dựa trên các số liệu đối với tín dụng cho nông dân bị quá hạn, ông đã kết luận
rằng các nhân tố rủi ro và lợi nhuận độc quyền cho mỗi tài khoản là khoảng 1/6 tổng chênh lệch, nhu cầu

cấp thiết là 1/3, với phần còn lại là do các nhân tố khác, chủ yếu do thiếu vốn và thế chấp không an toàn.
Chi phí cao và khan hiếm tín dụng trong khu vực không chính thức đã buộc nhiều nước đang phát
triển phải thiết lập tổ chức tín dụng nông nghiệp và nông thôn. Tài trợ ngoài nước đã động viên quá trình
này với trợ giúp về kỹ thuật và bằng việc sử dụng các tổ chức để thực hiện các chương trình phát triển
nông thôn. Mục tiêu của các tổ chức tín dụng này là cung cấp thêm các tín dụng ở lãi suất thấp hơn lãi
suất hiện hành trên thị trường không chính thức. Wai (1977) thấy rằng trong 13 nước, mục tiêu này đều
đạt được ở một mức độ nào đó nếu so sánh giai đoạn 1948- 51 với 1968- 71. Chênh lệch giữa lãi suất
không chính thức và lãi suất chính thức đã thu hẹp từ 34% ở giai đoạn trước đến 19% ở giai đoạn sau, cho
22
thấy 2 thị trường đã xích lại gần nhau. Mặt khác, ông cho thấy, các luật nhằm giảm lãi suất không chính
thức không thành công.
Nhiều tổ chức đã được thiết lập, với sở hữu, tài trợ và trợ cấp bởi chính phủ. Tuy vậy ở một số
nước, ví dụ Brazil, Ấn Độ, khu vực tư nhân đã dẫn vai trò chủ đạo, mặc cho việc chính phủ khuyến khích
hay kìm hãm. Các Ngân hàng thương mại thường đóng vai trò nhỏ. Một ngoại lệ là cố gắng của chính phủ
Nigeria vào năm 1977, đã ra lệnh cho các ngân hàng thương mại mở các chi nhánh tại vùng nông thôn.
Trong giai đoạn 1977 - 80, 200 chi nhánh nông thôn và sau đó 266 đã được mở. Mặc dầu việc này đã dân
tới việc tăng tín dụng nông thôn và cung cấp nhiều cơ hội hơn cho tiết kiệm nông thôn nhưng chương
trình này đã đem lại lỗ rất lớn cho ngân hàng. Ví dụ vấn đề đi lại, nhân viên, ăn ở, lượng kinh doanh nhỏ
và thế chấp thiếu bảo đảm (Osuntogun và Adewunmi, 1983). Việc tăng nhanh các chi nhánh của các ngân
hàng thương mại đã xẩy ra ở Ấn Độ, Indonesia, Philippines và Sri Lanka. Về mặt lâu dài, người ta hy
vọng rằng hệ thống tín dụng nông thôn sẽ hòa nhập vào thị trường tiền tệ quốc gia thông qua hệ thống
ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, quá trình này sẽ không dễ dàng và Wilson (1980) đã nhấn mạnh yêu
cầu cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính phủ và ngân hàng thương mại nếu muốn thiết lập thành công
hệ thống ngân hàng ở nông thôn.
Việc chính phủ cấp tín dụng lãi suất thông qua các tổ chức tín dụng nông thôn mới đầu có vẻ là
một phương án tối ưu. Nỗ lực nhằm xóa bỏ lợi nhuận độc quyền trên thị trường tín dụng không chính
thức là rất đáng trọng, và người ta thông cảm với những cố gắng làm giảm khó khăn cho người nghèo.
Tuy nhiên, những chương trình này thường gặp phải những khó khăn như lãi suất cố định cao, hệ thống
quản lý tín dụng sơ sài và tốn kém, việc phân bổ tín dụng sai chỗ làm cho tín dụng sai chỗ làm cho tín
dụng chủ yếu đến với các phú nông hoặc chỉ được sử dụng như tín dụng tiêu dùng và việc các tổ chức tín

dụng không khuyến khích hoạt động tiết kiệm ở địa phương. Nhiều tổ chức thậm chí còn không nhận tiền
gửi và nếu họ có nhận thì mức lãi suất cũng thường thấp. Nhưng có lẽ quan trọng hơn cả là họ làm hỏng
thị trường tài chính, dẫn đến sự phân bổ sai các nguồn lực, và theo ý kiến của tôi tình hình này chưa được
làm một cách đầy đủ để hỗ trợ lớn đối với tín dụng nông thôn bằng chi phí của các ngành khác trong nền
kinh tế. Tôi thấy có vẻ như mức lãi suất mà những người cho vay đặt ra chủ yếu phản ánh những rủi ro và
chi phí thực tế của việc cung cấp tín dụng nông thôn, không kể yếu tố lợi nhuận độc quyền mà theo Wai
(1977) thì cũng có thể không lớn lắm. Thực tế là sản xuất nông nghiệp nhỏ và manh mún lại có rủi ro rất
cao. Đây không phải là lỗi của thị trường tín dụng, mà đúng hơn là lỗi của cơ cấu nông nghiệp. Nếu nông
thôn đang tiến hành phát triển kinh tế lớn thì nhiều khả năng là giá hàng nông nghiệp ở nhiều nước sẽ
phải tăng, và các chủ đất sẽ phải liên kết lại với nhau để thiết lập những nông nghiệp ở nhiều nước đang
tiến hành phát triển kinh tế lớn thì nhiều khả năng là giá hàng nông nghiệp ở nhiều nước sẽ phải tăng và
các chủ đất sẽ phải liên kết lại với nhau để thiết lập những nông trang có qui mô hợp lý, được vận hành
23
tốt cũng như được cấp vốn đầy đủ và có đánh giá rủi ro tín dụng tốt hơn nhiều so với nhiều người hiện
đang đi vay. Lúc đó thì việc cạnh tranh để cho vay sẽ tăng lên và lãi suất sẽ giảm xuống. Tất nhiên đây sẽ
là một quá trình không dễ dàng, và việc thu hút tầng lớp những người không có đất là nước công nghiệp
phát triển, và nếu ai đó nghĩ rằng có thể đạt được sự phát triển kinh tế mà không phải trải qua những khó
khăn đó thì người đó đang tự lừa dối mình. Việc cấp tín dụng lãi suất thấp chỉ kéo dài cơ cấu nông nghiệp
không thỏa đáng hiện thời, và nếu chính phủ muốn giúp đỡ nông dân nghèo thì tốt hơn cả là chính phủ có
thể làm việc đó bằng cách trợ cấp trực tiếp (bằng tiền hay các hình thức khác) hoặc bằng cách đưa ra giá
cao hơn đối với hàng nông nghiệp. Adarns (1980) nhận xét rằng "Quá nhiều chính sách dành cho thị
trường tài chính nông thôn có tính chất rất lỗi thời và đang nhận được nhiều ý kiến về vấn đề nay, và tôi
cho rằng đã đến lúc phải kéo các chính sách thị trường tài chính nông thôn sang thế kỷ hai mươi", và
chúng ta thông cảm với quan điểm này.
(d) Tín dụng đô thị không chính thức.
Trong khi một số lượng hợp lsy các khảo sát về thị trường tín dụng nông thôn được tiến hành: do
tầm quan trọng của nó đối với nông nghiệp thì những thông tin về thị trường tín dụng đô thị lại rất hạn
chế.
Một nghiên cứu của Timberg và Aiyar (1984) cho thấy thị trường đô thị không chính thức đồng
một vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho thương mại và công nghiệp ở các vùng đô thị, cung cấp

khoảng 20% tổng dự nợ tín dụng thương mại của những thị trường được nghiên cứu. Những tổ chức công
nghiệp nhỏ tham gia trên thị trường này rất nhiều. Theo Rao (1981), một cuộc điều tra của Ngân hàng Dự
trữ Ấn Độ đã cho thấy nguồn vốn tín dụng của những tổ chức phi tài chính đã đáp ứng được:
- 39% tổng số vay nợ của những tổ chức công nghiệp nhỏ mà phần đầu tư vào nhà xưởng và thiết
bị lên tới 1000 Rupi;
- 25% tổng số vay nợ của tất cả các tổ chức công nghiệp nhỏ;
- 3,5% tổng số vay nợ của các công ty tư nhân sở hữu những tổ chức công nghiệp nhỏ;
- 21,4% những khoản vay liên quan đến vốn cổ phần trong lĩnh vực công nghiệp nhỏ.
Lãi suát trên thị trường không chính thức nói chung thường cao hơn lãi suất cho vay của ngân
hàng khoảng 2- 4%, có khi tới 10%. Một điều thú vị là, theo Timberg và Aiyar so với tín dụng ngân hàng
thì tín dụng của thị trường không chính thức có chi phí hoạt động thấp hơn. So với các ngân hàng thương
mại thì những ngườic cho vay trên thị trường không chính thức có những lợi thế sau:
24
- Họ không phải để một phần vốn nằm im không sinh lời vì không phải dự trữ bắt buộc theo luật
định.
- Họ có mối quan hệ gần gũi và thường xuyên với khách hàng của mình và với cả cộng đồng kinh
tế nối chung nên có thể cho vay mà không cần đảm bảo.
- Họ có ít công việc giấy tờ và các thủ tục hành chính quan liêu.
Từ những lợi thế này và từ kinh nghiệm của Ấn Độ có thể thấy rằng thị trường không chính thức
có một vai trò quan trọng tài trợ cho kinh doanh ở các đô thị của những nước đang phát triển. Tuy là thiếu
những bằng chứng có hệ thống nhưng những bằng chứng cá biệt có thể chúng mình cho kết luận này.
3. KẾT LUẬN
Ở nhiều nước đang phát triển những tổ chức tài chính chính thức vẫn còn lạc hậu và không có khả
năng cạnh tranh. Những tổ chức này ít về mặt số lượng và đối với phần đông dân cư thì việc tiếp nhận
những tổ chức này lại không phải là chuyên đề dễ dàng. Kết quả là các công cụ tiết kiệm bị hạn chế, và vì
vậy việc huy động tiết kiệm cũng bị hạn chế theo. Do đó các tổ chức tín dụng không chính thức có điều
kiện phát triển và chiếm lĩnh những mảng thị trường mà các tổ chức chính thức còn bỏ ngõ. Tuy nhiên thị
trường tài hcính không chính thức cũng có nhiều điểm yếu và chưa hoàn thiện hạn chế những tác dụng
của nó. Mặc dù nhiều chính phủ đã cố gắng khắc phục tình trạng kém hiệu quả về mặt tổ chức bằng cách
thiết lập các tổ chức tài chín, những tổ chức này, đến lượt nó lại không có hiệu quả. Các tổ chức tài chính

tư nhân thường xuyên cần được khuyến khích để phát triển và mở rộng, và những nỗ lực của chính phủ
nên hướng vào việc giảm bớt các quy định ngặt nghèo và có lẽ nên có những động cơ thúc đẩy sự phát
triển của các tổ chức này.
Câu 3: Một số học thuyết cầu về tiền (2 lý thuyết cơ bản là Cầu tiền của
Mak và cầu tiền mặt theo Keynes)
Các yếu tố nào tác động cầu của tiền trong nền kinh tế
1. Cầu về tiền theo quan điểm của C.Mác
Cầu tiền tệ:
- Tỷ lệ thuận với tốc độ tăng trưởng kinh tế
25

×