Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Chương 2 kẻ chợ và câu chuyện 36 phố phường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.13 KB, 8 trang )

Chương 2 – Kẻ Chợ và câu chuyên 36 phố phường.
Kẻ Chợ - 36 phố phường với nghìn năm văn hiến, đất kinh kì đi qua bao đời
người con đất Tràng An. Người ngồi có thể khơng biết, nhưng người Thủ đơ
chẳng có ai mà lại khơng biết, khơng thương, để mà mỗi dịp có người đến thăm
lại tự hào kể lại.
Nhắc đến Hà Nội hẳn nhiều người vẫn không thể
quên Kẻ Chợ – 36 phố phường xưa kia, mà ngày
nay chỉ cịn đọng lại một vài dấu tích nơi khu phố
cổ. Thăng Long – Kẻ Chợ nơi đã từng là trung tâm
thương mại của Đàng Ngoài, nhiều người nước
ngoài và người Tây phương có mặt tại đây để bn
bán, làm ăn. Nhiều ghi chép cho thấy, Thành Đại

2.1
Đất Kẻ Chợ - 36 phố phường
(Báo Tuổi Trẻ)

La xưa đã là một cái chợ của cả lưu vực sông Hồng.
Người dân tứ xứ đến định cư ở đây, đầu tiên cốt để buôn bán và dần dần tụ họp
theo phường nghề. Đây chính là cơ sở để hình thành các phố “hàng” trên đất
Thăng Long - Hà Nội. Và nữa, chợ được xem là cái “dạ dày” của thành phố.
Nhà văn Thạch Lam viết: “Tất cả của ngon vật lạ các nơi đều đem đến đây để
hiến cho sự thưởng thức sành sỏi của người Hà Nội”.
Kẻ Chợ - cái tên đã đi vào tiềm thức của nhiều người với những nét giản dị mộc
mạc nhất từ những cái tên như Hàng Mắm, Hàng Nón, Hàng Đường, Hàng
Muối… đại diện cho mặt hàng chủ yếu được cái tiểu thương nơi đây trao đổi
bn bán. Từ “Kẻ Chợ” có thể xuất hiện vào thế kỷ XV, khi nhà Lê đánh đuổi
giặc Minh, mở rộng kinh thành Thăng Long về phía đơng và khu vực này trở
thành nơi buôn bán sầm uất nhất Đại Việt. Kẻ Chợ chỉ nơi bn bán ngồi kinh
thành, nhưng dân gian gộp cả nơi vua ở lẫn khu buôn bán gọi là Kẻ Chợ, lâu
dần thành tên gọi phổ biến.


Kinh thành Thăng Long ban đầu được chia thành 61 phường (nguyên nghĩa của
chữ “phường” là “ô đất vuông”), được giới hạn với nhau bằng đường phố. Các


phường này tập trung thợ thủ công làm chung một nghề và thường có chung
một quê. Cửa hàng dựng dài theo những con phố và bán chung một mặt hàng.
“Buôn có bạn, bán có phường” là vậy! Đây cũng là khởi nguồn cho những phố
“hàng”.
Kinh thành thời Trần so với thời Lý khơng có nhiều khác biệt. Sách cũ lưu danh
một số phường, như: Cơ Xá là cảng và là nơi ở của cư dân vùng đất bãi; Tàng
Kiếm làm kiệu, áo giáp, binh khí; Thụy Chương và Nghi Tàm dệt vải, dệt lụa;
Yên Thái làm giấy; Đồng Nhân bán áo diệp y…
Sang thời Lê, kinh thành đặt là Phủ Trung Đô, sau đổi tên thành Phụng Thiên,
chia làm 36 phường. Theo Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi, phường vừa là một đơn
vị hành chính, vừa là phường nghề. Có lẽ cái tên “ba sáu phố phường” cũng từ
đó mà ra. 36 phố phường rất sầm uất, buôn bán phát triển. “Đất lành chim đậu”,
sau này người Hoa cũng đến đây bn bán hình thành các khu phố Tàu.
Đến giữa thế kỷ 17, các phố có tên “Hàng” xuất hiện như Hàng Cót, Hàng Hịm,
Hàng Chiếu, Hàng Mã, Hàng Gà. Năm 1802, vua Gia Long lên ngôi lập ra nhà
Nguyễn, định đơ ở Phú Xn, Thăng Long khơng cịn là Kinh đô nữa. Thời
điểm này các thương cảng lớn như Phố Hiến, Vân Đồn khơng cịn, vì thế mà Kẻ
Chợ vẫn giữ được vị trí huyết mạch quan trọng giao thương ở phía bắc.
Nơm na có thể hình dung, Thăng Long là kinh đô của Đại Việt, nơi hội tụ của
người dân tứ xứ, cũng là đầu mối giao thương với các trấn, các miền nên có
nhiều chợ. Và nữa, chữ thị có nghĩa là chợ - thị trấn, thị tứ đều có nguồn gốc từ
chợ. Chợ thường họp nơi trên bến dưới thuyền nên có từ chợ búa - búa là bến.
Giáo sĩ Richard ở thế kỷ VIII mô tả Kẻ Chợ rằng: “Số lượng thuyền bè lớn lắm,
đến nỗi rất khó mà lội được xuống bờ sơng: những sông, những bến buôn bán
sầm uất nhất của chúng ta (Âu châu), ngay thành phố Vơnidơ (Venise) nữa với
tất cả những thuyền lớn thuyền nhỏ của nó cũng khơng thể đem đến cho người

ta được một ý niệm về sự hoạt động buôn bán về dân số trên sông Kẻ Chợ”
(Theo “lịch sử thủ đô Hà Nội”). Thế kỉ XVII, Thăng Long trở thành một đô thị


phát triển, hàng hố phong phú, thương nhân nước ngồi đến định cư và buôn
bán trong khu đô thị nổi tiếng “Kẻ Chợ” sầm uất. Thực tế không phải đến thế kỷ
XVII, XVIII, Thăng Long mới sầm uất bán buôn, Trước ngày Đức Lý Thái Tổ
định đô ở đất này, Đại La đã là một cái chợ của cả vùng lưu vực sông Hồng.
Dân tứ xứ tụ về, trước cốt để bán hàng, sau rồi lập phường thợ để không phải
toan lo việc vận chuyển hàng hóa. Vùng đất có mặt Bắc, mặt Đông áp sông
Hồng, mặt Tây là thành cổ, mặt Nam có hồ Thủy Quân, lại có các sông Tô Lịch,
Kim Ngưu dẫn ra nhiều đường thủy được lựa chọn, các phường hình thành. Gốc
gác từ các làng nghề, có ơng tổ nghề, thần hồng làng, cư dân theo Đạo Phật
nên các phường đều dựng cổng, hưng công xây đình, đền, chùa. Khu 36 phố
phường làm nên cái chất riêng có của Thăng Long - Hà Nội hình thành từ đó ban

đầu

nhà

tre

gỗ,

mái

lá.

Cũng vào cuối thế kỷ XVIII, người phương Tây miêu tả: “Hà Nội khơng có chợ
mái che, cũng khơng có nơi quy định để họp chợ. Cả thành phố biến thành cái

chợ mênh mơng ở ngồi trời. Vào ngày phiên, lái buôn và thợ thủ công đủ các
loại từ các làng mạc xung quanh kéo tới. Những người bán tơ lụa tới phố Hàng
Đào, những người làm cuốc xẻng tới phố Hàng Đồng, những người làm nón đến
phố Hàng Nón, tóm lại, thợ gì thì tới phố dành cho thợ ấy. Người ta đi lại, dạo
chơi, chuyện trị, râm ran tiếng nói của số người gấp đơi ngày thường vốn đã
đông như kiến. Việc họp chợ chẳng tốn kém gì, chỉ cần thời tiết tốt. Những
người nơng dân bày bán sản phẩm của mình trong chiếc túi vải hoặc trong rổ,
hoặc ngay trên mặt đất nếu hàng không sợ hư hỏng. Mặt phố tràn ngập người”.
Qua nhiều thế hệ, những đặc trưng văn hố và tính cách con người của nhiều
vùng văn hố đã hồ trộn cùng nhau, kết tinh thành một bản sắc văn hố đơ thị
Thăng Long độc đáo, đánh giá cao qua những câu tục ngữ “Khéo tay hay nghề,
đất

lề

Kẻ

Chợ”.

Cũng cần nói thêm, dân ở các phường thợ chủ yếu làm hàng thủ công nên lương


thực, thực phẩm trơng cả vào bên ngồi. Do vậy, cùng với chợ của các phường
nghề như chợ gốm Bát Tràng, chợ giấy n Thái, Hạ n Quyết (Cót), chợ
Đình bán yếm lụa ở phường Đồng Lạc..., đất Kinh kỳ cịn có chợ cổng thành
như: Chợ Cửa Đơng, Cửa Nam, chợ Đình Ngang; chợ cửa ơ như: Chợ Ơ n
Hoa, chợ n Thọ - Ơ Cầu Dền..., xa hơn có chợ Dịch Vọng... Có thể nói, bằng
cách hết sức tự nhiên, Kẻ Chợ đã tạo ra một hệ thống chợ từ ngoại thành vào
cửa ô và khu vực 36 phố phường.


Thăng Long - Hà Nội có hàng trăm chợ to nhỏ. Chợ là nơi bán mua, nhưng dần
dần theo cách mà người ta đến với nơi này cũng như những nét riêng tích tụ
cùng thời gian, chợ trở thành một khơng gian văn hóa. Chợ Hơm, chợ Bưởi, chợ
Mơ, chợ Cửa Nam, Quảng Bá... không chỉ là địa chỉ giao thương mà cịn chứa
đựng những trầm tích của đất Kinh kỳ - Kẻ Chợ. Và nói đến chợ Hà Nội, khơng
thể khơng nói đến Đồng Xn.
Chợ Đồng Xn trong lịng Kẻ Chợ
Cuối thế kỷ XIX, Đồng Xuân là chợ lớn nhất Bắc Kỳ với đủ các mặt hàng. Dù
họp hàng ngày nhưng Đồng Xuân vẫn mở chợ phiên để bà con nông dân ngoại
ô bán sản phẩm chăn nuôi và trồng trọt. Cứ năm ngày một phiên và vào phiên
thì chợ họp tràn ra ngồi cửa, ngồi kín phố Hàng Khoai. Sau này thành phố xây
chợ Hôm, chợ Mơ thành chợ có mái. Xẩm tối, khán chợ (trơng coi) đuổi hết
người ra để khóa cổng. Nhưng Hà Nội rất đơng dân nhập cư. Họ đi làm về thì
các chợ đã đóng cửa nên sinh ra chợ Đuổi. Ban đầu họp ở đầu phố Tuệ Tĩnh
ngày nay, sau do thành phố mở mang, chính quyền cấm rồi dồn về chỗ ngoại ô
Vân Hồ. Cuối năm 1940, phát xít Nhật kéo quân vào Việt Nam và trên danh
nghĩa đồng minh bảo vệ quân đội Pháp, từ năm 1941 đến 1944, quân đội Mỹ đã
ném bom doanh trại, trận địa của quân Nhật. Để tránh bom Mỹ, chính quyền
cho đào hầm, hào tại nhiều địa điểm cơng cơng trong đó có cả chợ Hàng Da. Cứ
nghe tiếng máy bay ù ù trên đầu dân chúng nhảy xuống hầm nhưng năm 1942,


một quả bom rơi xuống chợ Hàng Da đúng lúc đang họp làm chết gần trăm
người, chợ tan nát. Năm 1951, người Hà Nội đi
tản cư trở về nhiều hơn, lại thêm dân các tỉnh đổ
về tránh chiến sự khiến thành phố đông đúc và
chật chội, các chợ không đáp ứng hết nhu cầu
nên thị trưởng Thẩm Hồng Tín quyết định mở
thêm chợ ở vùng ven nội gồm: ngã tư Sở, Yên
Phụ và Lò Lợn (khu vực Lương Yên ngày nay)

vừa tạo cơ hội sinh sống cho dân hồi cư lại hạn

2.2
Chợ Đồng Xuân xưa
(Infonet – Vietnamnet)

chế dân số nội thành tăng lên đột ngột, giảm khó khăn cho cơng tác quản lý,
đồng thời chính quyền cũng thu thêm được thuế. Nếu ngồi bán tại các cửa hàng
ở phố Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Đường, Hàng Gai... là các cô, các bà “mặt
hoa da phấn” thì các bà, các cơ bán ở chợ Đồng Xuân,... đanh đá, sắc sảo, nhanh
nhẹn, đảm đang, đó là đặc điểm của đàn bà thị dân Hà Nội. Nhà văn Nguyễn
Việt Hà kể rằng: nếu tính cả đứa cháu gái con bà chị thì bốn đời phụ nữ gia đình
nhà văn thâm niên “ngồi chợ” Đồng Xuân. Bốn đời “ngồi chợ” ở một cái chợ
lớn nhất xứ Bắc là chuyện khơng dễ nếu khơng có chữ tín. Hầu hết các chợ
truyền thống lớn đều có hàng quà và tệ nhất cũng từ được trở lên, chủ yếu bán
cho người ngồi sạp mà các bà lại tinh mồm, nấu dở là “móm”. Bún thang bà
Ẩm, bún ốc bà Đúc, bánh cuốn cô Xuyên... nổi tiếng không chỉ trong chợ mà
lan ra cả thành phố.

“Vui nhất là chợ Đồng Xn/Thức gì cũng có xa gần bán mua” - đó là hai câu
trong một bài ca dao. Cịn với nhà văn Thạch Lam: “Chợ Đồng Xuân là chợ của
người Hà Nội, không giống các chợ nhà quê, mà cũng khơng giống các chợ Bến
Thành - Sài Gịn, hay Chợ mới ở Chợ Lớn. Bạn hãy vào chợ một ngày phiên và
để mắt mua; từ bác bồi bếp, cậu nhỏ, cô sen, cho đến các bà sành sỏi hay các cô
thiếu nữ rụt rè sợ hớ, tất cả chừng ấy người hoạt động trước mắt ta, hình dáng


phức tạp và thu nhỏ lại của cái xã hội người phường phố. Khơng có bức tranh
nào linh hoạt và thắm màu hơn”. Nói chợ Đồng Xuân là “niềm thao thức trong
làng Hà Nội” cũng không ngoa. Bởi lẽ ngôi chợ này là một phần không thể

thiếu của Kinh kỳ - Kẻ Chợ - ẩn chứa những nét văn hóa đậm chất Thăng Long
-



Nội.

Cách nay hơn trăm năm, khi đoạn “nghịch thủy” của con sông Tô chưa bị lấp,
người dân tụ họp ở hai cái chợ nhỏ bên đền Bạch Mã - phường Hà Khẩu (Hàng
Buồm) xưa và bến, chùa Cầu Đông (Hàng Đường), lan sang cả đền Huyền
Thiên (Hàng Khoai). Chợ họp ngoài trời, bến thuyền tấp nập. Người Pháp lấp
sông, dồn mấy chợ vào bãi đất này, đặt tên là bãi rộng buôn bán. Bãi đất nằm ở
phường Đồng Xuân, xung quang là phố Hoa Kiều có nghề cân đong và xay xát
gạo nên chợ gạo nhanh chóng sầm uất. Người ta dựng một cầu chợ lợp tôn để
che mưa che nắng và đến năm 1890 thì xây chợ mới. Chợ có diện tích khoảng
6.500m2, thiết kế tương đối đơn giản, mặt tiền theo kiến trúc Pháp gồn năm
phần hình tam giác, có trổ lỗ như tổ ong, dãy nhà bên trong phân cách bởi các
đường đi giữa các vịm. Chợ có ba cổng vào và hai ngách, một thông sang Hàng
Khoai, một sang Hàng Chiếu. Trong văn bản chính thức, người Pháp gọi là “Les
Halls centrales” nhưng những người dân Kinh kỳ - Kẻ Chợ vẫn nôm na gọi với
tên



Đồng

Xuân.

Lúc đầu, chợ họp hai ngày một phiên, dần dần họp từ sáng đến tối. Đến đầu thế
kỷ XX, hệ thống xe điện hình thành, có tuyến chạy ngang qua cổng chợ. Cùng

với việc khánh thành cầu Long Biên (Doumer) và ga đầu cầu đổ xuống bờ sông
Hồng, đoạn Hàng Khoai, chợ Đồng Xuân càng sầm uất hơn, nổi tiếng khắp Bắc
Kỳ, thương nhân Pháp, Tây Ban Nha, Ấn Độ cũng tới đây làm ăn, buôn bán.
Trên trời dưới hàng, thượng vàng hạ cám - sản phẩm, sản vật bốn phương tụ về
đây, từ máy móc của Pháp; vải vóc, tơ lụa, nhung gấm của Trung Hoa, Ấn Độ
đến đồ gốm, đồ thêu, cái áo dài, của cư dân Kinh kỳ và vùng phụ cận; từ con


cua, con ngao, con cá của miền đồng bể đến mộc nhĩ, nấm hương, măng lưỡi
lợn của miền đồng rừng... Và hàng quà có một cầu chợ riêng với những cháo
lịng, tiết canh, bún riêu, bún ốc, xơi vị, chè đường, bánh trơi, bánh giị, thuốc
lá, thuốc lào... Bún thang bà Ẩm nổi tiếng chợ Đồng Xuân xưa, nay vẫn là món
ngon



Nội.

Ngày tồn quốc kháng chiến, nơi đây đã diễn ra trận quyết chiến, sáng rõ tinh
thần quả cảm của người Hà Nội. Ngày 11, 12, 13-2-1947, Pháp ném bom dữ dội
rồi huy động xe tăng, thiết giáp cùng hơn 400 lính lê dương đánh vào khu chợ.
19 con người với vũ khí thơ sơ, chủ yếu là mã tấu, dao bầu, phản thịt, chai lọ đã
kiên gan chiến đấu từ sáng đến chiều, để lại hàng trăm xác giặc rồi mới chịu rút
lui. Thành phố đã dựng bức phù điêu Hà Nội mùa đông năm 1946 bên chợ
Đồng Xuân để tưởng nhớ những người con đã anh dũng ngã xuống vì Hà Nội,


Tổ

quốc.


Theo các nhà văn Băng Sơn, Trần Chiến, năm đầu những năm 50 của thế kỷ
trước, cửa 5 cầu chợ còn che chắn đủ thứ màn bằng vải xọc, cót, bao tải để đỡ
nắng cho các cơ mặt hoa da phấn ngồi trên hàng loạt quầy gỗ cao. Tối đến gầm
quầy là nơi trú ngụ của hành khất, trẻ vô gia cư, dân bốc vác... Sau năm 1954,
các quầy này được dỡ bỏ. Đến năm 1990, chợ được xây dựng lại, phá hai bên,
ba dãy giữa lên tầng nhưng vẫn giữ lại cột trụ và các bức tường trước mặt như
một phần di sản văn hóa đơ thị. Năm 1994, trong một vụ cháy được xem là lớn
nhất tại thành phố, gần như các gian hàng bị thiêu trụi. Và giờ đây, trong không
gian phố cũ, phố đi bộ của người Hà Nội, chợ Đồng Xuân đã trở thành một
điểm đến hấp dẫn. Dù thay đổi thế nào theo năm tháng thì Đồng Xuân vẫn được
các nhà nghiên cứu về Thăng Long - Hà Nội xếp loại “đàn chị” của các chợ ở
Thủ

đô.

Như vậy, Kẻ Chợ - 36 phố phường là nơi đã lưu giữ bao nhiêu giá trị văn hóa
lịch sử hơn một ngàn năm Thăng Long. Trải qua bao thăng trầm của đất thủ đô,


khu phố ấy vẫn đi cùng năm tháng, trường tồn cho đến tận bây giờ, bảo tồn và
gìn giữ để trở thành phố cổ Hà Nội trong lòng bao người con đất Việt.
Kẻ Chợ - 36 phố phường nét đẹp ngàn năm giữa lịng Thủ đơ hoa lệ.



×