Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

một số yếu tố ảnh hưởng đến tiền lương của người lao động ở việt nam trong giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.88 KB, 55 trang )

Chuyên dề tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được Chuyên đề tốt nghiệp này, em đã nhận được sự hướng
dẫn tận tình của TS.Cao Xuân Hòa và sự giúp đỡ của các anh chị tại Trung
tâm Thông tin, Phân tích và Dự báo Chiến lược – Viện Khoa học Lao động và
Xã hội.
Em xin chân thành cảm ơn.
Đinh Mỹ Hương Toán kinh tế
46
1
Chuyên dề tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
LỜI MỞ ĐẦU
 Đặt vấn đề
Có rất nhiều quan niệm về tiền lương như quan niệm theo từ điển giải
nghĩa Kinh tế - kinh doanh (Anh – Việt), Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật,
Hà Nội, 1996, như quan niệm theo Einkommen, như quan niệm theo David
Begg, Stanley Fischer và Rudiger Dornbusch. Từ các quan niệm này, có thể
khái quát bản chất của tiền lương trong kinh tế thị trường sau: Tiền lương là
giá cả lao động, hay biểu hiện bằng tiền của giá trị lao động mà người chủ sử
dụng lao động trả cho người lao động làm thuê.
Đối với nước ta, trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp trước
đây, do không thừa nhận sức lao động là hàng hóa, không thừa nhận có thị
trường lao động, và do vậy tiền lương không được coi là giá cả của hàng hóa
sức lao động. Lúc này tiền lương được coi là một phần của thu nhập quốc dân
được nhà nước phân phối có kế hoạch cho người lao động tương ứng với sự
đóng góp của họ. Bản chất tiền lương trong nền kinh tế này khác căn bản với
tiền lương trong nền kinh tế thị trường. Mặc dù tiền lương cũng có chức năng
là thước đo giá trị, đòn bẩy kinh tế kích thích sản xuất phát triển, nhưng
không triệt để và đúng nghĩa của nó. Chủ nghĩa phân phối bình quân, cào
bằng, chia nhau cái nghèo có thể làm cho tiền lương thực hiện được chức
năng xã hội rất tốt là tạo được sự bình đẳng xã hội, nhưng lại triệt tiêu động


lực kích thích người lao động.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chính sách tiền
lương khu vực có quan hệ lao động được cải cách, đổi mới theo định hướng
thị trường. Khi đó, tiền lương từng bước thực hiện đúng các chức năng của nó
trong điều kiện kinh tế thị trường, có sự hoạt động của thị trường lao động.
Đinh Mỹ Hương Toán kinh tế
46
2
Chuyên dề tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
Nhưng việc trả lương cho người lao động phải dựa trên những căn cứ xác
định như vào mức độ đóng góp lao động cụ thể của từng người, như vào cung
cầu lao động, …
Chính vì lẽ đó nên em chọn đề tài “Một số yếu tố ảnh hưởng đến tiền
lương của người lao động ở Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2004 đến năm
2006” cho Chuyên đề tốt nghiệp của mình.
 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát của nghiên cứu là đánh giá thực trạng tiền lương của
người lao động và chỉ ra một số yếu tố ảnh hưởng đến tiền lương của họ trong
giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2006.
 Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Lời mở đầu, Đề tài gồm ba chương chính:
Chương Một làm rõ về cơ sở lý thyết của đề tài. Đặc biệt chương này sẽ
đưa ra mô hình cho cơ sở lý thuyết. Đây là những khung khổ lý thuyết chính
được dùng để phân tích trong phần phân tích định lượng của báo cáo
Chương Hai của đề tài tập trung phân tích thực trạng tiền lương của người
lao động ở Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2006. Bằng
phương pháp mô tả thống kê, sử dụng số liệu điều tra Mức sống hộ gia đình
và số liệu điều tra Doanh nghiệp, chương này mô tả một số đặc điểm cơ bản
về tiền lương của người lao động theo một số chỉ tiêu nhất định.
Chương Ba của đề tài là chương chính trong nghiên cứu này. Bằng phương

pháp định lượng, cụ thể là sử dụng phương pháp mô tả toán học, đề tài sẽ tập
trung vào tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến tiền lương của người lao
động trong giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2006.
Trên cơ sở của những phân tích của các Chương Một, Hai và Ba, Kết luận
của đề tài sẽ tóm lược lại những phát hiện chính trong quá trình nghiên cứu.
Đinh Mỹ Hương Toán kinh tế
46
3
Chuyên dề tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
 Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp thống kê mô tả, phân tích định lượng kết hợp với
tổng quan tài liệu.
Sử dụng các phầm mềm hỗ trợ trong tính toán như: SPSS, Stata, Eviews.
Đinh Mỹ Hương Toán kinh tế
46
4
Chuyên dề tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƯƠNG CỦA NGƯỜI
LAO ĐỘNG
1.1. KHÁI NIỆM TIỀN LƯƠNG CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG
DOANH NGHIỆP
Tiền lương là một phạm trù kinh tế xuất hiện từ khi có quan hệ sử dụng
sức lao động của một bộ phận dân cư trong xã hội bởi một bộ phận dân cư
khác. Trong thực tế, khái niệm tiền lương còn có nhiều tên gọi khác nhau như
tiền công, thù lao lao động, thu nhập lao động, … Những tên gọi này được sử
dụng đối với những nhóm lao động khác nhau hoặc cho những loại công việc
khác nhau.
Kinh tế học cho rằng quá trình sản xuất là sự kết hợp các yếu tố đầu vào
(vốn, lao động, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên, …) để tạo ra các sản phẩm,

dịch vụ đầu ra. Vốn và lao động là hai yếu tố đâu vào cơ bản. Vốn thuộc
quyền sở hữu của một bộ phận dân cư trong xã hội, còn bộ phận dân cư khác,
do không có vốn, chỉ có sức lao động phải đi làm thuê cho những người có
vốn và đổi lại, họ nhận được một khoản tiền gọi là tiền lương.
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, khái niệm tiền lương đã dần
được mở rộng và bao hàm đầy đủ ý nghĩa kinh tế và xã hội. Đầu tiên là lý
thuyết tiền lương đủ sống (sau này trở thành lý thuyết về tiền lương tối thiểu)
xuất hiện từ cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, cho rằng mức tiền lương của lao
động phổ thông (không có tay nghề) sẽ được xác định ở mức bằng hoặc cao
hơn rất ít so với mức chi phí tối thiểu cần thiết cho người lao động và gia đình
họ. Tiếp theo là lý thuyết “tổng quỹ tiền lương”, cho rằng tiền lương là một
bộ phận của vốn ứng trước và được hình thành trước khi bắt đầu quá trình sản
xuất.
Đinh Mỹ Hương Toán kinh tế
46
5
Chuyên dề tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
Với sự phát triển của thị trường lao động và thị trường cạnh tranh hoàn
hảo vào đầu thế kỷ 20, dựa trên cạnh tranh tự do và quan hệ cung cầu đã xuất
hiện lý thuyết năng suất cận biên. Lý thuyết này cho rằng người sử dụng lao
động sẽ tiếp tục thuê thêm lao động đến một mức mà giá trị của sản phẩm do
người công nhân cuối cùng mang lại lớn hơn hoặc bằng chi phí tiền lương cho
anh ta. Từ những năm 30 của thế kỷ 20 trở lại đây, với sự ra đời của học
thuyết tiền lương linh hoạt, tiền lương co giãn, tiền lương được coi là yếu tố
đạt được trên cơ sở cân bằng cung - cầu lao động. Sự ra đời của học thuyết
thỏa ước lao động tập thể, tiền lương được hiểu là kết quả thương thuyết của
các bên có liên quan.
Có thể thấy rằng các lý thuyết về tiền lương đều có ý nghĩa trong những
hoàn cảnh nhất định và góp phần lý giải các khía cạnh khác nhau của khái
niệm tiền lương. Tuy nhiên, không một lý thuyết nào có thể giải thích được

mọi tình huống của tiền lương. Giá trị lớn nhất của các lý thuyết này là góp
phân thiết lập nguyên tắc “trả lương như nhau cho công việc có giá trị như
nhau”.
Tiền lương của người lao động trong doanh nghiệp là sự trả công cho dịch
vụ lao động đã được thực hiện, thể hiện mối quan hệ giữa chủ sử dụng lao
động và người lao động. Về nguyên tắc, tiền lương phải trả đúng giá trị dịch
vụ lao động đã được cung ứng (giá cả sức lao động). Trong kinh tế thị
trường, tiền lương trong doanh nghiệp còn chịu tác động của các mức tiền
lương thịnh hành trên thị trường. Điều này có nghĩa là tiền lương cần đuợc trả
dựa theo quan hệ cung cầu trên thị trường lao động. Tuy nhiên, tại các quốc
gia áp dụng hệ thống tiền lương tối thiểu, các doanh nghiệp không được trả
lương cho người lao động thấp hơn mức tiền lương tối thiểu theo luật định
(luật về tiền lương tối thiểu). Ngoài ra, trong việc hình thành các mức tiền
lương trong doanh nghiệp, ngoài người lao động và người sử dụng lao động
Đinh Mỹ Hương Toán kinh tế
46
6
Chuyên dề tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
còn có vai trò của tổ chức đại diện người lao động (công đoàn) trong việc
đàm phán và thương thảo tiền lương (thông qua cơ chế thỏa thuận). Trong
khi quy luật cung - cầu lao động chi phối nhiều đến mức tiền lương trong
ngắn hạn, thì khả năng thương thuyết của các bên lại quyết định mức tiền
lương trong dài hạn. Bên cạnh đó, mức lương còn chịu sự tác động điều chỉnh
của chính phủ như luật thuế thu nhập cá nhân, luật bảo hiểm xã hội và quyết
định của trọng tài. Lúc này, tiền lương không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa
kinh tế mà còn có nội dung xã hội. Trong một số trường hợp, tiền lương còn
được dùng trong các cuộc vận động chính trị, tranh cử và thu hút cử tri.
Tiền lương của người lao động trong doanh nghiệp là số tiền (hoặc hiện
vật) mà người sử dụng lao động trả cho người lao động về sự cung ứng dịch
vụ lao động cho doanh nghiệp. Tiền lương có thể được trả theo thời gian hay

theo sản phẩm. Tiền lương thời gian trả cho công nhân trên cơ sở số giờ, ngày
, tuần hay tháng làm việc, còn tiền lương sản phẩm trả theo khối lượng công
việc hoàn thành. Dù trả theo thời gian hay theo sản phẩm thì tiền lương cũng
cần được xem xét trên hai khía cạnh: tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực
tế:
- Tiền lương danh nghĩa là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho
người lao động vì những đóng góp lao động của họ.
- Tiền lương thực tế là giá trị lượng các loại hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ
mà người lao động có thể mua được bằng lượng tiền danh nghĩa nhận được.
Tiền lương thực tế không chỉ phụ thuộc vào tiền lương danh nghĩa mà còn
phụ thuộc vào giá cả các hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ. Tiền lương danh
nghĩa tăng không có nghĩa là tiền lương thực tế tăng nếu tốc độ tăng giá cao
hơn tốc độ tăng tiền lương.
1.2. CÁC CĂN CỨ XÁC ĐỊNH TIỀN LƯƠNG
Các căn cứ chủ yếu bao gồm:
Đinh Mỹ Hương Toán kinh tế
46
7
Chuyên dề tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
 Các quy định về tiền lương của Nhà nước.
Thông thường các quy định của nhà nước là yêu cầu bắt buộc và là giới
hạn tối thiểu mà các doanh nghiệp cần phải tuân thủ. Các quy định của nhà
nước về tiền lương bao gồm tiền lương tối thiểu, cơ chế thỏa thuận tiền lương,
thỏa ước lao động tập thể, các quy định về tiền lương khác mang tính bắt
buộc.
 Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một biến số quan trọng của tiền lương, thể
hiện khả năng trả lương của doanh nghiệp. Các biến số quan trọng nhất về
hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp liên quan đến tiền lương là
năng suất lao động, lợi nhuận, thị phần. Một số nghiên cứu cho thấy lợi nhuận

tăng lên 10% thì sẽ làm cho tiền lương tăng lên 1%. Trong phân phối tiền
lương và thu nhập tại doanh nghiệp, việc căn cứ vào hiệu quả sản xuất kinh
doanh là nhằm đảm bào hài hòa lợi ích giữa người lao động với lợi ích của
doanh nghiệp.
 Cung cầu lao động và các mức lương trên thị trường lao động.
Trong nền kinh tế thị trường, tiền lương là biều hiện của giá cả sức lao
động. Tiền lương chịu sự chi phối của quan hệ cung cầu lao động, chi phí lao
động trong doanh nghiệp, cũng như các loại chi phí đầu vào khác. Quan hệ
cung cầu lao động ảnh hưởng trực tiếp đến tiền lương của doanh nghiệp và
được thể hiện như sau:
- Khi cung cầu lao động trên thị trường lao động đạt mức cân bằng thì tiền
lương có xu hướng dừng lại ở mức tiền lương cân bằng.
- Khi cầu lao động tăng lên và mức cung không tăng lên tương ứng thì
mức tiền lương sẽ có xu hướng tăng lên, ngược lại tiền lương sẽ có xu hướng
giảm xuống.
Đinh Mỹ Hương Toán kinh tế
46
8
Chuyên dề tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
Trong thực tế, các mức lương đang thịnh hành trên thị trường đối với từng
loại lao động là căn cứ quan trọng để các doanh nghiệp quyết định của mình.
Trong điều kiện thị trường lao động ngày càng phát triển, việc xác định các
mức lương cạnh tranh ngày càng có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh
nghiệp.
 Mức độ đóng góp lao động của người lao động.
Trong thực tế, việc trả lương cho người lao động phải căn cứ vào mức độ
đóng góp lao động cụ thể của từng người. Yêu cầu này xuất phát từ nguyên
tắc cơ bản trả lương như nhau cho lao động có giá trị như nhau. Giá trị/kết
quả lao động có thể được đo lường thông qua thời gian làm việc thực tế (số
giờ công hay ngày công), khối lượng (nhiệm vụ) công việc hoàn thành (lượng

sản phẩm/công việc hoàn thành), chất lượng công việc hoàn thành theo các
quy định về quy cách, tiêu chuẩn, thời hạn, … Mức độ đóng góp còn phụ
thuộc vào trình độ chuyên môn, trình độ tay nghề, thâm niên và kinh nghiệm
công tác.
Để xác định tiền lương dựa vào mức độ đóng góp (kết quả lao động) của
cá nhân thì 2 việc sau đây cần thiết phải làm: thứ nhất, chức danh phải được
xác định rõ ràng bằng phương pháp đánh giá nghề và công việc; mục tiêu cá
nhân trong kỳ hạn tiền lương phải được xác định rõ ràng và phải đo đếm
được; thứ hai, phải có hệ thống thẩm định kết quả lao động và phương pháp
xếp lương theo hiệu quả.
 Một số yếu tố có tính chất khuyến khích.
Trong nhóm này có thể kể đến thái độ lao động, tinh thần trách nhiệm và
sự gắn bó đối với doanh nghiệp; tình hình thực hiện an toàn lao động, thâm
niên công tác, sự đóng góp đối với doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp áp
dụng các loại phụ cấp thu hút, phụ cấp khuyến khích, tạo điều kiện làm việc,
đào tạo, phát triển và thăng tiến nhằm tuyển mộ và giữ chân người tài.
Đinh Mỹ Hương Toán kinh tế
46
9
Chuyên dề tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
 Những căn cứ khác.
Ngoài những căn cứ chính nêu trên, tùy theo tình hình cụ thể mà các doanh
nghiệp có thể căn cứ vào những yếu tố khác nhau để xây dựng cơ chế tiền
lương như tỷ lệ giữa chi phí lao động so với tổng chi phí sản xuất; các loại kỹ
năng mà doanh nghiệp cần có; mức năng suất cá nhân cần có để đạt được
mức sản lượng đầu ra dự kiến; sự thích hợp của các phương pháp trả lương;
những tiến bộ của khoa học công nghệ có ảnh hưởng đến tổ chức và bố trí lao
động; mức độ ổn định kinh doanh và tuyển dụng lao động; tương lai phát
triển của doanh nghiệp; quy mô thị trường lao động; xu hướng biến động của
giá cả sinh hoạt; phong trào công đoàn.

1.3. PHÂN PHỐI TIỀN LƯƠNG – MỐI QUAN HỆ GIỮA NGƯỜI LAO
ĐỘNG VÀ NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG
Phân phối tiền lương là nội dung rất quan trọng trong hệ thống quản lý lao
động của doanh nghiệp, nó thể hiện mối quan hệ giữa “làm” và “ăn”, giữa
“đóng góp” và “hưởng thụ”. Phân phối tiền lương có mối quan hệ chặt chẽ
với phân công, bố trí và sử dụng lao động trong doanh nghiệp. Phân phối tiền
lương không chỉ thể hiện mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và người
lao động, mà còn thể hiện mối quan hệ giữa những người lao động với nhau.
Nó không chỉ thể hiện mối quan hệ tiền lương trong nội bộ doanh nghiệp, mà
còn thể hiện mối quan hệ giữa doanh nghiệp với phần còn lại của xã hội, giữa
các doanh nghiệp với nhau, giữa các ngành, các khu vực, các vùng và các
quốc gia với nhau.
Phân phối tiền lương có quan hệ chặt chẽ với mức độ đóng góp lao động
và kết quả lao động (trả lương theo thời gian hay theo sản phẩm). Như vậy,
phân phối tiền lương có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với cả người lao động
và cả doanh nghiệp.
Phân phối tiền lương không chỉ quan trọng đối với người lao động, mà cả
đối với người sử dụng lao động và chính phủ.
Đinh Mỹ Hương Toán kinh tế
46
10
Chuyên dề tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
- Đối với người lao động: Tiền lương là nguồn thu nhập chính hay duy
nhất, là sự hoàn trả toàn bộ đầu tư vào vốn nhân lực (giáo dục và đào tạo) và
là thước đo phản ánh địa vị xã hội của mỗi người. Ở nhiều nước phát triển,
nơi mà số người làm công ăn lương chiếm đa số trong lực lượng lao động,
tiền lương trả cho người lao động có thể đến 60% thu nhập quốc dân (national
income). Người lao động và gia đình họ chủ yếu dựa vào tiền lương để trang
trải các chi phí cho cuộc sống như ăn, ở, mặc và các nhu cầu thiết yếu khác
cho cuộc sống. Tại các nước đang phát triển, mặc dù còn hiện tượng tiền

lương thấp, tiền lương “không đủ sống”, song tiền lương luôn là vấn đề trung
tâm trong mọi cuộc thảo luận về quan hệ lao động;
- Đối với người sử dụng lao động: Chi phí tiền lương nói riêng và chi phí
lao động nói chung là một cấu phần quan trọng của chi phí sản xuất. Tiền
lương trong chi phí sản xuất là yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong mối quan hệ này, tiền lương (chi
phí lao động) được so sánh với giá trị gia tăng, hay nói cách khác là tiền
lương phải được so sánh với năng suất lao động. Đối với doanh nghiệp, mức
độ chi phí tiền lương (chi phí lao động) thể hiện khả năng tuyển dụng và duy
trì lực lượng lao động cần thiết và là chỉ số quan trọng về chính sách quản lý
nguồn nhân lực. Vấn đề tiền lương luôn là trọng tâm trong các chính sách của
doanh nghiệp;
- Đối với chính phủ: Tiền lương là một trong những chính sách kinh tế -
xã hội quan trọng nhằm phân phối và điều tiết thu nhập, phân bố và sử dụng
có hiệu quả nguồn nhân lực. Các chính phủ rất quan tâm đến tiêu chuẩn tiền
lương vì chúng có ảnh hưởng lớn đến sự ổn định và bầu không khí trong xã
hội. Ngoài ra, chính phủ còn là một người sử dụng lao động lớn. Ở nhiều
nước đang phát triển, chính phủ là người sử dụng lao động lớn nhất, do đó
chính phủ rất quan tâm đến các mức lương trên thị trường.
Đinh Mỹ Hương Toán kinh tế
46
11
Chuyên dề tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
Mục đích của phân phối tiền lương trong doanh nghiệp là đảm bảo sự công
bằng giữa cống hiến và hưởng thụ. Lao động ngang nhau thì hưởng thụ ngang
nhau. Về mặt kinh tế, mọi quan hệ trao đổi được coi là công bằng khi chúng
được thực hiện theo nguyên tắc ngang giá. Sự công bằng trong phân phối
hoàn toàn không đồng nghĩa với phân phối bình quân. Thực tế, sự phân phối
bình quân trong nhiều năm trước đây (ngay cả hiện nay vẫn chưa khắc phục
được) là một sai lầm và hậu quả của nó là triệt tiêu động lực và phấn đấu của

các cá nhân và tập thể. Chính vì thế mà Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định
phải thực hiện nguyên tắc phân phối “Áp dụng hình thức trả lương gắn chặt
với kết quả lao động và hiệu quả kinh tế”. Như vậy, để đảm bảo công bằng
trong phân phối tiền lương cần thực hiện nguyên tắc làm công việc gì thì
hưởng lương theo công việc đó.
Đinh Mỹ Hương Toán kinh tế
46
12
Chuyên dề tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG TIỀN LƯƠNG CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG Ở
VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2004 - 2006
Chương này mô tả một số đặc điểm cơ bản về tiền lương của người lao
động trong giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2006 theo một số chỉ tiêu sau:
+ Giới tính của người lao động
+ Nhóm tuổi của người lao động
+ Trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật và số năm đi học của
người lao động
+ Địa bàn cư trú của người lao động
+ Vùng kinh tế của người lao động
+ Ngành kinh tế của người lao động
+ Kinh nghiệm làm việc của người lao động
Chương này tập trung trả lời các câu hỏi sau:
- Ở từng năm tiền lương của người lao động trong các nhóm là bao nhiêu
và biến động như thế nào qua các năm?
- Sự biến động này nói lên điều gì?
Trả lời những câu hỏi này sẽ cung cấp những thông tin rất hữu ích cho việc
đánh giá ảnh hưởng của nó đến tiền lương của người lao động ở Việt Nam
trong giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2006.
2.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG LÀM CÔNG ĂN LƯƠNG

2.1.1. Giới tính
Đinh Mỹ Hương Toán kinh tế
46
13
Chuyên dề tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
Biểu 2.1a. Tiền lương bình quân của người lao động chia theo thành thị nông thôn và theo giới tính
Giói tính
Tiền lương bình quân tháng (nghìn đồng)
2004 2006
Khu vực Khu vực
Thành thị Nông thôn Tổng số Thành thị Nông thôn Tổng số
Nam
1,258.43 748.76 937.39 1,562.04 1,006.92 1,217.20
Nữ
1,014.91 627.51 801.40 1,297.04 838.73 1,038.91
Tổng số
1,153.44 705.90 885.09 1,447.62 944.01 1,146.38
Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra Mức sống 2004-2006
Biểu 2.1b. Cơ cấu lao động làm công ăn lương chia theo thành thị nông thôn và theo giới tính
Giói tính
Cơ cấu lao động làm công ăn lương
2004 2006
Khu vực Khu vực
Thành thị Nông thôn Tổng số Thành thị Nông thôn Tổng số
Nam
37.01 62.99 100.00 37.88 62.12 100.00
Nữ
44.89 55.11 100.00 43.68 56.32 100.00
Tổng số
40.04 59.96 100.00 40.18 59.82 100.00

Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra Mức sống 2004-2006
Đinh Mỹ Hương Toán kinh tế 46
14
Chuyên dề tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
 Xét tiền lương bình quân của người lao động chia theo thành thị nông
thôn và theo giới tính.
Tiền lương bình quân của người lao động nói chung khu vực nông thôn
luôn thấp hơn so với khu vực thành thị. Năm 2004 tiền lương bình quân tháng
của lao động nữ khu vực nông thôn là 627.51 nghìn đồng, năm 2006 là 838.73
nghìn đồng, trong khi đó ở khu vực thành thị tương ứng là: 1,014.91 nghìn
đồng và 1,297.04 nghìn đồng. Như vậy tiền lương bình quân của lao động nữ
nông thôn năm 2004 chỉ bằng 61.83 % tiền lương bình quân của lao động nữ
thành thị, năm 2006 tỷ lệ này tiếp tục tăng lên còn 64.67 %.
Năm 2004 tiền lương bình quân tháng của lao động nam khu vực nông
thôn là 748.76 nghìn đồng, năm 2006 là 1,006.92 nghìn đồng, trong khi đó ở
khu vực thành thị tương ứng là: 1,258.43 nghìn đồng và 1,562.04 nghìn đồng.
Như vậy tiền lương bình quân của lao động nam nông thôn năm 2004 chỉ
bằng 59.50 % tiền lương bình quân của lao động nam thành thị, năm 2006 tỷ
lệ này tiếp tục tăng lên còn 64.46 %.
Tốc độ tăng tiền lương bình quân của lao động nữ nông thôn cao hơn so
với lao động nữ thành thị. Bình quân mỗi năm tốc độ tăng tiền lương bình
quân của lao động nữ khu vực thành thị giai đoạn 2004-2006 là 13.05 %/năm
so với khu vực nông thôn_15.61 %/năm.
Tốc độ tăng tiền lương bình quân của lao động nam nông thôn cao hơn so
với lao động nam thành thị. Bình quân mỗi năm tốc độ tăng tiền lương bình
quân của lao động nam khu vực thành thị giai đoạn 2004-2006 là 11.41
%/năm so với khu vực nông thôn_15.96 %/năm.
 Xét cơ cấu lao động làm công ăn lương chia theo thành thị nông thôn
và theo giới tính.
Cơ cấu lao động làm công ăn lương khu vực nông thôn luôn cao hơn so

với khu vực thành thị. Năm 2004 cơ cấu của lao động nữ khu vực nông thôn
Đinh Mỹ Hương Toán kinh tế
46
15
Chuyên dề tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
là 55.11 %, năm 2006 là 56.32 %; trong khi đó ở khu vực thành thị tương ứng
là 44.89 % và 43.68 %.
Năm 2004 cơ cấu của lao động nam khu vực nông thôn là 62.99 %, năm
2006 là 62.12 %; trong khi đó ở khu vực thành thị tương ứng là 37.01 % và
37.88 %.
2.1.2. Nhóm tuổi
Nhóm tuổi từ 50-54 có mức tiền lương bình quân tháng ở khu vực nông
thôn năm 2004 cao nhất cả nước (810.32 nghìn đồng) nhưng năm 2006 từ 35-
39 tuổi lại thay thế với mức tiền lương bình quân tháng cao nhất (1,110.24
nghìn đồng). Từ 35-39 là nhóm tuổi có tốc độ tăng tiền lương bình quân hàng
năm cao nhất ở nông thôn, đạt 20.50 %/năm. Từ 50-54 là nhóm tuổi có tốc độ
tăng tiền lương bình quân hàng năm thấp nhất ở nông thôn, đạt 10.49 %/năm
nhưng lại là nhóm tuổi có tốc độ tăng tiền lương bình quân hàng năm cao nhất
ở thành thị, đạt 16.43 %/năm.
Từ 15-19 là nhóm tuổi có mức tiền lương bình quân tháng ở khu vực thành
thị luôn thấp nhất: từ 688.26 nghìn đồng năm 2004 lên 739.17 nghìn đồng
năm 2006 đồng thời là nhóm tuổi có tốc độ tăng tiền lương bình quân/năm
thấp nhất ở thành thị-chỉ đạt 3.63 %/năm.
Từ 45-49 là nhóm tuổi có mức tiền lương bình quân tháng ở khu vực
thành thị luôn cao nhất: từ 1,342.14 nghìn đồng năm 2004 lên 1,758.54 nghìn
đồng năm 2006. Từ 60 trở lên là nhóm tuổi có mức tiền lương bình quân
tháng ở khu vực nông thôn luôn thấp nhất: từ 388.89 nghìn đồng năm 2004
lên 508.10 nghìn đồng năm 2006.
Đinh Mỹ Hương Toán kinh tế
46

16
Chuyên dề tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
Biểu 2.2. Tiền lương bình quân của người lao động chia theo thành thị nông thôn và theo nhóm tuổi
Nhóm tuổi
Tiền lương bình quân tháng
2004 2006
Khu vùc Khu vùc
Thµnh ThÞ N«ng th«n
Tæng sè
Thµnh ThÞ N«ng th«n
Tæng sè
Từ 15-19
688.26 510.34 545.40 739.17 694.11 703.41
Từ 20-24
856.63 679.68 739.17 1,107.72 882.32 958.75
Từ 25-29
1,160.12 750.41 922.99 1,414.16 1,014.24 1,179.85
Từ 30-34
1,244.07 776.44 968.23 1,528.56 1,019.27 1,244.27
Từ 35-39
1,181.64 764.61 922.65 1,508.39 1,110.24 1,264.48
Từ 40-44
1,302.69 737.15 981.94 1,562.32 997.68 1,221.14
Từ 45-49
1,342.14 763.59 1,070.79 1,758.54 1,031.24 1,426.27
Từ 50-54
1,272.86 810.32 1,052.62 1,725.56 989.27 1,366.04
Từ 55-59
1,151.06 659.57 936.23 1,490.85 860.67 1,195.36
Từ 60 trở lên

884.59 388.89 631.51 999.85 508.10 694.52
Tổng số
1,153.44 705.90 885.09 1,447.62 944.01 1,146.38
Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra Mức sống 2004-2006
Đinh Mỹ Hương Toán kinh tế 46
17
Chuyên dề tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
2.1.3. Giáo dục
2.1.3.1. Trình độ học vấn
Biểu 2.3. Tiền lương bình quân của người lao động chia theo thành thị nông thôn và theo trình độ học vấn
Trình độ học vấn
Tiền lương bình quân tháng (nghìn đồng)
2004 2006
Khu vực Khu vực
Thành thị Nông thôn Tổng số Thành thị Nông thôn Tổng số
Chưa đi học
765.39 448.83 503.52 679.44 589.76 600.41
Tốt nghiệp tiểu học
719.86 540.32 578.21 859.95 709.56 740.67
Tốt nghiệp cấp 2
850.22 650.30 712.11 1,047.29 872.72 929.20
Chưa tốt nghiệp cấp 3
1,037.09 691.96 805.14 1,198.97 917.98 1,009.68
Đã tốt nghiệp cấp 3
1,172.10 847.53 1,012.82 1,456.67 1,054.41 1,252.39
Từ cao đẳng, đại học trở lên
1,579.00 1,148.39 1,457.99 2,092.78 1,720.24 1,987.14
Tổng số
1,153.44 705.90 885.09 1,447.62 944.01 1,146.38
Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra Mức sống 2004-2006

Đinh Mỹ Hương Toán kinh tế 46
18
Chuyên dề tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
Ở mỗi năm, tiền lương bình quân ở mỗi khu vực tăng dần lên theo cấp độ
học vấn từ Chưa đi học tới Từ cao đẳng, đại học trở lên. Cá biệt năm 2004,
Tốt nghiệp tiểu học có mức tiền lương bình quân ở khu vực thành thị thấp
hơn so với tiến trình “tăng dần lên”. Đồng thời, đây cũng là cấp độ học vấn có
mức tiền lương bình quân thấp nhất (719.86 nghìn đồng/tháng). Chênh lệch
giữa cấp độ học vấn có mức tiền lương bình quân cao nhất và thấp nhất ở khu
vực nông thôn tăng dần song chậm hơn so với tốc độ tăng chênh lệch này ở
thành thị. Năm 2004, mức chênh lệch đó ở khu vực nông thôn là 2.56 lần, cao
hơn chênh lệch ở thành thị (2.19 lần). Đến năm 2006 chênh lệch tiền lương
bình quân ở khu vực nông thôn tăng lên còn 2.92 lần, trong khi chênh lệch
tiền lương bình quân ở thành thị là 3.08 lần.
Cấp độ học vấn Tốt nghiệp tiểu học có mức tiền lương bình quân tháng ở
khu vực thành thị năm 2004 thấp nhất cả nước (719.86 nghìn đồng) nhưng
năm 2006 Chưa đi học lại thay thế với mức tiền lương bình quân tháng thấp
nhất (679.44 nghìn đồng).
Chưa đi học là cấp độ học vấn có mức tiền lương bình quân tháng ở khu
vực nông thôn luôn thấp nhất: từ 448.83 nghìn đồng năm 2004 lên 589.76
nghìn đồng năm 2006 nhưng lại là cấp độ học vấn có tốc độ tăng tiền lương
bình quân/năm thấp nhất ở thành thị-đạt –5.78 %/năm. Con số này chứng tỏ
rằng bình quân mỗi năm tiền lương ở khu vực thành thị với Chưa đi học giai
đoạn 2004-2006 giảm với tốc độ 5.78 %/năm.
Từ cao đẳng, đại học trở lên là cấp độ học vấn có mức tiền lương bình
quân tháng ở cả 2 khu vực luôn cao nhất: ở khu vực nông thôn, từ 1,148.39
nghìn đồng năm 2004 lên 1,720.24 nghìn đồng năm 2006; ở khu vực thành
thị, từ 1,579.00 nghìn đồng năm 2004 lên 2,092.78 nghìn đồng năm 2006
đồng thời là cấp độ học vấn có tốc độ tăng tiền lương bình quân/năm cao nhất
ở cả 2 khu vực (Nông thôn: 22.39 %/năm_Thành thị: 15.13 %/năm).

Đinh Mỹ Hương Toán kinh tế
46
19
Chuyên dề tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
Đã tốt nghiệp cấp 3 là cấp độ học vấn có tốc độ tăng tiền lương bình quân
tháng thấp nhất ở nông thôn, đạt 11.54 %/năm.
2.1.3.2. Trình độ chuyên môn kỹ thuật
Đinh Mỹ Hương Toán kinh tế
46
20
Chuyên dề tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
Biểu 2.4. Tiền lương bình quân của người lao động chia theo thành thị nông thôn và theo trình độ chuyên môn kỹ thuật
Trình độ chuyên môn kỹ thuật
Tiền lương bình quân tháng (nghìn đồng)
2004 2006
Khu vực Khu vực
Thành thị Nông thôn Tổng số Thành thị Nông thôn Tổng số
Không có bằng cấp
726.60 524.91 566.33 839.96 682.14 711.45
Chưa tốt nghiệp tiểu học
836.66 644.89 700.83 1,019.88 866.36 915.65
Chưa tốt nghiệp cấp 3
989.79 656.94 756.95 1,149.84 882.67 960.46
Đã tốt nghiệp cấp 3
1,120.50 786.76 944.35 1,424.07 957.13 1,161.41
Công nhân kỹ thuật
1,167.31 884.16 1,039.14 1,461.24 1,155.82 1,322.05
Công nhân kỹ thuật nghề
1,215.51 912.78 1,066.04 1,441.76 1,143.88 1,293.93
Cao đẳng, đại học trở lên

1,245.29 1,077.53 1,174.15 1,786.57 1,403.26 1,610.58
Từ thạc sỹ, tiến sỹ trở lên
1,670.31 1,196.55 1,562.00 2,177.29 1,994.46 2,138.33
Tổng số
1,153.44 705.90 885.09 1,447.62 944.01 1,146.38
Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra Mức sống 2004-2006
Đinh Mỹ Hương Toán kinh tế 46
21
Chuyên dề tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
Không có bằng cấp là cấp độ CMKT có mức tiền lương bình quân tháng ở
cả 2 khu vực luôn thấp nhất: ở khu vực nông thôn, từ 524.91 nghìn đồng năm
2004 lên 682.14 nghìn đồng năm 2006; ở khu vực thành thị, từ 726.60 nghìn
đồng năm 2004 lên 839.96 nghìn đồng năm 2006 đồng thời là cấp độ CMKT
có tốc độ tăng tiền lương bình quân/năm thấp nhất ở thành thị-đạt 7.52
%/năm.
Từ thạc sỹ, tiến sỹ trở lên là cấp độ CMKT có mức tiền lương bình quân
tháng ở cả 2 khu vực luôn cao nhất: ở khu vực nông thôn, từ 1,196.55 nghìn
đồng năm 2004 lên 1,994.46 nghìn đồng năm 2006; ở khu vực thành thị, từ
1,670.31 nghìn đồng năm 2004 lên 2,177.29 nghìn đồng năm 2006 đồng thời
là cấp độ CMKT có tốc độ tăng tiền lương bình quân/năm cao nhất ở nông
thôn-đạt 29.11 %/năm.
Đã tốt nghiệp cấp 3 là cấp độ CMKT có tốc độ tăng tiền lương bình
quân/năm thấp nhất ở nông thôn, đạt 10.30 %/năm.
Cao đẳng, đại học là cấp độ CMKT có tốc độ tăng tiền lương bình
quân/năm cao nhất ở thành thị, đạt 19.78 %/năm.
Ở mỗi năm, tiền lương bình quân ở mỗi khu vực tăng dần lên theo cấp độ
chuyên môn kỹ thuật từ Không có bằng cấp tới Từ thạc sỹ, tiến sỹ trở lên.
Ngoại trừ năm 2006, Công nhân kỹ thuật nghề có mức tiền lương bình quân ở
cả hai khu vực đều thấp hơn so với tiến trình “tăng dần lên” (Nông thôn:
1,143.88 nghìn đồng, Thành thị: 1,441.76 nghìn đồng). Chênh lệch giữa cấp

độ chuyên môn kỹ thuật có mức tiền lương bình quân cao nhất và thấp nhất ở
khu vực nông thôn tăng dần song nhanh hơn so với tốc độ tăng chênh lệch
này ở thành thị. Năm 2004, mức chênh lệch đó ở khu vực nông thôn là 2.28
lần, thấp hơn chênh lệch ở thành thị (2.30 lần). Đến năm 2006 chênh lệch tiền
lương bình quân ở khu vực nông thôn tăng lên còn 2.92 lần, trong khi chênh
lệch tiền lương bình quân ở thành thị là 2.59 lần.
Đinh Mỹ Hương Toán kinh tế
46
22
Chuyên dề tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
2.2. VÙNG KINH TẾ
Trong giai đoạn 2004-2006, nếu Đông Nam Bộ là vùng kinh tế có mức
tiền lương bình quân tháng ở cả 2 khu vực luôn cao nhất (Nông thôn, từ
873.21 nghìn đồng năm 2004 lên 1,168.29 nghìn đồng năm 2006; Thành thị,
từ 1,367.23 nghìn đồng năm 2004 lên 1,679.53 nghìn đồng năm 2006) thì
Đồng bằng sông Cửu Long lại là vùng kinh tế có mức tiền lương bình quân
tháng luôn thấp nhất (Nông thôn, từ 626.21 nghìn đồng năm 2004 lên 794.39
nghìn đồng năm 2006; Thành thị, từ 875.09 nghìn đồng năm 2004 lên
1,096.45 nghìn đồng năm 2006).
Tây Bắc là vùng kinh tế có tốc độ tăng tiền lương bình quân/năm ở nông
thôn thì cao nhất-đạt 23.14 %/năm, ở thành thị thì thấp nhất-đạt 7.17 %/năm.
Trong khi thấp nhất ở nông thôn là vùng kinh tế Bắc Trung Bộ-đạt 8.79
%/năm, cao nhất ở thành thị là vùng kinh tế Đông Bắc-đạt 15.87 %/năm.
Đinh Mỹ Hương Toán kinh tế
46
23
Chuyên dề tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
Biểu 2.5. Tiền lương bình quân của người lao động chia theo thành thị nông thôn và theo vùng kinh tế
Vùng kinh tế
Tiền lương bình quân tháng (nghìn đồng)

2004 2006
Khu vực Khu vực
Thành thị Nông thôn Tổng số Thành thị Nông thôn Tổng số
Đồng bằng sông Hồng
1,168.28 677.57 839.48 1,509.81 937.58 1,142.31
Đông Bắc
1,033.49 812.67 904.70 1,387.58 1,036.93 1,185.27
Tây Bắc
1,138.23 690.90 883.05 1,307.39 1,047.67 1,180.39
Bắc Trung Bộ
934.78 699.54 767.82 1,216.52 827.87 955.30
Duyên hải Nam Trung Bộ
994.30 730.73 838.44 1,289.55 1,017.13 1,130.91
Tây Nguyên
985.20 634.52 785.03 1,278.73 935.07 1,081.36
Đông Nam Bộ
1,367.23 873.21 1,190.71 1,679.53 1,186.29 1,477.81
Đồng bằng sông Cửu Long
875.09 626.61 689.45 1,096.45 794.39 870.65
Tổng số
1,153.44 705.90 885.09 1,447.62 944.01 1,146.38
Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra Mức sống 2004-2006
Đinh Mỹ Hương Toán kinh tế 46
24
Chuyên dề tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
2.3. NGÀNH KINH TẾ
Nông, lâm nghiệp là ngành kinh tế có mức tiền lương bình quân tháng ở cả
2 khu vực luôn cao nhất (Nông thôn, từ 499.20 nghìn đồng năm 2004 lên
653.16 nghìn đồng năm 2006; Thành thị, từ 540.26 nghìn đồng năm 2004 lên
752.42 nghìn đồng năm 2006). Nếu Vận tải, kho bãi, thông tin liên lạc là

ngành kinh tế có mức tiền lương bình quân tháng ở khu vực nông thôn luôn
cao nhất (từ 991.51 nghìn đồng năm 2004 lên 1,368.97 nghìn đồng năm 2006)
thì Công nghiệp khai thác mỏ lại là ngành kinh tế có mức tiền lương bình
quân tháng luôn cao nhất ở khu vực thành thị (từ 1,957.36 nghìn đồng năm
2004 lên 2,402.10 nghìn đồng năm 2006).
Xét về tốc độ tăng tiền lương bình quân/năm, ngành kinh tế Sản xuất phân
phối điện, khí đốt và nước thấp nhất ở khu vực nông thôn-đạt 3.21%/năm
nhưng lại cao nhất ở khu vực thành thị-đạt 18.83 %/năm. Trong khi cao nhất
ở khu vực nông thôn là ngành kinh tế Thủy sản-đạt 20.01 %/năm, thấp nhất ở
khu vực thành thị là ngành kinh tế Thương nghiệp- đạt 5.86 %/năm.
Đinh Mỹ Hương Toán kinh tế
46
25

×