Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

vận dụng phương pháp thống kê phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp may xuất khẩu thanh trì năm 2003-2004

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (536.54 KB, 89 trang )

CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
Đề tài: Vận dụng phương pháp Thống Kê phân tích hiệu quả sản xuất
kinh doanh của Xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì năm 2003-2004.
===================
Lời mở đầu
Trong xu thế hội nhập và phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, hiệu
quả sản xuất kinh doanh là một trong những yếu tố quyết định sự tồn tại, mở
rộng và phát triển của mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh. Với hệ thống thương mại
đã phát triển trên toàn cầu, giao lưu hợp tác buộc mỗi đơn vị, mỗi nước phải
cạnh tranh với toàn bộ phần còn lại của thế giới. Để tăng cường khả năng cạnh
tranh các đơn vị kinh tế luôn phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của
mình, làm tốt công tác Marketing và không ngừng hoàn thiện nâng cao chất
lượng sản phẩm.
Thống Kê được coi là một trong những công cụ sắc bén nhất để nhận thức
hiện tượng kinh tế xã hội, vì nó cho phép định lượng các chất, gắn định lượng
với định tính, phản ánh hiện thực khách quan, làm cơ sở để cho các quyết định
quản lý có căn cứ thực tế và hiệu quả. Quản lý là hoạt động dựa trên sự nhận
thức và vận dụng các quy luật thực tế khách quan, Thống Kê có bộ công cụ
phong phú để phân tích nhận thức và biểu hiện được bản chất, tính quy luật của
hiện tượng làm cơ sở cho việc ra các quyết định quản lý: kiểm kê, kiểm soát.
Muốn hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì luôn phải cập nhật
những thông tin về hoạt động sản xuất và tiêu thụ, Thống Kê là một công cụ ưu
tú vì vậy không thể thiếu, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
Chính vì vậy, sau thời gian thực tập ở Xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì,
dựa trên những kiến thức Thống Kê đã được học tại trường, đề tài em lựa chọn
là “ Vận dụng phương pháp Thống Kê phân tích hiệu quả sản xuất kinh
doanh của Xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì “
Bài viết gồm 5 phần:
• Lời mở đầu
• Chương I: Khái niệm, ý nghĩa của hiệu quả sản xuất kinh doanh
• Chương II: Hệ thống chỉ tiêu Thống Kê hiệu quả sản xuất kinh doanh


• Chương III: Vận dụng phương pháp Thống Kê phân tích hiệu quả
sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì trên cơ sở số liệu
Thống Kê về hiệu quả và chi phí.
• Kết luận
Trần Thị Chinh Thống Kê 44A
1
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
Ch ươ ng I: Khái niệm, ý nghĩa của hiệu quả sản xuất kinh doanh
I. Khái niệm hiệu quả kinh tế và hiệu quả sản xuất kinh doanh
1. Khái niệm chung
Hiệu quả kinh tế là một vấn đề quan trọng cả về lý thuyết và thực tiễn. Đảm
bảo hiệu quả kinh tế là vấn đề bao trùm thể hiện của chất lượng của toàn bộ
công tác quản lý kinh tế vì suy cho cùng quản lý kinh tế là đảm bảo tạo ra kết
quả cuối cùng, hiệu quả cuối cùng của mọi quá trình kinh tế. Dự thảo chiến lược
ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của nước ta đã chỉ rõ “ Hiệu quả kinh tế -
xã hội là tiêu chuẩn quan trọng nhất của sự phát triển|”
Các nhà kinh tế và Thống Kê có nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả do
điều kiện lịch sử và giác độ nghiên cứu từ nhiều phía khác nhau. Nhìn chung
hiệu quả được xem xét dưới hai góc độ: hiệu quả sản xuất - kinh doanh và hiệu
quả kinh tế
1.1.Khái niệm hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế quan trọng biểu hiện quan hệ so sánh
giữa kết quả kinh tế mà xã hội đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được hiệu quả
đó. Vào buổi bình minh của kinh tế học, trong đời sống kinh tế chính trị từ 500
năm trước công nguyên các nhà tư tưởng Hy Lạp đã chú ý quan tâm đến hiệu
quả, nhưng chủ yếu họ mới chỉ quan tâm đến phạm trù hiệu quả kinh tế:
Theo Xanophon (427-355 trước CN) tính hiệu quả tập trung vào khả năng
của con người được hướng dẫn bởi khả năng lãnh đạo tốt như là biến số chính
trong việc quản lý. Một nhà quản lý tốt phấn đấu gia tăng kích thước thặng dư
kinh tế của bất kỳ đơn vị nào anh ta giám sát, điều này đạt được bằng kỹ năng,

và nguyên tắc kinh tế cơ bản nhất là sự phân công lao động. Ông quy sự gia
tăng của cả sản lượng và chất lượng sản phẩm vào nguyên tắc phân công lao
động.
Theo Plato (427-327 trước CN) Thừa nhận chuyên môn hoá và phân công
lao động như nguồn gốc của hiệu quả và năng suất
Theo Aristotle ( 384-322 trước CN) phân phối công bằng tạo ra hiệu quả
kinh tế.
Các nhà kinh tế học thời kỳ trung cổ cho rằng hiệu quả kinh tế được tính
thông qua các chỉ về kết quả:
A.Smith trong tác phẩm “Tìm kiếm bản chất và nguồn gốc của sự giàu có
của các quốc gia” cho rằng hiệu quả được phản ánh thông qua tiền lãi và lợi
nhuận, lợi nhuận là tiền lời đối với tư bản hơn là thu nhập của doanh nghiệp.
Tiền lãi được xem là đại diện của lợi nhuận, tức là coi hiệu quả là kết quả đạt
được trong hoạt động kinh tế, là doanh thu và lợi nhuận. Sức lao động của con
người trong mỗi quốc gia là nguồn gốc của sự giàu có và là vốn liếng đầu tiên
Trần Thị Chinh Thống Kê 44A
2
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
tạo ra mọi của cải cần thiết cho đời sống xã hội. Vì vậy để sản xuất có hiệu quả
cần một sự phân công lao động trong các tổ chức, các ngành trong một quốc gia.
Ogiephri ( nhà kinh tế người Pháp) cũng đồng quan điểm như vậy.
Trong bản dự thảo phương pháp tính hệ thống chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của
viện nghiên cứu khoa học thuộc uỷ ban kế hoạch nhà nước Liên Xô cũ đã xem
hiệu quả kinh tế là tốc độ tăng thu nhập quốc dân và tổng sản phẩm xã hội. Như
vậy ở đây hiệu quả được đồng nhất với chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh hoạc nhịp độ tăng các chỉ tiêu đó. Rõ rang các quan điểm này
không hợp lý, Kết quả sản xuất kinh doanh có thể tăng do chi phí tăng hay mở
rộng sử dụng các nguồn lực sản xuất. Nếu cùng một kết quả sản xuất mà có hai
mức chi phí khác nhau thì quan điểm này có chung một hiệu quả.
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế đặc biệt quan trọng, thuộc mọi lĩnh

vực hoạt động kinh tế, nó là một chỉ tiêu sản xuất biểu hiện mức độ của tiết kiệm
chi phí trong một đơn vị kết quả hữu ích và mức tăng khối lượng kết quả hữu ích
của hoạt động sản xuất vật chất trong một thời kỳ, góp phần làm tăng thêm lợi
ích của xã hội, của nền kinh tế quốc dân. Ưu điểm của quan điểm này là gắn kết
quả với chi phí, coi kết quả là sự phản ánh trình độ sử dụng chi phí. Nhưng
nhược điểm là chưa rõ ràng, chưa nhất quán và thiếu tính hiện thực ở phương
diện xác định và tính toán. Cụ thể là “chỉ tiêu so sánh biểu hiện mức độ tiết kiệm
chi phí trong 1 đơn vị kết quả hữu ích” vì rằng muốn biết mức độ tiết kiệm thì
phải có hai phương án để so sánh hoặc phải có định mức, tiêu chuẩn để so sánh.
Điều đó chỉ có trong lĩnh vực kế hoạch chọn lọc các phương án sản xuất hoặc dự
án đầu tư. Trong Thống Kê, mỗi đối tượng trong một phạm vi thời gian và
không gian cụ thể chỉ có một kết quả và một chi phí tương ứng, vì vậy rất khó để
biết được mức độ tiết kiệm.
Quan điểm khái niệm hiệu quả kinh tế phải xuất phát từ bản chất và tiêu
chuẩn của hiệu quả kinh tế, do vậy khái niệm về hiệu quả kinh tế phải chỉ rõ
trình độ sử dụng các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh và nguồn vốn sản xuất, phải
chỉ rõ kết quả cuối cùng đối với người lao động, doanh nghiệp và xã hội. Nói
cách khác, khái niệm hiệu quả kinh tế phải bộc lộ rõ ràng bản chất của hiệu quả
kinh tế, bộc lộ được rõ biểu hiện mặt chất của việc sử dụng các yếu tố chi phí
sản xuất cũng như kết quả thu được.
Các nhà kinh tế học hiện đại cho rằng: việc xác định bản chất và khái niệm
của hiệu quả kinh tế phải xuất phát từ luận điểm của triết học Mark, những luận
điểm của lý thuyết hệ thống và lý thuyết Thống Kê:
Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế quan trọng biểu hiện quan hệ so sánh
giữa kết quả kinh tế mà xã hội đã đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả
đó. Kết quả được đem ra so sánh có thể là kết quả ban đầu, kết quả trung gian
hay kết quả cuối cùng. Nó có thể là kết quả trực tiếp hay kết quả gián tiếp. Chi
phí được chọn để so sánh cũng bao gồm nhiều loại khác nhau: chi phí thường
xuyên, chi phí một lần (nguồn lực của nền sản xuất xã hội). Tương ứng các chỉ
tiêu hiệu quả và chi phí khác nhau có các chỉ tiêu hiệu quả khác nhau, có tác

dụng phân tích khác nhau.
Trần Thị Chinh Thống Kê 44A
3
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
Theo quan điểm của lý thuyết hệ thống hiệu quả là một phạm trù triết hcọ và
kinh tế phản ánh nhu cầu của quy luật kinh tế tiết kiệm thời gian, quy luật
nầyhọt động trong nhiều phương thức sản xuất vì vậy phạm trù này cũng tồn tại
trong nhiều phương thức sản xuất, ở đâu và lúc nào con người cũng muốn hoạt
động một cách có hiệu quả nhất. Trong nền kinh tế, hiệu quả là mục tiêu không
phải cuối cùng mà là mục tiêu phương tiện xuyên xuất mọi hoạt động kinh tế.
Trong kế hoạch và quản lý kinh tế nói chung hiệu quả là quan hệ so sánh tối ưu
giữa đầu ra và đầu vào, là lợi ích lớn nhất thu được với một chi phí nhất định
(hoặc một kết quả nhất định với một chi phí nhỏ nhất)
Trong Thống Kê, hiệu quả kinh tế là các chỉ tiêu đặc trưng kinh tế - kỹ thuật,
xác định bằng tỷ lệ so sánh giữa đầu ra và đầu vào của hệ thống sản xuất xã hội.
Phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực vào việc tạo ra các lợi ích vật chất
nhằm đạt các mục tiêu kinh tế - xã hội. Việc đạt tới mục tiêu kinh tế - xã hội (đạt
tới hiệu quả mong muốn ) là việc của kế hoạch, của lãnh đạo và quản lý Thống
Kê phục vụ cho công cuộc đó bằng sự phản ánh trạng thái của hệ thống mức độ
hiệu quả đã đạt được trong quá khứ, ở dạng các thông số kinh tế-kỹ thuật của hệ
thống sản xuất xã hội. Nhưng các chỉ tiêu đặc trưng kinh tế - kỹ thuật của hệ
thống kinh tế xã hội không phải tất cả đều là chỉ tiêu hiệu quả và việc pảhn ánh
trình độ sử dụng các nguồn lực xã hội vào sản xuất sản phẩm của các chỉ tiêu
hiệu quả kinh tế cũng mang tính chất tương đối.
Ở dạng khái quát nhất, hiệu quả là các đặc trưng kinh tế - kỹ thuật xác định
bằng tỷ lệ so sánh giữa đầu ra và đầu vào của hệ thống. Với nền sản xuất xã hội
có thể nói cụ thể hơn ở phương diện Thống Kê: hiệu quả kinh tế phản ánh trình
độ sử dụng các nguồn lực của xã hội trong sản xuất thông qua các chỉ tiêu đặc
trưng kinh tế - kỹ thuật được xác định bằng tỷ lệ so sánh giữa các chỉ tiêu phản
ánh kết quả đạt được về kinh tế với các chỉ tiêu phản ánh chi phí đã bỏ ra hoặc

nguồn sản xuất được huy động vào sản xuất.
1.2. Khái niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh
Vấn đề hiệu quả sản xuất kinh doanh đã được các nhà khoa học đi sâu
nghiên cứu từ những năm 1930, đặc biệt được tập trung nghiên cứu từ những
năm 1960 trở lại đây. Có rất nhiều khái niệm được đưa ra:
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức độ hữu ích của sản phẩm sản xuất ra,
tức là giá trị sử dụng của nó chứ không phải giá trị. Theo quan điểm này, mức
độ thoả mãn nhu cầu xã hội phụ thuộc vào các tác dụng vật chất cụ thể chứ
không phải giá trị trừu tượng nào đó. Do đó thường bị lẫn lộn giữa các khái
niệm hiệu quả và kết quả kinh doanh, mục tiêu kinh doanh. Kết quả thường phản
ánh những cái thu được sau một quá trình sản xuất kinh doanh, kết quả là mục
tiêu của doanh nghiệp và có thể được biểu hiện bằng đơn vị hiện vật hay giá trị.
Hiệu quả phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất, nó không thể đo
bằng đơn vị hiện vật hay đơn vị giá trị mà là một phạm trù tương đối. Trên
phương diện tính toán Thống Kê Chỉ tiêu hiệu quả là một chỉ tiêu tương đối
cường độ, phản ánh 1 đơn vị đầu vào tương ứng với bao nhiêu đơn vị đầu ra.
Trần Thị Chinh Thống Kê 44A
4
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
Nếu kết quả là mục tiêu của quá trình sản xuất thì hiệu quả là phương tiện để có
thể đạt được các mục tiêu đó. Trong nền kinh tế, hiệu quả không phải là mục
tiêu cuối cùng mà là mục tiêu phương tiện xuyên xuất trong mọi hoạt động kinh
tế. Ở đây chúng ta cần phân biệt giữa hiệu quả và vai trò của nó. Hiệu quả nói
chung hay hiệu quả sản xuất kinh doanh nói riêng có ý nghĩa rất lớn trong việc
nâng cao mức sống nhân dân, nó là phương tiện để đi đến thoả mãn các mục tiêu
cao hơn là không ngừng thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng và sự phát triển của
mọi thành viên trong xã hội, bản thân hiệu quả không phải là mục tiêu mà chỉ là
phương tiện, phải xác định nó ở dạng công cụ chứ không phải tác dụng cuối
cùng của nó.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là sự tăng trưởng kinh tế được phản ánh qua

nhịp độ tăng trưởng của các chỉ tiêu kinh tế. Cách hiểu này chỉ đứng trên
phương diện biến động theo thời gian. Hiệu quả sẽ cao khi có nhịp độ tăng các
chỉ tiêu đó cao. Tức là một đơn vị sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế khi
các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh tăng theo thời gian, ví dụ Lợi
nhuận của doanh nghiệp năm 2005 so với năm 2003 tăng 1.2 lần, tức là doanh
nghiệp đó đã sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Tuy nhiên quan điểm này không
tính đến việc nếu chi phí sản xuất hoặc các nguồn lực được huy động tăng nhanh
hơn thì sao? Hơn nữa điều kiện sản xuất năm hiện tại khác năm trước, các yếu tố
bên trong và bên ngoài của nền kinh tế có ảnh hưởng khác nhau, việc năm gốc
so sánh cũng có ảnh hưởng lớn đến kết quả so sánh. Nếu năm gốc bị mất mùa,
thiên tai, cấm vận… kết quả kinh tế đạt được thấp thì năm nghiên cứu có hiệu
quả cao, với mỗi năm gốc khác nhau chúng ta có các mức hiệu quả khác nhau
của cùng một năm nghiên cứu.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là các chỉ tiêu được xác định bằng tỉ lệ so sánh
giữa kết quả và chi phí, định nghĩa này chỉ đưa ra cách xác lập các chỉ tiêu hiệu
quả chứ không toát lên bản chất của vấn đề. Nếu tỉ lệ so sánh giữa kết quả và chi
phí mà kết quả lớn lớn hơn chi phí tức là doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có
hiệu quả.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức độ tiết kiệm chi phí và mức độ tăng kết
quả kinh tế, đây là cách hiểu theo biểu hiện của bản chất chứ không phải là khái
niệm về hiệu quả kinh tế và cũng là mục tiêu phấn đấu của tất cả các đơn vị sản
xuất kinh doanh là giảm chi phí sản xuất, nâng cao kết quả
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức tăng của kết quả sản xuất kinh doanh
trên mỗi lao động hay mức doanh lợi của vốn sản xuất kinh doanh, theo cách
hiểu này hiệu quả sản xuất kinh doanh được quy về một chỉ tiêu tổng hợp cụ thể
nào đó, hay đây chính là hiệu quả cận biên của mỗi đơn vị chi phí ra.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là hiệu quả tài chính của doanh nghiệp: coi
hiệu quả sản xuất kinh doanh là hiệu quả tài chính của doanh nghiệp tức là muốn
đề cập đến mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp nhận được và chi
phí mà doanh nghiệp bỏ ra để có được lợi ích kinh tế đó. Quan điểm này đúng

với các nhà đầu tư khi xét hiệu quả các dự án đầu tư nhưng không đúng với các
doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh. Vì hiệu quả tài chính chỉ liên quan đến
Trần Thị Chinh Thống Kê 44A
5
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
thu chi có liên quan trực tiếp các nhà đầu tư trong chi phí khai thác hàng năm
không xét đến các yếu tố khấu hao tài sản vì giá trị của nó được thể hiện ở chi
phí đầu tư, còn đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, chi phí khấu hao là
một yếu tố chi phí.
Theo P. Samueleson và W.Nordaus cho rằng: “Hiệu quả là 1 mối quan tâm
của kinh tế học - có lẽ là mối quan tâm trung tâm duy nhất” Hiệu quả nghĩa là
không lãng phí, hiệu quả sản xuất kinh doanh diễn ra khi xã hội không thể tăng
sản lượng một hàng hoá nào mà không cắt giảm sản lượng hàng hoá khác. Một
nền kinh tế có hiệu quả trên giới hạn khả năng sản xuất của nó. Thực chất của
quan điểm này đề cập đến khía cạnh phân bổ có hiệu quả các nguồn lực sản xuất
xã hội. Trong cách hiểu này, rõ ràng phân bổ các nguồn lực kinh tế sao cho đạt
được việc sử dụng mọi nguồn lực trên đường giới hạn khả năng sản xuất sẽ làm
cho nền kinh tế có hiệu quả và rõ ràng xét trên phương diện lý thuyết thì đây là
mức hiệu quả kinh tế cao nhất mà mỗi nền kinh tế có thể đạt được. Xét trên giác
độ lý thuyết hiệu quả sản xuất kinh doanh chỉ có thể đạt được trên đường giới
hạn năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Tuy nhiên để đạt mức hiệu quả sản
xuất kinh doanh còn rất nhiều điều kiện, trong đó còn đòi hỏi phải dự báo và
quyết định sản xuất theo quy mô phù hợp với cầu thị trường.
Giới hạn khả năng sản xuất được đặc trưng bởi chỉ tiêu tổng sản lượng tiềm
năng, là mức sản lượng cao nhất có thể đạt được trong một điều kiện công nghệ
và lao động nhất định, đôi khi còn gọi là “ sản lượng trong điều kiện có nhiều
công ăn việc làm” Tỷ lệ giữa tổng sản lượng thực tế và tổng sẩn lượng tiềm
năng là chỉ tiêu hiệu quả. Chỉ tiêu tuyệt đối chênh lệch giữa sản lượng tiềm năng
và sản lượng thực tế là phần sản phẩm tiềm năng mà xã hội không sử dụng
được, bị lãng phí. Theo quan điểm này hiệu quả thể hiện sự so sánh mức thực tế

và mức tối đa về sản lượng, tỷ lệ so sánh đó càng gần 1 càng có hiệu quả, bằng 1
khi 2 mức độ bằng nhau.
Hiệu quả sản xuất còn được xác định theo chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối tức là:
Hiệu quả sản xuất = Kết quả - chi phí
Quan điểm này ít được thừa nhận do người ta cho rằng quan điểm này nhầm
lẫn giữa phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh với mô tả sự chêng lệch kết quả
và hao phí nguồn lực. Chênh lệch kết quả - chi phí luôn là số tuyệt đối phản ánh
mức độ đạt được một mặt nào đó nên cũng mang bản chất là kết quả quá trình
sản xuất kinh doanh và không bao giờ phản ánh đượ trình độ lợi dụng các nguồn
lực.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh luôn là một yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến
nền kinh tế, vì vậy cần có một khái niệm bao quát tất cả các mặt và biểu hiện
của nó:
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế, phản ánh trình độ
khai thác các nguồn lực trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu
kinh doanh của doanh nghiệp, nó là chỉ tiêu tương đối biểu hiện quan hệ so sánh
giữa kết quả sản xuất kinh doanh với chi phí sản xuất kinh doanh ( hiệu quả
dạng thuận), hoặc ngược lại là quan hệ so sánh giữa chi phí sản xuất kinh doanh
Trần Thị Chinh Thống Kê 44A
6
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
với kết quả sản xuất kinh doanh (hiệu quả dạng nghịch). Các chỉ tiêu hiệu quả
sản xuất kinh doanh dạng thuận còn có thể được gọi là các chỉ tiêu năng suất,
dạng nghịch có thể được gọi là suất tiêu hao. Hiệu quả sản xuất kinh doanh biểu
hiện sự tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai
thác các nguồn lực và trình độ chi phí các nguồn lực đó trong quá trình tái sản
xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh. Phát triển kinh tế theo chiều rộng là
huy động mọi nguồn lực vào sản xuất kinh doanh, tăng thêm vốn, bổ xung lao
động và kỹ thuật, mở mang nghành nghề, xây dựng thêm nhiều xí nghiệp, tạo ra
nhiều mặt hàng mới. Phát triển kinh tế theo chiều sâu là đẩy mạnh cách mạng

khoa học kỹ thuật và công nghệ sản xuất, tiến nhanh lên hiện đại hoá nâng cao
trình độ sử dụng các nguồn lực, trú trọng chất lượng sản phẩm và dịch vụ, phát
triển kinh tế theo chiều sâu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế. Như vậy hiệu quả
sản xuất kinh doanh là thước đo ngày càng trở nên quan trọng của sự tăng
trưởng kinh tế và là chỗ dựa cơ bản để đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh tế
của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
1.3. Phân biệt hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế
Từ các khái niệm trên cho thấy: hiệu quả kinh tế có nội dung rộng hơn, nó
không chỉ về kết quả kinh tế mà mà cả kết quả xã hội đạt được tức là hiệu quả
kinh tế nền sản xuất xã hội bao gồm hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Trong
khi đó hiệu quả sản xuất kinh doanh là phạm trù kinh tế chỉ phản ánh trình độ
khai thác nguồn lực trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh
doanh của doanh nghiệp, nói cách khác hiệu quả sản xuất kinh doanh chỉ là một
bộ phận của hiệu quả kinh tế.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mối quan tâm hàng đầu của các doanh
nghiệp hoặc các nhà đầu tư, hiệu quả kinh tế là mối quan tâm của toàn xã hội.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh được xem xét trên quan điểm doanh nghiệp.
hiệu quả kinh tế được xem xét theo quan điểm xã hội.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh được xem xét theo quan điểm bộ phận, hiệu
quả kinh tế đưcợ xem xét trên quan, điểm tổng thể. Quan hệ giữa hiệu quả sản
xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế là quan hệ giữa lợi ích bộ phận và lợi ích
tổng thể. Một mối quan hệ thống nhất có mâu thuẫn.
2. Phân loại hiệu quả sản xuất kinh doanh
2.1. Theo tác dụng của hiệu quả sản xuất kinh doanh.
-Hiệu quả kinh tế: phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt các mục
tiêu kinh tế của các thời kỳ và biểu hiện qua các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: lợi nhuận, giá trị gia tăng…
-Hiệu quả xã hội : phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất xã hội
nhằm đạt được các mục tiêu xã hội nhất định, biểu hiện qua số lao động được
giải quyết việc làm, nâng cao phúc lợi xã hội, cải thiện điều kiện lao động, vệ

sinh môi trường…
Trần Thị Chinh Thống Kê 44A
7
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
-Hiệu quả an ninh, quốc phòng: sức mạnh kinh tế của một quốc gia góp phần
vào làm tăng thêm sức mạnh an ninh quốc phòng.
-Hiệu quả đầu tư: biểu hiện qua các dự án đầu tư hay thu hút vốn đầu tư
nước ngoài, ngoài ra là các kết quả thu được từ các dự án đầu tư, dự án đầu tư
tăng thêm…
-Hiệu quả môi trường: các doanh nghiệp khi sản xuất kinh doanh có thể gây
ra các tác dụng ảnh hưởng đến môi trường, các ảnh hưởng này có thể là tích cực
hay tiêu cực, tuy nhiên nói đến hiệu quả môi trường thường là nhắc đến các ảnh
hưởng tích cực của các hoạt động sản xuất kinh doanh, ví dụ như các doanh
nghiệp khi sản xuất kinh doanh áp dụng các công nghệ sạch…
2.2. Theo nội dung tính toán:
-Hiệu quả dạng thuận:
Kết quả đầu ra
Hiệu quả kinh tế =
Chi phí đầu vào
-Hiệu quả dạng nghịch:
Chi phí đầu vào
Hiệu quả kinh tế =
Kết quả đầu ra
2.3. Theo phạm vi tính: có thể chia thành
-Hiệu quả toàn phần (hay hiệu quả đầy đủ): tính chung cho toàn bộ kết quả
và toàn bộ chi phí của từng yếu tố hoặc tính chung cho tổng nguồn lực
-Hiệu quả đầu tư tăng thêm( hay cận biên): chỉ tính cho phần đầu tư tăng
thêm và kết quả tăng thêm của thời kỳ tính toán.
2.4. Theo hình thái biểu hiện:
-Hiệu quả ẩn: góp phần thực hiện các mục tiêu xã hội

-Hiệu quả hiện: thể hiện qua các chỉ tiêu về kết quả sản xuất kinh doanh
Hiện nay các doanh nghiệp thường mới chỉ tính hiệu quả sản xuất kinh
doanh dưới dạng hiện
3. Quan điểm và tiêu chuẩn đánh giá về hiệu quả
Phương diện khái quát, theo quan điểm triết học, tiêu chuẩn là căn cứ cơ bản
và chủ yếu để nhận rõ thực tế khách quan, đảm bảo nhận thức chính xác sự vật
hoặc hiện tượng nghiên cứu và phân biệt đúng sai. Chúng thường là một chỉ tiêu
hoặc một tiêu thức để đánh giá một hệ thống có hoạt động phù hợp với mục tiêu
hay không. Tiêu chuẩn theo nghĩa khái quát là tiêu thức (tínhchất, nét đặc
trưng) đặc biệt để đánh giá một tiêu thức khác phù hợp với những điều kiện nhất
định, hay nó là cái “ngưỡng” là mức căn cứ để kết luận có hiệu quả hay không
về một chỉ tiêu hiệu quả đang xét. Ở phương diện kinh tế việc xác định các cột
mốc, mức ấy là rất phức tạp, tuỳ thuộc ở phương diện xem xét và quan điểm
nhìn nhận của người nghiên cứu, mục đích, bản chất cảu hệ thống kinh tế được
Trần Thị Chinh Thống Kê 44A
8
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
xem xét. Trong lĩnh vực kinh tế tiêu chuẩn mang tính chất tương đối, nó co dãn,
linh hoạt theo hoàn cảnh khách quan và chủ quan nhất định. Điều đó lý giải cho
việc vì sao người ta ít nói đến những con số của tiêu chuẩn hiệu quả lằmcn cứ
đánh giá các hoạt động kinh tế. Vì nó mang tính chất định tính nhiều hơn là định
lượng. Hiện nay còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về tiêu chuẩn đánh giá
hiệu quả.
3.1. Bản chất và tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế
a. Bản chất của hiệu quả kinh tế - xã hội là nâng cao hiệu quả kinh tế nền sản
xuất xã hội, là thực hiện yêu cầu của quy luật tiết kiệm thời gian, biểu hiện trình
độ sử dụng các nguồn lực của xã hội. Nó có ý nghĩa quan trọng đối với yêu cầu
tăng trưởng và phát triển kinh tế nói riêng và sự phát triển của xã hội loài người
nói chung. C. Mark đã cho rằng: hiệu quả hay quy luật tiết kiệm thời gian là một
quy luật có tầm quan trọng đặc biệt, tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất,

mọi hoạt động của con người đều tuân theo quy luật đó, nó quyết định động lực
phát triển của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện phát triển văn minh của xã hội và
nâng cao đời sống của loài người qua mọi thời đại. Nâng cao hiệu quả kinh tế -
xã hội là một trong những yêu cầu khách quan của tất cả các hình thái kinh tế.
Để đảm bảo hiệu quả kinh tế nền sản xuất xã hội cần đảm bảo sự tồn tại hữu
cơ cảu ba loại lợi ích: lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội. Xã hội
quan tâm đến GO, GDP vì vậy tăng GO và GDP là cơ sở để xác định hiệu quả
theo quan điểm xã hội. Ngoài ra chúng ta có thể phân tích hiệu quả kinh tế - xã
hội thông qua các chỉ tiêu:
Tăng thu ngân sách: mọi doanh nghiệp khi tiến hành các hoạt động sản xuất
kinh doanh đều phải có nhiệm vụ nộp thuế cho ngân sách nhà nước dưới nhiều
hình thức, nộp thuế là quyền lợi và cũng là nghĩa vụ của mỗi người, mỗi doanh
nghiệp: thuế doanh thu, thuế lợi tức, thuế đất, thuế VAT… Nhà nước sử dụng
những khoản thu này để chi cho các hoạt động phát triển của nền kinh tế quốc
dân và các lĩnh vực phi sản xuất, phân phối lại thu nhập…
Tạo công ăn việc làm và nâng cao mức sống cho người lao động: ngoài tạo
việc làm cho người lao động, các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả góp phần
nâng cao mức sống cho người lao động. Xét trên giác độ kinh tế việc nâng cao
mức sống cho người dân được thể hiện qua các chỉ tiêu như: tăng thu nhập bình
quân đầu người, tăng đầu tư sản xuất, tăng phúc lợi xã hội…
Tái phân phối phúc lợi xã hội: sự phát triển không đồng đều về mặt kinh tế
giữa các vùng lãnh thổ và tầng lớp dân cư do các yếu tố chủ quan và khách quan
như: địa lý kinh tế, nguồn lực, tài nguyên… là khá phổ biến, hiệu quả kinh tế
góp phần xoá bỏ các cách biệt này, phân phối lại lợi ích xã hội
b. Một số nhà kinh tế cho rằng tiêu chuẩn hiệu quả là nội hàm của phạm trù
hiệu quả, là biểu hiện bản chất của phạm trù hiệu quả kinh tế. Nói cách khác họ
quan niệm tiêu chuẩn hiệu quả đồng nghĩa với nội dung hiệu quả. Tiêu chuẩn
hiệu quả kinh tế phản ánh ở dạng chung nhất phạm trù hiệu quả kinh tế. Tiêu
chuẩn hiệu quả kinh tế được biểu hiện gián tiếp thông qua một hệ thống chỉ tiêu.
Trần Thị Chinh Thống Kê 44A

9
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
Nếu tiêu chuẩn biểu hiện mặt lượng của hiệu quả kinh tế thì hệ thống chỉ tiêu
biểu hiện đặc trưng số lượng của hiệu quả kinh tế. Dưới chủ nghĩa xã hội, tiêu
chuẩn của hiệu quả kinh tế nền sản xuất xã hội là tiết kiệm lao động xã hội hay
nói khác đi là tăng năng suất lao động xã hội. Theo sự giải thích của Mark: “ Sự
tăng lên của sức sản xuất xã hội hay năng suất lao động chúng ta hiểu nói chung
là sự thay đổi trong cách thức lao động, một sự thay đổi làm rút ngắn thời gian
lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá sao cho một số lượng lao
động ít hơn mà lại có được một sức sản xuất ra nhiều giá trị sử dụng hơn”.
Người còn chỉ rõ: “ năng suất lao động tăng lên biểu hiện ở chỗ phần lao động
sống giảm bớt còn phần lao động quá khứ thì tăng lên, nhưng tăng lên như thế
nào để cho tổng số lao động chứa trong hàng hoá ấy giảm đi hay nói cách khác
lao động sống giảm bớt nhiều hơn là lao động quá khứ tăng lên”
Có quan điểm cho rằng: tiêu chuẩn hiệu quả là hiệu quả tối ưu được xác định
bằng phương pháp tối ưu, tức là mức kỳ vọng hướng tới mức tối đa kết quả có
thể, tiêu chuẩn hiệu quả là sự chỉ dẫn về tư tưởng trong hoạt động kinh tế, Max
về hiệu quả, Min về chi phí mà không chỉ rõ phải là bao nhiêu mới được coi là
hiệu quả. Tiêu chuẩn hiệu quả là cái mà người ta mong đợi.
Ở cấp vi mô, các nhà kinh tế tư bản chủ nghĩa và một số nhà kinh tế khác ở
các nước chủ nghĩa xã hội coi tiêu chuẩn hiệu quả là tiêu chuẩn lợi nhuận, có
lợi nhuận là có hiệu quả, thua lỗ là không có hiệu quả, lợi nhuận càng nhiều hiệu
quả càng cao.
Có ý kiến cho rằng tiêu chuẩn hiệu quả là biểu hiện biến đổi phù hợp của
động thái các chỉ tiêu kết quả, phải so sánh với năm trước các chỉ tiêu hiệu quả
tăng giảm như thế nào, các chỉ tiêu như năng suất lao động, mức tăng kết quả
trên 1 đồng chi phí… tăng hơn so với kỳ trước mới là hiệu quả, các chỉ tiêu
thuận (sự tăng lên của chúng là hợp quy luật) thì tiêu chuẩn hiệu quả alf xu
hướng tăng; các chỉ tiêu nghịch (theo nghĩa sự giảm đi của chúng theo thời gian
là hợp quy luật) thì tiêu chuẩn hiệu quả là xu hướng giảm.

Ví dụ:
Chỉ tiêu hiệu quả Tiêu chuẩn hiệu
quả
Mức năng suất lao động bình quân (W)
W → Max
Hiệu năng của vốn sản xuất (H
NV
)
H
NV
→ Max
Mức tiền lương cho 1 đơn vị sản phẩm (TL)
TL → Min
Tiêu hao vật chất cho 1 đơn vị sản phẩm (NVN)
NVN→ Min
Giá thành 1 đơn vị sản phẩm (Z)
Z → Min
Những xu hướng động thái làm tiêu chuẩn cho các chỉ tiêu hiệu quả cũng chỉ
mang tính chất định tính Max hay Min mà không chỉ rõ được mức độ của xu
hướng đó, cần có tăng lên là được, còn cụ thể tăng bao nhiêu phần trăm thì
không định trước được. Xu hướng là Min nhưng giảm bao nhiêu thì không cần
biết, đó là chưa kể sự xác đĩnhu hướng Max, Min cần có ở trên chưa dựa vào cơ
sở phân tích khoa học các quy luật tác động nội tại quá trình sản xuất. Quan
Trần Thị Chinh Thống Kê 44A
10
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
điểm về hiệu quả nêu trên sẽ có ích trong việc nhận biết và phân tích hiệu quả
nếu tiêu chuẩn hiệu quả đề ra cho từng chỉ tiêu cụ thể có cơ sở khoa học. Nắm
được động thái các chỉ tiêu là điều rất quan trọng trong quản lý kinh tế, diễn
biến trong quá khứ và hiện tại sẽ giúp ích nhiều cho tương lai

Quan điểm phổ biến trong các nhà kinh tế Đông Âu và Liên Xô cũ cho rằng:
Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả nền kinh tế do quy luật kinh tế cơ bản quyết định,
tiêu chuẩn hiệu quả phải gắn liền với mục tiêu của phương thức sản xuất.
Trong tất cả các quan điểm đã trình bầy trên thì quan điểm cuối cùng được
thừa nhận rộng rãi hơn cả, theo đó tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế nền sản
xuất xã hội là đạt được kết quả kinh tế cao nhất. Hiệu quả kinh tế của nền sản
xuất xã hội cần được tính ở tất cả các phạm vi của hệ thống kinh tế nói chung
(xã hội, ngành,doanh nghiệp), hơn thế nữa xã hội còn tồn tại 3 lợi ích (nhà nước,
tập thể, người lao động) có mối quan hệ hữu cơ với nhau nên tiêu chuẩn đánh
gái hiệu quả kinh tế có niểu hiện khác nhau ở các đối tượng xem xét. Phạm vi xã
hội: tăng thu nhập quốc dân và tổng sản phẩm xã hội; phạm vi ngành: tăng tổng
sản lượng và sản lượng thuần tuý; phạm vi doanh nghiệp: tăng lợi nhuận và sản
lượng thuần tuý, hai chỉ tiêu này vừa đảm bảo lợi ích doanh nghiệp vừa đảm bảo
lợi ích chung.
Đáp ứng yêu cầu theo các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau ở các phạm vi
khác nhau, ta có thể chia thành các trường hợp:
Ở kinh tế vi mô, tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế là mức bình quân tính cho toàn
nền kinh tế hoặc ngành về sản lượng kết quả kinh tế thu được ở kết quả đầu ra
tính trên 1 đơn vị chi phí đầu vào (chi phí hoặc nguồn)
Trong lĩnh vực kế hoạch, tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế để lựa chọn phương án
sản xuất hoặc đầu tư là hệ số hiệu quả định mức, thường được xác định bằng
mức trung bình hoặc mức trung bình tiên tiến hiện tại đã đạt được. Nếu có nhiều
phương án vượt hiệu quả định mức thì tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế là phương án
tốt nhất, tối ưu theo mục tiêu đã xác định.
Ở kinh tế vĩ mô, tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế là mức sản phẩm cuối cùng bình
quân đầu người tăng lên. Mục tiêu của nền sản xuất xã hội là không ngừng thoả
mãn nhu cầu vật chất và tinh thần thường xuyên tăng lên và sự phát triển tàon
diện của mọi thành viên trongxh trên cơ sở phát triển sản xuất. Để đạt mục tiêu
đó sản xuất không chỉ tăng lên nói chung mà phải tăng lên tính theo đầu người
Tiêu chuẩn hiệu quả xác định phải vừa có thể định lượng rõ ràng vừa phù

hợp với từng lĩnh vực, đối tượng nghiên cứu. Trong kinh tế vi mô, việc xác định
tiêu chuẩn hiệu quả là mức trung bình toàn bộ hoặc từng ngành là tuỳ điều kiện,
giữa các ngành có sự khác biệt lớn về trình độ phát triển thì tiêu chuẩn hiệu quả
xác định riêng cho từng ngành để đánh giá các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất sẽ
phù hợp hơn
3.2. Bản chất và tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh
a. Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh là nâng cao năng suất lao động
xã hội và tiết kiệm lao động lao động xã hội. Đây là hai mặt có mối liên hệ mật
Trần Thị Chinh Thống Kê 44A
11
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
thiết của vấn đề hiệu quả. Chính việc khan hiếm nguồn lực và sử dụng chúng có
tính chất cạnh tranh nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, đặt ra
vấn đề phải khai thác tận dụng triệt để và tiết kiệm các nguồn lực. Để đạt được
mục tiêu kinh doanh các doanh nghiệp buộc phải trú trọng các điều kiện nội tại,
phát huy nguồn lực của các nhân tố sản xuất và tiết kiệm mọi chi phí. Yêu cầu
của nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là phải đạt hiệu quả tối đa với chi phí
tối thiểu hay chính xác hơn là hiệu quả tối đa với chi phí nhất định, hoặc kết quả
nhất định với chi phí tối thiểu. Chi phí ở đây được hiểu theo nghĩa rộng là chi
phí tạo ra nguồn lực đồng thời cũng phải tính đến cả chi phí cơ hội - là chi phí
cho giá trị của việc lựa chọn tốt nhất bị bỏ qua hay giá trị của của việc hi sinh
công việc kinh doanh khác để thực hiện công việc kinh doanh này. Chi phí cơ
hội phải được hạch toán vào chi phí kế toán, và loại ra khỏi lợi nhuận kế toán để
thấy được lợi ích thực sự. Cách tính như vậy sẽ khó khăn cho các nhà kinh
doanh lựa chọn phương án tốt nhất, các mặt hàng sản xuất có hiệu quả hơn.
Phản ánh một cách toàn diện các khoản chi phí.
Biểu hiện của hiệu quả sản xuất kinh doanh là lợi ích mà thước đo cơ bản
của nó là tiền cụ thể hơn là phần lợi nhuận của doanh nghiệp. Đây là mục tiêu cơ
bản, số một chi phối toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh.
b. Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh: để đánh giá hiệu quả

sản xuất kinh doanh chúng ta có thể đánh giá dưới hai giác độ: đánh giá ở trạng
thái tĩnh và đánh giá ở trạng thái động. Tiêu chuẩn đánh gía ở trạng thái động là
phương pháp so sánh trị số của các chỉ tiêu hiệu quả tính được theo thời gian.
Các ma trận hiệu quả có thể được tính toán trên cơ sở tài liệu Thống Kê về kết
quả và chi phí của hai thời kỳ (kỳ báo cáo và kỳ gốc). Từ các ma trận hiệu quả
này ta có thể tiến hành lập bảng so sánh trị số của các chỉ tiêu theo từng nhóm
(các chỉ tiêu hiệu quả toàn phần, hiệu quả cận biên dạng thuận hoặc dạng
nghịch). Nếu kết quả so sánh cho thấy tốc độ phát triển của các chỉ tiêu dạng
thuận lớn hơn 100%, còn tốc độ phát triển của các chỉ tiêu dạng nghịch nhỏ hơn
100% phản ánh hiệu quả tăng, còn ngược lại nếu tốc độ phát triển của các chỉ
tiêu dạng nghịch lớn hơn 100%, của dạng thuận nhỏ hơn 100% thì hiệu quả
giảm. Nguyên nhân cảu hiệu quả tăng (hoặc giảm) là do tốc độ phát triển của
các chỉ tiêu kết quả lớn hơn ( hoặc nhỏ hơn) tốc độ phát triển của các chỉ tiêu kết
quả hoặc nguồn lực. Ngoài tiêu chuẩn đánh giá theo trạng thái động, chúng ta
còn có thể đánh giá theo trạng thái tĩnh. Tiêu chuẩn đánh gía theo trạng thái tĩnh
là hệ thống các chỉ tiêu được đặt ra sẵn (các mức nào đó về hiệu quả) dựa vào đó
có thể kết luận rằng sản xuất kinh doanh có đạt hiệu quả hay không. Gần đây
Chính phủ đã đưa ra 6 tiêu chí đánh giá hiệu quả:
Bảo toàn và phát triển được vốn sản xuất, trích khấu hao TSCĐ theo đúng
quy định của chế độ hiện hành’
Kinh doanh có lãi, nộp đủ tiền thu sử dụng vốn và lập đủ các quỹ doanh
nghiệp như: quỹ dự phòng tài chính, trợ cấp mất việc làm cho người lao động,
đầu tư phát triển, quỹ khen thưởng…
Trả đầy đủ các khoản nợ đến hạn ( tức không có nợ quá hạn)
Trần Thị Chinh Thống Kê 44A
12
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
Nộp đủ tiền BHXH, BHYT cho người lao động theo quy định
Nộp đủ các khoản thuế theo luật định
Trả lương cho người lao động tối thiểu phải bằng mức bình quân của các

doanh nghiệp trên cùng địa bàn
Chỉ khi nào đạt được 6 tiêu chuẩn trên thì chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh
doanh mới có vai trò nổi bật là mức doanh lợi hay tỷ suất lợi nhuận trên vốn
mới là chỉ tiêu thực và không tồn tại tình trạng lãi giả lỗ thật. Các doanh nghiệp
hoạt động không hiệu quả khi làm ăn thua lỗ từ 2 năm liên tục trở lên mà tổng số
luỹ kế nợ khó đòi, các khoản giảm giá tài sản đã chiếm trên 3/4 vốn sản xuất
kinh doanh và không có thị trường tiêu thụ ổn định. Như vậy nếu tiêu chuẩn
đánh giá dạng động đánh giá hiệu quả thông qua so sánh kết quả và chi phí của
hai kỳ khác nhau thì tiêu chuẩn đánh giá dạng tĩnh tức là đánh giá tại một thời
điểm nhưng có phạm vi thời gian và không gian rộng hơn, các chỉ tiêu đánh giá
không phải là của 1 năm mà phải qua một số năm kinh doanh. Tiêu chuẩn đánh
giá dạng tĩnh thể hiện không chỉ mối quan hệ nội bộ ngành mà cả với bên ngoài
tức là với Ngân hàng, Tín dụng, Bảo hiểm…
3.3. Quan điểm đánh giá về hiệu quả kinh tế và hiệu quả sản xuất kinh doanh
3.3.1. Hiệu quả kinh tế.
Hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu quả sản xuất kinh doanh nói riêng là một
chỉ tiêu tương đối, thời kỳ. Đó là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp vì vậy có nhiều
quan điểm đánh giá về nó:
-Quan điểm 1: là biểu hiện của lượng sản xuất ra hay chính là biểu hiện của
kết quả sản xuất: Sản lượng sản phẩm (q) có thể là sản phẩm hiện vật hoặc sản
phẩm hiện vật quy chuẩn, Giá trị sản xuất (GO), Giá trị gia tăng (VA), Giá trị
gia tăng thuần (NVA), Tổng sản phẩm sản xuất (GDP), Lợi nhuận (M)
-Quan điểm 2: là đại lượng so sánh giữa kết quả đạt được so với chi phí đã
bỏ ra để đạt được kết quả sản xuất kinh doanh đó, nói một cách tổng quát hiệu
quả sản xuất kinh doanh là một đại lượng so sánh giữa kết quả của đầu ra so với
chi phí của đầu vào. Nó được biểu hiện dưới hai dạng, dạng so sánh tương đối
(dạng phân số)
Kết quả đầu ra
Hiệu quả kinh tế = ≥ 1 hay
Chi phí đầu vào

Chi phí đầu vào
Hiệu quả kinh tế = ≤ 1
Kết quả đầu ra
Thì hoạt động sản xuất kinh doanh là có hiệu quả
Dạng so sánh tuyệt đối ( dạng hiệu số):
Hiệu quả kinh tế = Kết quả đầu ra – Chi phí đầu vào ≥ 0
Trần Thị Chinh Thống Kê 44A
13
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
-Quan điểm 3: Hiệu quả kinh tế sản xuất kinh doanh là quan hệ tỉ lệ giữa
phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí
∆ kết quả đầu ra ∆chi phí đầu vào
Hiệu quả kinh tế = =
∆chi phí đầu vào ∆kết quả đầu ra
Hiệu quả kinh tế nếu được hiểu theo quan điểm 2 sẽ tăng trong 5 trường
hợp:
Khi kết quả đầu ra tăng, chi phí đầu vào giảm: đổi mới quy trình công nghệ,
đào tạo lại tay nghề lao động và làm tốt công tác quản lý…
Khi kết quả đầu ra tăng, chi phí đầu vào không đổi: làm tốt công tác quản lý
doanh nghiệp…
Khi kết quả đầu ra tăng, chi phí đầu vào tăng nhưng tốc độ tăng chi phí
chậm hơn tốc độ tăng kết quả
Khi kết quả đầu ra không đổi, chi phí đầu vào giảm
Khi kết quả đầu ra giảm, chi phí đầu vào giảm, nhưng tốc độ giảm của kết
quả nhỏ hơn tốc độ giảm của chi phí
3.3.2. Hiệu quả xã hội
-Năng suất lao động xã hội: dạng thuận hoặc dạng nghịch
Giá trị gia tăng (VA)
Năng suất lao động xã hội =
Lao động bình quân

Lao động bình quân
Năng suất lao động xã hội =
Giá trị gia tăng (VA)
-Hiệu suất đồng vốn: Chỉ tiêu được tính cho tổng số vốn nói chung và riêng
cho vốn cố định đã bỏ ra để có được kết quả sản xuất kinh doanh
Kết quả ( GDP,VA, M)
Hiệu suất đồng vốn =
Tổng vốn
Kết quả ( GDP,VA, M)
=
Vốn cố định ( vốn lưu động)
Trần Thị Chinh Thống Kê 44A
14
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
-Hiệu quả của một đồng chi phí: là hiệu quả đem lại từ một đồng chi phí
trung gian.
Kết quả (GDP,VA, M )
Hiệu quả 1 đồng chi phí =
Chi phí trung gian( IC )
-Thu nhập bình quân cho một lao động: là kết quả so sánh tổng thu nhập của
người lao động với tổng số lao động trung bình của năm đó
Tổng thu nhập
Thu nhập bình quân cho 1 lao động =
Tổng lao động
-Hệ số ICOR ( Hệ số gia tăng vốn - đầu ra ): là hệ số nói lên vốn sản xuất
được tạo ra bằng đầu tư, là yếu tố cơ bản của tăng trưởng, tiết kiệm của nhân
dân và các công ty là nguồn gốc của đầu tư, hệ số này cũng phản ánh trình độ kỹ
thuật của sản xuất và là số đo năng lực của phần đầu tư tăng thêm. Đây là chỉ
tiêu khái quát mối quan hệ và tác động qua lại giữa vốn đầu tư với tăng trưởng
GDP

Tổng số vốn đầu tư thực hiện trong năm
Hệ số ICOR =
GDP năm nghiên cứu – GDP năm trước đó
-Tỷ lệ lạm phát: Lạm phát là tỷ lệ phần trăm thay đổi liên tục của mặt bằng
giá chung theo thời gian (thường là tháng, quý, năm), là quá trình tăng giá liên
tiếp chứ không phải tăng giá một lần của nền kinh tế.
-Tỷ lệ động viên tài chính: là tỷ lệ so sánh giữa tổng thu của ngân sách nhà
nước từ trong nước so với tổng sản phẩm trong nước(GDP)
-Số lao động được giải quyết việc làm
-Tỷ lệ đóng góp cho nhà nước
-Các công tác xã hội khác…
4. Ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu quả sản xuất
kinh doanh đối với doanh nghiệp.
*Nâng cao hiệu quả kinh tế là nhu cầu cấp thiết hiện nay, do hiệu quả kinh tế
bao gồm cả hiệu quả xã hội nên nâng cao hiệu quả kinh tế là một phương tiện để
đáp ứng yêu cầu của quản lý kinh tế cơ bản trong phạm vi ngành và đối với toàn
bộ xã hội. Nâng cao hiệu quả kinh tế còn là yêu cầu bức xúc để chuyển dịch quá
trình tái sản xuất từ mô hình phát triển giản đơn sang mô hình phát triển cả về
chiều rộng và chiều sâu. Thật vậy không thể thực hiện bước chuyển đổi trên nếu
như không có sự tích luỹ, song muốn tích luỹ phải có lao động thặng dư và do
đó có giá trị của sản phẩm thặng dư, do đó việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh là góp phần tạo ra nguồn tích luỹ cho nội bộ nền kinh tế.
Trần Thị Chinh Thống Kê 44A
15
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
-Nâng cao hiệu quả kinh tế còn là yêu cầu góp phần chuyển từ cơ chế quản
lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế hạch toán theo cơ chế thị trường. Đến
lượt nó, cơ chế quản lý kinh tế mới được xác lập và ngày càng hoàn thiện lại có
tác động to lớn đến việc nâng cao hiệu quả kinh tế của từng doanh nghiệp, từng
ngành và của toàn xã hội.

Việc nâng cao hiệu quả kinh tế còn góp phần làm giảm tốc độ lạm phát,
giảm nhịp độ tăng giá, bội chi ngân sách và giảm khó khăn về đời sống
*Như đã nói trên, hHiệu quả sản xuất kinh doanh có ý nghĩa thực tiễn vô
cùng to lớn, tác động đến sự tồn tại phát triển của các đơn vị sản xuất kinh
doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh tạo ra lợi thế, tăng sức mạnh cạnh tranh.
Dựa vào phân tích và đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh có thể giúp doanh
nghiệp đánh giá được lĩnh vực kinh doanh nào cần mở rộng, lĩnh vực nào cần
thu hẹp, lĩnh vực nào kém hiệu quả, nguyên nhân và biện pháp khắc phục.
-Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là sử dụng hợp lý hơn các yếu tố
của quá trình sản xuất kinh doanh, với chi phí không đổi nhưng tạo ra được
nhiều kết quả hơn. Như vậy phấn đấu nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ
làm giảm giá thành, tăng năng lực cạnh tranh
- Tận dụng và tiết kiệm được các nguồn lực hiện có: Hiệu quả sản xuất gắn
với chuyên môn hoá sản xuất và phân công lao động chuyên sâu hơn, khi đó các
nguồn lực sẽ được sử dụng hiệu quả hơn cả về nhân lực, tài lực và vật lực.
- Thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, tạo cơ sở cho việc thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá sản xuất: Muốn nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh đơn vị sản xuất kinh doanh cần phải áp dụng các phương pháp quản
lý mới, các quy trình công nghệ mới, hiện đại và tiên tiến, điều này yêu cầu các
đơn vị phải luôn nghiên cứu, tìm hiểu, phát minh và cập nhật các tiến bộ trong
sản xuất và kinh doanh. Đơn vị nào tìm ra được phương pháp mới có hiệu quả
trong sản xuất kinh doanh, đơn vị đó sẽ giành được lợi thế, thu được nhiều lợi
nhuận và tạo ra ưu thế trong cạnh tranh. Vì vậy các đơn vị sản xuất luôn tìm
cách nâng cao công nghệ, thúc đẩy tiến bộ khoa học, điều này trực tiếp ảnh
hưởng đến quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá sản xuất của đơn vị nói
riêng và của đất nước nói chung. Dẫn đến thúc đẩy cạnh tranh, nâng cao năng
lực sản xuất, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm làm cho sản xuất
kinh doanh phát triển với tốc độ cao.
-Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng đồng nghĩa với nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho người lao động.

Nâng cao hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu quả sản xuất kinh doanh nói
riêng có tầm quan trọng và đang là 1 vấn đề nóng bỏng, song muốn biến nó
thành hiện thực cần phải có một giải pháp toàn diện và đồng bộ cả về kinh tế và
chính trị. Sử dụng đồng bộ các biện pháp trong đólấy biện pháp kinh tế và động
lực lợi ích kinh tế làm chủ yếu.
5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh
Trần Thị Chinh Thống Kê 44A
16
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
Môi trường kinh doanh là một hệ thống các yếu tố các mối quan hệ bên
trong cũng như bên ngoài doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của
các doanh nghiệp, các tổ chức trong nền kinh tế. Các yếu tố này có thể tạo ra cơ
hội hoặc thách thức cho các ngành, các doanh nghiệp theo các mức độ khác
nhau. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế tổng hợp nên có rất
nhiều nhân tố ảnh hưởng đến nó, có thể chia các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu
quả sản xuất kinh doanh thành hai nhóm nhân tố chính là các nhân tố bên ngoài
doanh nghiệp và các nhân tố bên trong doanh nghiệp.
5.1. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
Các nguồn lực: là các yếu tố cơ bản cần xem xét đánh giá đầu tiên, mục tiêu
của doanh nghiệp có đạt được hay không là phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố
này:
-Nguồn nhân lực (lực lượng lao động): Lao động trong doanh nghiệp là
toàn bộ đội ngũ cán bộ công nhân viên đã ký kết hợp đồng lao động với doanh
nghiệp, được ghi tên vào danh sách lao động của doanh nghiệp và được quản lý,
sử dụng sức lao động và trả thù lao theo kết quả hoàn thành công việc được giao
trong trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Gồm: lực lượng các nhà quản trị các
cấp và lao động ở tất cả các bộ phận. Đối với nhà quản trị, các tiêu chuẩn về
nghề nghiệp, kỹ năng chuyên môn, kỹ năng quan hệ với con người, kỹ năng tư
duy… cần được đánh giá chặt chẽ trong từng thời kỳ để có kế hoạch quản lý phù
hợp nhất là các nhà quản trị cấp cao. Đối với lao động, các tiêu chuẩn về đạo

đức nghề nghiệp và trình độ chuyên môn tay nghề cần kiểm tra phân tích đánh
giá qua các kỳ thi nhằm hoạch định kế haọch huấn luyện, nâng cao chất lượng
theo thời gian. Thể hiện thông qua trình độ quản lý và trình độ lành nghề của lao
động, nNếu một đơn vị có bộ máy quản lý và phương pháp quản lý tốt, lao động
có trình độ chuyên môn cao thì sẽ có hiệu quả sản xuất cao. Các chỉ tiêu thể hiện
là bậc thợ bình quân, trình độ học vấn của lao động, thâm niên nghề nghiệp…
Đây là nhân tố quan trọng liên kết tất cả các nhân tố để có thể đạt hiệu quả sản
xuất kinh doanh cao nhất.
Lao động tác động vào hiệu quả sản xuất kinh doanh theo các góc độ: Số
lượng, chất lượng, tiền lương và năng suất lao động tác động vàoảnh hưởng đến
kết quả đầu ra. Thông qua các hoạt động: trực tiếp điều khiển máy móc thiết bị
tạo ra sản phẩm, sáng tạo ra những giải pháp kỹ thuật công nghệ, hoạt động chấp
hành nội quy làm việc. Lao độngCác nhà quản trị tác động vào quá trình tổ chức
sản xuất thông qua sự tác động quản lý, để có thể quản lý lao động trong sản
xuất kinh doanh phải đảm bảo các yêu cầu như nâng cao chất lượng chuyên môn
của đội ngũ công nhân viên, giúp họ có phong cách khoa học và tính kỷ luật cao,
nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động …Muốn vậy doanh
nghiệp cần phải đưa ra kế hoạch tuyển dụng hợp lý, đào tạo và có sự quan tâm
đúng mức đến người lao động, tạo cơ hội thăng tiến, tạo bầu không khí lao động
thoải mái để góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
( các chế độ về quản lý, ưu đãi, giám sát, kiểm tra sản phẩm…)
Trần Thị Chinh Thống Kê 44A
17
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
Con người là yếu tố cực kỳ quan trọng, quyết định thành công hay thất bại
trong mọi hoạt động . Kiểm tra, phân tích đánh giá con người thường xuyên
nhằm nâng cao giá trị văn hoá cá nhân và tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh
nghiệp.
-Vốn kinh doanh: Là một phần thu nhập quốc dân dưới dạng tài sản vật
chất và tài sản tài chính được chính các cá nhân và các tổ chức, các doanh

nghiệp bỏ ra để tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi
nhuận. Về bản chất nó là biểu hiện bằng tiền của các tư liệu sản xuất được sử
dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Đây là điều kiện đầu tiên, tiên quyết,
quyết định cho sự ra đời tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Yêu cầu của sử
dụng vốn là không ngừng nâng cao hiệu quả đồng vốn được sử dụng trong quá
trình sản xuất, tức là làm thế nào để đồng vốn luân chuyển nhanh tạo ra lợi
nhuận cho doanh nghiệp. Vốn kinh doanh được hình thành từ 2 loại vốn cơ bản
là vốn cố định và vốn lưu động. Mức độ huy động sử dụng các loại vốn thể hiện
tính chủ động, tính hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được sẽ đánh giá điểm mạnh,
yếu về nguồn vốn kinh doanh.
Vốn cố định là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về TSCĐ và các
khoản đầu tư tài chính dài hạn của doanh nghiệp, luân chuyển dần từng phần
trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành 1 vòng tuần hoàn khi TSCĐ hết thời
gian sử dụng.
Vốn lưu động là số tiền ứng trước về tư liệu lao động và đầu tư tài chính
ngắn hạn nhằm đảm bảo quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được thực hiện
thường xuyên và liên tục
-Công nghệ là nhân tố có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đến hiệu quả sản
xuất kinh doanh, công nghệ được hiểu là tập hợp những hiểu biết để tạo ra các
giải pháp kỹ thuật được áp dụng vào sản xuất. Theo tiêu chuẩn phát triển của
Liên Hợp Quốc - UNIDO công nghệ: “ là việc áp dụng khoa học vào công nghệ
bằng cách sử dụng các kết quả nghiên cứu và sử lý nó một cách có hệ thống và
có phương pháp” Ngày nay công nghệ thường là sự kết hợp của các nhân tố:
trang thiết bị máy móc, khí cụ nhà xưởng, cơ sở vật chất khoa học kỹ thuật,
thành phần lực lượng lao động như kỹ năng tay nghề, kinh nghiệm của người
lao động, tổ chức, bố trí, sắp xếp điều phối, quản lý và thành phần thông tin bao
gồm các bí quyết, quy trình, phương pháp, các dữ liệu và các bản thiết kế … Bất
kỳ quá trình sản xuất kinh doanh nào đều phải đảm bảo các nhân tố trên, mỗi
nhân tố đảm nhiệm một chức năng nhất định, trang thiết bị máy móc, cơ sở vật
chất kỹ thuật là xương sống, cốt lõi của quá trình sản xuất kinh doanh, lực lượng

lao động được coi là chìa khoá của hoạt động sản xuất kinh doanh và có nhiệm
vụ liên kết các nhân tố, thông tin là cơ sở hướng dẫn hoạt động sản xuất kinh
doanh và ra quyết định. Sự kết hợp chặt chẽ của các nhân tố trên là điều kiện cơ
bản để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao. Công nghệ có
ảnh hưởng quyết định đến kết quả hoạt động của sản xuất kinh doanh, doanh
nghiệp có tạo ra sản phẩm chất lượng cao, giá thành hạ hay không là phụ thuộc
Trần Thị Chinh Thống Kê 44A
18
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
không nhỏ vào yếu tố công nghệ trong đó bao gồm cả tìm kiếm và chuyển giao
công nghệ.
-Vốn kinh doanh: Là một phần thu nhập quốc dân dưới dạng tài sản vật
chất và tài sản tài chính được chính các cá nhân và các tổ chức, các doanh
nghiệp bỏ ra để tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi
nhuận. Về bản chất nó là biểu hiện bằng tiền của các tư liệu sản xuất được sử
dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Đây là điều kiện đầu tiên, tiên quyết,
quyết định cho sự ra đời tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Yêu cầu của sử
dụng vốn là không ngừng nâng cao hiệu quả đồng vốn được sử dụng trong quá
trình sản xuất, tức là làm thế nào để đồng vốn luân chuyển nhanh tạo ra lợi
nhuận cho doanh nghiệp. Vốn kinh doanh được tạo ra
-Cơ sở vật chất khoa học kỹ thuật và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật: hiệu quả
sản xuất kinh doanh góp phần thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật, và ngược lại
việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật cũng là một trong nhân tố quan trọng
để nâng cao hiệu quả sản xuất. Thực tế đã chứng minh bằng các cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật đã giúp cho sức sản xuất của con người trong thế kỷ XX tăng
gấp nhiều lần. Cơ sở vật chất càng phát triển càng thuận tiện trong việc áp dụng
các phương pháp sản xuất mới. Tiến bộ kỹ thuật trong doanh nghiệp là hệ thống
các cải tiến, đổi mới quy trình công nghệ nâng cao trình độ thành thạo và thích
ứng của người lao động với các trang thiết bị kỹ thuật và phương thức sản xuất
mới, hoàn thiện cách sử dụng nguyên vật liệu, trang bị các phương tiện quản lý

nhằm tăng thêm số lượng và chất lượng sản phẩm, tăng các mặt hàng mới, hạ
giá thành sản phẩm, tăng tích luỹ cho doanh nghiệp, đồng thời cải thiện điều
kiện lao động và sinh hoạt của công nhân viên.
-Hệ thống trao đổi và sử lý thông tin: yêu cầu của công tác quản lý và ra
quyết định đòi hỏi các nhà lãnh đạo doanh nghiệp phải nắm bắt những thông tin
có liên quan một cách chuẩn xác. Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay ai
nắm được thông tin trước là người chiếm ưu thế trong cạnh tranh. Vì vậy hệ
thống thông tin là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên hiệu quả sản xuất.
Về phương diện thông tin công khai khi cung cấp, công bố số liệu ra bên ngoài
cần phải giữ kín thông tin về phương pháp sản xuất, bí mật công nghệ và bí
quyết thương mại, khi cần thiết cũng phải làm công tác tình báo thông tin, tổ
chức thu thập các thông tin của đối thủ cạnh tranh. Bên cạnh việc thu thập thông
tin, cần phát triển song song hệ thống sử lý thông tin thật chuẩn xác, thông tin có
đầu ra và đầu vào. Có thông tin đầu vào mà sử lý sai thì sẽ cho kết quả sai, vì
vậy cần phải tổ chức thật tốt cả hệ thống thu thập và sử lý thông tin.
-Quản lý doanh nghiệp: trình độ và kinh nghiệm quản lý sản xuất kinh
doanh được coi là yếu tố quyết định đến sự thành đạt của doanh nghiệp. Cho dù
nguồn lực có dồi dào đến đâu chăng nữa mà quản lý yếu kém thì hoạt động sản
xuất kinh doanh cũng không có hiệu quả. Thước đo hiệu quả quản lý là việc đưa
ra quyết định đúng đắn, cụ thể là xác định đúng quy mô sản xuất kinh doanh phù
hợp với đường lối, mục tiêu của doanh nghiệp. Do vậy quá trình hoạt động sản
Trần Thị Chinh Thống Kê 44A
19
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
xuất kinh doanh không ngừng nâng cao chất lượng của các nhà quản lý để giúp
doanh nghiệp đạt được kết quả cao nhất.
5.2. Nhân tố thuộc môi trường bên ngoài.
Bên cạnh các yếu tố bên trong, các yếu tố bên ngoài cũng có ảnh hưởng
không nhỏ đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì những nhân
tố này không chịu sự quản lý cảu doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ có thể dự

báo và dựa vào hệ thống thông tin của mình để nắm bắt, từ đó điều khiển các
hoạt động theo xu hướng và tác động có lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh,
nhằm đạt hiệu quả cao.
-Môi trường pháp lý và môi trường kinh doanh: để cho hoạt động sản xuất
được phát triển, cần có một môi trường pháp lý và môi trường kinh doanh thuận
lợi. Nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển như hiện nay, yêu
cầu cần có một môi trường pháp lý thuận lợi và an toàn để có thể khuyến khích
các đơn vị và thu hút đầu tư. Môi trường kinh doanh là điều kiện quan trọng để
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trước đây, khi nền kinh tế nước ta còn
trong cơ chế bao cấp, các đơn vị sản xuất dưới sự bảo hộ của nhà nước, lãi giả lỗ
thật đã làm giảm tính hiệu quả của các đơn vị sản xuất, mất tính cạnh tranh.
Chính vì vậy trong nền kinh tế thị trường mở hiện nay, để có thể nâng cao hiệu
quả cần phải đảm bảo cho môi trường pháp lý và môi trường kinh doanh trong
sạch và thuận lợi, khuyến khích cạnh tranh công bằng. Vì vậy cCần phải tạo ra
môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp hoạt động mà vẫn phải đảm bảo
tính công bằng, hơn nữa 1 cơ chế chính trị xã hội ổn định, 1 hành lang pháp lý
thuận lợi sẽ thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh và thu hút các nhà đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam. Môi trường pháp lý ngày càng phải hoàn thiện hơn
nữa để tạo môi trường tốt cho hoạt động của các đơn vị kinh tế như việc ban
hành và áp dụng các đạo luật như luật doanh nghiệp, luật đầu tư…đã tạo động
lực lớn cho phát triển kinh tế. Nghiên cứu luật để giúp giúp doanh nghiệp và các
nhà quản trị thực thi pháp luật, hoạch định kế hoạch và nắm bắt cơ hội từ pháp
luật, ngăn chặn và hạn chế nguy cơ từ pháp luật, thiếu hiểu biết về pháp luật có
thể làm thiệt hại quyền lợi của doanh nghiệp.
-Chính phủ: là cơ quan hành pháp, hoạt động của chính phủ ảnh hưởng đến
các ngành kinh tế và từng doanh nghiệp theo mức độ và chiều hướng khác nhau.
Doanh nghiệp cần có thông tin thường xuyên về hạot dộng của chính phủ, nhất
là các chính sách nhằm nắm cơ hội hoặc ngăn chặn hạn chế các nguy cơ từ các
yếu tố này. Trong chừng mực nhất định doanh nghiệp có thể vận động hành
lang đối thoại với chính phủ để tạo cơ hội hay hạn chế nguy cơ nhất thời cho

doanh nghiệp.
-Cơ sở hạ tầng: với một hệ thống cơ sở hạ tầng thuận lợi, các đơn vị sản xuất
kinh doanh có thể sản xuất với hiệu quả cao hơn. Như việc xây dựng hệ thống
giao thông công cộng, các tuyến giao thông đến các khu nguyên liệu, hệ thống
thông tin liên lạc…
Trần Thị Chinh Thống Kê 44A
20
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
-Quan hệ quốc tế: Thị trường đóng vai trò quyết định, để có thị trường rộng
lớn, các doanh nghiệp phải thắt chặt hơn nữa các mối quan hệ kinh tế quốc tế
sẵn có, tham gia vào các liên minh, hiệp hội để nhận được sự ủng hộ của quốc tế
đồng thời tìm kiếm thêm các đối tác và thị trường mới.
-Yếu tố chính trị: thể hiện qua thể chế chính trị của mỗi quốc gia, mức độ
ổn định hay biến động của thể chế chính trị, động cơ thúc đẩy hoạt động chính
trị. Yếu tố chính trị có tác động đến hệ thống pháp luật và hoạt động của chính
phủ, thể hiện động cơ chính trị qua các công cụ quản lý nhà nước nhằm bảo vệ
lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội theo mức độ khác nhau, ảnh hưởng đến giao
bang quốc tế và mở rộng, bó hẹp thị trường buôn bán. Khi quyết định đầu tư sản
xuất kinh doanh các nhà quản trị phải hiểu rõ tình hình chính trị của khu vực đầu
tư, phát riển thị trường mua bán (đầu tư giúp hạn chế rủi ro và có căn cứ quyết
định mua công nghệ mới). Yếu tố chính trị là cơ sỏ tạo ra nền kinh tế ổn định, là
cơ sở để các doanh nghiệp yên tâm đầu tư vào phát triển doanh nghiệp theo
chiều rộng lẫn chiều sâu, tìm cách nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp
trên thị trường, từ đó hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng được nâng cao.
Yếu tố kinh tế: hệ thống các hoạt động, chỉ tiêu kinh tế của mỗi quốc gia
trong từng thời kỳ, ảnh hưởng tích cực, tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của từng ngành và từng doanh nghiệp theo các mức độ, tốc độ phát triển
từng ngành, của nền kinh tế hàng năm, mức thu nhập bình quân đầu người một
năm, tỷ lệ lạm phát, lãi suất tín dụng, dân cư thất nghiệp,thu chi ngân sách của
nhà nước… có thể ảnh hưởng đến các doanh nghiệp trong nền kinh tế, hoặc tạo

ra cơ hội, hoặc tạo ra thách thức. Doanh nghiệp gặp nguy cơ khi nhà nước có kế
hoạch tăng mức thu thuế các ngành để bổ xung nguồn thu, có cơ hội khi chi
ngân sách có liên quan đến nhành nghề hoạt động, hàng hoá mà các tổ chức nhà
nước cần mua…
-Yếu tố khoa học kỹ thuật: trong thập niên vừa qua, tốc độ phát triển khoa
học kỹ thuật của thế giới diễn ra nhanh chóng, công nghệ mới thay thế công
nghệ cũ diễn ra liên tiếp, chu kỳ đời sống của sản phẩm ngày càng rut ngắn. Hầu
hết tất cả các ngành trong nền kinh tế đều chịu ảnh hưởng của sự phát triển khoa
học kỹ thuật, tuỳ theo đặc điểm của mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp mà mức độ
ảnh hưởng là nhiều hay ít. Tạo cơ hội cho các doanh nghiệp: sản phẩm, dịch vụ
mới ra đời tạo thị trường mới, thời gian sản xuất tạo ra sản phẩm của máy móc
thiết bị ngắn hơn, chất lượng cao hơn, hạn chế ô nhiễm môi trường. Nguy cơ:
các sản phẩm hiện tại nhanh chóng lạc hậu, chi phí đầu tư đổi mới gia tăng, con
người bị hụt hẫng về khả năng quản lý kỹ thuật (nếu không nâng cao trình độ
chuyên môn kịp thời). Do tác động hai mặt trên doanh nghiệp cần có hệ thống
thông tin nhạy bén để tận dụng được và ngăn chặn nguy cơ kịp thời, đặc biệt các
doanh nghiệp cần quan tâm đúng mức việc tận dụng công nghệ thông tin mới để
tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường hiện tại và tương lai.
-Yếu tố dân số và địa lý: Ảnh hưởng đến nguồn nhân lực và khách hàng của
các doanh nghiệp. Khi quyết định đầu tư, phát triển thị trường các ngành hàng
cụ thể, các nhà quản trị, các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu các đặc điểm cơ
Trần Thị Chinh Thống Kê 44A
21
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
bản về dân số để có cơ sở căn cứ quyết định xây dựng cơ sở sản xuất nơi nào có
các nguồn cung cấp lao động dồi dào, kỹ năng, chuyên môn phù hợp và thuận
tiện, đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần người lao động. Quyết địnhcung cấp
các loại, quy mô đặc trưng sản phẩm phù hợp khu vực thị trường, quyết định các
hoạt động Marketing phù hợp.
Ngoài ra còn ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khác như: Thị hiếu khách hàng,

đối thủ cạnh tranh, nhà cung cấp, các tổ chức có liên quan…
Trần Thị Chinh Thống Kê 44A
22
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
Chương II: Hệ thống chỉ tiêu Thống Kê hiệu quả sản xuất kinh
doanh
I. Yêu cầu và nguyên tắc xây dựng.
1. Sự cần thiết phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất
kinh doanh
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp là một nhiệm vụ quan trọng bởi vì trong việc phân tích và đánh giá hiệu
quả sản xuất kinh doanh không chỉ dựa vào một số các chỉ tiêu riêng rẽ mà cần
thiết phải dựa vào một hệ thống các chỉ tiêu. Hệ thống các chỉ tiêu là một tập
hợp các chỉ tiêu có quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ xung cho nhau. Thông qua hệ
thống chỉ tiêu mới phản ánh được một cách toàn diện các khía cạnh khác nhau,
các mặt cơ bản của hiệu quả sản xuất kinh doanh. Mặt khác rút ra được kết luận
thống nhất về phương hướng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm nhiều quá trình
và luôn luôn diễn ra rất phức tạp. Vì vậy để đánh gía tổng hợp kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh cần hoàn thiện liên tục hệ thống chỉ tiêu giúp cho việc thu
thập thông tin dễ dàng, có độ chính xác cao. Hệ thống chỉ tiêu cần được thay đổi
bổ xung về mặt số lượng và cơ cấu cho phù hợp với yêu cầu quản lý và trình độ
hạch toán ở mỗi thời kỳ.
Đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phục vụ cho các
nhà quản trị doanh nghiệp nắm vững tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh
trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời kỳ, đặc biệt
nó rất cần thiết cho việc trợ giúp quá trình ra quyết định tác nghiệp cũng như
quyết định chiến lược của lãnh đạo doanh nghiệp. Cụ thể giúp lãnh đạo có căn
cứ khoa học để tổ chức và quản lý có hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, là căn cứ đánh giá phân tích tình hình sử dụng các yếu tố của

quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp (lao động, vốn, vật tư, tài sản…) là căn
cứ để lập kế hoạch phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh cả về quy mô và cơ
cấu giúp cho các nhà quản lý có những thông tin cần thiết làm căn cứ khoa học
để xây đựng chiến lược sản xuất kinh doanh, phát triển hoạt động sản xuất kinh
doanh theo hình thức đã lựa chọn. Ngoài ra nó còn giúp cho lãnh đạo cấp trên
hiểu rõ tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
12. Yêu cầu khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu Thống Kê đánh giá hiệu quả sản
xuất kinh doanh:
Sự cần thiết và tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả kinh tế tự nó đòi
hỏi phải xác định rõ ràng chỉ tiêu và tiêu chuẩn hiệu quả làm cơ sở để đnhs giá
việc nâng cao hiệu quả này.
Mục đích của việc nghiên cứu hiệu quả kinh tế là tìm ra các thước đo mà
chúng ta có thể sử dụng nó để so sánh, phân tích những hoạt động kinh tế nhằm
Trần Thị Chinh Thống Kê 44A
23
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
phát hiện những tiềm năng và kịp thời có biện pháp điều chỉnh các hoạt động
kinh tế hiện tại góp phần củng cố và phát triển nền kinh tế quốc dân.
Khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu Thống Kê hiệu quả sản xuất kinh doanh cần
đảm bảo các yêu cầu sau:
- Xác định đúng bản chất, tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh,
không được đồng nhất chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh -là một phạm trù
tổng hợp với các chỉ tiêu bộ phận biểu hiện từng mặt của nó. Chỉ dựa trên yêu
cầu này hệ thống chỉ tiêu được xây dựng mới có ý nghĩa nghiên cứu và có tác
dụng thiết thực trong công tác quản lý và phân tích Thống Kê.
-Phản ánh đúng thực chất khách quan về hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp trong từng thời kỳ, vì vậy đòi hỏi hệ thống chỉ tiêu khi xây dựng
phải đảm bảo tính chính xác, trung thực, phản ánh đúng sự thật khách quan trên
cơ sở hạch toán đầy đủ các yếu tố đầu vào và kết quả đầu ra trong quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp từ đó giúp nhà nước thấy được thực trạng

doanh nghiệp và đưa ra các hính sách quản lý thích hợp giúp cho các nhà quản
lý thấy được thực trạng về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đưa
ra các biện pháp nâng cao hiệu quả.
-Đảm bảo tính hệ thống: các chỉ tiêu bao gồm trong hệ thống phải có mối
quan hệ hữu cơ với nhau, trong hệ thống phải thể hiện rõ các chỉ tiêu chủ yếu và
thứ yếu, các chỉ tiêu tổng hợp và từng mặt của hiệu quả. Đảm bảo sự thống nhất
về nội dung, phương pháp và phạm vi tính các chỉ tiêu cùng loại
-Tính khả thi: Hệ thống được hình thành phải là hệ thống cho phép giải
quyết tốt nhất mâu thuẫn giữa nhu cầu thông tin với khả năng mọi mặt để thu
thập và tính toán các chỉ tiêu đó, nghĩa là phải kết hợp giữa tính lý thuyết, kỳ
vọng và tính khả thi, thực tiễn của hệ thống. Hệ thống được xây dựng phải có
khả năng vận dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực công tác quản lý như trong công
tác kế hoạch, hạch toán, phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh…
Các chỉ tiêu vừa đơn giản vừa dễ hiểu nhưng mang tính khoa học, vừa đảm
bảo chính xác trong so sánh vừa thể hiện thước đo kết quả và mang tính chất
kiểm tra lẫn nhau.
-Hệ thống chỉ tiêu phải phản ánh được mức độ của hoạt động sản xuất kinh
doanh của đơn vị
-Hệ thống chỉ tiêu phải thích hợp với các biểu hiện của hiệu quả sản xuất
kinh doanh và phản ánh được đúng thực trạng khách quan của hiệu quả kinh tế.
Các chỉ tiêu đưa vào hệ thống cần phải liên hệ chặt chẽ với nhau khi phản ánh
mối quan hệ tồn tại khách quan giữa các yếu tố tác động đến việc tăng, giảm
hiệu quả. Muốn vậy, cần phải xem xét vị trí của từng chỉ tiêu và số đo của nó
trong hệ thống, khả năng kết hợp giữa các chỉ tiêu với nhau, mối quan hệ tương
quan giữa các chỉ tiêu được xác định thông qua sự quy định lẫn nhau của hoạt
động sản xuất cả về chiều rộng và chiều sâu. Bởi vậy khi đánh giá hiệu quả các
chỉ tiêu tách biệt với nhau có thể không được sử dụng nhằm loại trừ các đánh giá
sai lệch. Những liên kết cần thiết của các chỉ tiêu đòi hỏi phải phù hợp với các
mối liên hệ nội tại trong hệ thống, tìm ra điểm nút để phát hiện các mối liên hệ
Trần Thị Chinh Thống Kê 44A

24
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
nhân quả và để tiến hành các phân tích sâu sắc hơn nhằm phản ánh đúng thực
trạng tồn tại khách quan hiệu quả sản xuất kinh doanh.
-Hệ thống chỉ tiêu phải phản ánh được hai mặt số lượng và chất lượng trong
sự thống nhất giữa chúng đối với hiệu quả sản xuất kinh doanh. Do hiệu quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp tạo nên bởi các yếu tố về số lượng của kết
quả và chi phí.
23. Nguyên tắc xây dựng:
Hệ thống chỉ tiêu phải xuất phát từ những mục tiêu mang tính chất đại diện
về mặt xã hội, từ lợi ích xã hội, ngành, doanh nghiệp và người lao động được kết
hợp hài hoà, xuất phát từ các yêu cầu của quản lý kinh tế và quản lý doanh
nghiệp yêu cầu thúc đẩy sản xuất kinh doanh của ngành và xã hội. Nguyên tắc
này bao hàm cả việc các chỉ tiêu kết quả,chi phí có thể có số đo khác nhau vì
mỗi số đo có một khả năng diễn đạt riêng, cho nên phải nghiên cứu chi tiết xem
số đo nào là thích hợp với việc đánh giá hiệu quả của một quá trình cụ thể. Mặt
khác việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu quả cần có phương pháp
tính toán thật sự khoa học
-Tính thống nhất: Đảm bảo nhất quán giữa hệ thống chỉ tiêu tổng thể và chỉ
tiêu bộ phận, đảm bảo thống nhất về nội dung, phương pháp và phạm vi tính của
các chỉ tiêu cùng loại., thống nhất về phạm vi thời gian, không gian và nội dung
kinh tế của các chỉ tiêu so sánh
-Tính hệ thống: Phải nêu được mối liên hệ giữa các mặt các bộ phận, giữa
hiện tượng nghiên cứu với các hiện tượng có liên quan ( trong phạm vi mục
đích nghiên cứu). Trong hệ thống các chỉ tiêu Thống Kê xuất khẩu, có những chỉ
tiêu mang tính chất chung, các chỉ tiêu mang tính chất bộ phận, các chỉ tiêu
mang nhân tố phản ánh toàn diện và sâu sắc đối tượng nghiên cứu
-Tính hiệu quả (kết quả): hiệu quả cả về mặt kinh tế và về mặt xã hội
-Tính khả thi: Căn cứ vào khả năng nhân tài vật lực cho phép để có thể tiến
hành thu thập, tổng hợp các chỉ tiêu trong sự tiết kiệm nghiêm ngặt. Đòi hỏi

người lập và hoàn thiện các chỉ tiêu phải cân nhắc thật kỹ lưỡng, xác định các
chỉ tiêu căn bản nhất, quan trọng nhất là làm sao đảm bảo số lượng mà vẫn đúng
mục đích nghiên cứu. Đồng thời vẫn phải đảm bảo chất lượng, tính đầy đủ toàn
diện, có chú ý đến vị trí số đo của từng chỉ tiêu và khả năng kết hợp giữa các chỉ
tiêu.
-Tính linh hoạt: các chỉ tiêu được xây dựng có thể được sử dụng trong nhiều
mục đích và nhiều trường hợp khác nhau
- Tính hướng đích: hệ thống chỉ tiêu cần được xuất phát từ mục đích và
nhiệm vụ nghiên cứu, nghĩa là nhiệm vụ nào thì hệ thống chỉ tiêu đó, như vậy
các hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu hoạt động xuất khẩu hàng dệt may phải đáp
ứng nhu cầu thông tin cần thiết phục vụ cho vịêc đánh giá, phân tích tình hình
xuất khẩu hàng dệt may.
Trần Thị Chinh Thống Kê 44A
25

×