Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

nội dung và mối quan hệ giữa đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong doanh nghiêp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.42 KB, 45 trang )

Đề tài: Nội dung và mối quan hệ giữa đầu tư vào tài sản hữu hình và tài
sản vô hình trong doanh nghiêp
LỜI MỞ ĐẦU

Hơn 20 năm qua, kể từ ngày nước ta tiến hành sự nghiệp đổi mới đất
nước theo đường lối chủ trương của Đảng và Nhà Nước chúng ta đã đạt
được những thành tựu to lớn trong các lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế, nó làm
thay đổi bộ mặt của đất nước, đưa nước ta từ một nước nghèo nàn lạc hậu
thành một nước đang trên đà phát triển, hoà nhập vào xu thế chung của nền
kinh tế thế giới. Đóng góp vào sự tăng trưởng vượt bậc đó, hoạt động đầu tư
trong các doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế giữ một vai trò hết sức
quan trọng. Thông qua các hoạt động đầu tư có thể nhận thấy tình hình, thực
trạng của nền kinh tế. Tuy nhiên, trong những năm qua, do vẫn còn mang
nặng tư tưởng nhận thức của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu
bao cấp trước đây, hoạt động đầu tư trong các doanh nghiệp Việt Nam còn
nhiều vấn đề còn bất cập: quá chú trọng vào đầu tư phát triển theo chiều
rộng, tập trung nhiều vào thị trường trong nước, chưa chú trọng vào đầu tư
theo chiều sâu và hướng ra thị trường xuất khẩu. Đặc biệt cơ cấu đầu tư vào
tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong các doanh nghiệp còn nhiều điểm
bất hợp lý và mất cân đối. Trong mối tương quan giữa hoạt động đầu tư vào
tài sản hữu hình và tài sản vô hình thì hoạt động đầu tư vào tài sản vô hình
chưa được quan tâm đúng mức. Thực trạng đó đã gây nhiều khó khăn cho
các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế toàn
cầu.
Quan tâm đến vấn đề đó chúng tôi đã lựa chọn tìm hiểu đề tài: “Nội dung
và mối quan hệ giữa đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong
doanh nghiệp”. Với mong muốn làm rõ và góp phần hoàn thiện hơn hệ thống
tư duy lý luận về hoạt động đầu tư phát triển trong nền kinh tế nói chung và
trong các doanh nghiệp nói riêng. Việc nghiên cứu với mục đích tìm hiểu,
làm rõ cơ sở khoa học của hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản
vô hình cũng như mối quan hệ, thực trạng, bài học kinh nghiệm và giải pháp


cho vấn đề đó. Hi vọng với những gì chúng tôi trình bày sẽ giúp bạn đọc có
được cái nhìn sâu hơn, tổng quát hơn về thực trạng đầu tư trong các doanh
nghiệp Việt Nam.

Chương I: Lý luận chung về hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình
và tài sản vô hình trong doanh nghiệp
Tài sản là một trong những điều kiện cần để một doanh nghiệp có thể tồn
tại và hoạt động được. Trong nền kinh tế tự do cạnh tranh hiện nay thì việc
đầu tư vào tài sản doanh nghiệp là một điều kiện cho doanh nghiệp tồn tại và
phát triển. Nhưng việc đầu tư thế nào cho có hiệu quả cũng là một vấn đề đối
với các doanh nghiệp nhất là đối với Nam hiện nay khi mà việc đầu tư vào
tài sản trong doanh nghiệp chỉ mới được chú trọng từ những năm 90 lại nay.
Để có thể đầu tư tốt thì yêu cầu đầu tiên đối với các doanh nghiệp là phải tìm
hiểu được tác động của các loại tài sản tới sự phát triển doanh nghiệp. Và
điều trước tiên là chúng ta phải hiều được tài sản trong doanh nghiệp là gì.
1. Tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong các doanh nghiệp.
Việc tìm hiều tài sản của doanh nghiệp giúp cho ta thấy được điểm yếu và
điểm mạnh trong doanh nghiệp, từ đó có thể phát huy những điểm mạnh,
khắc phục điểm yếu giúp cho doanh nghiệp phát triển mạnh hơn. Việc nhu
cầu thị trường luôn thay đổi và yêu cầu ngày càng cao hơn thúc đẩy doanh
nghiệp phải thay đổi chính mình, tạo ra những sản phẩm mới phù hợp với
nhu cầu thị trường tức là yêu cầu các nhà nhà quản lý đầu tư vào tài sản của
doanh nghiệp. Nhưng đầu tư như thế nào cho có hiệu quả tốt nhất, sử dụng
các nguồn lực một cách tiết kiệm nhất là một vấn đề đặt ra cho các nhà quản
lý. Vì vậy nên việc hiểu rõ tài sản doanh nghiệp là một vấn đề cần thiết đối
với các nhà quản lý để giúp các nhà quản lý sử dụng các nguồn lực hợp lý và
hiệu quả khi đầu tư vào tài sản doanh nghiệp.
1.1. Khái niệm và phân loại tài sản doanh nghiệp.
1.1.1. Khái niệm tài sản doanh nghiệp.
Tài sản là một khái niệm pháp lý bao gồm tất cả các quyền, quyền lợi và

lợi nhuận có liên quan đến quyền sở hữu, bao gồm quyền sở hữu cá nhân,
nghĩa là chủ sở hữu được hưởng một số quyền lợi, lợi ích nhất định khi làm
chủ tài sản đó (Theo uỷ bản thẩm định giá quốc tế IVSC).
Doanh nghiệp là một tổ chức được lập ra để tiến hành hoạt động kinh
doanh. Tài sản là yếu tố giữ vai trò quan trọng trong doanh nghiệp để tiến
hành các hoạt động đầu tư như sản xuất, mua bán và dịch vụ nhằm sinh lời.
Tài sản doanh nghiệp là toàn bộ tiềm lực kinh tế cùa đơn vị, biểu thị cho
những lợi ích mà doanh nghiệp thu đưởc trong tương lai hoặc những tiềm
năng phục vụ cho hoạt động kinh doanh của đơn vi. Nói cách khác, tài sản
của doanh nghiệp là tất cả những thứ hữu hình và vô hình gắn với lợi ích
trong tương lai của đơn vị thỏa mãn điều kiện sau:
- Thuộc quyền sở hữu hoặc quyền kiểm soát lâu dài của đơn vị.
- Có giá trị thực sự đối với doanh nghiệp.
- Có giá phí xác định.
1.1.2. Phân loại tài sản doanh nghiệp.
Chúng ta có thể nhìn nhân tài sản của doanh nghiệp trên nhiều góc độ
khác nhau như: theo hình thái biểu hiên, theo khả năng di dời, theo đặc điểm
luân chuyển… Vì thế có rất nhiều cách để phân loại tài sản trong doanh
nghiệp tùy theo góc nhìn của người phân loại:
Theo hình thái thể hiện: tài sản hữu hình và tài sản vô hình.
Theo tính chất sỡ hữu: tài sản cá nhân và tài sản tập thể.
Theo khả năng trao đổi: hàng hóa và phi hàng hóa.
Theo khả năng di dời: động sản và bất động sản.
Theo đặc điểm luân chuyển: tài sản cố định và tài sản lưu động.
Chúng ta phân tích tài sản doanh nghiệp dưới góc độ hình thái biểu hiện
của chúng: Tài sản hữu hình và tài sản vô hình.
1.2. Tài sản hữu hình.
Tài sản hữu hình là những tài sản mang thuộc tính vật chất, là một vật
hữu hình có thể nhìn thấy hay sờ thấy được như đất đai, nhà cửa, máy móc,
đồ đạc, dụng cụ, thiết bị và những tài sản trong xây dựng và phát triển. Tài

sản hữu hình có thể phân loại theo tính chất luân chuyển của chúng: tài sản
cố định hữu hình và tài sản lưu động hữu hình.
1.2.1. Đặc điểm tài sản hữu hình trong doanh nghiệp.
Tài sản hữu hình thường chiếm một tỉ trọng lớn trong tổng tài sản của
doanh nghiệp đồng thời có một ý nghĩa quan trọng, chủ đạo trong hoạt động
của doanh nghiệp. Ngoài những đặc điểm chung của tài sản, tài sản hữu hình
trong doanh nghiệp còn có những đặc điểm sau:
- Có hình thái vật chất cụ thể, có thể cân đong, đo đếm được.
- Được dùng nhiều và thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh,
trực tiếp chế tạo ra các loại sản phẩm cho doanh nghiệp hoặc gián tiếp tạo ra
các sản phẩm đó.
- Được khấu hao thường xuyên vào sản phẩm của doanh nghiệp. Trong
quá trình sản xuất kinh doanh, giá trị của tài sản hữu hình được chuyển dần
hoặc có thể chuyến hết vào giá trị sản phẩm hàng hoá và được trích vào quỹ
khấu hao của doanh nghiệp hoặc chi phí kinh doanh của doanh nghiệp.
- Có giá trị tối thiểu ở một mức nhất định, mức giá trị này được điều
chỉnh thường xuyên cho phù hợp với tình hình kinh tế của đất nước.
- Có 2 hình thức hao mòn: hao mòn vật lý (phụ thuộc vào mức độ sử
dụng hoặc bị môi trường thiên nhiên phá huỷ) và hao mòn vô hình (do tiến
độ của khoa học kĩ thuật, nên những tài sản hiện tại bị mất giá).
- Thời gian sử dụng hữu ích của một tài sản hữu hình có thể là một đại
lượng cố định, có thể ước tính trước.
1.2.2. Phân loại tài sản hữu hình.
Trong công tác quản lý kinh tế và dựa vào tính chất luân chuyển của tài
sản chúng ta chia tài sản hữu hình thành hai loại: tài sản cố định hữu hình và
tài sản lưu động hữu hình.
- Tài sản lưu động hữu hình là tài sản không nằm trong chu kỳ sử dụng
lâu dài của doanh nghiệp và có hình thái vật chất, mang thuộc tính vật chất.
Ví dụ: hàng trong kho, các loại nguyên vật liệu mua về tích trữ, các khoản
nợ phải trả của doanh nghiệp, đầu tư ngắn hạn

- Tài sản cố định hữu hình: là những tư liệu sản xuất chủ yếu có hình thái
vật chất thỏa mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định hữu hình, tham gia vào
nhiều chu kì kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu
như nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc, thiết bị,… Tài sản cố định hữu hình có
những thuộc tính sau: có hình thái vật chất cụ thể, có thể cân đong đo đếm
được, xác định được giá trị. Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương
lai từ việc sử dụng tài sản đó vào trong các hoạt động của doanh nghiệp.
Nguyên giá tài sản được xác định một các đáng tin cậy. Tài sản có thời gian
sử dụng lâu dài (trên một năm) hoặc có giá trị lớn (từ 10 triệu đồng trở lên).
1.2.3. Vai trò của tài sản hữu hình trong doanh nghiệp.
Tài sản cố định hữu hình có vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh
tế cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Theo cách nói
của C.Mac: tài sản cố định hữu hình với tư cách là công cụ sản xuất là hệ
thống “xương cốt và bắp thịt của sản xuất”. Tài sản cố định hữu hình là “lực
lượng vật chất” quyết định trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội.
“Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái
gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào với những tư liệu lao động
nào”.
Ngoài ra, tài sản cố định hữu hình với tư cách là kết cấu hạ tầng của sản
xuất như đường xá, bến cảng, sân bay, phương tiện giao thông vận tải, điện,
nước, thuỷ lợi, bưu điện, thông tin liên lạc… là điều kiện cần thiết đối với
quá trình sản xuất. Phát triển kết cấu hạ tầng sản xuất phải đi trước một bước
so với đầu tư sản xuất trực tiếp.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch vụ (đặc
biệt là hàng hoá) tài sản hữu hình quyết định chất lượng sản phẩm sản xuất
ra, là nền tảng tạo nên các giá trị vô hình: uy tín, thương hiệu… do đó nó là
yếu tố quyết định thành bại của doanh nghiệp. Trên thực tế, hầu hết các tài
sản được liệt kê là tài sản vô hình cũng đều hàm chứa những yếu tố hữu hình
trong đó.
1.3. Tài sản vô hình trong doanh nghiệp.

Tài sản vô hình là những tài sản tự biểu lộ thông qua những đặc điểm
kinh tế của chúng. Những tài sản này không có hình thái vật chất, tạo ra
những quyền và ưu thê cho người sở hữu và mang lại lợi ích kinh tế cho
người sỡ hữu tài sản đó. Tài sản vô hình có thể phân loại dựa theo nhiều tiêu
thưc như: các quyền, các mối quan hệ, các nhóm tài sản vô hình, tài sản sỡ
hữu trí tuệ.
1.3.1. Đặc điểm của tài sản vô hình trong doanh nghiệp.
Tài sản vô hình là những tài sản có giá trị lớn, thời gian hữu ích lâu dài.
Có khái niệm biểu hiện rất đa dạng, nền kinh tế thị trường càng phát triển thì
chủng loại của tài sản vô hình càng phong phú. Tài sản vô hình có nhiều
điểm chủ yếu sau:
- Tài sản vô hình có hình thái vật chất không rõ ràng. Có loại được thể
hiện bằng hình thái cụ thể: nhãn hiệu, bằng sáng chế Có những loại tài sản
vô hình hoàn toàn vô hình như: uy tín, trên thị trường, mối quan hệ kinh
doanh
- Tài sản vô hình có tính mới: là một kỹ thuật mới, sáng chế mới, một
sáng tác mới hoặc một tác phẩm mới không sao chép lại. Tính mới là nét đặc
trưng của mặt hàng trí tuệ, buộc các tác giả mặt hàng trí tuệ mới phải động
não nhiều làm ra và phải làm được trước những người khác.
- Giá trị tài sản vô hình rất khó xác định, việc xác định rất phức tạp. Có
loại có thể định giá và mua bán được, ví dụ như: bản quyền, phát minh sáng
chế, chi phí thành lập, vị trí kinh doanh… Giá trị của những tài sản cố định
vô hình này được thể hiện bằng những khoản chi phí để mua tài sản đó thông
qua các văn bản sỡ hữu được luật pháp thừa nhận. Bên cạnh đó có những
loại tài sản không thể mua bán, được tạo ra bởi sự cố gắng của tập thể lãnh
đạo và công nhân toàn doanh nghiệp, ví dụ như: chữ tín trong kinh doanh.
- Tài sản vô hình tồn tại sự hao mòn vô hình của tài sản vô hình. Sự bùng
nổ kỹ thuật, sự cạnh tranh quyết liệt trên thương trường, và những yếu tố
khác đã dẫn đến sự mất giá nhanh chóng của một số tài sản vô hình nào đó.
- Thời gian sử dụng hữu ích của một tài sản vô hình thường là một đại

lượng biến đổi, không cố định, có thể dài ngắn khác nhau nhưng không phải
là vô hạn định. Sản phẩm trí tuệ, ngoài các tác phẩm văn chương hay nghệ
thuật, các sản phẩm khác có tính thời gian vì khoa học kỹ thuật có tính biến
chuyển rất nhanh.
1.3.2. Phân loại tài sản vô hình.
Tài sản vô hình có thể phân loại theo 2 cách: theo hình thức xuất hiện như
cách phân loại ủy ban Thẩm định giá quốc tế và theo các nguồn lực phụ
thuộc con người, các nguồn lực không phụ thuộc con người. Theo ủy ban
Thẩm định giá quốc tế tài sản vô hình đc phân loại dựa trên: các quyền, các
mối quan hệ, tài sản sỡ hữu trí tuệ hay các nhóm tài sản vô hình khác
(thường được gọi là uy tín):
- Các quyền: mọi doanh nghiệp đều có quyền của mình, những quyền này
có thề tồn tại theo những điều kiện của một hợp đồng dưới hình thức văn bản
hay không bằng văn bản. Giá trị của quyền phụ thuộc vào những lợi ích tài
chính mà quyền đó mang lại cho doanh nghiệp.
- Mối quan hệ giữa các bên: Mọi doanh nghiệp đều phải thiết lập mối
quan hệ với các đơn vị, các chủ thể và các cá nhân bên ngoài khác. Mối quan
hệ này có thể không thể hiện thành hợp đồng nhưng nó rất quan trọng đối
với doanh nghiệp.
- Các tài sản vô hình lập thành nhóm: là giá trị vô hình thặng dư còn lại
sau khi tất cả tài sản vô hình có thể nhận biết được đã được đánh giá và trừ
khỏi tổng tài sản vô hình, thường được gọi là uy tín. Đặc biệt là đối với
những công ty đang làm ăn tốt và có lợi thế kinh doanh.
- Tài sản sở hữu trí tuệ: là những tài sản vô hình không nằm ở dạng vật
chất nhưng chúng có giá trị vì chúng có khả năng sinh ra dòng lợi nhuận
trong tương lai. Tài sản sỡ hữu trí tuệ là một loại đặc biệt của tài sản vô hình,
nó thường được luật pháp bảo vệ khỏi những sự sử dụng trái thẩm quyền của
những người khác. Ví dụ như: tên nhãn hiệu, bản quyền, bằng sáng chế,
1.3.3. Vai trò tài sản vô hình trong doanh nghiệp.
Tài sản vô hình đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của doanh

nghiệp. Giá trị vô hình của các doanh nghiệp là một đại lượng có thật, có thể
tính toán được và trong nhiều trường hợp nó có giá trị rất lớn, thậm chí lớn
hơn rất nhiều giá trị hữu hình của doanh nghiệp. Theo số liệu của liên đoàn
quốc tế các nhà kế toán (IFAC), năm 1998 khoảng 50% - 90% giá trị do một
công ty tạo ra là nhỏ vào việc quản trị các tài sản vô hình. Sự chênh lệch này
sẽ tiếp tục tăng lên khi nền kinh tế tri thức ngày càng phát triển hơn trong
tương lai.
Nhãn hiệu là một công cụ tuyệt vời để chiếm lĩnh các thị trường như vào
sự phát triển của các phương tiện quảng cáo, đó là một công cụ duy nhất cho
phép sản phẩm này với sản phẩm khác cùng loại. Ngoài ra, nhãn hiệu mạnh
có thể giúp doanh nghiệp đạt được các vị thế dẫn đầu trong ngành. Người
tiêu dùng bị thu hút mạnh mẽ chỉ vì danh tiếng của nhãn hiệu. Do vậy khi
doanh nghiệp có những sản phẩm mang nhãn hiệu nổi tiếng sẽ có thị phần
tăng nhanh, tạo cho doanh nghiệp sự bền vững về vị trí cạnh tranh cũng như
các nhãn hiệu khác xâm nhập vào thị trường mới, khả năng tiếp cận với
nhiều thị trường và luôn đảm bảo sự an toàn trong kênh phân phối sản phẩm.
Quyền sở hữu trí tuệ là tài sản kinh doanh thiết yếu, nó là một loại tài sản
vô hình gắn liền với uy tín của cơ sở sản xuất kinh doanh có chức năng nhận
dạng như nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, các sáng chế, là một cách
dùng lợi nhuận để thúc đẩy người phát minh đi vào sản xuất, phục vụ phúc
lợi cộng đồng. Quyền sở hữu gắn liền với độc quyền khai thác thị trường và
một sản phẩm hay dịch vụ nhất định.
2. Hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong
doanh nghiệp.
Họat động đầu tư là những hoạt động bỏ ra hay hy sinh các nguồn lực ở
hiện tại để tiến hành hoạt động nào đó nhằm đạt được các kết quả, thực hiện
những mục đích nhất định trong tương lai. Thường thì mục đích của hoạt
động đầu tư đựơc chia làm hai loại: mục đích kinh tế(nhằm thu lại lợi nhuận)
và mục đích xã hội(nhằm cải tạo môi trường xã hội, môi trường tự nhiên hay
cải tạo nâng cao chất lượng y tế, giáo dục…).

2.1. Khái niệm, vai trò, nội dung và phân loại hoạt động đầu tư phát
triển trong doanh nghiệp.
2.1.1. Khái niệm.
Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp là một bộ phận của đầu tư phát
triển, là hoạt động sử dụng vốn và các nguồn lực trong hiện tại nhằm duy trì
hoạt động và tăng thêm tài sản của doanh nghiệp, tạo thêm việc làm và nâng
cao đời sống của các thành viên trong đơn vị.
Đầu tư theo nghĩa rộng nói chung là sự hy sinh các nguồn lực hiện tại để
tiến hành các hoạt động nào đó nhằm đem lại cho chủ đầu tư các kết quả
nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra. Căn cứ vào tính
chất tác động của hoạt động đầu tư đối với nền kinh tế, đầu tư có thể được
phân thành: đầu tư tài chính, đầu tư thương mại và đầu tư phát triển. Đầu tư
phát triển trong doanh nghiệp là một bộ phận của đầu tư phát triển, hay còn
gọi là đầu tư theo nghĩa hẹp, là một phương thức đầu tư trực tiếp nhằm duy
trì và tạo ra năng lực mới trong sản xuất kinh doanh dịch vụ và sinh hoạt đời
sống của xã hội, là động lực chính cho sự tăng trưởng và phát triển của nền
kinh tế.
2.1.2. Vai trò.
Đầu tư trong doanh nghiệp quyết định đến sự ra đời, tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp. Vai trò của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp thường
được thể hiện thông qua sự tác động của việc đầu tư vào tài sản doanh
nghiệp đến hoạt động sản xuất kinh doanh:
- Đầu tư giữ vai trò quyết định trong việc nâng cao chất lượng hoạt động
sản xuất kinh doanh dịch vụ của doanh nghiệp.
- Đầu tư giúp doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ khoa
học kĩ thuật, năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
- Tạo điều kiện để doanh nghiệp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
- Đầu tư giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh, tạo lập một vị
trí vững chắc trên thị trường.
- Đầu tư phát triển tạo điều kiện để hạ giá thành, tăng lợi nhuận và nâng

cao đời sống của thành viên trong đơn vị.
2.1.3. Nội dung cơ bản của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp.
Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp quyết định sự tồn ra đời hay tồn tại
của mỗi doanh nghiệp. Để có thế xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra
đời của bất kỳ cơ sở hạ tầng nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cẩu trúc
hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ, tiến hành các công
tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động
trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất vừa được tạo ra. Đối với các cơ sở
đang tồn tại sau một thời gian hoạt động sản xuất kinh doanh, các cơ sở vật
chất kĩ thuật của các cơ sở bị hao mòn, hư hỏng. Để có thể duy trì và phát
triển cần phải đầu tư sữa chữa, thay thế các cơ sở vật chất, máy móc thiết bị
đã bị hư hỏng, hao mòn hoặc để phù hợp với điều kiện hoạt động mới của sự
phát triển khoa học - kĩ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội
như: đầu tư vào nhà xưởng, đầu tư vào máy móc thiết bị, đầu tư cho cở sở
vật chất cần thiết khác…
Ngoài ra hoạt động đầu tư phát triển trong doanh nghiệp còn phải đầu tư
vào những tài sản phi vật chất(tài sản vô hình) như: vào các hoạt động
nghiên cứu, triển khai về khoa học công nghệ, đầu tư phát triển nguồn nhân
lực trong doanh nghiệp, đầu tư vào phát triển thương hiêu như: maketing,
quảng cáo… Sau đây là một số nội dung cơ bản khi đầu tư vào một doanh
nghiệp mới thành lập:
- Đầu tư vào chi phí thành lập doanh nghiệp. Chi phí thành lập doanh
nghiệp được coi là một loại tài sản vô hình cần được đầu tư ngay từ giai
đoạn đầu và được tính khấu hao vào giá thành sản phẩm sau này. Đầu tư vào
chi phí thành lập doanh nghiệp là phải chi tiền cho các chứng từ, giấy phép
kinh doanh, giấy phép thành lập doanh nghiệp chi cho việc thuê luật sư tư
vấn trong lĩnh vực thành lập doanh nghiệp nếu như chủ đầu tư chưa am hiểu
về các bước để thành lập một doanh nghiệp… Các khoản chi phí phải trả cho
quá trình đi lại, xin chứng nhận chờ quyết định của cơ quan có thẩm quyền,
chi phí cơ hội trong thời gian chờ đợi, chi phí tuyển nhân sự đầu tiên khi

doanh nghiệp chưa đi vào hoạt động, chi phí phải bỏ ra để tổ chức các cuộc
họp, đàm phán để đi đến quyết định thành lập doanh nghiệp.
- Đầu tư vào cơ sở hạ tầng là đầu tư xây dựng nhà xưởng, kho bãi, giao
thông, các công trình cung cấp điện, nước phục vụ cho các hoạt động sản
xuất của doanh nghiệp. Cơ sở hạ tầng là điều kiện thiết yếu đầu tiên cho việc
xây dựng một doanh nghiệp và là điều kiện cần để doanh nghiệp có thể đi
vào hoạt động. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng thường có lượng vốn lớn, thời gian
thu hồi vốn lâu dài. Sản phẩm được làm ra được sử dụng trong một thời gian
dài, tham gia vào nhiều chu kì kinh doanh của doanh nghiệp nên có tác động
lớn tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Đầu tư vào máy móc thiết bị: là đầu tư vào việc lựa chọn mua sắm các
loại máy móc thiết bị phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Máy móc thiết bị được coi là xương sống của một doanh nghiệp nên
việc đầu tư vào nó phải được chọn lựa kĩ càng. Nguồn vốn đầu tư vào máy
móc thiết bị chiếm một tỉ trọng khá lớn trong tổng vốn đầu tư của doanh
nghiệp.
- Đầu tư vào thương hiệu là đầu tư uy tín, sự biết đến rộng rãi về doanh
nghiệp ở trong nước cũng như trên thị trường quốc tế. Để tạo dựng một
thương hiệu mạnh là kết quả cuối cùng của mọi nỗ lực về đầu tư vào các
khoản chi phí, đầu tư vào nhãn hiệu, đầu tư vào công nghệ kĩ thuật, vào kiểu
dáng công nghiêp. Tất cả những cái đó kết hợp lại thành một thương hiệu
mạnh có sức cạnh tranh lớn trên thị trường.
- Đầu tư vào nghiên cứu sáng chế, phát minh, các giải pháp hữu hiệu. Để
tạo ra được một giải pháp kĩ thuật mới so với trình độ kĩ thuật trên thế giới
mang tính sáng tạo, có khả năng áp dụng vào sản xuất kinh doanh thì doanh
nghiệp cần phải bỏ vốn ra để thuê các nhà nghiên cứu khoa học tìm ra một
cách có hiệu quả nhất trong quá trình tạo ra sản phẩm, doanh nghiệp cũng có
thể mua bằng sáng chế phát minh… Lượng vốn phải bỏ ra cho cho loại tài
sản vô hình này là tương đối lớn và ngày càng quan trọng trong doanh
nghiệp bởi nó quyết định nhiều đến quá trình sản xuất, năng suất lao động

cũng như chất lượng sản phẩm và từ đó quyết định đến giá bán của sản
phẩm. Một phát minh sáng chế mới thì làm tăng năng suất lao động, sản
phẩm có tính mới trên thị trường, thu hút được nhiều khách hàng, “hớt phần
ngọn của thị trường” thu được lợi nhuận cao và tiếp tục đẩy mạnh sản xuất
kinh doanh.
- Đầu tư vào khoa học công nghệ là đầu tư nghiên cứu công nghệ mới
hoặc đầu tư mua sắm công nghệ từ nước ngoài. Trong sản xuất kinh doanh bí
quyết công nghệ luôn luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu, vì vậy cần phải
đầu tư vào công nghệ để tìm ra những công nghệ phù hợp với điều kiện sản
xuất của doanh nghiệp. Muốn vậy doanh nghiệp cần phải bỏ ra một lượng
vốn tương đối lớn để đầu tư nhằm tiếp cận, cập nhật những thông tin về thị
trường công nghệ. Thêm vào đó cũng cần phải đầu tư vốn để tiếp cận được
với những dịch vụ tư vấn có tính chất hỗ trợ trong việc xác định công nghệ
thích hợp và hiệu quả giúp họ cải tiến sản xuất và nâng cao sức cạnh tranh.
Như vậy, công nghệ mới cho doanh nghiệp là điều hết sức cần thiết giúp họ
có chỗ đứng vững chắc trên thị trường và nâng cao khả năng cạnh tranh với
các đối thủ khác.
- Đầu tư vào nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực là một yếu tố quan trọng
cần được đầu tư thường xuyên cả về số lượng và chất lượng. Doanh nghiệp
không chỉ đầu tư vốn để trả cho việc tuyển dụng công nhân viên mà còn phải
đầu tư chi phí để đào tạo nâng cao tay nghê, trình độ quản lý. Nguồn nhân
lực có vai trò rất quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, mọi hoạt
động của doanh nghiệp đều có sự đóng góp, điều hành của các nhân viên,
người quản lý.
2.1.4. phân loại đầu tư phát triển trong doanh nghiệp.
Căn cứ vào hình thái vật chất của từng loại tài sản, trạng thái luân chuyển
của các loại tài sản, tính chất của hoạt đầu tư trong doanh nghiệp chúng ta có
thể phân loại đầu tư phát triển doanh nghiệp như sau: Đầu tư vào tài sản hữu
hình và đầu tư vào tài sản vô hình, đầu tư vào tài sản cố định và đầu tư vào
tài sản lưu động, đầu tư phát triển theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.

Chúng ta xem xét hoạt động đầu tư phát triển trong doanh nghiệp theo hình
thái vật chất của tài sản:
- Đầu tư vào tài sản hữu hình: là hoạt động đầu tư vào các loại tài sản có
hình thái vật chất cụ thể, có thể cân đong đo đêm được như: cơ sở hạ tầng,
máy móc thiết bị, đầu tư vào hàng hóa… Có thể đầu tư xây mới, mua sắm và
lắp đặt thiết bị máy móc hoặc đầu tư sữa chữa, thay thế, nâng cấp cơ sở hạ
tầng, máy móc thiết bị bị hao mòn hay hư hỏng. Chủ yếu đầu tư vào tài sản
cố định hữu hình.
- Đầu tư vào tài sản vô hình: là hoạt động đầu tư vào các loại tài sản
không có hình thái vật chất cụ thể, không có thuộc tính của vật chất nhưng
có giá trị đối với doanh nghiệp như: nhãn mác hàng hóa, khoa học công
nghệ, chất lượng nguồn nhân lưc…
2.2. Đầu tư vào tài sản hữu hình và tác động của nó đối với hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tài sản hữu hình có vai trò rất quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của mỗi doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay khi mà
như cầu thị trường luôn luôn thay đổi vể mẫu mã và chất lương. Mà tài sản
hữu hình là công cụ trực tiếp sản xuất ra sản phẩm của doanh nghiệp nên đòi
hỏi các nhà quản lý phải thường xuyên đầu tư vào nâng cấp, đổi mới tài sản
hữu hình để có thể phục vụ tốt cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
2.2.1. Nội dung đầu tư vào tài sản hữu hình trong doanh nghiệp:
Đầu tư vào tài sản hữu hình là sự hy sinh nguồn lực hiện tại để thu về kết
quả lơn hơn trong tương lai, hoạt động đầu tư bao gồm:
- Đầu tư vào cơ sở hạ tầng (nhà xưởng, văn phòng làm việc và nghỉ ngơi,
hệ thống giao thông…). Đầu tư vào cơ sở hạ tầng thường là những hạng mục
công trình lớn cần nguồn vốn lớn, thời gian thu hồi vốn dài. Cơ sở hạ tầng
được xếp vào danh mục công trình xây dựng và hoàn thành sớm nhất trong
dự án, là nhân tố đi đầu trong quá trình thực hiện dự án. Cơ sở hạ tầng là
hạng mục công trình chiếm lượng vốn lớn trong tổng nguồn vốn, có thời

gian sử dụng lâu dài nên quá trình thi công xây dựng cần được bảo đảm chất
lượng tốt và đáp ứng mọi yêu cầu kĩ thuật.
- Đầu tư vào máy móc thiết bị là một phần quan trọng của hoạt động đầu
tư phát triển trong doanh nghiệp, luôn thu hút sự quan tâm hàng đầu của chủ
đầu tư. Máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất kinh doanh thường được mua
sắm, trao đổi hoặc nghiên cứu chế tạo. Với trình độ khoa học kĩ thuật của
Việt Nam hiện nay thì máy móc thiết bị hầu hết là nhập khẩu từ nước ngoài
hoặc mua lại từ các doanh nghiệp khác. Máy móc thiết bị trực tiếp quyết
định đến chất lượng, mẫu mã của sản phẩm, tức là trực tiếp quyết định đến
sự thành công của dự án đầu tư. Còn đối với các doanh nghiệp vừa mới xây
dựng và còn đang hoạt động. Mọi yếu tố cấu thành doanh nghiệp bao gồm
mặt bằng, nhà xưởng, vật kiến trúc, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, hệ
thống xử lý chất thải… cần được bảo dưỡng và sửa chữa. Doanh nghiệp cần
xác định chính xác số lượng lao động và thời gian ngừng sản xuất để sửa
chữa theo từng đối tượng sửa chữa. Các phương pháp là phương pháp thông
kê kinh nghiệm hoặc định mức thời gian sửa chữa chia thành 2 loại: công
việc nguội và công việc máy.
Các công việc nguội phải thực hiện trực tiếp tại đối tượng cần sửa chữa
như tháo lắp, gia công nguội… nên cần có điều kiện là đối tượng sửa chữa
ngừng hoạt động công việc máy không thao tác tại đối tượng sửa chữa được
xác định trên cơ sở thời gian cần thiết để thực hiện nguội, mức huy động lực
lượng lao động sửa chữa hiện có và thời gian làm việc của bộ phận sửa chữa.
Có thể xác định thời gian ngừng hoạt động để sửa chữa cho mỗi đối tượng
theo công thức:
N‘ngừng’ =T‘nguội’ /(Cn*Ca*Gi*Hđm)
Trong đó :
N‘ngừng’: số ngày đối tượng ngừng hoạt động để sửa chữa
T‘nguội’: thời gian cần thiết để hoàn thành công việc nguội
L‘nguội’: số lao động cùng làm việc trong ca
Ca: số ca làm việc trong ngày

Gi: số giờ làm việc trong ca
Hđm : hệ số hoàn thành định mức thời gian
Máy móc thiết bị được coi như là xương sống của một dự án đầu tư phát
triển của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, lượng vốn bỏ ra để mua
máy móc thiết bị rất lớn và chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng vốn đầu tư của
dự án. Mặt khác việc mua sắm máy móc thiết bị có rất nhiều vấn đề liên
quan. Ví dụ như vấn đề đào tạo cán bộ kĩ thuật, sử dụng máy móc thành
thạo, đồng thời phải có những cán bộ kĩ thuật xử lý kịp thời khi có sự cố xảy
ra… Vì vậy quá trình đầu tư mua sắm máy móc thiết bị không chỉ là việc
mua sắm máy móc, trang thiết bị mà còn là hoạt động đầu tư vào nguồn nhân
lực, đào tạo công nhân để sử dụng và vận hành tốt đạt hiệu quả cao trong quá
trình tạo ra sản phẩm.
- Đầu tư vào phương tiện vận tải là việc đầu tư vào thuê, mua sắm các
phương tiện vận tải phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Đối với những hoạt động thi công công trình thì phương tiện vận tải
cần sử dụng như: xe chuyên chở nguyên vật liệu, xe chuyên dụng, máy xúc
đất… chủ yếu là đi thuê từ các doanh nghiệp cung cấp. Còn đối với hoạt
động sản xuất kinh doanh như: phân phối sản phẩm từ xưởng sản xuất đến
đại lý, phương tiện chuyên chở cán bộ công nhân viên… thường được chủ
doanh nghiệp mua sắm trang bị. Đầu tư vào phương tiện vận tải thường
chiếm tỷ trọng không lớn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tuy nhiên
chúng ta cũng cần phải mua sắm đúng mức, hợp lý để đem lại hiệu quả kinh
tế cao không gây lãng phí. Đồng thời cần phải có chuyên gia trong lĩnh vực
thẩm định, kiểm tra về mặt chất lượng cũng như vấn đề về giá để đề phòng
thất thoát nguồn vốn của chủ đầu tư.
- Đầu tư vào phương tiện truyền dẫn là hoạt động đầu tư vào các hệ thống
mạng tải điện, thông tin liên lạc phục vụ cho sản xuất. Hệ thống mạng điện
phục vụ cho sản xuất kinh doanh bao gồm hệ thống đường dây dẫn điện,
biến thế, các hệ thống dẫn truyền, đóng ngắt điện, công tơ điện, máy phát
điện và các bộ phận khác có liên quan. Hệ thống thông tin liên lạc là các

dụng cụ bưu chính viễn thông, mạng internet giúp cho việc liên lạc của
doanh nghiệp trong công tác kinh doanh và thu thập thông tin thị trường.
Bao gồm dây dẫn, các máy điện thoại cố định và di động, mạng internet,
máy vi tính… các công cụ hỗ trợ thông tin liên lạc cho doanh nghiệp môi
trường bên ngoài. Ngoài ra phương tiện truyền dẫn bao gồm hệ thống dẫn
nước và xử lý chất thải cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Hoạt động đầu tư vào phương tiện truyền dẫn bao gồm nhiều hoạt động mua
sắm các hạng mục, lắp đặt và sử dụng khác nhau.
Doanh nghiệp còn đầu tư vào các loại tài sản hữu hình khác ngoài các
loại kể trên. Ví dụ như: đầu tư giải quyết hàng hóa tồn kho, đầu tư vào thiết
bị phục vụ văn phòng như bàn ghế… Những hoạt động đầu tư này thường có
quy mô nhỏ, lượng vốn đầu tư chiếm một tỉ lệ nhỏ trong tổng vốn đầu tư.
Hầu hết các hoạt động này nằm trong danh mục mua sắm hàng hóa.
2.2.2. Tác động của việc đầu tư vào tài sản hữu hình đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc đầu tư vào tài sản hữu hình có tác động rất lớn đến hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Tài sản hữu hình là các công cụ được sử dụng trực
tiếp trong việc sản xuất hàng hóa dịch vụ của doanh nghiệp. Tài sản hữu
hình quyết định đến chất lượng hàng hóa, mẫu mã sản phẩm, tức là quyết
định đến sản lượng, lợi nhuân và sự thành công của doanh nghiệp trong việc
sản xuất kinh doanh. Vì vậy việc đầu tư vào tài sản hữu hình sẽ trực tiếp
quyết định đến hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Đầu tư vào máy móc thiết bị, cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định trong
việc nâng cao chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ của doanh
nghiệp. Nhà xưởng và máy móc thiết bị có thể đáp ứng cho việc sản xuất ra
hàng hóa có chất tốt, mẫu mã đẹp đáp ứng được yêu cầu của thị trương. Đầu
tư máy móc thiết bị tạo điều kiện để hạ giá thành, tăng lợi nhuận và nâng cao
đời sống của thành viên trong đơn vị.
Đầu tư giúp doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ khoa học
kĩ thuât, năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Đầu tư vào tài sản hữu hình

giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh, tạo lập một vị trí vững
chắc trên thị trường. Ví dụ như việc đầu tư vào phương tiện truyền dẫn,
phương tiện thông tin… giúp cho viêc sản xuất thuận lợi hơn. Việc đầu tư
vào phương tiện thông tin tạo điều kiện cho doanh nghiệp nắm bắt được
thông tin của thị trường, phản ứng nhanh nhạy với những biến đổi về nhu
cầu, thị hiếu của người tiêu dùng.
2.3. Nội dung đầu tư vào tài sản vô hình và tác động của nó đối với
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Hiện nay với nền kinh tế thị trường với đặc trưng tự do hoá cạnh tranh,
xu thế thương mại tự do, xu thế toàn cầu hoá… thì mỗi doanh nghiệp phải
chú trọng vào việc tự hoàn thiện mình để tồn tại và có vị trí vững chắc trên
thị trường. Một vấn đề đặt ra hiện nay là: liệu các doanh nghiệp đã thực sự
nhận ra được tầm quan trọng, sự đóng góp của các tài sản vô hình vào sự
thành công của doanh nghiệp và đầu tư đúng mức vào tài sản vô hình.
2.3.1. Nội dung:
Trên thực tế ta thấy rằng tài sản vô hình của doanh nghiệp rất phong phú
và đa dạng, chúng ta khó có thể nhận biết và đánh giá đươc. Việc đầu tư vào
tài sản vô hình của doanh nghiệp cũng khó đánh giá chính xác được:
- Đầu tư vào chi phí thành lập của doanh nghiệp. Chi phí thành lập doanh
nghiệp được coi là một loại tài sản vô hình cần được đầu tư ngay từ giai
đoạn đầu và được tính vào giá thành sản phẩm sau này. Đầu tư vào chi phí
thành lập doanh nghiệp là khoản tiền phải chi cho các chứng từ, giấy phép
kinh doanh, giấy phép thành lập doanh nghiệp, chi phí cho việc thuê luật sư
tư vấn trong lĩnh vực thành lập doanh nghiệp, các khoản chi phí cho quá
trình đi lại, chi phí cơ hội trong thời gian chờ đợi… Tất cả những khoản chi
đó được tính vào tồng vốn đầu tư, vào chi phí thành lập doanh nghiệp(là tài
sản vô hình của dự án sản xuất kinh doanh).
- Đầu tư vào nghiên cứu sáng chế, phát minh, giải pháp hữu ích là hoạt
động đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu, sáng chế ra các giải pháp kĩ thuật
mới phục vụ cho hoạt động của doanh nghiệp. Để có một giải pháp kĩ thuật

mới so với trình độ kĩ thuật trên thế giới mang tính sáng tạo, có khả năng áp
dụng vào sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp cần phải bỏ vốn ra để thuê
các nhà nghiên cứu khoa học tìm ra một cách có hiệu quả nhất trong quá
trình tạo ra sản phẩm, doanh nghiệp cũng có thể mua bằng sáng chế phát
minh… Lượng vốn phải bỏ ra cho cho loại tài sản vô hình này là tương đối
lớn và nó ngày càng quan trọng trong doanh nghiệp bởi vì: nó quyết định
nhiều đến quá trình sản xuất, năng suất lao động, công suất làm việc cũng
như chất lượng sản phẩm và từ đó quyết định đến giá bán của sản phẩm. Nếu
có được một phát minh sáng chế mới thì nó sẽ mang lại một khoản lợi nhuận
cho doanh nghiệp vì giảm được năng suất lao động, sản phẩm có tính mới
trên thị trường, thu hút được nhiều khách hàng có tiềm năng,thu được lợi
nhuận cao và tiếp tục đẩy mạnh sản xuất kinh doanh.
- Đầu tư vào nhãn hiệu thương mại, phát triển thương hiệu. Việc tạo lập,
duy trì và phát triển tên một nhãn hiệu trên thị trường là việc không đơn
giản, để thành công nó cần phải có một quá trình liên tục mà chủ đầu tư hoặc
doanh nghiệp cần phải biết đến để tiến hành đầu tư sao cho có hiệu quả nhất.
Chúng ta cần phải đầu tư cho nghiên cứu thị trường, cần bỏ chi phí ra tìm
hiểu xu hướng phát triển của ngành, nhu cầu hành vi khách hàng, cần tìm
hiểu thị hiếu và nhu cầu của khách hàng, đồng thời xem xét vị trí và nhãn
hiệu của đối thủ cạnh tranh. Việc ra đời một nhãn hiệu có uy tín trên thị
trường không phải là đơn giản. Nhưng khi doanh nghiệp đã tạo ra cho mình
một nhãn hiệu vững mạnh thì việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp đó dễ
dàng hơn, có khả năng thu hút những khách hàng mới, duy trì khách hàng
trung thành, mở rộng thị trường trong nước và quốc tế. Do đó hoạt động đầu
tư nhãn hiệu luôn luôn cần thiết trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
- Đầu tư vào đổi mới khoa học công nghệ. Đầu tư vào khoa học công
nghệ cho doanh nghiệp có thể là đầu tư nghiên cứu công nghệ mới hoặc đầu
tư mua sắm công nghệ từ nước ngoài. Trong sản xuất kinh doanh bí quyết
công nghệ luôn luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu, vì vậy cần phải đầu tư

vào công nghệ để tìm ra những công nghệ phù hợp với điều kiện sản xuất
của doanh nghiệp. Muốn vậy doanh nghiệp cần phải bỏ ra một lượng vốn
tương đối lớn để đầu tư nhằm tiếp cận, cập nhật những thông tin về thị
trường công nghệ. Công nghệ mới cho doanh nghiệp là điều hết sức cần thiết
giúp họ có chỗ đứng vững chắc trên thị trường và nâng cao khả năng cạnh
tranh với các đối thủ khác.
- Đầu tư vào nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực cần
phải được đầu tư thường xuyên cả về số lượng vật chất lượng. Doanh nghiệp
không chỉ đầu tư vốn để trả cho việc tuyển dụng công nhân viên mà còn phải
đầu tư chi phí để đào tạo nâng cao tay nghê, trình độ quản lý cho cán bộ
công nhân viên trong các lĩnh vực mà họ đảm nhiệm. Một doanh nghiệp có
nguồn nhân lực ổn định và chất lượng thì họ sẽ tận dụng được hết công suất
sản xuất của máy móc thiết bị khai thác hết mọi nguồn lực bên trong và bên
ngoài doanh nghiệp. Giúp họ có một doanh thu tương đối lớn, ngày càng
vững mạnh và phát triển là cơ sở để mở rộng quy mô sản xuất của doanh
nghiệp.
- Đầu tư vào phát triển thương hiệu là hoạt động đầu tư vào uy tín, là sự
biết đến rộng rãi về doanh nghiệp, sự tin tưởng vào sản phẩm của doanh
nghiệp ở trong nước cũng như trên thị trường quốc tế. Để tạo dựng một
thương hiệu mạnh là kết quả cuối cùng của mọi nỗ lực về đầu tư vào các
khoản chi phí, đầu tư vào nhãn hiệu, đầu tư vào công nghệ kĩ thuật, vào kiểu
dáng công nghiêp. Tất kết hợp lại thành một thương hiệu mạnh có sức cạnh
tranh lớn trên thị trường.
Ngoài những tài sản vô hình được nhắc đến ở trên thì doanh nghiệp còn
đầu tư vào một số loại tài sản vô hình khác phục vụ cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp được tốt hơn. Giúp cho doanh nghiệp tồn tại
và phát triển.
2.3.2. Tác động
Đầu tư vào tài sản vô hình là đóng vai trò quan trọng trong sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp. Tài sản vô hình là những tài sản chiếm giá trị

khá lớn trong tổng tài sản của doanh nghiệp. Giá trị vô hình của các doanh
nghiệp là một đại lượng có thật, có thể tính toán được và trong nhiều trường
hợp nó có giá trị rất lớn, thậm chí lớn hơn rất nhiều giá trị hữu hình của
doanh nghiệp. Theo số liệu của liên đoàn quốc tế các nhà kế toán(IFAC),
năm 1998 khoảng 50% - 90% giá trị do một công ty tạo ra là nhỏ vào việc
quản trị các tài sản vô hình. Sự chênh lệch này sẽ tiếp tục tăng lên khi nền
kinh tế tri thức ngày. Ví dụ nhãn hiệu là một công cụ tuyệt vời để chiếm lĩnh
các thị trường như vào sự phát triển của các phương tiện quảng cáo, đó là
một công cụ duy nhất cho phép sản phẩm này với sản phẩm khác cùng loại.
Hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa dịch vụ của một doanh nghiệp
có thành công hay không được đánh giá qua việc người tiêu dùng sử dụng và
yêu thích hàng hóa dịch vụ đó như thế nào. Và hoạt động sản xuất kinh
doanh có đem lại lợi ích cho nhà kinh doanh hay không. Để có thể đáp ứng
được yêu cầu của khách hàng thì doanh nghiêp phải đáp ứng được rất nhiều
yêu cầu của khách hàng. Những yêu cầu đó không chỉ là chất lượng hàng
hóa, mẫu mã mà còn là uy tín của nhãn hiệu, thương hiệu trên thị trường…
Bởi vậy tài sản vô hình có tầm quan trọng rất lớn đối với doanh nghiệp nên
việc đầu tư vào tài sản vô hình cũng có một vị trí rất quan trọng trong đầu tư
phát triển trong doanh nghiệp. Việc làm tốt công tác đầu tư đối với tài sản vô
hình trong doanh nghiệp sẽ giúp cho doanh nghiệp hoạt động tốt, góp phần
lớn làm nên thành công của tổng dự án.
3. Mối quan hệ giữa đầu tư vào tài sản hữu hình và đầu tư vào tài sản
vô hình trong doanh nghiệp.
Đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình là hai nội dung trong vấn
đề đầu tư trong doanh nghiệp. Ta thấy rằng hoạt động đầu tư vào tài sản hữu
hình và tài sản vô hình có tầm quan trọng rất lớn vào hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Mỗi hoạt động đều có đóng góp lớn vào sự thành
công của doanh nghiêp. Tuy rằng hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình và
tài sản vô hình đóng góp trên nhiều mặt khác nhau của hoạt động trong
doanh nghiêp nhưng nhìn chung, hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình và

tài sản vô hình trong doanh nghiệp có mối liên hệ mật thiết với nhau. Nếu
doanh nghiệp xác định được một cơ cấu đầu tư hợp lý, hướng đầu tư đúng
đắn thì 2 bộ phận đầu tư này sẽ có tác dụng hỗ trợ, thúc đẩy lẫn nhau, nâng
cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động đầu tư
nói riêng trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, đối với từng ngành, từng lĩnh vực,
vai trò của từng hoạt động đầu tư đối với các hoạt động đầu tư khác cũng
như tác động của đầu tư đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp là
rất khác nhau. Điều đó đặt ra nhiều khó khăn đối với các doanh nghiệp trong
việc xác định một cơ cấu đầu tư hợp lý. Interband đã thực hiện một nghiên
cứu và đưa ra được mức độ của giá trị tài sản vô hình và giá trị nhãn hiệu đối
với từng hàng hoá và dịch vụ khác nhau. Lĩnh vực mà tài sản vô hình cũng
như hoạt động đầu tư vào tài sản vô hình đóng vai trò rất lớn đến giá trị công
ty là các sản phẩm cao cấp, thức ăn và nước uống, ô tô… Với những loại sản
phẩm này thì yếu tố tiên quyết để giúp doanh nghiệp thành công là phải xây
dựng được một thương hiệu mạnh. Ngược lại một số sản phẩm như các loại
mặt hàng thiết yếu thì doanh nghiệp nên đầu tư vào máy móc thiết bị và kênh
phân phối để có sản phẩm giá thành thấp và được phân phối rộng.
Đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình là hai mặt không thể thiếu
trong hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp. Hai mặt này liên hệ chặt chẽ với
nhau và tác động qua lại lẫn nhau. Đầu tư vào tài sản hữu hình là tiền đề và
thúc đẩy việc đầu tư vào tài sản vô hình. Ngược lại tài sản đầu tư vào tài sản
vô hình lại tác động trở lại vào tài sản hữu hình, thúc đẩy hoặc kìm hãm việc
đầu tư vào tài sản hữu hình.
3.1. Đầu tư vào tài sản hữu hình là tiền đề cho việc đầu tư vào tài sản
vô hình và thúc đẩy việc đầu tư vào tài sản vô hình.
Một doanh nghiệp muốn tồn tại thì việc đầu tiên là phai có một nguồn
vốn tự có đề có thể đầu tư mua sắm trang thiết bi, lượng vốn đầu tư này lớn
hay bé phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp
muốn hoạt động thì phải có các công cụ, thiết bị, máy móc và cơ sở hạ tầng
để làm nền tảng cho hoạt động của doanh nghiệp. Sau khi đã có các tài sản

hữu hình thì doanh nghiệp bắt đầu hình thành và tiếp tục đầu tư vào tài sản
vô hình. Các loại tài sản vô hình được đầu từ thường là dựa trên cơ sở có
trước của tài sản hữu hình đề tạo ra giá trị vô hình cho doanh nghiệp, phục
vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Đầu tư vào tài sản hữu hình thường là đi trước và là cơ sở tiền đề để đầu
tư vào tài sản vô hình. Khi một doanh nghiệp đã bỏ vốn để đầu tư vào tài sản
hữu hình: nhà xưởng, các văn phòng làm việc, trung tâm điều hành, các khu
chế xuất, phòng thí nghiệm, mua sắm và trang bị các loại máy móc thiết bị,
phương tiện vận tải, phương tiện truyền dẫn… thì nó làm cho các nghiên cứu
phát triển, tạo ra tiềm lực để đầu tư vào tài sản vô hình: phát minh sáng chế,
kĩ thuật công nghệ mới, nghiên cứu phát triển kiểu dáng công nghiệp nhãn
hiệu hàng hoá và phát triển nguồn nhân lực. Ví dụ như: Một doanh nghiệp
muốn xây dưng một thương hiệu cho riêng mình thì họ phải bắt đầu từ
những sản phẩm họ sản xuất ra. Doanh nghiệp phải tạo ra những sản phẩm
tốt, mẫu mã đẹp phù hợp với thị hiếu người tiêu dung. Dựa trên cơ sở đó
doanh nghiệp mới đầu tư vào quảng cáo, quảng bá sản phẩm của mình để
xây dựng một thương hiệu trên thị trường. Việc xây dựng được một thương
hiệu tốt, có uy tín đòi hỏi doanh nghiệp phải qua một thời gian dài để tạo
dựng uy tín trên thị trường, có nguồn vốn đầu tư lớn để phục vụ cho các hoạt
động xây dựng thương hiệu.
Tác động của đầu tư vào tài sản hữu hình phần lớn là tác động tích cực
tạo đà cho đầu tư vào tài sản vô hình, nhưng nếu đầu tư vào tài sản vô hình
không đúng chỗ không phù hợp cả về quy mô và chất lượng thì tạo thành
một gánh nặng, khó khăn cho công tác đầu tư vào tài sản vô hình sau này.
Tuy nhiên tác động tích cực của đầu tư vào tài sản hữu hình đối với đầu tư
vào tài sản vô hình là điều tất nhiên và được chấp nhận như là một lối mòn
định hướng phát triển chung cho tất cả các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ, đặc
biệt là đối với các doanh nghiệp vừa thành lập thì cần phải bám chắc vào vấn
đề này để phát huy được hiệu quả tối ưu.
3.2. Đầu tư vào tài sản vô hình tác động trở lại đối với đầu tư vào tài

sản hữu hình.
Khi doanh nghiệp đã được hình thành, có đầy đủ các điều kiện để đi vào
hoạt động sản xuất kinh doanh thì việc đầu tư vào tài sản vô hình là rất quan
trọng, nó đóng góp phần lớn vào sự phát triển của doanh nghiệp. Việc đầu tư
vào tài sản vô hình sẽ giúp doanh nghiệp xấy dựng thương hiệu, mở rộng thị
trường và tìm kiếm các thị trường mới từ đó thúc đẩy doanh nghiệp phát
triển và mở rộng quy mô. Khi doanh nghiệp đã xây dựng một hay tất cả
những điều trên sẽ làm cho nhu cầu về hàng hóa tiêu thụ của doanh nghiệp
trên thị trường tăng lên, chất lượng hàng hóa cũng yêu cầu cao hơn. Nó thúc
đẩy doanh nghiệp phải đầu tư vào việc sữa chữa, nâng cấp máy móc thiết bị,
mở rộng quy mô sản xuất để có thể đáp ứng nhu cầu thị trường.
Ta đã thấy việc đầu tư vào tài sản vô hình đã tác động ngược trở lại hoạt
động đầu tư vào tài sản hữu hình. Khi đầu tư vào tài sản vô hình đã tạo ra giá
trị lớn cho doanh nghiệp, phát huy nguồn tác dụng nguồn vốn đầu tư, thì sẽ
tác động trở lại đối với đầu tư vào tài sản hữu hình. Nó tạo điều kiện thuận
lợi cho doanh nghiệp tiếp tục mở rộng quy mô, tiếp tục có vốn để đầu tư mua
sắm thiết bị máy móc mới hiện đại hơn, xây dựng mới nhà xưởng, văn phòng
làm việc… Chẳng hạn nếu đầu tư vào công nghệ mới sẽ tạo ra năng suất lao
động cao hơn, giảm giá thành, tăng chất lượng sản phẩm, từ đó tăng sức
cạnh tranh trên thị trường, giúp cho doanh nghiệp ngày một tăng trưởng và
phát triển, tăng thêm nguồn vốn để đầu tư vào tài sản hữu hình. Hoặc khi
một doanh nghiệp tạo dựng được một thương hiệu mạnh thì sẽ mang về một
doanh thu lớn từ việc cho thuê thương hiệu hoặc doanh thu bán hàng do uy
tín của thương hiệu mang lại và đồng vốn đó lại tiếp tục đầu tư sữa chữa,
nâng cấp, đổi mới các thiết bị máy móc sản xuất và mở rộng thêm quy mô
sản xuất.
Ngày nay, xu thế chủ yếu là đầu tư vào tài sản vô hình và không ít doanh
nghiệp có tỉ trọng giá trị tài sản vô hình cao hơn gấp nhiều lần so với tài sản
hữu hình như Microsoft, Uniliver… Nói cho cùng đầu tư vào tài sản hữu
hình cũng chỉ nhằm mục đích tạo ra một giá trị vô hình ngày càng lớn. Tài

sản vô hình ngày nay được công nhận và nó được tính toán thành giá trị cụ
thể, có thể được mua bán trao đổi trên thị trường. Tác động của đầu tư vào
đầu tư vào tài sản vô hình đối với đầu tư vào tài sản hữu hình hầu hết là tác
động tích cực bởi vì một sự đầu tư đúng đắn vào tài sản vô hình sẽ tác động
làm gia tăng tài sản hữu hình. Nhưng ngược lại một sự đầu tư không hợp lý
vào tài sản vô hình sẽ dẫn đến lãng phí nguồn lực và ảnh hưởng tiêu cực đến
hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình.
3.3. Tác động của sự phối hợp giữa hoạt động đầu tư vào tài sản vô
hình và tài sản hữu hình đối với sự phát triển của doanh nghiệp.
Ta thấy rằng các hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp(đầu tư vào tài sản
hữu hình và đầu tư vào tài sản vô hình) sẽ góp phần duy trì sự tồn tại và phát
triển trong doanh nghiệp, tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nếu xét trên
từng góc độ thì các hoạt động đầu tư cũng có tác động đến sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp. Nhưng nếu các hoạt động này tiến hành riêng lẻ thì
hiệu quả của việc đầu tư chỉ dừng lại ở một mức độ nhất định, không phát
huy hết khả năng của nguồn vốn bỏ ra. Các hoạt động đầu tư vào tài sản hữu
hình và đầu tư vào tài sản vô hình phải được phối hợp một cách nhịp nhàng
đồng bộ thì điều đó sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, phát huy các nguồn lực bỏ ra. Khi đầu tư trên
cả hai mặt tài sản vô hình và tài sản hữu hình một cách hợp lý, nhịp nhàng,
đồng bộ thì việc đầu tư vào tài sản hữu hình và đầu tư vào tài sản vô hình sẽ
hỗ trợ, phối hợp với nhau phát huy hết hiệu quả của nguồn vốn bỏ ra, mang
lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp.
Chẳng hạn, khi doanh nghiệp muốn định vị một sản phẩm cao cấp trên thị
trường thì phải tập trung vào mua sắm máy móc thiết bị phù hợp đồng thời
phải tìm hiểu bí quyết công nghệ, đào tạo cán bộ khoa học nghiên cứu trong
lĩnh vực này, phải xác định được khách hàng mục tiêu trên thị trường, tức là
phải đầu tư vào nguồn nhân lực để tìm hiểu, nghiên cứu thị trường. Đồng
thời doanh nghiệp cần có các chiến lược Marketing như: đóng gói bao bì,
quảng cáo, khuyến mại, và xúc tiến bán cho phù hợp với nhãn hiệu đang

được định vị, tức là chúng ta phải đầu tư đồng bộ vào cả tài sản cố định hữu
hình và tài sản vô hình một cách hợp lý. Nếu không thực hiện được đồng bộ
những công việc nói trên, thì sản phẩm của doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều
khó khăn trong việc chiếm lĩnh thị trường. Chẳng hạn, nhãn hiệu bia Laser
được định vị là một sản phẩm cao cấp, được khách hàng chấp nhận là một
sản phẩm có chất lượng cao vì công ty đã đầu tư rất nhiều vào hoạt động
quảng cáo, công nghệ, kĩ thuật sản xuất… Nhưng do sự đầu tư hợp lý đồng
bộ vào kênh phân phối nên nhãn hiệu này đã thất bại trong quá trình xâm
nhập thị trường.
Mặt khác, nếu doanh nghiệp chỉ quan tâm đến các vấn đề đầu tư vào tài
sản vô hình như: nhãn hiệu hàng hoá, thương hiệu… mà không chú ý một
cách đúng mức đến tài sản hữu hình thì cũng khó có thể thành công trong
việc sản xuất kinh doanh. Một doanh nghiệp không thể thu được lợi nhuận
cao nếu không có hệ thống máy móc, trang thiết bị hiện đại với quy mô sản
xuất và chi phí hợp lý. Chẳng hạn như hãng café Trung Nguyên, một thương
hiệu nổi tiếng trên thị trường trong nước và quốc tế nhưng trong những năm
gần đây, do Trung Nguyên quá chú trọng vào việc mở rộng thương hiệu
thông qua hình thức nhượng quyền thương hiệu mà không chú ý đến việc
đầu tư vào chất lượng sản phẩm. Việc mở rộng thương hiệu một cách tràn
lan không đi kèm với việc đầu tư vào tài sản hữu hình, nâng cao chất lượng
sản phẩm sản xuất đã đặt ra nhiều khó khăn đối với Trung Nguyên trong thời
gian sắp tới.
Ngược lại, khi doanh nghiệp muốn định vị một sản phẩm thông thường
thì cũng phải có sự đầu tư thích hợp giữa tài sản vô hình và tài sản hữu hình.
Một sản phẩm bình dân thì không nên quá chú trọng đến việc đầu tư vào
công nghệ và thương hiệu. Trong trường hợp này doanh nghiệp nên đầu tư
nhiều vào nhà xưởng, máy móc thiết bị thể thu được lợi thế theo quy mô.
Sự đầu tư vào tài sản vô hình và đầu tư vào tài sản hữu hình một cách hợp
lý, đồng bộ là điều tối quan trọng trong doanh nghiệp sản xuất kinh doanh,
nó quyết định đến sức sản xuất, sức tiêu thụ và sự trưởng thành của doanh

nghiệp. Tùy vào từng điều kiện cụ thế, tùy vào cách thức xác định sản phẩm
trên thị trường mà doanh nghiệp xác đinh chiến lược đầu tư phù hợp giữa tài
sản hữu hình và tài sản vô hình trong doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng của hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình và tài
sản vô hình trong các doanh nghiệp Việt Nam
1. Sự chuyển đổi nhận thức về tài sản hữu hình và tài sản vô hình
trong doanh nghiệp.
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay là nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chũ nghĩa, là một nền kinh tế thị trường còn non trẻ với chưa đầy 30
năm xây dựng và phát triển. Trước đây nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế
tập trung bao cấp, mọi hoạt động sản xuất đều được chỉ thị từ trên, hàng hóa
được phân phối theo mục tiêu đặt ra chứ không tuân theo quy luật thị trường.
Vì là nền kinh tế hoạt động theo các ý muốn chủ quan của con người, hàng
hóa được sản xuất và phân phối cũng theo chỉ tiêu mà ko theo nhu cầu thị
trường làm cho việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực một cách không hiệu
quả. Mặt khác nữa là một nền kinh tế tự cung tự cấp nên không có sự giao
thương với bên ngoài làm cho nền kinh tế ngày càng lạc hậu, yếu kém. Các
doanh nghiệp sản xuất trong nền kinh tế đều là doanh nghiệp nhà nước, hoạt
động sản xuất theo sản lượng đã định trước, hàng hóa phân phối nên thiếu sự
tự do canh tranh. Do thiếu sự cạnh tranh dẫn đến chất lượng, mẫu mã hàng
hóa thấp, không đa dạng phong phú. Các doanh nghiệp không chú trọng đầu
tư để nâng cao chất lượng sản phẩm và mẫu mã hàng hóa, đặc biệt là đầu tư
thương hiệu, nhãn hiệu và uy tín của doanh nghiệp.
Từ cuối những năm cuối thập kỉ 80, đầu thập kỉ 90 Việt Nam bắt đầu
chuyền nền kinh tế từ tâp trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường. Từ đó đến nay nước ta đã có những tiến bộ vượt bậc, nền kinh tế
tăng trưởng cao. Do chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường nên có sự canh
tranh khốc liệt trên thị trường, các doanh nghiệp phải chú trọng đổi mới để
có thể tồn tại trên thị trường. Việc đầu tư vào trong doanh nghiệp được các
doanh nghiệp chú trọng hơn, đặc biệt là việc đầu tư vào tài sản vô hình đã

được các doanh nghiệp chú trọng. Vì trong nền kinh tế thị trường hoạt động
dưa trên nhu cầu thị trường nên việc phân phối các nguồn lực hợp lý vào
hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp luôn phải cạnh tranh với nhau để có được vị
trí vững chắc trên thị trường, đặc biêt là nhu cầu của người tiêu dùng đòi hỏi
ngày càng cao về chất lượng và mẫu mã. Để tồn tại và phát triển các doanh
nghiệp phải thường xuyên đầu tư bảo dưỡng, đổi mới máy móc trang thiết bị
để nâng cao chất lượng sản phẩm đồng thời phải đầu tư vào marketing để
quảng bá sản phẩm của mình, đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Các
doanh nghiệp Việt Nam đã có những chuyển đổi lớn trong nhân thức về đầu
tư trong doanh nghiệp, cụ thể hơn là trong việc đầu tư vào tài sản hữu hình
và tài sản vô hình.
C¬ cÊu tµi s¶n doanh nghiÖp
TSLĐ và
ĐT ngắn
hạn
TSCĐ và
ĐT dài
hạn
TSLĐ và
ĐT ngắn
hạn
TSCĐ và
ĐT dài
hạn
TSLĐ và
ĐT ngắn
hạn
TSCĐ và
ĐT dài
hạn

Tổng số 77444 476515 888413 552326 1079053 645505
1. Khu vực
DNNN
+Trung ơng
+Địa phơng
558271
499323
58948
263152
213736
49417
586079
508118
77960
309083
249964
59119
636338
605238
81300
332076
268445
63631
2.Khu vực
ngoài NN
+DN tập
thể
+DN t nhân
+CTyhợp
doanh

+CTyTNH
H t nhân
+CTY CP
có vốn NN
+CT CP ko
có vốnNN
110532
4582
14531
61
51194
21658
18560
51050
4083.
9970
49
24762
7391
4843
164718
5782
19542
53
81467
33542
24333
72663
4295
11928

44
38256
9937
8203
234209
7417
23695
1598
10310
50752
40442
102946
4649
14918
255
53213
12291
17619
+3KV có
Vốn ĐT n-
ớc ngoài
+100% vốn
nớc ngoài
+DN liên
doanh với
nớc ngoài
105642
56432
49210
162313

56094
106219
137617
76689
60927
170579
68320
102259
158306
91845
666460
210483
83981
126502
31/12/01 31/12/02 31/12/03
(Nguồn: niên giám thống kê 2005)
Phn ln cỏc doanh nghip Vit Nam cha nhn thc ỳng giỏ tr thc t
ca ti sn s hu trớ tu. n ng kớ s h trớ tu m c quan qun lớ
nhn c nhón hiu hng hoỏ l 58.12%, vn bng bo h sỏng ch 4.5%,
kiu dỏng cụng nghip 84.3%.
Trong nhng nm gn õy, s hu trớ tu (SHTT) luụn l vn thi s
v c cỏc doanh nghip lm n chõn chớnh quan tõm. SHTT l ti sn vụ
hỡnh nhng cú giỏ tr to ln chớnh vỡ vy, nhiu doanh nghip ó phi b ra
chi phớ rt ln thit lp c thng hiu, h thng bo h nh: bo h
quyn sỏng ch, nhón hiu hng hoỏ, nhón hiu dch v, tờn thng mi, tờn
xut x, ch dn a lý ú chớnh l nhng cam kt quan trng ca doanh
nghip v cht lng sn phm i vi khỏch hng.
Điều dễ nhận thấy là, những sản phẩm có thương hiệu, được bảo hộ
quyền SHTT sẽ có giá thành cao hơn so với các sản phẩm cùng loại mà
không được bảo hộ quyền SHTT. Do đó, nhiều Doanh nghiệp làm ăn nghiêm

túc đã không khỏi lao đao trước nạn hàng giả, hàng nhái còn người tiêu dùng
thì mua phải hàng giả, hàng kém chất lượng mà không biết. Đây cũng là
tiếng chuông cảnh tỉnh cho các doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị
trường thì cần phải xây dựng thương hiệu và đăng ký quyền SHTT cho sản
phẩm. Như vậy, Doanh nghiệp mới tránh được những “rủi ro” không đáng
có trên thương trường.
Tuy nhiên, trong thời gian tới, với làn sóng các Doanh nghiệp nước
ngoài vào Việt Nam sẽ không còn “chỗ đứng” cho những sản phẩm làm giả,
làm nhái và khẳng định tầm quan trọng của SHTT trong nền kinh tế hội
nhập. Song vấn đề này chưa được nhiều Doanh nghiệp Việt Nam thực sự
quan tâm.
Việt Nam đã gia nhập WTO, để hạn chế thấp nhất các rủi ro liên quan
đến các vụ kiện pháp lý về SHTT các Doanh nghiệp phải có chiến lược quan
tâm, đầu tư thoả đáng đến SHTT, từ việc đặt tên Doanh nghiệp, đăng ký kinh
doanh cho đến việc lựa chọn sản phẩm, dịch vụ công nghệ, kiểu dáng, nhãn
hiệu… để tránh lâm vào tình trạng vi phạm pháp luật. Đặc biệt, đối với các
doanh nghiệp có hàng hoá, sản phẩm xuất khẩu cần tìm hiểu kỹ pháp luật
SHTT của thị trường mà Doanh nghiệp xuất khẩu, vừa để bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của bản thân doanh nghiệp vừa không xâm phạm đến quyền SHTT
của Doanh nghiệp khác. Vì thế, trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay đòi hỏi
mỗi doanh nghiệp muốn đứng vững phải xây dựng và quảng bá thương hiệu
của chính mình.
2. Thực trang hoạt đông đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình
trong các doanh nghiêp.
Nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển hơn, hoàn thiện hơn nên sự
canh tranh ngày càng công bằng hơn, yêu cầu năng lực tự có của môi doanh
nghiệp. Bắt đầu từ ngày 11/1/2007, Việt Nam đã là thành viên chính thức
của WTO, các doanh nghiệp Việt Nam đang phải rất quan tâm đến vấn đề
nâng cao sức cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Nên viêc các doanh nghiệp
đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình đươc chú trọng hơn trước.

2.1. Đầu tư vào tài sản hữu hình trong doanh nghiệp.
Việt Nam hiện nay có nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động của doanh
nghiệp yêu cầu sự canh tranh cao và cao rất nhiêu đôi thủ. Vì vậy đòi hỏi các
doanh nghiệp phải đầu tư vào các loại tài sản hữu hình, nâng cao sức canh
tranh của mình, giúp cho doanh nghiệp đứng vững trên thị trường. Việc đầu
tư vào tài sản hữu hình có nhiều loại khác nhau và có vai trò khác nhau đối
với doanh nghiệp nhưng có một mục tiêu chung là giúp doanh nghiệp tồn tại
và phát triển.
2.1.1. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng trong các doanh nghiệp Việt Nam đang còn rất yếu kém,
chưa đáp ứng được yêu cầu của sự tăng trưởng kinh tế của các doanh nghiệp.
Cơ sở hạ tầng phát triển chưa đồng bộ, có những doanh nghiệp ko đủ tài
chính nhưng vẫn xây dựng cơ sở hạ tầng.
Sự yếu kém về cơ sở hạ tầng đã và sẽ hạn chế thu hút đầu tư làm tăng chi
phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy phải đặc biệt coi trọng sự
phát triển cơ sở hạ tầng bằng nhiều nguồn vốn khác nhau: Vốn ngân sách,
vốn ODA, vốn của doanh nghiệp đầu tư theo phương thức BOT, BT, vốn tư
nhân, tiết kiệm. Thực trạng sự hi sinh đất nông nghiệp để xây dựng cơ sở hạ
tầng cho các doanh nghiệp ở việt nam gây ra sự thiếu quy hoạch, không
đồng bộ trong xây dựng cơ sở hạ tầng. Vì vậy, nếu không định hướng ngay
từ bây giờ, có lẽ chúng ta sẽ rơi vào sai lầm ko thể khắc phục được. Hiện nay
thì các doanh nghiệp cũng đã bước đầu đầu tư vào cơ sở hạ tầng để phục vụ
cho sản xuất kinh doanh, tuy rằng còn ít và nhỏ lẻ.
Việc tạo được cơ sở hạ tầng tốt sẽ làm cho việc thu hút đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam. Như ta thấy, vào tháng 3-2008, 7doanh nghiệp Hàn Quốc
hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao và sản xuất sản phẩm phụ kiện điện
tử đã chọn khu công nghiệp đô thị Yên Phong để đầu tư xây dựng nhà máy
sản xuất. Ông Đào Đình Thi, Tổng giám đốc Công ty kinh doanh bất động
sản Viglacera- chủ đầu tư Tổ hợp khu công nghiệp đô thị Yên Phong- cho
biết: “sở dĩ các nhà đầu tư chọn khu công nghiệp này làm địa điểm đặt nhà

máy sản xuất là do khu công nghiệp được đầu tư cơ sở hạ tầng đồng bộ”.
Với diện tích 351.33 ha, được quy hoạch xây dựng theo mô hình khu công
nghiệp hiện đại, lại nằm trong tam giác tăng trưởng: Hà Nội-Hải Phòng-
Quảng Ninh. Có hệ thống giao thông hoàn thiện, hệ thống cấp điện, cấp
thoát nước, thông tin liên lạc, trung tâm kho vận, ngân hàng cho đến những
dịch vụ hỗ trợ đa dạng… tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong
sản xuất kinh doanh. Trung tâm kho vận rộng 3.5ha giành cho hệ thống có
mái che và ngoài trời sẵn sàng đáp ứng nhu cầu kho bãi, hải quan và vận
chuyển hàng hoá. Nước thải công nghiệp và các chất thải rắn được thu gom
và xử lý theo công nghệ hiện đại. Bảy nhà đầu tư sẽ thuê với tổng số vốn
đăng kí gần 1000 tỷ đồng và khi đi vào hoạt động sẽ tạo việc làm cho hơn
2000 lao động đia phương, hàng năm đóng góp cho ngân sách nhà nước 200
tỷ đồng.
Năm 2007, Ban quản lý khu dự án công nghiệp cao Hòa Lạc (Hà Tây) đã
trao chứng nhận đầu tư cho 4 chủ dự án với tổng số vốn đầu tư gần 3000 tỷ
đồng. Theo đó công ty Thuận Phát sẽ đầu tư 1120 tỷ để xây dựng nhà máy
sản xuất bản mạch điện tử và điện thoại di động. Công ty TNHH Silicon
Thái Dương Hằng Việt Nam đầu tư 1442 tỷ đồng xây dựng nhà máy sản
xuất vật liệu mới trong ngành công nghiệp sử dụng mặt trời. Trung tâm công
nghệ cao Viettel đầu tư 281tỷ đồng nâng cấp hệ thống truyền tải viễn thông.
Công ty công nghệ laser đầu tư 128 tỷ đồng xây dựng cơ sở nghiên cứu, phát
triển tạo khu công nghiệp cao Hòa Lạc. Tính đến đầu năm 2008, tổng nguồn
vốn đầu tư xây dựng và đổi mới công nghệ của tập đoàn than khoáng sản
Việt Nam dự kiến 12200 tỷ đồng. Tập đoàn sẽ tập trung vào việc mở rộng
các phân xưởng sản xuất, hiện đại hóa các mỏ than, Thủy điện, May mặc.
Giá đất tại Hà Nội và vùng lân cận rất đắt. Ước tính gần đây cho thấy giá
một mét vuông đất ở Hà Nội hoặc các tỉnh lân cận cao gần bằng Nhật Bản,
trong khi thu nhập quốc dân đầu người rất thấp Đây là một biến dạng kinh
khủng gây khó khăn cho quá trình đầu tư Mặc dù đất nông nghiệp thì còn
nhiều, thu nhập từ nông nghiệp vô cùng ít ỏi, và giá trị quyền sử dụng đất

nông nghiệp thấp, nhưng không dễ gì bán đất nông nghiệp và chuyển sang
các mục đích dụng khác cho giá trị cao hơn như thương mại, công nghiệp và
nhà ở. Điều này gây ra rất nhiều khó khăn. Nông dân không muốn giao đất
theo mức đền bù dựa trên giá trị “cũ” là đất nông nghiệp -thường chỉ chưa
đầy 1 đôla/m2- mà chỉ muốn bán với giá đất phi nông nghiệp. Ngay ở các
tỉnh mức giá này cũng có thể lên tới trên 100 US đôla 1m2 và đôi khi tới trên
1.000 US đôla! (Xem bảng dưới đây về các mức giá đất đại diện, ba nhóm
đầu tiên là đất cho xây dựng nhà máy). Khó khăn về đền bù đã dẫn đến
những trì hoãn và tranh chấp kéo dài ở các tỉnh quanh Hà Nội- những vấn đề
đó có thể làm trì trệ đầu tư và tăng trưởng.
STT Nhóm loại Giá trên 1m Chú thích
1.Đất trong khu công nghiệp
có cơ sở hạ tầng. $28-$35 Cho 50 năm
2.Đất trong khu công nghiệp
chưa có cơ sở hạ tầng. (thường
không có sẵn) $0.5-$1 Cho 50 năm, có
thể
miễn giảm trong 5-10 năm ưu đãi
đầu.
3.Đất cạnh khu công nghiệp Cho 50 năm, có
thể
chưa có cơ sở hạ tầng. $0.5-$1 ưu đãi miễn
giảm
(nhiều vấn đề về giải tỏa đất) trong 5-10 năm.
4.Đất phi nông nghiệp trong các Có giấy chứng
nhận
làng nghề (giá thị trường) $150-300 quyền sử dụng
đất
cho 50 năm
5.Giá đất thổ cư trong các khu đô

thị mới tại các tỉnh $500-2000 Không hạn chế thời
gian
6.Đất nông nghiệp(ước tính giá trị) $0.5
Do vậy vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng của doanh nghiệp hiện nay là một
vấn đề rất nan giải
2.1.2. Đầu tư vào máy móc thiết bị sản xuất.
Hiện nay, xu hướng chung của thế giới đánh giá chất lượng sản phẩm và
dịch vụ bằng các thiết bị công nghệ sản xuất sản phẩm. Trong khi ở Việt
Nam, một thực trạng đáng báo động trong các doanh nghiệp máy móc thiết
bị chủ yếu nhập về từ bên ngoài với rất nhiều thiết bị cũ, lỗi thời, có một thời
gian “Việt Nam từng là một bãi rác công nghiệp”. Các thiết bị mua về không
đồng bộ gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc khai thác vận hành và sử
dụng. Hơn 50% máy móc thiết bị tại các công ty sản xuất công nghiệp bị
hỏng hoặc hư hại nghiêm trọng do không được bảo dưỡng.
Nền kinh tế nước ta phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có mức vốn
thấp -dưới 10 tỷ đồng- nên khả năng trang bị máy móc thiết bị, kỹ thuật công
nghệ tiên tiến là rất hạn chế. Mức trang bị tài sản cố định cho một lao động
ngoài quốc doanh là 50 triệu đồng, chỉ bằng 20% so với doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài. Máy móc thiết bị còn lạc hậu, chưa đồng bộ, khoảng
cách về quy mô sản xuất, trình độ công nghệ của Việt Nam dần xa so với các
nước khác chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu cấp bách của thị
trường trong nước và thế giới.
Những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính yếu thường rất lo ngại khi đầu
tư một khoản tiền lớn để mua sắm máy móc thiêt bị sản xuất vì mỗi máy
móc thiết bị, dây chuyền sản xuất đều mang bí quyết công nghệ riêng. Với
trình độ các kỹ sư, công nhân hiện nay thì việc làm chủ dây chuyền sản xuất
là một công việc khó khăn. Nếu không may với sự hiểu biết ít ỏi, không nhờ
vào các chuyên gia tư vấn khi đàu tư mua sắm, họ có thể sẽ gặp phải việc
mua phải các thiết bị bị hư hỏng, công năng không phù hợp với thực tế sản
xuất. Với sự phát triển của khoa học kĩ thuật như hiên nay và do quá trình

cạnh tranh nên các máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất phải thường xuyên
nâng cấp, đổi mới liên tục để phù hợp với sự phát triển và hội nhập kinh tế
quốc tế.
Hiện nay Nhà nước có các chính sách miễn thuế nhập khẩu máy móc
thiết bị, điều này đã khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư nâng cấp máy
móc thiết bị. Trong năm 2007, các doanh nghiệp Việt Nam đã nhập khẩu
máy móc thiết bị của EU trị giá lên tới 2542 tỷ USD tăng gần gấp đôi so với
năm 2006.
2.1.3. Đầu tư phương tiện vận tải trong doanh nghiệp.
Phương tiện vận tải có vai trò tương đối trong hoạt động của doanh
nghiêp Việt Nam hiện nay. Trước đây trong nền kinh tế tập trung bao cấp
không phải tìm thị trường mới, mọi hàng hóa dịch vụ đều được phân phối
nên việc đám ứng trong việc vận chuyên hàng hóa chưa tốt. Trong nền kinh
tế thị trường yêu cầu các doanh nghiệp phải tìm lấy thị trường, phải đưa sản
phẩm của mình đến tận tay của người tiêu dùng, việc vận chuyển nguyên vật
liệu kịp thời nên việc đầu tư vào phương tiện vận tải được chú trọng hơn.
Các doanh nghiệp đã chú trọng vào việc mua sắm các trang thiết bị phục vụ

×