Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

các giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.21 KB, 35 trang )

MỤC LỤC
Trang
L i Nói uờ Đầ 3
Ph n 1: Khái quát v ng nh d t may v tình hình h ng ầ ề à ệ à à
d t may xu t kh uệ ấ ẩ 5
1.1. Khái quát v ng nh d t may. 1ề à ệ 5
1.1.1 c i m c b n c a ng nh v vai trò trong n n kinh t qu c dân.Đặ để ơ ả ủ à à ề ế ố 5
1.1.2. nh h ng c a ng nh n quá trình t ng tr ng kinh t h ng v ả ưở ủ à đế ă ưở ế ướ ề
xu t kh u.ấ ẩ 6
1. 2. Tình hình h ng d t may xu t kh u.à ệ ấ ẩ 7
1.2.1. Kim ng ch xu t kh u.ạ ấ ẩ 7
1.2.2. Th tr ng xu t kh u khái quát chung.ị ườ ấ ẩ 8
1.2.3. ánh giá tình hình xu t kh u d t may nh ng n m qua.Đ ấ ẩ ệ ữ ă 9
Ph n 2. Tình hình xu t kh u h ng D t Mayầ ấ ẩ à ệ 11
sang th tr ng M .ị ườ ỹ 11
2.1. Th tr ng h ng d t may M .ị ườ à ệ ỹ 11
2.1.1. c i m th tr ng h ng d t may M .Đặ để ị ườ à ệ ỹ 11
2.1.2. c i m nh p kh u h ng d t may c a th tr ng M .Đặ để ậ ẩ à ệ ủ ị ườ ỹ 12
2.1.2.1 Quy mô nh p kh u h ng n m.ậ ẩ à ă 12
2.1.2.2 Các quy nh cho h ng d t may.đị à ệ 12
2.1.2.3 Chính sách th ng m i c a M i v i h ng d t may nói ươ ạ ử ỹđố ớ à ệ
chung v h ng d t may Vi t Nam nói riêng.à à ệ ệ 13
2.1.2.4 Hi p nh th ng m i Vi t - Mệ đị ươ ạ ệ ỹ 16
2.1.2.5 m phán Hi p nh d t may Viêt -M .Đà ệ đị ệ ỹ 16
2.2. Th c tr ng xu t kh u h ng d t may Vi t Nam v o th tr ng M .ự ạ ấ ẩ à ệ ệ à ị ườ ỹ
17
2.2.1. Tình hình xu t kh u nh ng n m g n ây.ấ ẩ ữ ă ầ đ 17
2.2.1.1 Tình hình xu t kh u tr c khi ký Hi p nh th ng m i Vi t ấ ẩ ướ ệ đị ươ ạ ệ
-M .ỹ 17
2.2.1.2 Tình hình xu t kh u sau khi Hi p nh th ng m i Vi t -M ấ ẩ ệ đị ươ ạ ệ ỹ
có hi u l c.ệ ự 17


2.2.2. ánh giá chung tình hình th c hi n ho t ng xu t kh u h ng d tĐ ự ệ ạ độ ấ ẩ à ệ
may v o th tr ng M .à ị ườ ỹ 18
2.2.2.1. Thu n l i.ậ ợ 18
2.2.2.2. Khó kh n.ă 19
2.2.3. Nh ng th i c v thách th c t ra i v i h ng d t may xu t kh uữ ờ ơ à ứ đặ đố ớ à ệ ấ ẩ
v o th tr ng M :à ị ườ ỹ 22
2.2.3.1. Th i c :ờ ơ 22
2.2.3.2 Bên c nh nh ng th i c , ng nh d t may Vi t Nam ang ph i ạ ữ ờ ơ à ệ ệ đ ả
i m t v i nh ng thách th c l n.đố ặ ớ ữ ứ ớ 23
Ph n 3: Các gi i pháp nh m thúc đ y xu t kh u h ng ầ ả ằ ẩ ấ ẩ à
d t May v o th tr ng M .ệ à ị ườ ỹ 26
3.1. Gi i pháp i v i doanh nghi p.ả đố ớ ệ 26
3.1.1. Nâng cao kh n ng c nh tranh.ả ă ạ 26
3.1.2. T p trung s n xu t h ng v xu t kh u.ậ ả ấ ướ ề ấ ẩ 28
3.1.3. Tích c c nghiên c u th tr ng.ự ứ ị ườ 29
3.2. Các gi pháp t m v mô.ả ầ ĩ 30
3.2.1. H tr các doang nghi p d t may xu t kh u v o th tr ng M .ỗ ợ ệ ệ ấ ẩ à ị ườ ỹ. .30
3.2.2. T ng c ng u t nâng cao ch t l ng v i, m b o nguyên ă ườ đầ ưđể ấ ượ ả đả ả
v t li u thay th v h tr th nh l p các doanh nghi p cung c p ậ ệ ế à ỗ ợ à ậ ệ ấ
ph li u, nguyên li u may m c trong n c.ụ ệ ệ ặ ướ 32
3.2.3. Phát huy h n n a vai trò c a Hi p h i d t may Vi t Nam.ơ ữ ủ ệ ộ ệ ệ 32
K t lu nế ậ 34
1
Danh m c t i li u tham kh o.ụ à ệ ả 35
2
Lời Nói Đầu
Hội nhập kinh tê quốc tế và đẩy mạnh xuất khẩu đang trở thành vấn đề
cấp bách của doanh nghiệp và nền kinh tế nước ta. Nhất là, khi bước sang
năm 2003- năm bản lề thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
2001 -2005 và thời điểm cắt giảm thuế quan theo lộ trình hội nhập AFTA,

thực hiện bước hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Văn kiện Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ 8 nêu rõ: “Đẩy mạnh
xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối
ngoại Điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập khu vực vừa hội nhập
toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta và đối tác”. Như vậy, xuất khẩu được
coi là hướng chính trong kinh tế đối ngoại, được ưu tiên hàng đầu. Do đó, các
ngành có khả năng xuất khẩu được hỗ trợ rất nhiều để phát triển.
Trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam ngành dệt may chiếm một tỉ trọng
khá lớn, luôn giữ được giá trị kim ngạch xuất khẩu cao hơn cả. Vì thế trong
chiến lược phát triển công nghiệp từ nay đến năm 2010 thì ngành dệt may là
một trong mười mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Chính phủ xác
định rõ ngành công nghiệp dệt may giữ vị trí là ngành công nghiệp trọng điểm
trong cơ cấu ngành. Với những lợi thế riêng biệt như: thu hút nhiều lao động,
tạo công ăn việc làm, tạo nguồn hàng xuất khẩu có giá trị cao Do đó ngành
dệt may Việt Nam hiện nay được xem là ngành sản xuất mũi nhọn và phát
triển khá hiệu quả. Nó sẽ là ngành thu hút ngoại tệ góp phần tạo đà cho nền
kinh tế cất cánh.
Tuy hàng dệt may xuất khẩu nước ta đang bước những bước đi đầu khá
vững chắc và đầy triển vọng nhưng so với tiềm năng vốn có và so với vị thế
xuất khẩu của các nước trong khu vực thì Việt Nam còn cần phấn đấu rất
nhiều. Một trong những vấn đề đặt ra đối với ngành dệt may xuất khẩu hiện
nay là vấn đề tìm kiếm và phát triển thị trường. Chúng ta đã và đang xuất
khẩu sang các thị trường lớn như EU, Nhật Bản, Đông Âu nhưng Mỹ là thị
trường nhập khẩu dệt may lớn nhất thế giới thì ta chưa khai thác được triệt để
so vơí các nước trong khu vực và so với chính tiềm năng vị thế của nó. Vì thế
đề án này đã đề xuất một số giẩi pháp cho vấn đề thúc đẩy xuất khẩu dệt may
sang thị trường Mỹ trên cơ sở phân tích thời cơ và thách thức trên thị trường
này.
3
Hơn nữa, tuy chúng ta đã ký kết và đi vào thực hiện Hiệp định thương mại

Việt - Mỹ nhưng hiệu quả mang lại vẫn chưa được như mong đợi. Hiện nay
chúng ta đang xúc tiến đàm phán để đi đến ký kết một Hiệp định dêt may
song phương giữa ta và Mỹ, nhất là việc Mỹ áp dụng hạn ngạch với hàng dệt
may Việt Nam, với số lượng bao nhiêu, thời gian áp dụng Do đó đề án này
cũng mang tính thực tiễn rất cao.
Nội dung của bài viết gồm 3 phần:
Phần 1: Khái quát về ngành dệt may và tình hình hàng dệt may xuất
khẩu.
Phần 2: Tình hình xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ.
Phần 3: Các giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may sang thị
trường Mỹ.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô bộ môn Kinh Tế Công Nghiệp và
đặc biệt là thạc sỹ Trần Thị Thạch Liên đã hướng dẫn để em hoàn thành bài
viết của mình.

4
Phần 1: Khái quát về ngành dệt may và tình hình hàng dệt
may xuất khẩu
1.1. Khái quát về ngành dệt may. 1
Với kinh nghiệm của các nước đã phát triển và những nước công nghiệp
mới ở Châu á, ngành dệt may đã và đang được coi là ngành mũi nhọn trong
chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt nam từ nay đến năm 2020. Thời
kì đầu thế kỉ 20, các nước Anh, ý, Pháp, Đức, Mỹ có ngành dệt may tương đối
phát triển. Đến thập kỷ 70, ở các nước này xu hướng tiêu thụ tăng nhưng sản
xuất giảm, trong lúc đó các nước NICs, Châu á lại phát triển mạnh ngành sản
xuất này. Nhưng xu hướng những năm gần đây, sự phát triển ngành dệt may
lại đang chuyển sang các nước có nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ
như Trung Quốc, Malaixia, Việt Nam. . .
1.1.1 Đặc điểm cơ bản của ngành và vai trò trong nền kinh tế quốc dân.
Công nghiệp dệt may là ngành có ý nghĩa trọng tâm trong giai đoạn

chuyển đổi của Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh
tế thị trường. Dệt may là một phần cấu thành quan trọng trong chính sách
định hướng xuất khẩu của đất nước, nói một cách chung hơn, là một trong
những nỗ lực của Việt Nam để hoà nhập vào nền kinh tế quốc tế. Sự thành
công về xuất khẩu trong ngành này thường mở đường cho sự xuất hiện của
một chiến lược phát triển định hướng xuất khẩu có cơ sở rộng hơn với đặc
điểm cơ bản của ngành là thu hút nhiều lao động, chiếm hơn 1/5 lực lượng lao
động làm việc trong ngành công nghiệp chế tác của đất nước. Do đó góp phần
làm giảm tỷ lệ thất nghiệp tạo thu nhập và ổn định đời sống cho người lao
động. Mặt khác đây là ngành đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu không lớn, ít rủi ro,
thời gian thu hồi vốn nhanh và có điều kiện mở rộng thị trường sản xuất của
nhiều thành phần kinh tế khác nhau.
Ngành công nghiệp dệt may ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong
nền kinh tế quồc dân, vì nó không chỉ phục vụ nhu cầu thiết yếu của con
người mà còn là ngành giải quyết nhiều việc làm cho lao động xã hội, có thế
mạnh trong xuất khẩu, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển và đóng góp
ngày càng nhiều cho ngân sách Nhà nước. Như vậy ngành dệt may hiện đang
5
chiếm một vị trí khá quan trọng trong đóng góp cho xuất khẩu và nâng cao
giá trị sản lượng của toàn bộ ngành công nghiệp Việt Nam.
1.1.2. ảnh hưởng của ngành đến quá trình tăng trưởng kinh tế hướng về xuất
khẩu.
Thực chất của chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu là đặt sản xuất trong
nước trong quan hệ cạnh tranh với thị trường quốc tế nhằm phát huy những
lợi thế so sánh, buộc các nhà sản xuất trong nước phải luôn luôn đổi mới công
nghệ nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm đẩy mạnh việc tiêu thụ sản
phẩm trên thị trường thế giới và đem lại nguồn ngoại tệ cho đất nước.
Điều này thể hiện rõ ở ngành dệt may Việt Nam: xuất khẩu hàng dệt may
đã và đang là ngành xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam trong những năm đầu
thế kỷ 21. Với mức tăng trưởng cao và ổn định từ 30% đến 40%. Suốt hơn

chục năm qua, xuất khẩu hàng dệt may đã lần lượt vượt qua các mặt hàng
xuất khẩu chủ lực khác. Trong giai đoạn hiện nay hàng dệt may là một trong
mười mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam hàng năm đem lại nguồn thu ngoai tệ
khá lớn cho đất nước, ngành này còn góp phần tích cực giải quyếtviệc làm
cho hàng triệu người lao động trên mọi miền của đất nước. Điều đó rất có ý
nghĩa trong lúc chúng ta đang thiếu vốn thừa lao động.
Với đường lối mở cửa và hội nhập vào cộng đồng thế giới nói chung và
các nước trong khu vực nói riêng, ngành dệt may phải trực tiếp tham gia hợp
tác về các lĩnh vực lao động mậu dịch, tham gia tiến hành cắt giảm thuế quan
của khu vực mậu dịch tự do ASEAN, AFTA và tham gia vào các tổ chức
quốc tế khác, ngành dệt may của chúng ta cần phải tích cực đổi mới với mức
chi phí sản xuất thấp, công nhân cần cù sáng tạo cùng với việc nâng cao chất
lượng đặc biềt là quan tâm tới thị hiếu, mẫu mốt thời trang của thế giới.
Việt Nam sẽ phát triển sản phẩm dệt may của mình trong quá trình tự do
hoá mậu dịch và thích ứng được với xu thế chuyển dịch hàng dệt may của thế
giới.
6
1. 2. Tình hình hàng dệt may xuất khẩu.
1.2.1. Kim ngạch xuất khẩu.
` Bắt đầu từ năm 1993, hàng dệt may đã giữ vị trí thứ hai chỉ sau ngành dầu
khí trong xuất khẩu, trong khi đó chỉ mới đứng thứ tư sau gạo và thuỷ sản.
Năm 1994 kim ngạch xuất khẩu đạt 554 triệu USD, chiếm khoảng 13%-14%
tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Năm 1995 vẫn giữ tỉ trọng nàynhưng
về mặt giá trị đã tăng lên mức700 triệu USD. Đến năm 2002 kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may đạt 2, 7 tỉ USD, chiếm gần 16,3% tổng kim ngạch xuất
khẩu, tăng 7,2% so với năm 2001, gấp hai lần năm 1998 và là mức tăng
trưởng cao nhất trong mười năm qua. Điều này chứng tỏ tỷ trọng xuất khẩu
hàng dệt may trong tổng xuất khẩu của Việt Nam đang ngày càng lớn. Nhất là
trong hai tháng đầu năm 2003 xuất khẩu sang Mỹ đạt 590 triệu USD, tăng

350% so với cùng kỳ và chiếm 19,2% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
trong đó kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt là 405 triệu USD. Như vậy kim
ngạch xuất khẩu của nước ta không những ngày càng tăng mà còn tăng với
tốc độ rất cao.
Bảng 1: Giá trị xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
Đơn vị: Triệu USD.
Năm Kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may
Tổng kim ngạch
xuất khẩu
Tỷ trọng /Tổng số
1992 211 2581 8,1%
1993 350 2985 11,7%
1994 550 4051 13,6%
1995 750 5200 14,4%
1996 1150 7255 15,2%
1997 1349 8759 15,4%
1998 1351 9361 14,4%
1999 1682 11532 14,6%
2000 1892 14455 13,08%
2001 2000 15100 13,25%
2002 2700 16565 16,3%
Tạp chí phát triển kinh tế năm 2002.
7
1.2.2. Thị trường xuất khẩu khái quát chung.
Trong hơn mười năm qua, ngành dệt may Việt Nam đã có những bước
tiến vượt bậc trong lĩnh vực xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng bình quân
23,8%/ năm, vươn lên đứng thứ hai trong các nước về kim ngạch xuất khẩu
sau ngành dầu khí. Nếu như năm 1990, hàng dệt may Việt Nam mới chỉ có
mặt ở gần 30 nước trên thế giới thì đến nay đã hiện diện ở hầu hết các châu

lục với trên 100 nước và vùng lãnh thổ.
Trong hai năm gần đây, xuất khẩu hàng dệt may vào hai thị trường lớn
hàng đầu là Nhật và EU đều tụt giảm. Giá trị xuất khẩu hàng dệt may đi EU
năm 2002 chỉ đạt 550 triệu đô-la Mỹ, so với mức 660 triệu đô-la Mỹ của năm
2001.
Tại thị trường Nhật Bản, hàng dệt may Việt Nam xuất sang thị trường
này giảm: Ba tháng đầu năm 2003, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt
Nam đạt 850 triệu USD, tăng tới 90% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong khi
các doanh nghiệp Việt Nam đang tăng hết tốc lực để làm hàng xuất khẩu vào
thị trường Mỹ trước khi thị trường này áp dụng hạn ngạch đối với hàng dệt
may Việt Nam thì tại thị trường Nhật Bản, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
Việt Nam lại có chiều hướng giảm. Theo bộ Thương Mại, kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may Việt Nam vào nhật Bản năm 2002 giảm gần 20% so với
năm 2001 và trong 3 tháng đầu năm 2003, dấu hiệu suy giảm này vẫn đang
tiếp tục diễn ra. Theo phân tích của các chuyên gia Bộ Thương Mại, sự giảm
sút của hàng dệt may Việt Nam vào Nhật Bản nói trên có phần do kém sức
cạnh tranh với hàng Trung Quốc. Các chuyên gia Nhật Bản cũng cảnh báo xu
thế sụt giảm hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang Nhật là đáng lo ngại.
Theo đó, nếu bỏ lỡ các thị trường đang có để chạy theo thị trường mới thì lúc
quay lại sẽ không dễ dàng bởi với bất cứ thị trường nào cũng vậy, vào được
rồi mà không lo lắng, chăm chút cho sản phẩm đứng vững thì khách hàng
cũng chẳng ngần ngại mà chuyển từ việc dùng sản phẩm “made in Việt Nam”
sang dùng các sản phẩm khác, nếu là thị trương tương đối khó tính như Nhật
Bản.
Tại EU, từ năm 1995 đến năm 1999, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng
dệt may Việt Nam sang thị trường này đều tăng lên. Nhưng trong 03 năm trở
lại đây, khối lượng xuất khẩu sang thị này tăng tương đối ổn định trong tổng
giá trị lại giảm. Tuy nhiên một tin vui với các doanh nghiệp dệt may Việt
8
Nam trong năm 2003 là EU chấp thuận tăng hạn ngạch dệt may của Việt Nam

vào thị trường EU khoảng 50%-70%. Như vậy nước ta có thể mở rộng thị
trường EU hơn trước kia. Nhưng mặt khác nếu EU bỏ dần để tiến tới bỏ hẳn
hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may từ các nước WTO vào năm 2005 thì đó lại
là một bất lợi lớn đối với xuất khẩu hàng dệt may nước ta vì Việt Nam vẫn
còn chịu chế độ hạn ngạch do chưa gia nhập WTO.
Ngoài ra nước ta còn xuất khẩu dệt may sang Singapo, Đài Loan, Nga và
các nước Đông Âu.
Hiện nay Mỹ là bạn hàng lớn nhất của dệt may Việt Nam. Năm 2002
lượng hàng xuất sang thị trường này chiếm tới 1/3 hàng xuất khẩu, tương
đương 900 triệu USD. Riêng trong quý một năm 2003 Mỹ đã nhập tới 500
triệu USD trong tổng số 850 triệu USD hàng dệt may xuất khẩu của Việt
Nam. Như vậy Mỹ là thị trường giàu tiềm năng nhất. Do đó nếu biết khai thác
tốt thì thị trường này sẽ mang lại nhiều cơ hội cho ngành dệt may chúng ta và
có thể trở thành thị trường xuất khẩu chủ lực những năm tới.
1.2.3. Đánh giá tình hình xuất khẩu dệt may những năm qua.
Cho đến nay ngành dệt may Việt Nam đã đạt được thành công đáng kể.
Tăng trưởng xuất khẩu từ mức thấp đã tăng lên: từ dưới 100 triệu USD năm
1989 tăng lên 1, 3 tỷ USD năm 1997.
Theo Hiệp hội dệt may Việt Nam, hai năm trở lại đây ngành dệt may Việt
Nam đã có bước phát triển đáng kể: năng lực sản xuất sợi tăng từ 01 triệu cọc
lên 1, 5 triệu cọc. Năng lực sản xuất vải từ 40 triệu mét vuông lên 600 triệu
mét vuông. Năng lực sản xuất may công nghiệp từ 500 triệu sản phẩm lên 600
triệu sản phẩm. Xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam đã tăng trưởng từ 1,
75 tỷ đồng năm 2000 lên 2, 75 tỷ đồng năm 2002 và đang hướng tới chỉ tiêu
4, 5 tỷ USD năm 2005.
Dệt may được coi là một trong các ngành có lợi thế nhất của Việt Nam bởi
nó sử dụng nhiều lao động, mang về nhiều ngoại tệ cho đất nước. Năm 2001
giá trị xuất khẩu của ngành đạt 2, 1 tỷ USD, tạo công ăn việc làm cho rất
nhiều lao động trình độ thấp. Phát triển tốt ngành dệt may đồng nghĩa với việc
hội nhập vào khu vực và thế giới một cách hiệu quả hơn bởi chính những đặc

điểm “toàn cầu” của nó. Do vậy, để phát triển một ngành có lợi thế này của
Việt Nam, đáp ứng được mục tiêu của chiến lược tăng tốc đã được chính phủ
9
phê duyệt đến năm 2005 kim ngach xuất khẩu ngành dệt may phải đạt 4-5 tỷ
USD, đến năm 2010 là 7-8 tỷ USD với tỷ lệ nội địa hoá là 75%.
Biểu 2: các chỉ tiêu sản xuất và xuất khẩu.
Chỉ tiêu Đơn vị 2005 2010
Sản xuất
- Vải lụa Triệu m 1330 2000
- Dệt kim Triệu sản phẩm 150 210
- May mặc Triệu sản phẩm 780 1200
Kim ngạch xuất khẩu Triệu USD 5000 8000
Sử dụng lao động Nghìn người 3000 4000
Tỷ lệ nội địa hoá % 50 75
Tạp chí kinh tế và phát triển năm 2002
10
Phần 2. Tình hình xuất khẩu hàng Dệt May
sang thị trường Mỹ.
2.1. Thị trường hàng dệt may Mỹ.
Mỹ là một trong những nước có sức tiêu thụ hàng may mặc lớn nhất thế
giới. Do những tác động của xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới và sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tê Mỹ, ngành may mặc của nước này đang mất dần
lợi thế so sánh. Đây là ngành sử dụng nhiều lao động, tuy nhiên từ năm 1970
tới nay lực lượng lao động trong ngành này ở Mỹ giảm 40%. Các nhà kinh tế
dự đoán ngành may gia công Mỹ sẽ không còn tồn tại trong vòng mười năm
tới. Ngành may gia công sẽ nhường chỗ cho ngành may hàng cao cấp với các
nhãn hiệu nổi tiếng và nhân công có tay nghề cao. Vì thế có thể đánh giá Mỹ
là mảnh đất lý tưởng và là thị trường đầy tiềm năng đối với các nước sản xuất
và xuất khẩu hàng Dệt -May công nghiệp trong đó có Việt Nam.
2.1.1. Đặc điểm thị trường hàng dệt may Mỹ.

Các nền kinh tế trên thế giới đều lấy Mỹ làm thị trường chủ lực bởi vì thị
trường Mỹ có tổng giá trị buôn bán lớn nhất toàn cầu, hàng nhập khẩu đa
dạng. Các doanh nghiệp có thể biết được năng lực cạnh tranh của mình thông
qua việc xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Mỹ. Qua đó tạo điều kiện thâm
nhập thuận lợi vào các thị trường khác.
Mặt khác, với diện tích khoảng 9, 4 triệu kilômet vuông và dân số
khoảng 274, 8 triệu người đã làm cho Mỹ trở thành cường quốc kinh tế số
một với sức mua lớn nhất thế giới. Mỹ cũng là nước nhập khẩu dệt may lớn
nhất thế giới, hàng năm Mỹ có nhu cầu nhập khẩu trên 60 tỷ USD dệt may.
Hơn nữa Mỹ lại là một quốc gia đa sắc tộc, đa văn hoá nên nhu cầu hàng may
mặc rất đa dạng, ta có thể khai thác lợi thế này từ đặc điểm của thị trường Mỹ.
Như vậy Mỹ là thị trường tiềm năng lớn cho mọi nhà sản xuất và xuất
khẩu dệt may thế giới cũng như đối với các doanh nghiệp dệt may nước ta.
11
2.1.2. Đặc điểm nhập khẩu hàng dệt may của thị trường Mỹ.
2.1.2.1 Quy mô nhập khẩu hàng năm.
Mỹ là thị trường xuất khẩu chính của các nước xuất khẩu sản phẩm dệt
may ở Đông á và là nước đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng may mặc.
Hàng năm Mỹ nhập khoảng 50 đến 60 tỷ USD hàng may mặc và hàng dệt.
Quy mô nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ ngày càng tăng.
Bảng 3: Quy mô nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ qua các năm.
Đơn vị: triệu USD
Năm 1997 1998 1999 2000 2001
Sản phẩm dệt 8369 8705 9029 9973 9310
Sản phẩm may 50190 53 210 59114 67505 68655
Tổng 58559 61915 68143 77478 77965
(Nguồn: Bộ thương mại Mỹ)
2.1.2.2 Các quy định cho hàng dệt may.
Mỹ là thành viên của tổ chức Thương mại thế giới (WTO), có tham gia
hiệp định đá sợi MFA nên hàng dệt may vào Mỹ phải tuân thủ theo những

nguyên tăc chung của MFA. Vì thế khi đưa hàng dệt may vào thị trường Mỹ
cần nắm được hai quy định quan trọng cho hàng dệt may là: quy định chung
của hiêp định đa sợi MFA và qui định hệ thống hạn ngạch hàng dệt may Mỹ
+ Qui định chung của Hiệp định đa sợi MFA: Hiệp đinh cho phép mỗi
thanh viên của MFA được xây dựng những thoả thuận song phương giữa
nước xuất khẩu và nước nhập khẩu hàng dệt. Các nước được đơn phương
định đoạt các biên pháp khi thấy rằng thị trường dệt của mình bị phương hại.
Hiệp định còn cho phép áp dụng hạn ngạch để hạn chế số lượng hàng dệt may
nhập khẩu vào quốc gia mình. Hạn ngạch này sẽ được xoá bỏ vào năm 2006
giữa các nước thành viên Hiệp định đa sợi.
+ Qui định hệ thống hạn ngạch hàng dệt may Mỹ: Tính đến năm 1998,
Mỹ đã ký Hiệp định song phương với 45 nước trong đó có 37 nước là thành
viên của WTO và hiệp định này đươc xây dựng trên cơ sở thương lương với
thời hạn có hiệu lực từ 3-6 năm. Về cơ bản, mức quota nhập khẩu hàng dệt
12
may vào thị trường Mỹ sẽ được xác định dựa trên cơ sở hay khối lượng hàng
dệt đã được đưa vào thị trường Mỹ vào thời điểm đàm phán. Nếu khối lượng
hàng dệt đưa vào Mỹ đạt 100000 tá sản phẩm thì hải quan của Mỹ bắt đầu
theo dõi và khi khối lượng này đã tang lên gấp đôi thì phía Mỹ sẽ chính thức
đề nghị đàm phán để xác định hạn ngạch nhập khẩu. Như vậy, để việt Nam có
thể nhận được hạnh ngạch nhập khẩu lớn thì trong từ một đến hai năm đầu kể
tư khi Hiệp định có hiệu lực các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm dệt may
Việt Nam phải nỗ lực tối đa để đưa khối lượng hàng hoá lớn sang thị trường
này.
2.1.2.3 Chính sách thương mại cửa Mỹ đối với hàng dệt may nói chung và
hàng dệt may Việt Nam nói riêng.
Xuất khẩu vào thị trường Mỹ đang là vấn đề quan tâm hàng đầu của các
doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu của Việt Nam. Mỹ là một thị trường lớn rất
“tự do” nhưng cũng được đánh giá là nhiều bất trắc nếu không nắm vững
“luật chơi”. Do đó trước khi xuất khẩu hàng sang Mỹ các doanh nghiệp phải

nghiên cứu kỹ pháp luật của Mỹ.
Về quy chế tối huệ quốc (MFN): gần như tất cả các bạn hàng buôn bán
của Mỹ đều được hưởng quy chế này. Hàng hoá đi từ tất cả các nước được
hưởng quy chế này đều chịu cùng một mức thuế. khi Mỹ giảm thuế, loại bỏ
hay có những thay đổi trong hệ thống thuế thì những sự thay đổi đó được áp
dụng đối với tất cả các nước thành viên được hưởng MFN. Các mặt hàng
nhập khẩu từ các nước chưa được hưởng MFN phải chịu mức thuế cao hơn.
Với quy định này, khi xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ, doanh nghiệp Việt Nam
(khi được hưởng MFN) có thể dễ dàng thâm nhập vào thị trường Mỹ nhưng
phải đối mặt với hàng hoá được xuất khẩu từ các nước khác sang thị trường
Mỹ cũng đươc hưởng những ưu đãi tương tự.
Về trị giá hải quan, Mỹ áp dụng cách thức tính giá hải quan của tổ chức
Thương mại thế giới (WTO). Để bảo vệ các công ty Mỹ trước các hoạt động
nhập khẩu không bình đẳng, Mỹ áp dụng hai luật thuế là luật thuế đối kháng
và luật thuế chống phá giá. Hai loại luật thuế này đòi hỏi phải áp dụng các
mức thuế bổ xung khi có tình trạng buôn bán không lành mạnh.
Luật thuế đối kháng thực thi bằng cách tăng thuế nhập khẩu để bù vào
hay để đổi lại với khoản trợ cấp của hàng hoá nước ngoài gây thiệt hại vật
13
chất cho các nhà sản xuất hàng hoá tương tự ở Mỹ. Các khoản trợ cấp chịu
thuế đối kháng chủ yếu được các chính phủ nước ngoài cung cấp trực tiếp hay
gián tiếp. Với luật thuế này, các doanh nghiệp Việt Nam khi được hưởng
những ưu đãi của chính phủ cần thận trọng khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ
vì có thể vi phạm các quy định của đạo luật này.
Luật thuế chống bán phá giá được sử dụng ở Mỹ rộng rãi hơn so với luật
thuế đối kháng. Thuế chống bán phá giá là thuế được áp dụng đối với các sản
phẩm nhập khẩu khi hàng hoá nước ngoài được xác địng là bán phá gía hàng
đã bán hoăc chắc chắn sẽ bán ở Mỹ với mức thấp hơn giá trị thị trường của
nó.
Về hệ thống hạn ngạch, Mỹ áp dụng hạn ngạch để kiểm soát về khối

lượng hàng hoá nhập khẩu trong một thời gian nhất định. Luật thương mại
Mỹ cho phép sản phẩm Mỹ đơn phương áp đặt các hạn ngạch mang tính hành
chính đối với các loại hàng dệt may. Có hai loại hạn ngach: Hạn ngạch tuyệt
đối và hạn ngạch tính theo thuế suất.
Hạn ngạch tuyệt đối là hạn ngạch hạn chế về số lượng. Vì vậy trong suốt
thời gian áp dụng hạn ngạch, chỉ một số lượng hàng hoá đã được ấn định mới
được phép nhập khẩu. Một số hạn ngạch tuyệt đối được áp dụng trên toàn thế
giới, còn một số chỉ áp dụng với một vài quốc gia nào đó. Số hàng nhập khẩu
dư lại so với hạn ngạch sẽ bị giữ lại tại một” khu ngoại thương “ để bổ xung
cho kỳ hạn ngạch sau đó hay được đưa vào kho ngoại quan, cũng có thể bị trả
về hoăc tiêu huỷ dưới sự giám sát củ nhân viên hải quan. Các Hiệp định về
hàng dệt may có quy định gia tăng các hạn ngạch theo từng thời điểm.
Hạn ngạch tính theo thuế suất áp dụng cho một số lượng hàng nhập khẩu
được quy định với một mức thuế thấp trong một thời hạn nào đó. Không có
giới hạn về số lượng hàng nhập khẩu trong suốt thời hạn này, nhưng nếu hàng
nhập khẩu vượt quá số lượng cho phép hưởng mức thuế thấp thì số hàng dư
đó sẽ phải chịu mức thuế cao hơn.
Về chế độ visa xuất khẩu, hàng dệt may cần có visa mới được vào Mỹ.
Visa này được dùng để kiểm soát hàng dệt may và sản phẩm từ hàng dệt từ
nước ngoài vào Mỹ hoặc dùng để ngăn cấm việc nhập lậu mặt hàng này vào
Mỹ. Một visa hàng dệt may có thể bao gồm hàng có hạn ngạch hoậc không có
hạn ngạch. Hàng dệt có hạn ngạch có thể cần hoặc không cần visa tuỳ thuộc
14
vào nước xuất xứ. Nếu thời gian hạn ngạch chấm dứt mà visa cho hàng dệt
may được cấp sau đó bởi chính phủ nước ngoài và hàng đã nhập vào Mỹ, lô
hàng nhập này sẽ không được giải phóng cho nhà nhập khẩu cho đến khi hạn
ngạch mới được cấp phép.
Về nguyên tắc xuất xứ và ghi nhãn hiệu sản phẩm dệt may.
Quy định về xuất xứ hàng nhập khẩu vào Mỹ: Khi xuất khẩu vạo thị
trường Mỹ, muốn được hưởng thuế suất ưu đãi theo nước xuất xứ, luật Mỹ

quy định trên sản phẩm phải ghi rõ nhãn của nước xuất xứ. Quy định này chỉ
bắt buộc đối với sản phẩm hoàn chỉnh, khi nhập vào Mỹ có thể bán thẳng cho
người tiêu dùng. Có một quy định đặc biệt là hàng hoá gốc từ Mỹ đưa sang
nước khác để sắp xếp lại, gia công thêm khi nhập khẩu vào Mỹ sẽ không phải
đóng thuế nhập khẩu. Dựa vào qui định này một số nước nhận vải cắt sẵn từ
các công ty Mỹ may thành quần áo rồi xuất khẩu trở lại cho Mỹ chỉ phải chịu
thuê nhập khẩu đối với phần phí gia công.
Quy định về nhãn mác hàng: ở Mỹ có hai bộ luật quy định về nhãn mác
hàng là TFPIA và WPLA. Hai bộ luật này được áp dung cho hầu hết các sản
phẩm dệt may nhập khẩu vào Mỹ với quy định:
1. Phân biệt tỷ trọng các loại sợi trong sản phẩm. Những loại sợi nào có
tỷ trọng >5% thì phải được ghi rõ tỷ trọng từng loại và đề là “otherfiber”ở
cuối, các loại sợi có tỷ trọng <= 5% sẽ được đề là “other fibers”.
2. Tên của nhà sản xuất hoăc số hiệu đăng ký tại FTC cho những thành
viên tham gia phân phối và buôn bán sản phẩm. Thương hiệu phải được đăng
ký tại cơ quan sáng chế Mỹ.
3. Quy định ghi tên quốc gia sản xuất hay gia công sản phẩm được quy
định trong điều luật về chứng thực sản phẩm dệt TPIA. Đối với những lô hàng
nhâp vào Mỹ có giá trị từ 500USD trở lên phải tuân thủ những điều kiện sau:
Liệt kê tên các loai sợi cấu thành sản phẩm ; tỷ trọng các loại sợi cấu thành;
tên quốc gia đăng ký theo FTC hoặc theo mục 3 của TFPIA ; tên của quốc gia
sản xuất hoặc gia công sản phẩm đó.
15
Như vậy, để nhanh chóng tiêp cận thị trường Mỹ, các doanh nghiệp Viêt
Nam không những phải nắm vững nhu cầu thị trường, đảm bảo sản phẩm có
sức cạnh tranh về chât lượng cũng như giá cả mà còn phải có sự hiểu biết về
pháp luật Mỹ, các chính sách thương mại cũng như hiểu biết về phong cách
làm ăn của thương nhân Mỹ
2.1.2.4 Hiệp định thương mại Việt - Mỹ
Ngày 13/7/2000, Hiệp định thương mại song phương Việt -Mỹ đã được

ký kết, đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ kinh tế -thương mại giữa
hai nước, kết thúc một quá trình đàm phá n lâu dài và kiên trì của cả hai bên
qua 4 năm thương lượngvới 9 vòng đàm phán.
Hiệp định thương mại Việt - Mỹ bắt đầu có hiệu lực từ ngày 10-12-2001
sẽ đem lại cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam những cơ hội và thách thức
mới. Điều đó đòi hỏi chính phủ, đặc biệt là các nhà kinh doanh Việt Nam phải
tính tới và xây dựng cho được lộ trình bước đi thích hợp để đưa hoạt động
xuất khẩu đạt hiệu quả cao trong điều kiện hội nhập và cạnh tranh quốc tế gay
gắt để hàng hoá Việt Nam có được chỗ đứng xứng đáng trên thị trường đầy
tiềm năng này.
2.1.2.5 Đàm phán Hiệp định dệt may Viêt -Mỹ.
Khi hiệp định trương mại có hiệu lực, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang
Mỹ sẽ được hưởng quy chế thương mại bình thường. tuy nhiên trong hiệp
định cũng quy định rằng hàng dệt may sẽ bị hạn chế bằng kim ngạch Hiệp
định về hàng dệt may giữa Việt Nam - Mỹ, trong đó sẽ xác định các mức xuất
khẩu hàng dệt may từ Việt Nam sang Mỹ.
Khi hiệp định về hàng dệt may được ký kết thì những vấn đề cơ bản cho
việc nhập khẩu hàng dệt may vào Mỹ cần tuân theo là: Tuân thủ các quy định
về hạn ngạch và visa, nộp các bản kê khai về xuất sứ hàng hoá, các quy định
về nhãn hàng hoá Các sản phẩm nhập khẩu không đáp ứng được các quy
định của chính phủ sẽ bị giữ lại và có thể bị phạt hoặc bị tịch thu. Ngoài việc
phải tuân theo các quy định trên người xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ còn
phải tìm hiểu và tuân theo các hạn chế của Mỹ về nhập khẩu hàng dệt may.
16
Điều quan trọng là Việt Nam không thể không bàn sâu để ký hiệp định vì
phía Mỹ có thể đơn phương áp đặt hạn ngạch bất kỳ lúc nào theo yêu cầu của
giới sản xuất dệt may Mỹ vì Việt Nam chưa phải là thành viên của WTO.
2.2. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ.
2.2.1. Tình hình xuất khẩu những năm gần đây.
2.2.1.1 Tình hình xuất khẩu trước khi ký Hiệp định thương mại Việt -Mỹ.

Trước khi ký kết hiệp định thương mại Việt -Mỹ hàng Dệt -May của
Việt Nam chịu mức thuế thông thường, có nghĩa là từ 48%-90% đối với một
số sản phẩm.
Bảng2: Kim ngạch xuất khẩu và tốc độ xuất khẩu hang dệt may của Việt Nam sang Mỹ
(1996-2000)
Năm 1996 1997 1998 1999 2000
Kim ngạch xuất khẩu
(Tr USD)
19740 20000 26343 34700 49570
Tốc độ tăng trưởng
xuất khẩu (%)
39,90 9,70 1,97 31,44 7,95
Tạp chí kinh tế và phát triển
Qua bảng trên ta thấy: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam
sang thị trường Mỹ tăng dần lên qua các năm. Tuy nhiên với quy mô rất
khiêm tốn so với các nước cùng khu vực và có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu
không ổn định qua các năm.
2.2.1.2 Tình hình xuất khẩu sau khi Hiệp định thương mại Việt -Mỹ có hiệu
lực.
Ngay sau khi Hiệp định thương mại Việt -Mỹ có hiệu lực, hàng Việt
Nam có cơ hội rất lớn trong việc tiếp cận thị trường Mỹ. Nhất là đối với hàng
dệt may: Tỷ trọng của hàng dệt may Việt Nam trong tổng hàng dệt may nhập
khẩu của Mỹ đã tăng lên trong những tháng đầu năm 2002. Các mặt hàng dệt
may xuất khẩu sang Mỹ cũng đa dạng hơn so với trước đây. Vào tháng
1/2001, Việt Nam mới chỉ có khảng 17 chủng loại có số kim ngạch xuất khẩu
17
đáng kể. Nhưng đến tháng 7/2002 đã có đến 42 chủng loại khác nhau xuất
khẩu vào Mỹ. Đồng thời tỷ trọng của hàng dệt may trong tổng xuất khẩu của
Việt Nam sang Mỹ tăng lên rõ rệt. Năm 2001, hàng dệt may chỉ chiếm 4,7%
tổng xuất khẩu của Việt Nam thì đến tháng 7/2002 đã lên đến 24,2%, chỉ

đứng sau nhóm hàng hải sản, vượt qua các nhóm hàng truyền thống là khoáng
sản và giày dép. Mặc dù đã có sự đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, nhưng tỷ
trọng hàng dệt may tập trung chủ yếu vào các loại quần áo dệt kim và đệt thoi.
Các tỷ trọng khác chiếm tỷ trọng không lớn.
Như vậy, sau một năm Hiệp định thương mại Việt -Mỹ có hiệu lực, các
doanh nghiệp dệt may đã xuất khẩu sang Mỹ 975 triệu USD trong tổng số 2,
75 tỷ kim ngạch xuất khẩu năm 2002. Tính đến hết quý 1/2003, kim ngạch
xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đã đạt 850 triệu USD, tăng 90% so với
cùng kỳ năm trước. Trong đó kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ đạt
hơn 500 triệu USD, tăng gấp 20 lần so với cùng kỳ 2002. Dự kiến trong năm
2003, kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Mỹ sẽ đạt 1, 4 tỷ USD, trong tổng
số 3, 2 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu dự kiến trong năm 2003. Mỹ đã thực sự
trở thành thị trường lớn nhất của ngành dệt may Việt Nam, vượt qua các thị
trường truyền thống như EU, Nhật Bản.
Điều đó khẳng định khi một cơ chế “nhập cuộc’’mang tính khuyến khích
và công bằng được mở ra và thực hiện thì các doanh nghiệp Việt Nam thuộc
mọi thành phần kinh tế sẽ chứng minh được năng lực “chơi”và giành thắng
lợi trên thị trường thế giới.
2.2.2. Đánh giá chung tình hình thực hiện hoạt động xuất khẩu hàng dệt may
vào thị trường Mỹ.
2.2.2.1. Thuận lợi.
Mỹ là thị trường đầy tiềm năng với sức mua lớn và đa dạng về các sản
phẩm dệt may. Châu á là khu vực xuất khẩu hàng may mặc lớn nhất sang thị
trường Mỹ với tổng giá trị xuất khẩu năm 1999 là 30, 8 tỷ USD chiếm 55%
tổng chi phí nhập khẩu của Mỹ cho các mặt hàng này. Có thể nói yếu tố quan
trọng nhất giúp cho hành may mặc của các nước đang phát triển thiết lập và
củng cố vị trí vững chắc của họ trên thị trường Mỹ là nhờ lợi thế chi phí nhân
công thấp. Nước ta cũng không nằm ngoài thuần lợi này.
18
Ngành công nghiệp dệt may Việt Nam có lợi thế tương đối về nguồn

nhân công dồi dào và mức lương tương đối thấp so với các nước trong khu
vực. Tính đến nay dân số Việt Nam khoảng 80, 3 triệu người trong đó người
trong độ tổi lao động lớn. Hàng năm tốc độ phát triển dân số bình quân từ
1,85-2%, với tốc độ này theo các chuyên gia thì đến năm 2005 dân số Việt
Nam khoảng 87, 6 triệu người. Như vậy, nguồn lao động của Việt Nam ngày
càng tăng.
Mặt khác, bên cạnh lực lượng lao động dồi dào chi phí cho lao động của
Việt Nam thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Do vậy, giá sản
phẩm các mặt hàng dệt may của Việt Nam tương đối thấp so với các nước.
Ví dụ: nếu so với các nước Đông Nam á thì giá công may của Việt Nam
thấp từ 2 đến 48 lần và nếu so với Đức là 25,86 USD/h Nhật Bản là 19,2
USD/h Mỹ là 16,73 USD/h thì giá công may của Việt nam là từ 0,16-0,19
USD/h, thấp từ 100-150lần.
Để giảm tối đa chi phí cho dệt may xuất khẩu, tạo mọi điều kiện cho sản
phẩm dệt may cạnh tranh trên thị trường thế giới, chính sách thuế suất nhập
khẩu nước ta đã có nhiều ưu đãi cho ngành dệt may nh ư: áp dụng mức thuế
suất 0% đối với sản phẩm dệt may xuất khẩu. Thuế giá trị gia tăng cũng áp
dụng thuế suất 0%. Miễn thuế đối với vật tư nguyên liệu nhập khẩu để gia
công hàng cho nước ngoài. Không áp đặt giá tính thuế tối thiểu để xác định
giá tính thuế nhập khẩu đối với vật tư nguyên liệu sản xuất hàng dệt may thuế
suất đối với nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ ngành dệt may hầu hết là
0%, vật tư nguyên liệu của hàng dệt may có thuế suất thấp từ 0%-10%.
2.2.2.2. Khó khăn.
Trong nhứng năm gần đây, công nghiệp dệt may Viêt Nam đã có bước
tăng trưởng đáng kể. Ngành sử dụng nhiều lao động, giải quyết việc làm, có
đóng góp lớn vào xuất khẩu, tạo điều kiện ổn định cán cân thu chi ngoại tệ
theo hướng có tích luỹ. Thành công đó đạt được là nhờ những thuận lợi mà
ngành có, nếu phát huy cao độ tiềm năng và lợi thế so sánh về xuất khẩu
ngành công nghiệp dệt may Việt Nam có thể tăng trưởng nhanh hơn nhiều.
Bên cạnh những thuận lợi trên các doanh nghiêp dệt may còn găp rất nhiều

khó khăn khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
19
Thứ nhất: dệt và sản xuất phụ liệu chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu của
ngành may xuất khẩu.
Theo hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS) nguồn vốn đầu tư trong và
ngoài nước đổ vào ngành sợi, dệt đã đưa năng lực sản xuất của ngành này
tăng vọt.
Tuy nhiên quy mô của ngành sợi, dệt trong mấy năm qua tuy tăng nhanh
nhưng vẫn chưa theo kịp nhu cầu của ngành may. Ông Lê Quốc Ân, chủ tịch
hiệp hội cho biết các nhà máy dệt, sợi trong nước hiện đã chạy hết công suất
nhưng mới đáp ứng được khoảng một nửa nhu cầu vải của thị trường. Riêng
lĩnh vực may xuất khẩu, tỉ lệ sử dụng nguyên phụ liệu trong nước chỉ khoảng
25-30%. Hiện ngành trồng bông vải trong nước chỉ đáp ứng khoảng 11% nhu
cầu bông thiên nhiên của ngành kéo sợi, còn xơ tổng hợp phải nhập khẩu toàn
bộ.
Thứ hai: về thuế xuất. Hiện nay đã có trên 100 quốc gia được hưởng
GSP khi xuất khẩu dệt may vào thị trường Mỹ. Những sản phẩm được miễn
thuế phải thoả mãn yêu cầu là hàng được xuất khẩu từ chính nước được
hưởng GSP và được chế biến toàn bộ sản phẩm hoặc ít nhất là trên 30% giá
trị gia tăng tại chính nước này. Trong khi đó hiện nay Việt Nam vẫn chưa
được hưởng ưu đãi GSP. Việc ưu đãi GSP chỉ được thực hiện sau khi Việt
Nam đạt được quy chế tối huệ quốc với Mỹ và thành viên của WTO và IMF.
Thứ ba: Chưa có đội ngũ thiết kế mẫu mã hợp với thị hiếu tiêu dùng trên
thế giới.
Công tác thiết kế mẫu mốt còn yếu, chưa được chú trọng mặc dù nước ta
có một đội ngũ các nhà thiết kế trẻ giầu năng lực thế nhưng mẫu mã thiết kế
chưa thật sự đi vào cuộc sống. Còn thời trang hàng ngày phần lớn lại được
sưu tầm từ các cataloguc nước ngoài, khâu thiết kế còn nhiều hạn chế, chưa
xây dựng được thương hiệu mang nét đặc trưng và đạt tầm cỡ quốc tế. Đó
cũng chính là một trong những nguyên nhân khiến hàng dệt may Việt Nam dù

có ưu thế nhưng vẫn chưa thể tự chủ để phát triển và hội nhập với thương
trường quốc tế.
Mặt khác, một sản phẩm sau khi được đưa ra thị trường lại được duy trì
trên thị trường khá lâu. Chỉ khi nào thấy người tiêu dùng đã chán sản phẩm
20
đó, doanh nghiệp mới thôi không sản xuất nữa. Điều này có tác hại rất lớn là,
mặc dù khi doanh nghiệp phát hiện ra sự đi xuống trong chu kỳ sống của sản
phẩm thì dừng lại không sản xuất nữa nhưng thực ra trên thị trường vẫn tồn
đọng một số lượng sản phẩm chưa tiêu thụ được. Khác với chúng ta, các
doanh nghiệp nước ngoài biết kết thúc sản xuất ngay từ khi sản phẩm đang ở
đỉnh cao của chu kỳ sống và đưa ra ngay sản phẩm mới khác.
Thứ tư: Khả năng cạnh tranh.
Bên cạnh trở ngại thuế quan, để tăng cường xuất khẩu sang thị trường
Mỹ hàng dệt may Việt Nam phải đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm của các
hãng sản xuất Mỹ và các nước xuất khẩu truyền thống vào thị trường này như
Trung Quốc, ấn Độ và các nước Nam Mỹ. Mặt khác chúng ta mất dần lợi thế
vào thị phần do giá hàng dệt may thường cao hơn các nước trong khu vực
khoảng 10-15%,cao hơn giá hàng Trung Quốc khoảng 20%. Năng suất lao
động trong ngành may bằng khoảng 50-70% so với các nước trong khu vực.
Thứ năm: Về hệ thống pháp luật và thông tin của thị trường Mỹ:
Hệ thống luật pháp của Mỹ hết sức phức tạp, mỗi bang lại có thể lệ
riêng không thể áp dụng từ bang này sang bang khác. Trong khi đó, các doanh
nghiệp lại thiếu kinh nghiệm về thị trường Mỹ, thiếu hiểu biết về môi trường
kinh doanh nước Mỹ và thiếu kinh nghiệm kinh doanh quốc tế nên thường bị
ép gi á, giao hàng không đúng thời hạn, chậm đổi mới. . . đã làm cho sức cạnh
tranh vốn đã yếu của hàng hoá Việt Nam càng khó có thể thâm nhập nhanh và
hiệu quả vào thị trường này.
Sự yếu kém trên nhiều phương diện của các doanh ngiệp Việt Nam so với
các đối thủ cạnh tranh trên thị trường Mỹ đã trở thành hàng rào cản trở việc
thâm nhập vào thị trường Mỹ của các doanh ngiệp Việt Nam trong những

năm qua. Vấn đề đặt ra là bất cứ lúc nào các doanh ngiệp Việt Nam cũng phải
nhận thức được các cơ hội và thách thức trong việc thâm nhập vào thị trường
Mỹ, trên cơ sở đó mà áp dụng các giải pháp đưa được nhiều hàng hoá của
Việt Nam sang Mỹ.
21
2.2.3. Những thời cơ và thách thức đặt ra đối với hàng dệt may xuất khẩu vào
thị trường Mỹ:
Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới
và khu vực, việc kí kết và thực thi Hiệp định thương mại Việt-Mỹ sẽ đưa lại
cho Việt Nam thời cơ và thách thức không nhỏ.
2.2.3.1. Thời cơ:
 Hiệp định thương mại Việt -Mỹ (BTA) kí kết ngày 13/7/2000 được
quốc hội hai nước phê chuẩn và có hiệu lực từ ngày 10/12/2001 là cơ hội
bằng vàng cho ngành dệt may Việt Nam. Hiệp định BTA có hiệu lực và thị
trường được mở rộng sẽ cho phép dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ được
hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN hay NTR) và ưu đãi phổ cập -GSP với
thuế xuất 0%. Đây là cơ hội tiên quyết để dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị
trường Mỹ mà không bị hạn chế bởi hạn ngạch hay giấy phép nhập khẩu của
chính phủ Mỹ đang áp dụng với các nước khác, lợi thế này chỉ có thể kéo dài
trong vòng 1 năm kể từ khi hiệp định thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực. Song
nếu biết tận dụng cơ hội thì các doanh ngiệp dệt may Việt Nam có thể đẩy
mạnh hàng xuất khẩu Việt Nam vào thị trường này.
 An ninh kinh tế và chính trị của Việt Nam được các tổ chức có uy tín
trên thế giới xếp loại nhất trong khu vực Châu á. Vì vậy sự kiện 11-9 lại là cơ
hội vàng cho ngành dệt may Việt Nam, vì các doanh nghiệp Mỹ không muốn
ký kết hợp đồng làm ăn với những nơi không ổn định về chính trị. Nhiều đơn
đặt hàng dệt may Mỹ từ những nước có kim ngạch xuất khẩu lớn được
chuyển sang những nước có nền chính trị ổn định như Trung Quốc, Việt Nam.
. . Các tập đoàn lớn của Mỹ như JC PENNY, NIKE. . . đã chính thức đặt quan
hệ với các doanh nghiệp Việt Nam; đồng thời các nhà đầu tư nước ngoài sẽ

tập trung triển khai nhanh các dự án dệt may tại Việt Nam. Vì Việt Nam là
nước được cộng đồng quốc tế đánh giá là một thị trường tiềm năng ổn định và
có mức đầu tư tăng.
 Mỹ bảo hộ hàng dệt là chính. Do đó lợi thế thứ ba là Việt Nam xuất
khẩu hàng may mặc là chủ yếu, còn hàng dệt hiện nay đang tụt hậu nên không
đạt mục tiêu cao cho mặt hàng này vào thị trường Mỹ, bởi vậy không cần
thiết phải áp dụng quota.
22
 Một lợi thế nữa là: Sự phát triển của khoa học kỹ thuật giúp cho các
tổng công ty xuất khẩu Việt Nam giới thiệu và bán trực tiếp hàng may mặc
cho người tiêu thụ thay vì qua các trung gian. Giá bán qua trung gian là giá đã
bị ép rất nhiều, qua thương mại điện tử nếu bán trực tiếp được cho các bạn
hàng lẻ thì giá có khả năng nâng lên từ 30% đến 50% thậm trí từ 80% đến
100% so với giá bán cho các nhà nhập khẩu nước ngoài. Phương án thương
mại điện tử và bán trực tiếp cho những người buôn bán lẻ và những người tiêu
thụ vừa tăng giá hàng vừa nhân gấp bội lần số hàng xuất khẩu và giải quyết
cơ bản việc các doanh nghiệp Việt Nam xé rào nhận gia công với giá thấp.
2.2.3.2 Bên cạnh những thời cơ, ngành dệt may Việt Nam đang phải đối mặt
với những thách thức lớn.
Hàng dệt may là lĩnh vực các nước đang phát triển có lợi thế và tiềm
năng phát triển cao bởi đặc thù của ngành này là sử dụng nhiều lao động,
công nghệ tương đối dễ tiếp cận, quy mô thị trường tiêu thụ lớn. . . Do vậy
trong định hướng phát triển kinh tế đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã quan
tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi để đưa dệt may trở thành một trong những
ngành kinh tế mũi nhọn hướng ra thị trường khu vực và quốc tế. Tuy vậy,
trong xu hướng hội nhập kinh tế khu vực và thế gới, trước những khó khăn
chủ quan cũng như khách quan của nền kinh tế nước nhà thì bên cạnh những
cơ hội là không ít những thách thức đang chờ đón.
Thuế suất: Mỹ là thị trường tiềm năng với sức mua lớn và đa dạng về các
sản phẩm dệt may. Thực tế cho thấy mặc dù sản phẩm dệt may Việt Nam đã

bắt đầu tìm thấy hy vọng trên thị trường Mỹ nhưng qua những khó khăn mà ta
gặp phải cho thấy nó chưa có được vị trí vững chắc trên thị trường đầy hấp
dẫn này. Những yếu tố pháp lý là những rào cản lớn cho hàng dệt may Việt
Nam trong đó yếu tố quan trọng nhất là sự phân biệt đối sử về thuế suất do
Việt Nam chưa ra nhập WTO.
Hạn ngạch: Thị trường Mỹ tuy tiềm năng vô cùng to lớn nhưng Việt
Nam vừa mới tiếp cận và được hưởng ưu đãi một năm thì Mỹ đã yêu cầu
đàm phán để áp đặt hạn ngạch trong khi chỉ còn hai năm nữa là bãi bỏ hạn
ngạch hoàn toàn. Để hoàn thành quá trình đàm phán ra nhập chúng ta phải
thoả mãn hàng loạt những yêu cầu của các nước thành viên WTO, điều đó
đồng nghĩa với việc mở cửa thị trường trong nước cho các nước thành viên
khác thâm nhập và cùng đặt các nhà sản xuất hàng hoá Việt Nam trước những
23
thách thức hết sức to lớn. Rõ ràng mâu thuẫn giữa tất yếu hội nhập và thách
thức cạnh tranh, bảo vệ và phát triển nền sản xuất dân tộc là mâu thuẫn
không thể lý giải. Chúng ta hội nhập muộn màng, thời gian kinh tế thế giới
tiến đến toàn cầu hoá không còn bao lâu nữa, nếu chúng ta do dự thì mặt trái
của quá trình toàn cầu hoá sẽ tác động vào nền kinh tế nước ta càng mạnh
hơn.
Trong những tháng đầu năm 2003 này các doanh nghiệp dệt may Việt
Nam đang lo lắng về việc Mỹ sẽ áp dụng hạn ngạch đối với hàng dệt may
Việt Nam. Mỹ chỉ áp dụng hạn ngạch đối với hàng dệt may của Campuchia
27 tháng sau khi thực hiện Hiệp định thương mại với nước này và với Trung
Quốc là 3 năm còn Việt Nam chỉ chưa đầy 16 tháng sau khi thực thi Hiệp
định thương mại song phương là không công bằng, đồng thời thể hiện sự bất
bình đẳng trong quan hệ kinh doanh. Tuy nhiên thực tế, trong vòng đàm phán
thứ hai giữa Việt Nam và Mỹ về Hiệp định dệt may song phương diễn ra ngày
9/4/2003 tại Mỹ, hai bên đã cơ bản nhất trí Việt Nam sẽ xuất khẩu sang Mỹ số
hàng dệt may trị giá tối đa là 1, 7 tỉ USD mỗi năm và riêng hạn ngạch (quota)
tối thiểu của năm 2003 là 1, 5 tỉ USD. Như vậy Mỹ đã áp đặt hạn ngạch quá

thấp so với năng lực sản xuất thực tế của các doanh nghiệp Việt Nam.
Sự cạnh tranh gay gắt các sản phẩm của Mỹ và các nước suất khẩu
truyền thống vào Mỹ như Bănglađet, ấn Độ nhất là Trung Quốc.
Theo kết quả nghiên cứu của một nhóm chuyên gia, khả năng tiếp cận thị
trường nước ngoài hiện nay của ngành dệt may Việt Nam bị nhiều cản trở. Số
lượng hạn ngạch được hưởng chỉ bằng 5% của Trung Quốc và bằng 10%-
20% của các nước ASEAN, số mặt hàng bị hạn chế nhiều.
Trung Quốc giữ vị trí hàng đầu trong ngành dệt may thế giới về sản
lượng sợi bông và đứng thứ hai về sợi hoá học (2, 9 triệu tấn). Kể từ đầu
những năm 90, Trung Quốc luôn là một trong những nước đứng đầu thế giới
về xuất khẩu hàng dệt và may mặc, kim ngạch xuất khẩu chiếm tỷ trọng ngày
càng cao trong tổng kim ngạch buôn bán dệt may toàn cầu. Ngành dệt may
Trung Quốc là một ngành có sức cạnh tranh mạnh nhất trên thị trường thế
giới vì ngành này có nhiều lợi thế rất lớn từ nguyên liệu bông, xơ hoá chất,
thuốc nhuộm đến máy móc thiết bị sợi, dệt, hoàn tất đều do các ngành sản
xuất trong nước cung cấp cùng với giá nhân công thấp và các chính sách hỗ
trợ xuất khẩu của chính phủ Trung Quốc đã làm cho ngành này phát triển
24
nhanh chóng. Trung Quốc lại là thành viên của WTO và đã được hưởng quy
chế tối huệ quốc của Mỹ từ nhiều năm nay nên đã chiếm lĩnh được thị trường
quan trọng này.
Mặt khác các doanh nghiệp Trung Quốc đã xây dựng được hệ thống cập
nhật thông tin chính xác cũng như có khả năng thích ứng kịp thời trước những
yêu cầu mới của thị trường để luôn tung ra những sản phẩm mới. Về điểm
này, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa theo kịp. Ngoài ra theo các chuyên
gia nghiên cứu cho thấy nhiều doanh nghiệp Việt Nam chỉ nghĩ tới việc thay
đổi mẫu mã sản phẩm khi chu kỳ sống của sản phẩm đó đã bước sang giai
đoạn thoái trào, hàng không bán được nữa. Điều này khiến cho dù đã chấm
dứt sản xuất nhưng sản phẩm đó vẫn còn lưu thông rất nhiều trên thị trường.
Trong khi đó, các doanh nghiệp Trung Quốc luôn thay đổi mẫu từ khi sản

phẩm vẫn còn đang ăn khách nên mẫu mã hàng hoá của các doanh nghiệp
Trung Quốc luôn mới.
Như vậy ta thấy sản phẩm dệt may củaTrung Quốc có sự cạnh tranh với
sản phẩm dệt may của nước ta gay gắt nhất, không những sự cạnh tranh đó ở
những thị trường trọng điểm như Mỹ, Nhật Bản mà còn tại trong thị trường
nội địa của Việt Nam.

25

×