Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

giải pháp thu hút fdi của eu vào việt nam giai đoạn 2006 – 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 89 trang )


LỜI MỞ ĐẦU
Quá trình toàn cầu hoá đang thúc đẩy mạnh mẽ sự hội nhập của các nước
vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Có thể nói, hiện nay hầu như không có quốc
gia nào đứng ngoài quá trình hội nhập quốc tế nếu không muốn tự cô lập mình và
rơi vào nguy cơ tụt hậu. Với truyền thống lịch sử lâu đời và nền văn hoá đậm đà
bản sắc dân tộc, cộng thêm vị trí địa lý quan trọng ở Đông Nam Á, Việt Nam có
thể giúp EU rất nhiều trong việc mở rộng và đẩy mạnh mối quan hệ cần thiết đối
với Việt Nam trong ngưỡng cửa của thế kỷ mới, nhất là trong nền kinh tế tri thức
hiện nay.
Xu thế hiện nay của thế giới là tự do hoá thương mại và đầu tư, trong đó
đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hoạt động có vị trí ngày càng quan trọng đối
với cả nước đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Khai thác sử dụng ĐTNN một cách
có hiệu quả đang là mục tiêu ưu tiên hàng đầu của nhiều nước trên thế giới, nhất
là đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành năm 1987,
không ai có thể phủ nhận những đóng góp to lớn mà nguồn vốn này đã mang lại
cho sự phát triển kinh tế ở Viêt Nam. Nói cách khác, Việt Nam không thể thiếu
nguồn vốn này cho sự phát triển kinh tế nếu muốn hoà nhập vào nền kinh tế thế
giới và không muốn tụt hậu.
Sau hàng loạt sự kiện xảy ra trong thập kỷ 90, đặc biệt là sự sụp đổ của các
nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô cũ và cuộc khủng hoảng tài chính -
tiền tệ Châu Á năm 1997, nền kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng hụt hẫng do
mất đi các thị trường truyền thống và sự suy giảm của các hoạt động kinh tế đối
ngoại. Do đó, xuất hiện một yêu cầu mới là cần phải thường xuyên mở rộng và
nâng cao hiệu quả quan hệ hợp tác, đầu tư với các nước trên thế giới, nhất là với
những nước phát triển cao, có công nghệ kỹ thuật tiên tiến như các nước EU. Tuy
nhiên, cho đến nay dù các nhà đầu tư EU đã có nhiều dự án đầu tư lớn ở Việt
Nam với 2 nước thành viên là Pháp và Hà Lan đứng trong top 10 nhà đầu tư lớn
- 1 -


nhất ở Việt Nam, nhưng về tài chính cũng như kỹ thuật, lượng vốn đầu tư trực
tiếp mà họ đưa vào Việt Nam vẫn chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng đầu tư trực tiếp
của EU vào Việt Nam, phân tích những thành công cũng như trở ngại của hoạt
động này không những sẽ giúp chúng ta hình dung đầy đủ hơn bức tranh ĐTNN
ở Việt Nam hiện nay, mà còn góp phần cung cấp những hiểu biết để đưa ra
những chính sách, kiến nghị góp phần tích cực vào việc thúc đẩy hơn nữa hoạt
động này. Đây sẽ là những căn cứ quan trọng để hoạch định chính sách kinh tế
đối ngoại của Việt Nam với các nước thành viên EU.
Với những lý do đó, đề tài “Giải pháp thu hút FDI của EU vào Việt
Nam giai đoạn 2006 – 2010” được chọn làm luận văn tốt nghiệp. Bài viết được
thực hiện theo các phương pháp sau : phương pháp phân tích tổng hợp, phương
pháp so sánh, phương pháp quy nạp và diễn giải, phương pháp thống kê và mô
tả…
Luận văn được kết cấu thành 3 chương :
Chương I : Vốn FDI và vấn đề thu hút vốn FDI phát triển kinh tế Việt Nam
Chương II : Thực trạng thu hút FDI của EU vào Việt Nam giai đoạn 1988 –
2004
Chương III : Giải pháp thu hút FDI của EU vào Việt Nam giai đoạn 2006 –
2010
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của GS.TS. Vũ Thị Ngọc
Phùng, ThS. Nguyễn Quỳnh Hoa, cùng các chuyên viên của Cục Đầu tư nước
ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong quá trình hoàn thành luận văn này.
CHƯƠNG I :
- 2 -

VỐN FDI VÀ VẤN ĐỀ THU HÚT FDI PHÁT TRIỂN
KINH TẾ VIỆT NAM
I/ Một số lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam
1. Khái niệm và phân loại đầu tư nước ngoài

1.1. Khái niệm về đầu tư nước ngoài (ĐTNN)
Đầu tư là quá trình sử dụng các nguồn lực nhằm sản xuất hàng hoá đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội.
Kết quả hoạt động đầu tư là sự tăng lên về giá trị của tài sản hữu hình hoặc
vô hình. Kết quả này không chỉ chủ đầu tư mà còn cả nền kinh tế được thụ
hưởng.
Vốn đầu tư là những tài sản. Trên giác độ quốc gia, nguồn vốn đầu tư được
chia làm hai loại là nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. Do đó, hoạt
động đầu tư cũng được phân chia thành hai hình thức cơ bản là đầu tư nước
ngoài và đầu tư trong nước.
ĐTNN là những phương thức đầu tư vốn, tài sản ở nước ngoài để tiến hành
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ với mục đích tìm kiếm lợi nhuận hoặc những mục
tiêu phát triển khác.
Về bản chất, ĐTNN là những hình thức xuất khẩu tư bản, một hình thức
cao hơn của xuất khẩu hàng hoá. Đây là hai hình thức xuất khẩu luôn bổ sung và
hỗ trợ nhau trong chiến lược thâm nhập chiếm lĩnh thị trường của các công ty,
tập đoàn nước ngoài hiện nay.
Hoạt động ĐTNN diễn ra ngày càng mạnh mẽ cả về quy mô lẫn tốc độ. Có
nhiều nguyên nhân tạo ra sự vận động của các dòng vốn trên thế giới. Sau đây là
một số nguyên nhân trực tiếp :
Thứ nhất, sự phát triển không đều về lực lượng sản xuất của các quốc gia
đã tạo ra những lợi thế khác biệt của mỗi nước. Nhằm đạt được lợi ích cao nhất,
sự kết hợp lợi thế để tăng cường phát triển đã hình thành nên những quan hệ về
đầu tư nói riêng và các quan hệ quốc tế nói chung.
- 3 -

Thứ hai, xu thế bảo hộ mậu dịch ngày càng gia tăng và tinh xảo nhằm vào
bảo hộ nền sản xuất trong nước. Để vượt qua hàng rào bảo hộ này đầu tư trực
tiếp là phương án hữu hiệu.
Thứ ba, quy mô tích luỹ của các nước phát triển rất lớn, giá cả của lao

động và các yếu tố đầu vào khác rất cao làm giảm tỷ suất lợi nhuận. Mặt khác,
nhiều sản phẩm ở các nước này trở nên lỗi thời được các nhà tư bản chuyển qua
các nước đang phát triển để sản xuất và tiêu thụ. Việc sản xuất tại các nước đang
phát triển không những giúp vượt qua hàng rào bảo hộ mà còn giúp các nhà tư
bản tiết kiệm được chi phí về tài nguyên, lao động và mở rộng thị trường tiêu thụ.
Thứ tư, các nước đang phát triển gặp khó khăn trong việc huy động vốn
cho phát triển kinh tế do tích luỹ nội bộ còn hạn chế. Để phục vụ cho quá trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH – HĐH) cần một lượng vốn đầu tư rất lớn.
Huy động vốn nước ngoài là giải pháp hiệu quả, không những rút ngắn thời gian
phát triển mà còn tạo động lực cho sự tăng trưởng. Chính phủ của các nước này
đưa ra nhiều chính sách khuyến khích ĐTNN, chủ động thu hút các nguồn vốn từ
bên ngoài. Những biện pháp đó đã tạo nhiều cơ hội bỏ vốn đầu tư, hấp dẫn các
nhà ĐTNN.
1.2. Phân loại đầu tư nước ngoài
ĐTNN được chia thành hai hình thức đầu tư : Đầu tư trực tiếp và đầu tư
gián tiếp. Đây là cách phân loại ĐTNN cơ bản theo mối quan hệ giữa quyền sở
hữu và quyền sử dụng vốn.
1.2.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
FDI là hoạt động chủ yếu của ĐTNN, theo đó chủ ĐTNN đóng góp một số
vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ, cho phép họ trực tiếp tham gia
điều hành đối tượng mà họ tự bỏ vốn đầu tư. Trong trường hợp này, quyền sử
dụng vốn thống nhất với quyền sở hữu vốn. Quyền lợi và nghĩa vụ tương xứng
với tỷ lệ vốn góp.
- Xét trên khía cạnh quyền sở hữu : FDI là một loại hình ĐTNN được thực
hiện khi quyền sử dụng gắn liền với quyền sở hữu tài sản đầu tư. Để nhận biết
ĐTNN có phải là đầu tư trực tiếp hay không, mỗi nước đều đưa ra tiêu chuẩn xác
định riêng. Ví dụ ở Mỹ, FDI bao gồm tất cả các dạng đầu tư, từ đầu tư chứng
- 4 -

khoán đến cho vay, với điều kiện là công ty đầu tư phải nắm giữ hơn 10% sở hữu

tài sản của một công ty nước ngoài. Theo tổng kết tiêu chuẩn của một số nước
cho thấy, một công ty hoạt động đầu tư chiếm ít nhất 10% hoặc 25% sở hữu tài
sản của một công ty nước ngoài thì đầu tư đó có thể được xếp vào hạng đầu tư
trực tiếp nước ngoài.
- Xét trên khía cạnh cán cân thanh toán, FDI thường được hiểu là phần
tăng thêm trên giá trị sổ sách của lượng đầu tư ròng ở một quốc gia được thực
hiện bởi các nhà ĐTNN, đồng thời các nhà đầu tư này cũng chính là những người
sở hữu chính và nắm giữ quyền kiểm soát quá trình đầu tư đó.
- Trên thực tế phần lớn FDI được thực hiện dưới dạng các công ty con
hoặc các công ty trực thuộc các công ty xuyên quốc gia (TNCs) và nhà đầu tư là
những tổ chức chóp bu của các công ty này. Một điều đáng lưu ý là ngày nay
FDI còn được thực hiện bởi các công ty nhỏ và vừa. Tuy nhiên, TNCs vẫn giữ
vai trò chủ đạo trong quá trình này. Do đó, FDI có thể được hiểu là sự mở rộng
phạm vi hoạt động sản xuất kinh doanh của TNCs trên phạm vi quốc tế. Sự mở
rộng đó bao gồm sự chuyển giao vốn, công nghệ, và các kỹ năng sản xuất và bí
quyết quản lý tới nước tiếp nhận đầu tư để thực hiện quá trình sản xuất kinh
doanh theo kế hoạch của dự án đầu tư.
- Theo Điều 2 Luật ĐTNN tại Việt Nam năm 1996 : “FDI là việc nhà
ĐTNN đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bằng bất kỳ tài sản nào để tiến
hành hoạt động đầu tư theo quy định của luật này”.
Hình thức đầu tư này có một số đặc điểm cơ bản sau :
Thứ nhất, đây là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư
tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ
lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những
ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế.
Thứ hai, chủ ĐTNN điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên doanh
tuỳ theo tỷ lệ góp vốn của mình. Đối với nhiều nước trong khu vực, chủ đầu tư
chỉ được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong một số lĩnh vực
nhất định và chỉ được tham gia bên liên doanh với số vốn cổ phần của bên nước

- 5 -

ngoài nhỏ hơn hoặc bằng 49% ; 51% cổ phần còn lại do nước chủ nhà nắm giữ.
Trong khi đó, Luật ĐTNN của Việt Nam cho phép rộng rãi hơn đối với hình thức
100% vốn nước ngoài và quy định bên nước ngoài phải góp tối thiểu 30% vốn
pháp định của dự án.
Thứ ba, thông qua FDI, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kỹ
thuật tiên tiến học hỏi kinh nghiệm quản lý… là những mục tiêu mà các hình
thức đầu tư khác không giải quyết được.
Thứ tư, nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của
chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định mà trong quá trình hoạt động, nó còn
bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng
như vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được.
Ở Việt Nam, hình thức FDI chủ yếu là xây dựng mới. Với một đất nước
còn nghèo nàn lạc hậu như Việt Nam, hình thức này phát huy nhiều ưu thế và
được khuyến khích của chính phủ theo quy định của pháp luật.
Hiệu quả tài chính của việc sử dụng vốn FDI thường rất cao. So với việc
sử dụng vốn đầu tư gián tiếp, ở Việt Nam, chủ yếu là vốn ODA, hiệu quả trong
quá trình sử dụng vốn FDI là thách thức đối với chính phủ và các cơ quan nhà
nước trong việc sử dụng vốn ODA. Có nhiều lý do dẫn đến sự khác nhau trong
việc sử dụng vốn. Lý do thứ nhất là chủ đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ đầu tư
cho những dự án có độ tin cậy về tính hiệu quả cao dựa theo kinh nghiệm dày
dạn trên thương trường của họ. Lý do thứ hai là chủ sở hữu vốn trong hoạt động
FDI cũng chính là đối tượng thụ hưởng còn trong hoạt động đầu tư gián tiếp, đối
tượng thụ hưởng trực tiếp từ dự án không phải là chủ đầu tư. Những lý do đó tạo
nên tâm lý sợ trách nhiệm, phó mặc trong hoạt động đầu tư gián tiếp, hậu quả là
tính hiệu quả kinh tế xã hội không cao.
Bên cạnh những ưu điểm nổi bật trên, hình thức chuyển giao vốn này chứa
đựng khả năng các doanh nghiệp có vốn nước ngoài trở thành lực lượng thống trị
nền kinh tế bản địa. Trường hợp này xảy ra khi việc kiểm soát và điều tiết của

chính phủ nước chủ nhà với hoạt động FDI lơi lỏng. Việc cạnh tranh trong thu
hút vốn FDI buộc chính phủ các nước có những biện pháp nới lỏng quản lý. Khi
đó, khả năng chuyển giao công nghệ cho nước chủ nhà sẽ không được thực hiện
- 6 -

theo mong muốn của nước chủ nhà, đặc biệt là với các doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài.
Muốn khắc phục được những hạn chế trên, nước chủ nhà cần có đội ngũ
các nhà quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật giỏi để tiếp nhận và quản lý vốn FDI.
Kinh nghiệm phát triển của các nước Đông Á cho thấy, vốn FDI có vai trò trong
quá trình tăng trưởng thần kỳ của họ. Có nghĩa là vấn đề về hiệu quả sử dụng vốn
tuỳ thuộc vào cách huy động và quản lý sử dụng vốn ở nước tiếp nhận chứ không
chỉ phụ thuộc vào ý đồ của nhà ĐTNN.
Như vậy, FDI với tư cách là phương thức hoạt động chủ đạo của TNCs
không chỉ đơn thuần là sự chu chuyển tài chính quốc tế, mà cùng với nó là sự
chuyển giao công nghệ và các tài sản vô hình khác. Về thực chất, đây chính là
nhân tố tạo nên sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ trong dài hạn.
1.2.2. Đầu tư gián tiếp (FPI)
Đầu tư gián tiếp là một hình thức của ĐTNN, trong đó chủ sở hữu vốn
không trực tiếp quản lý và điều hành các hoạt động sử dụng vốn đầu tư.
Loại hình đầu tư này có hai phương thức thực hiện là cho vay và viện trợ.
Cho vay được thực hiện qua hai dạng là vay với lãi suất thường và vay ưu đãi.
Vốn từ hình thức vay ưu đãi và vốn viện trợ không hoàn lại là bộ phận cầu thành
vốn phát triển chính thức (ODA).
Đầu tư gián tiếp có 5 đặc điểm cơ bản sau :
- Vốn của các tổ chức quốc tế, chính phủ nước ngoài thường có ưu đãi và
một số ràng buộc nhất định, thông thường tài trợ qua hình thức ODA. Mục tiêu
của chủ đầu tư chủ yếu là nâng cao mức sống của nhân dân bằng việc đầu tư phát
triển kết cấu hạ tầng, nâng cao dân trí, sức khoẻ, bảo vệ môi trường…
- Vốn của tư nhân tập trung vào việc cho vay, đầu tư chứng khoán. Thông

thường, việc đầu tư cho cổ phần bị ràng buộc bởi tỷ lệ vốn góp.
- Chủ đầu tư nước ngoài không trực tiếp điều hành hoạt động của các
doanh nghiệp mà họ bỏ vốn đầu tư, do đó bên tiếp nhận đầu tư có toàn quyền chủ
động hoàn toàn trong kinh doanh.
- 7 -

- Chủ ĐTNN thu lợi nhuận qua lãi suất cổ phiếu không cố định, tuỳ thuộc
vào kết quả kinh doanh.
- Tuy doanh nghiệp đầu tư không có khả năng, cơ hội tiếp thu công nghệ,
kỹ thuật hiện đại, kinh nghiệm quản lý nhưng thay vào đó, doanh nghiệp có khả
năng phân tán rủi ro kinh doanh trong những người mua cổ phiếu, trái phiếu
doanh nghiệp. Do đó mà chủ đầu tư ít chịu sự rủi ro hơn hình thức FDI.
Kết quả của hoạt động đầu tư gián tiếp là bước chuẩn bị quan trọng cho
việc thu hút và sử dụng hiệu quả vốn FDI.
Bên cạnh đó, đầu tư gián tiếp cũng có những nhược điểm nhất định :
- Nước nhận vốn đầu tư có thể sử dụng sai mục đích, hiệu quả sử dụng vốn
không cao hoặc sử dụng lãng phí để lại gánh nặng nợ nần cho thế hệ sau.
- Với các hình thức mua cổ phần, chủ đầu tư bị hạn chế ở tỷ lệ cổ phần
được phép sở hữu đã làm giảm khả năng thu hút vốn.
- Nước nhận vốn không tiếp thu được công nghệ và kinh nghiệm quản lý.
Với các nước đang phát triển (LDCs), vốn ODA có vai trò to lớn trong
việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển các ngành năng lượng, góp phần
giải quyết tình trạng đói nghèo, lạc hậu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng
các nguồn vốn khác. Vấn đề đặt ra đối với các LDCs và các tổ chức tài trợ là việc
sử dụng hiệu quả phục vụ mục tiêu phát triển.
2. Các hình thức FDI tại Việt Nam
Luật ĐTNN Việt Nam quy định 3 hình thức FDI vào Việt Nam như sau :
2.1. Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai hoặc nhiều bên hợp tác
thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định giữa chính

phủ Việt Nam với chính phủ nước ngoài; hoặc do doanh nghiệp liên doanh hay
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hợp tác với các doanh nghiệp khác hoặc chủ
ĐTNN trên cơ sở hợp động liên doanh.
Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo mô hình công ty trách nhiệm
hữu hạn. Mỗi bên chịu trách nhiệm tương xứng với tỷ lệ vốn góp trong liên
- 8 -

doanh. Doanh nghiệp liên doanh có tư cách pháp nhân và được hoạt động từ khi
có giấy phép đầu tư.
Vốn pháp định của liên doanh ít nhất phải bằng 30% vốn đầu tư. Đối với
những doanh nghiệp hoạt dộng trong lĩnh vực chính phủ khuyến khích đầu tư, tỷ
lệ này có thể thấp hơn nhưng không dưới 20% vốn đầu tư.
Tỷ lệ đóng góp của bên nước ngoài do các bên thoả thuận nhưng không
thấp hơn 30% vốn pháp định của liên doanh. Những lĩnh vực chính phủ khuyến
khích đầu tư , tỷ lệ này có thể thấp hơn nhưng không dưới 20% vốn pháp định.
2.2. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu
của nhà ĐTNN lập tại Việt Nam, tự tổ chức quản lý và chịu trách nhiệm về kết
quả hoạt động kinh doanh của mình.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập theo hình thức công
ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH), mang tư cách pháp nhân Việt Nam.
Vốn pháp định của doanh nghiệp ít nhất phải bằng 30% vốn đầu tư; trừ
trường hợp đầu tư vào những vùng khó khăn tỷ lệ này có thể thấp đến 20% vốn
đầu tư.
Trong quá trình hoạt động không được giảm vốn pháp định, tăng vốn pháp
định phải xin phép.
2.3. Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa 2 bên hoặc nhiều bên
quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành
đầu tư kinh doanh ở Việt Nam mà không thành lập pháp nhân.

Thực hiện chính sách khuyến khích ĐTNN tại Việt Nam, Luật ĐTNN và
các luật chuyên ngành quy định nhiều hình thức của hợp đồng hợp tác kinh
doanh. Nhà ĐTNN có thể lựa chọn cách đầu tư phù hợp nhất, đó là :
- Hợp đồng xây dựng – kinh doanh - chuyển giao (BOT) : là văn bản ký
kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam với các nhà ĐTNN để
xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian xác định.
- 9 -

Hết thời hạn, nhà ĐTNN chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho nhà
nước Việt Nam.
- Hợp đồng xây dựng - chuyển giao – kinh doanh (BTO) : là văn bản ký
kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam với nhà ĐTNN để xây
dụng công trình kết cầu hạ tầng, sau khi xây dựng xong, nhà ĐTNN chuyển giao
công trình đó cho nhà nước Việt Nam, chính phủ Việt Nam dành cho nhà đầu tư
quyền kinh doanh công trình đó trong một thời gian xác định để thu hút vốn và
lợi nhuận hợp lý.
- Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT) : là văn bản ký kết giữa cơ quan
nhà nước có thẩm quyền với nhà ĐTNN để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng.
Sau khi xây dựng xong, nhà ĐTNN chuyển giao công trình đó cho nhà nước Việt
Nam, chính phủ Việt Nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để
thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
- Hợp đồng phân chia sản phẩm (PSC) : là văn bản ký kết giữa pháp
nhân Việt Nam với nhà ĐTNN để xây dựng các công trình nhằm tìm kiếm và
khai thác dầu mỏ và các khoáng sản theo uỷ quyền của chính phủ, nếu phát hiện
dầu mỏ hay khoáng sản thì được phép liên kết với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền hoặc các pháp nhân kinh tế được uỷ quyền khai thác và phân chia sản
phẩm trong khoảng thời gian xác định theo hợp đồng.
Các hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh tại Việt Nam ngày càng đa
dạng đảm bảo tính thông thoáng, phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm tạo điều
kiện thu hút ngày càng nhiều và sử dụng có hiệu quả vốn FDI tại Việt Nam.

II/ Vai trò của FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam :
1. Quan điểm của Việt Nam trong việc thu hút vốn FDI phát triển kinh tế :
1.1. Đánh giá đúng vị trí quan trọng của vốn FDI trong nền kinh tế quốc
dân
Vốn FDI là bộ phận quan trọng trong cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội. Vốn
FDI không thể thay thế các nguồn vốn khác nhưng có thế mạnh riêng của nó. Rõ
ràng vốn FDI khác với vốn ODA là không gây ra tình trạng nợ nần cho các thế
hệ sau. Trong quan hệ làm ăn với các đối tác nước ngoài, hai bên cùng có lợi và
- 10 -

cùng chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ vốn góp là nguyên tắc cơ bản. Trong quá trình thu
hút vốn FDI cần tránh những quan điểm sai lầm sau :
Thứ nhất, coi nhẹ thậm chí lên án hoạt động FDI như là nhân tố có hại cho
nền kinh tế độc lập tự chủ. Vì lo sợ nguồn vốn này là nguyên nhân gây chệch
hướng xã hội chủ nghĩa tạo nên tâm lý trên ở một số cán bộ cao cấp của nhà
nước, gây khó khăn trong việc thu hút vốn FDI vào Việt Nam. Mọi vấn đề đều có
tính hai mặt, nếu chỉ nhìn thấy mặt hại mà không thấy mặt lợi của hoạt động FDI
là điều cần phê phán. Thu hút nguồn vốn này là nhu cầu bức bách cho phát triển
kinh tế.
Thứ hai, ảo tưởng về tính màu nhiệm của vốn FDI, gán cho nó vai trò tích
cực tự nhiên, bất chấp điều kiện bên trong của đất nước, tách rời những cố gắng
cải thiện môi trường đầu tư. Mặc dù nhiều nước trên thế giới đã coi nguồn vốn
này như là chìa khoá vàng cho tăng trưởng kinh tế. Ngay cả các nước có trình độ
phát triển cao như Mỹ, EU vẫn cần vốn FDI. Nhưng không vì ỷ lại vốn FDI mà
không khai thác tốt các lợi thế bên trong.
1.2. Quan điểm “mở” và “che chắn” trong chính sách thu hút FDI :
Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, mục tiêu của việc thu hút
FDI có đạt được hay không, còn phụ thuộc vào vấn đề đảm bảo an ninh, chính
trị, kinh tế và xã hội. Để giải quyết mối quan hệ này phải bắt đầu từ cách đặt vấn
đề an ninh kinh tế, chính trị trong quá trình thu hút vốn FDI.

Trong một số trường hợp, vì lợi ích tối đa lợi nhuận, các chủ đầu tư hỗ trợ
tối đa cho việc thực hiện chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển đồng
đều các vùng, áp dụng công nghệ tiên tiến, khai thác hơp lý tài nguyên, bảo vệ
môi trường. Nhưng một số nhà ĐTNN đã lợi dụng sự yếu kém của chính phủ các
LDCs về năng lực quản lý, những sơ hở của hệ thống pháp luật để kiếm lời bất
chính.
Thời đại ngày nay, trong các mối quan hệ quốc tế, đặc biệt là quan hệ đầu
tư trực tiếp với nước ngoài, nguyên tắc bình đẳng hai bên cùng có lợi là yêu cầu
khách quan. Do đó, vần đề an ninh được đặt ra và trở nên quan trọng cho cả hai
phía. Đối với các nước tiếp nhận vốn cần có an ninh chính trị, kinh tế không
những phục vụ cho sự phát triển kinh tế, mở rộng quy mô thu hút vốn FDI mà
- 11 -

còn giữ vững độc lập chủ quyền, bảo vệ bản sắc dân tộc, giữ vững định hướng
chính trị.
Do đó, mở cửa hội nhập quốc tế nhưng không quên những biện pháp che
chắn cần thiết. Tư tưởng trên chi phối toàn bộ tinh thần Luật ĐTNN tại Việt
Nam. Một “hành lang” dù có rộng rãi đến đâu vẫn có khuôn khổ của nó. Bên
cạnh những điều khoản thông thoáng có tính chất khuyến khích ĐTNN, thường
có những quy định mang tính che chắn.
Vấn đề đặt ra trong thi hành Luật ĐTNN tại Việt Nam là không để phía
nước ngoài lợi dụng sự rộng rãi để vượt qua khuôn khổ. Mặt khác, cũng không vì
những biện pháp che chắn để đặt ra quá nhiều sự ràng buộc chồng chéo làm giảm
sức hấp dẫn về môi trường đầu tư của nền kinh tế với các nhà ĐTNN. Rộng rãi
hay che chắn, đầu tư phải tính tới lợi ích của hai phía theo nguyên tắc bình đẳng
và thông lệ quốc tế.
1.3. Giải quyết hợp lý mối quan hệ về lợi ích giữa các bên trong quá trình
thu hút FDI :
Xét nhu cầu, khả năng và lợi thế của mỗi bên để có sự phân chia lợi ích
thoả đáng theo nguyên tắc thoả thuận, bình đẳng tự nguyện. Theo nguyên tắc đó,

lợi ích phân phối cho mỗi bên phải thoả mãn :
 Phù hợp với tương quan về nhu cầu và khả năng mỗi bên.
 Có tính đến những điều kiện về môi trường đầu tư, bảo đảm phát
huy có hiệu quả thế mạnh của mỗi bên. Trong đó, điều quan trọng nhất đối với
chủ ĐTNN là vốn được bảo đảm và có lợi nhuận.
Nhằm thực hiện những yêu cầu trên, trong quá trình triển khai dự án FDI
phải chú ý tới những khả năng dẫn tới mâu thuẫn trong nội bộ tổ chức. Mâu
thuẫn đó xuất phát từ sự khác nhau về quan hệ sở hữu vốn.
Vốn nước ngoài chủ yếu có nguồn gốc từ các công ty, tổ chức mang tính
tư nhân trong quan hệ sở hữu. Vì vậy, mọi hành động của các nhà đầu tư đều
nhằm tới lợi ích cao nhất cho họ. Tinh thần làm việc và yêu cầu công việc của họ
rất cao nhằm nâng cao năng suất lao động.
- 12 -

Trong khi đó, bên Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước, vốn
thuộc sở hữu Nhà nước. Quyền sử dụng vốn tách rời quyền sở hữu. Những chính
sách hiện hành chưa trở thành động lực cho đội ngũ lãnh đạo phía Việt Nam
trong liên doanh phát huy được năng lực cao nhất. Ngoài ra, kinh nghiệm và tính
năng động của phía Việt Nam cần tránh những quan điểm mơ hồ khi thu hút FDI
 Không muốn trả giá, chỉ đứng về lợi ích của bên mình, muốn ăn cả,
điều này trái với nguyên tắc hai bên cùng có lợi. Hậu quả là không thể thu hút
FDI vào Việt Nam.
 Trả giá không tính toán, trả bất cứ giá nào miễn là tranh thủ được
vốn và công nghệ mà không tính tới hiệu quả kinh tế và mặt trái của FDI.
1.4. Hiệu quả kinh tế được coi là tiêu chuẩn cao nhất trong thu hút FDI
Thông thường, các chủ ĐTNN chỉ quan tâm đến hiệu quả tài chính. Vấn đề
quan tâm của các nhà ĐTNN là doanh thu, chi phí… Do đó, để thu hút vốn FDI,
nước sở tại cần tạo điều kiện cho nhà đầu tư thu được lợi nhuận hợp lý.
Tuy nhiên, trên giác độ nền kinh tế quốc dân và quản lý nhà nước, dự án
FDI được phê duyệt không chỉ có hiệu quả tài chính cho chủ đầu tư mà còn phải

có hiệu quả kinh tế. Hiệu quả kinh tế phản ánh lợi ích nền kinh tế thu được lớn
hơn những hao phí về nguồn lực.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn kém phát triển, dự án FDI nhìn
chung phải đáp ứng được các yêu cầu : vốn, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm
quản lý, giải quyết việc làm và tạo ra thu nhập cho người lao động, đáp ứng nhu
cầu của xã hội. Trong các yêu cầu trên, với điều kiện hiện tại, mục tiêu tạo nhiều
cơ hội việc làm được chính phủ ưu tiên. Điều đó có nghĩa là công nghệ sử dụng
nhiều lao động được khuyến khích phát triển. Đây cũng là điều kiện cho việc tích
luỹ vốn cho phát triển ở bước tiếp theo. Tuy vậy, ở một số ngành mũi nhọn, việc
áp dụng công nghệ tiên tiến là cần thiết nhằm khai thác hiệu quả tài nguyên thiên
nhiên và tăng sức cạnh tranh.
1.5. Đa dạng hoá hình thức FDI :
Thu hút vốn FDI dưới nhiều hình thức nhằm tạo điều kiện cho các nhà
ĐTNN dễ dàng trong kinh doanh vì lợi ích của họ và của Việt Nam. Vì lợi ích
- 13 -

quốc gia, hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh và doanh nghiệp liên doanh ít
chịu các điều kiện ràng buộc hơn doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Hình thức
hợp đồng hợp tác kinh doanh ngày càng được đa dạng trong phương thức thực
hiện. Chính phủ khuyến khích các nhà đầu tư vào khu chế xuất, khu công nghiệp.
Mỗi hình thức đầu tư đều có điểm mạnh và điểm yếu. Việc lựa chọn hình
thức cụ thể tuỳ thuộc vào mục tiêu của đối tác và điều kiện của Việt Nam. Đa
dạng hoá hình thức đầu tư phải gắn với quản lý chặt chẽ của nhà nước. Quản lý
nhà nước được thực hiện ngay từ việc quy hoạch sử dụng vốn nước ngoài và
trong quá trình triển khai thực hiện dự án đầu tư.
2. Vai trò của nguồn vốn FDI đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam
2.1. Là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế :
Kinh tế học hiện đại thống nhất với quan điểm của mô hình Harrod –
Domar về mối quan hệ giữa vốn đầu tư và tăng trưởng kinh tế được thể hiện theo
công thức rút gọn sau :

k
ICOR
k
S
k
g
1−
=
Trong đó : g
k

: tốc độ tăng trưởng của GDP thời kỳ kế hoạch
s
k-1
: tỷ lệ tiết kiệm thời kỳ trước thời kỳ kế hoạch
ICOR
k
: hệ số gia tăng giữa vốn và sản lượng kỳ kế hoạch
Hệ số ICOR ít thay đổi trong năm và có thể dự báo được dựa vào xu
hướng thay đổi công nghệ. Như vậy, tốc độ tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào tỷ
lệ tiết kiệm thời kỳ k-1 trước thời kỳ kế hoạch (k). Giả sử toạn bộ tiết kiệm được
giành cho đầu tư thì vốn đầu tư có vai trò quyết định tới tốc độ tăng trưởng kinh
tế. Vốn đầu tư phát triển nền kinh tế quốc dân được lấy từ 2 nguồn trong và ngoài
nước. Theo quan điểm của nhà nước Việt Nam, vốn trong nước là quyết định,
vốn nước ngoài là quan trọng.
Nguồn vốn nước ngoài tạo ra lực phát triển mạnh mẽ cho nền kinh tế : các
dự án ĐTNN hiện chiếm 35% giá trị sản lượng công nghiệp của Việt Nam; cụ
thể : khu vực ĐTNN chiếm 100% các dự án khai thác dầu thô, sản xuất lắp ráp ô
- 14 -


tô; sản xuất máy giặt, tủ lạnh, máy điều hoà nhiệt độ; thiết bị văn phòng, máy
tính. Các dự án ĐTNN chiếm 60% sản lượng thép cán; 55% sản xuất sợi các loại
phục vụ cho ngành công nghiệp dệt may; 49% sản lượng sản xuất da và giày dép;
76% dụng cụ y tế chính xác; 33% về sản xuất máy móc thiết bị điện; 28% tổng
sản lượng xi măng; 25% về thực phẩm và đồ uống
ĐTNN là kênh vốn quan trọng góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế :
thời kỳ 1991-1995 vốn đầu tư nước ngoài chiếm trên 25% tổng vốn đầu tư xã
hội; Thời kỳ 1996 – 2000 số vốn ĐTNN tăng 1,8 lần so với giai đoạn trước đó
(chiếm 40%), trong đó vốn FDI chiếm 24% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tương
đương với 60% tổng vốn ĐTNN. Như vậy, vốn đầu tư nước ngoài đặc biệt là vốn
FDI là nguồn vốn bổ sung không thể thiếu nhằm đáp ứng mục tiêu tăng trưởng
nhanh. Đây cũng là một kênh cần thiết thực hiện chuyển giao công nghệ, tận
dụng lợi thế lịch sử của nước đi sau.
Vốn đầu tư nói chung và vốn FDI nói riêng tác động thuận chiều đến nền
kinh tế. Trong quá trình vốn đầu tư chuyển thành vốn sản xuất, tổng cầu nền kinh
tế tăng lên, nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng mới ở đó giá trị sản xuất cao hơn
lúc ban đầu. Như vậy vốn đầu tư và vốn sản xuất tuy tác động thuận chiều với
sản lượng nền kinh tế nhưng cách tác động khác nhau. Việc thu hút được càng
nhiều vốn đầu tư đặc biệt là vốn FDI sẽ tạo ra cú huých tăng trưởng mạnh mẽ
đến nền kinh tế quốc dân.
2.2. Tăng thu ngân sách, góp phần cải thiện cán cân thanh toán và cán cân
vãng lai của quốc gia
Khu vực có vốn FDI đóng góp tích cực và ngày càng lớn cho ngân sách
nhà nước. Tỷ lệ đóng góp của các dự án FDI trong GDP tăng dần qua các năm :
năm 1993 đạt 3,6%; năm 1995 đạt 6,3%; năm 1996 đạt 7,4%; năm 1998 đạt
10,1%; năm 1999 đạt 11,8%; từ năm 2000 đến năm 2003 mỗi năm đều đạt trên
13% GDP. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì giai đoạn 1996 – 2000
thu từ khu vực FDI chiếm 6 – 7% nguồn thu ngân sách quốc gia (nếu kể cả ngành
- 15 -


dầu khí thì chiếm gần 20% thu ngân sách), đạt khoảng 1,45 tỷ USD, gấp 4,5 lần
so với 5 năm trước đó, với nguồn thu bình quân khoảng 290 triệu USD/năm.
Bảng 1 : Đóng góp của các dự án FDI đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam
Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 200
0
200
1
2002
Tỷ trọng
trong GDP
(%)
1,5 2,0 3,6 6,1 6,3 7,4 9,1 10,1 11,8 13,2 13,5 13,8
Tốc độ tăng
công nghiệp
(%)
45,6 40,4 13,6 12,8 8,8 21,7 23,2 24,2 20,2 23,0 12,1 14,0
Tỷ trọng
trong công
nghiệp (%)
22,4 26,2 26,2 26,2 25,1 26,2 18,9 32,0 34,4 36,0 35,4 35,0
Nguồn : http:// www.vneconomy.com.vn/statistic
Ngoài ra, với hoạt động xuất khẩu các dự án FDI góp phần cải thiện cán
cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam : không kể dầu khí
thì kim ngạch xuất khẩu của khu vực có vốn FDI thời kỳ 1991 – 1995 đạt trên
1,12 tỷ USD; thời kỳ 1996 – 2000 đạt trên 10,6 tỷ USD, tăng hơn 8 lần so với 5
năm trước và chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu cả nước; năm 2001 đạt 3,67 tỷ
USD; năm 2002 đạt 4,5 tỷ USD (xem bảng 2). Nhiều mặt hàng xuất khẩu quan
trọng do các dự án FDI thực hiện : xuất khẩu dầu thô 100%; giày dép 42%; hàng
dệt may 25%; 84% hàng điện tử, máy vi tính và linh kiện. Tỷ trọng trị giá hàng
xuất khẩu so với doanh thu của các dự án FDI tăng nhanh 30% ở thời kỳ 1991 –

1995, lên 48% thời kỳ 1996 – 2000 và đạt 50% vào năm 2002.
Bảng 2 : Tình hình xuất khẩu của khu vực có vốn FDI
Đơn vị : triệu USD
Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Xuất
khẩu
(a)
52 112 269 352 336 788 1.79
0
1.982 2.547 3.30
0
3.67
0
4.500
Xuất
khẩu
so
với
doanh
34,4 49,4 53,3 34,3 46,3 28,7 46,9 50,7 55,4 53,5 48,1 50,0
- 16 -

thu
(%)
Nguồn : http:// www.vneconomy.com.vn/statistic
(a) Xuất khẩu không kể dầu thô
2.3. Các dự án FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam theo
hướng CNH – HĐH
Ở những năm 1988 – 1995 FDI chủ yếu thực hiện trong các ngành kinh
doanh bất động sản như xây dựng khác sạn, khu nghỉ mát, khu chế xuất, văn

phòng cho thuê… thì thời kỳ 1996 – 2003 FDI thực hiện nhiều hơn vào các
ngành sản xuất công nghiệp và dịch vụ (chiếm 53% vốn đăng ký và 73% vốn
thực hiện), các dự án đầu tư vào dịch vụ bưu chính viễn thông, dịch vụ kỹ thuật
tăng 1,4 lần ở thời kỳ này (Nguồn : http//www.mpi.gov.vn). Hiện khu vực FDI
chiếm gần 35% sản lượng công nghiệp của Việt Nam với tốc độ tăng trưởng
hàng năm trên 20%. Đặc biệt, FDI đã tạo ra nhiều ngành nghề, sản phẩm mới với
công nghệ hiện đại, chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế, góp phần tăng đáng kể
năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Đã xuất hiện
nhiều ngành sản xuất quan trọng như thăm dò, khai thác dầu khí; lắp ráp - sản
xuất ô tô, xe máy; sản xuất xi măng; phát triển viễn thông quốc tế và nội hạt…
Hiện nay năng lực sản xuất của khu vực FDI chiếm 100% về khai thác dầu thô,
sản xuất ô tô, các sản phẩm điện dân dụng, thiết bị văn phòng máy tính…, ngoài
ra còn chiếm 60% sản lượng thép cán và khoảng 30% về xi măng, 33% về sản
xuất máy móc thiết bị điện - điện tử. Trong công nghiệp nhẹ, FDI chiếm 55% về
sản xuất sợi các loại, 30% vải các loại, 18% sản phẩm may, 49% về giày dép và
25% về thực phẩm và đồ uống.
Thông qua hoạt động FDI đã hình thành bước đầu hệ thống các khu công
nghiệp, khu chế xuất. Đây là hướng đi đúng, góp phần phân bổ đầu tư hợp lý
nâng cao hiệu quả đầu tư, đẩy mạnh xuất khẩu.
2.4. Các dự án FDI đóng góp quan trọng nâng cao trình độ kỹ thuật và công
nghệ của Việt Nam
Đầu tư trực tiếp chính là phương thức hiệu quả nhất để phát triển công
nghệ của các LDCs. Cùng với “phần cứng” máy móc, thiết bị, nhà đầu tư sẽ cung
cấp cả “phần mềm” bí quyết công nghệ và kỹ năng quản lý cho nước tiếp nhận
- 17 -

đầu tư. Thông qua FDI, các LDCs không phải tốn kém cho đầu tư nghiên cứu mà
vẫn có thể nâng cao năng lực sản xuất của mình. Năng suất lao động tăng lên
đồng thời với sự xuất hiện của nhiều ngành mới mà trước đây trong nước chưa có
khả năng phát triển.

FDI đã góp phần nâng cao năng lực công nghệ của nền kinh tế Việt Nam.
Nhiều công nghệ mới, hiện đại đã được du nhập vào nước ta thông qua chuyển
giao công nghệ, đào tạo cán bộ quản lý và công nhân lành nghề, nhất là trong các
lĩnh vực dầu khí, hoá chất, viễn thông, điện tử, tin học, ô tô…, tạo ra một bước
ngoặt quan trọng cho sự phát triển một số ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước,
như công nghiệp khai thác dầu khí ngoài khơi, lắp đặt tổng đài kỹ thuật số, rô
bốt, dây chuyền tự động lắp ráp hàng điện tử… Nhìn chung, phần lớn trang thiết
bị đồng bộ, có trình độ cao hơn hoặc ít nhất là bằng các thiết bị tiên tiến đã có
trong nước và thuộc loại phổ cập ở các nước trong khu vực. Các dự án FDI đóng
góp đáng kể để tăng khả năng cạnh tranh của công nghệ Việt Nam trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế.
Ngoài ra, sự sử dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại ở các dự án FDI, cũng
tạo ra sự kích thích các doanh nghiệp nội địa phải đầu tư đổi mới công nghệ để
tạo được những sản phẩm có khả năng cạnh tranh với sản phẩm của các doanh
nghiệp có vốn nước ngoài trên thị trường nội địa và xuất khẩu.
Các mô hình quản lý và các phương thức kinh doanh hiện đại của các
doanh nghiệp có vốn FDI thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam đổi mới tư duy
quản lý kinh doanh và công nghệ để tăng khả năng cạnh tranh.
2.5. Các dự án FDI thúc đẩy sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, đưa
nền kinh tế Việt Nam hội nhập nhanh với nền kinh tế thế giới
FDI đã góp phần mở rộng hợp tác đầu tư với nước ngoài, nâng cao quan hệ
quốc tế, tăng cường thế và lực của Việt Nam, đẩy nhanh tiến trình hội nhập của
Việt Nam vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Cho đến giữa năm 2003 đã có 74
quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào Việt Nam, trong đó có trên 80
TNCs nằm trong 500 TNCs hàng đầu thế giới có năng lực về tài chính và công
nghệ. Đồng thời, chúng ta cũng chú trọng thu hút vốn FDI của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, vì đây là những đơn vị năng động, thích ứng với biến động của
- 18 -

thương trường, phù hợp với phía Việt Nam về khả năng góp vốn, tiếp thu công

nghệ, kinh nghiệm quản lý. Chính những dự án này có tác động không nhỏ tới
thay đổi cơ chế chính sách quản lý kinh tế Việt Nam theo hướng hội nhập quốc
tế, chúng tác động đến xoá bỏ sự bao vây, cấm vận quốc tế đối với Việt Nam, hỗ
trợ Việt Nam gia nhập ASEAN, ký kết trên 180 hiệp định song phương và đa
phương trong đó có Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ.
Ngoài ra, trên 50% trị giá sản phẩm của các dự án FDI được xuất khẩu ra
thị trường thế giới góp phần nâng cao thị phần sản phẩm và uy tín của Việt Nam
trên thị trường quốc tế.
2.6. Các dự án FDI góp phần giải quyết việc làm, đào tạo nguồn nhân lực,
nâng cao mức sống và trình độ cho người lao động
Không những thu hút một lượng lao động lớn, doanh nghiệp có vốn FDI
còn gián tiếp ảnh hưởng đến cơ hội việc làm ở những ngành có liên quan. Số lao
động làm trong các doanh nghiệp có vốn FDI ngày càng gia tăng (bảng 3). Khu
vực FDI này không chỉ thu hút được nhiều lao động trực tiếp mà còn thu hút
hàng chục vạn lao động gián tiếp khác trong xây dựng, cung ứng dịch vụ… và
một số lượng lao động lớn hơn thế trong các ngành công nghiệp phụ trợ và các
dịch vụ đầu vào và đầu ra. Một số lượng đáng kể các nhà quản lý kinh doanh và
người lao động được đào tạo trong và ngoài nước góp phần làm cho chất lượng
lao động tăng lên, đủ sức thay thế chuyên gia nước ngoài. Đây là nhân tố quan
trọng góp phần làm cho môi trường đầu tư của Việt Nam nâng cao khả năng cạnh
tranh.
Bảng 3 : Số lượng việc làm do khu vực FDI tạo ra
Đơn vị : 1000 người
Năm 1991-1995 199
6
199
7
199
8
199

9
2000 2001 2002
Giải quyết việc làm (a) 200 220 250 270 296 379 439 472
Nguồn : http:// www.vneconomy.com.vn/staticstic
(a) tính tới cuối năm báo cáo, không kể lao động gián tiếp
Tuy có hiện tượng “chảy máu” chất xám ngay trong nước từ các khu vực
khác vào khu vực có vốn ĐTNN nhưng điều không thể phủ nhận được là các
doanh nghiệp có vốn ĐTNN nói chung, các dự án FDI nói riêng đã rèn luyện một
- 19 -

lượng lớn cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật. Các nhà quản lý Việt Nam
được cọ sát với người nước ngoài ngay trong dự án và trên thị trường đã góp
phần nâng cao nghiệp vụ, kinh nghiệm, gây biến chuyển tư duy. Đội ngũ cán bộ
Việt Nam trong lĩnh vực ĐTNN ngày một trưởng thành và tích luỹ kinh nghiệm
quản lý. Quan hệ lao động trong doanh nghiệp ĐTNN từng bước được cải thiện.
Các tổ chức đoàn thể trong các doanh nghiệp có vốn FDI đã dần được hình thành
và tổ chức hoạt động tốt, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và
nâng cao đời sống tinh thần của người lao động.
Ngoài ra, các dự án FDI thông qua lương mang lại thu nhập cho người lao
động, góp phần cải thiện đời sống. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
năm 2003, lương bình quân của công nhân Việt Nam trong các dự án ĐTNN là
76 – 80 USD/tháng; của kỹ sư là 220 – 250 USD/tháng; của cán bộ quản lý
khoảng 490 – 510 USD/tháng. Tổng thu nhập của người lao động của các dự án
FDI hàng năm trên 500 triệu USD, đây là nhân tố góp phần tăng sức mua cho thị
trường xã hội.
III/ Sự cần thiết thu hút vốn FDI của EU để phát triển kinh tế Việt Nam
1. Giới thiệu về EU
Liên minh Châu Âu (EU) đã có lịch sử 53 năm hình thành và phát triển.
Từ tổ chức tiền thân là Cộng đồng than và sắt thép Châu Âu, gọi tắt là CECA
(18/4/1951). Năm 1992 các nguyên thủ của 12 nước thành viên EC đã ký hiệp

ước Maastrich (Hà Lan) để thống nhất Châu Âu, mở đầu cho sự thống nhất chính
trị, kinh tế và tiền tệ. Ngày 1/1/1994 Cộng đồng Châu Âu (EC) được đổi tên
thành Liên minh Châu Âu gọi tắt là EU, trở thành một Liên minh thống nhất đầu
tiên trên thế giới về kinh tế, tiền tệ, chính trị, an ninh và quốc phòng, xoá bỏ trên
thực tế đường biên giới quốc gia giữa các nước thành viên, thực hiện thống nhất
các chính sách xã hội…
EU là một trung tâm kinh tế hùng mạnh, có vai trò rất lớn trong nền kinh
tế thế giới. Kinh tế EU không chỉ lớn về quy mô, vững mạnh về cơ cấu, tăng
trưởng ổn định (GDP tăng trưởng dao động ở mức trên dưới 2,5%/năm; lạm phát
trung bình ở mức 1,6 – 1,8%/năm) mà còn có đồng tiền mạnh (đồng EURO) có
khả năng chuyển đổi toàn thế giới và đang cạnh tranh nghiêng ngửa với đồng
- 20 -

đôla của Mỹ (USD). EU cũng không chỉ có nguồn nhân lực trình độ cao và lành
nghề (số lao động có trình độ cao và lành nghề chiếm khoảng 25% trong cơ cấu
lao động tại nghiệp), có thị trường nội địa với sức mua lớn, mà còn có tiềm lực
khoa học công nghệ vào loại mạnh nhất thế giới. Năm 1998, tổng chi phí cho
R&D của toàn thế giới đạt 479 tỷ USD, riêng EU chiếm 28%, năm 1995 tỷ lệ ấn
phẩm khoa học tính bằng ấn phẩm chiếm 35,8% so với toàn thế giới, sản phẩm
công nghệ tính bằng Patăng chiếm 47,4% của toàn thế giới. EU có số lượng lớn
các TNCs hàng đầu thế giới. EU có khoảng 2.000 TNCs trong tổng số 11.000
TNCs trên toàn thế giới (thập kỷ 80). Trong 50 công ty xuyên quốc gia hàng đầu
thế giới, EU có 14 công ty. Năm 1999, trong 10 nền kinh tế có khả năng cạnh
tranh kinh tế mạnh nhất thì EU đã có 7 nước chỉ đứng sau Mỹ và Singapore.
EU có vai trò rất quan trọng trong nền thương mại thế giới. Tuy dân số chỉ
chiếm khoảng 7% dân số thế giới nhưng EU chiếm tới 1/5 trị giá thương mại
toàn cầu. Hiện nay, EU là khối thương mại mở lớn nhất thế giới và là thành viên
chủ chốt của WTO. EU đang chủ trương huỷ bỏ biên giới nội địa và khuyến
khích sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước thành viên : gắn liền với xoá bỏ các
rào cản là sự di chuyển tự do tư bản, hàng hoá và dịch vụ với phần còn lại của thế

giới. EU có nền ngoại thương phát triển lớn thứ hai thế giới sau Mỹ (là thị trường
xuất khẩu lớn nhất và thị trường nhập khẩu lớn thứ hai). Hàng năm, EU nhập một
khối lượng hàng hoá từ khắp thế giới và cũng xuất khẩu hàng hoà đi khắp thế
giới với tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu là gần 17%/năm.
EU là cái nôi của nền văn minh công nghiệp, là nơi khởi phát và khai sinh
FDI, hiện nay vẫn đang đi tiên phong trong lĩnh vực này. Số vốn đầu tư của EU
chiếm 1/3 tổng số lượng vốn đầu tư ra nước ngoài của toàn thế giới.
Ngày 1/5/2004, EU mở rộng sang phía Đông với việc kết nạp thêm 10
thành viên mới, dân số tăng 75 triệu người (tăng 29%), bằng 20% dân số hiện có,
diện tích lãnh thổ tăng thêm 34%, đây sẽ là lần mở rộng thứ 5 lớn nhất từ trước
tới nay, “một thời kỳ hợp nhất chưa từng có”. Như vậy, 57 năm sau Chiến tranh
thế giới II và 13 năm sau khi bức tường Berlin sụp đổ, Châu Âu thực hiện một sự
kiện lịch sử : thống nhất 25 nước thành một khối. Đây được coi là thời khắc
mang tính lịch sử, là dấu mốc xoá bỏ di chứng của Chiến tranh lạnh, đưa 10 nước
hội nhập vào hệ thống châu Âu vốn bị chia cắt từ hàng trăm năm qua. Điều này
- 21 -

không chỉ thể hiện sự đoàn kết của Châu Âu, mà còn là một dấu hiệu cho thấy
các thành viên của EU muốn hàn gắn những thương tổn chính trị phát sinh trong
cuộc chiến ở Irắc, khiến cho EU chia rẽ. Như vậy, hiện nay EU có tất cả 25 nước
thành viên với thị trường 545 triệu dân (chiếm khoảng 7% dân số thế giới), sản
xuất hơn 20% lượng hàng hoá và dịch vụ thế giới. EU trở thành một thị trường
lớn nhất trên thế giới, đồng thời củng cố vị trí của mình trong WTO, IMF,
OECD. Điều này làm cho sức ảnh hưởng của EU tới các nền kinh tế trên thế giới
tăng lên.
2. Sự cần thiết thu hút vốn FDI của EU để phát triển kinh tế Việt Nam
Thực ra, việc huy động vốn FDI để phát triển là tận dụng điều kiện khách
quan cực kỳ thuận lợi mà thế giới đã tạo ra. Thay vì phải bỏ ra hàng trăm năm
phát triển để vượt qua thời kỳ tích luỹ ban đầu lâu dài và gian khổ, như nước
Anh, Pháp trước đây, hay gần đây hơn, như Australia chẳng hạn, các nước đi sau

có thể “mượn sức” những nước đi trước để thực hiện thành công chiến lược “rượt
đuổi”.
Việt Nam đang ở giai đoạn quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Hiện nay chúng
ta đang thực hiện CNH – HĐH đất nước nhằm đưa nước ta trở thành một nước
công nghiệp vào năm 2020. Để thực hiện quá trình này cần một khoản vốn lớn để
đầu tư nhằm mục tiêu hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng, xây dựng các công trình nền
tảng cho sự phát triển kinh tế lâu dài. Trong khi đó, mức thu nhập bình quân đầu
người ở nước ta nhìn chung là thấp nên khả năng tiêu dùng cũng như tích luỹ đều
rất khiêm tốn. Do đó, thường tồn tại khoảng cách lớn giữa đầu tư và tiết kiệm
(thiếu tiết kiệm). Hơn nữa, trong giai đoạn này, do nền công nghiệp của đất nước
chưa phát triển nên hàng hoá xuất khẩu đa phần là sản phẩm sơ cấp (nông sản,
hàng thủ công và nguyên liệu thô), có giá trị gia tăng thấp.
Ngược lại, về phía nhập khẩu, nhu cầu phát triển đòi hỏi phải nhập hàng
cao cấp, gồm các máy móc, thiết bị đắt tiền, mua kỹ thuật công nghệ, các loại
hoá chất, phân bón hoá học, … là những thứ có giá trị gia tăng cao. Cán cân
thương mại và cán cân thanh toán, vì thế, hầu như luôn nằm trong tình trạng
thâm hụt. Đây là một thách thức thuộc loại khó giải quyết đối với Việt Nam. Để
đáp lại thách thức này, ngoài việc cần có các chính sách kinh tế vĩ mô trong nước
hợp lý, hướng tới chỗ làm dịu áp lực ngoại tệ, cần thiết phải huy động nguồn vốn
- 22 -

nước ngoài, coi đây như một giải pháp chiến lược quan trọng. Bởi lẽ, trong một
thế giới biến đổi nhanh như hiện nay, nếu chỉ trông chờ vào “tự lực cánh sinh”
thì hậu quả khó tránh khỏi sẽ là sự tụt hậu phát triển. Do đó, huy động và sử dụng
nguồn lực từ bên ngoài, cụ thể là vốn và kỹ thuật từ các nước phát triển cao hơn,
để nâng cao năng lực đầu tư cho nền kinh tế là yêu cầu cấp thiết được đặt ra.
Hiện nay trên thế giới có 3 cường quốc lớn về kinh tế là Mỹ, EU và Nhật
Bản. Cả 3 đều có trình độ phát triển cao vào loại nhất thế giới. Trong đó, lớn nhất
là thị trường EU với 25 nước thành viên trong đó có 15 quốc gia ở Tây Âu rất
phát triển. Do đó, nguồn vốn từ EU là rất lớn. Đây chính là điều mà Việt Nam

chúng ta đang cần. Hơn nữa, công nghệ nguồn từ EU rất hiện đại, EU được coi là
có thế mạnh trong các lĩnh vực đòi hỏi trình độ công nghệ, kỹ thuật cao. Tận
dụng vốn đầu tư từ EU là Việt Nam đã tận dụng được công nghệ, kỹ thuật hiện
đại cùng nguồn vốn lớn cho sự phát triển kinh tế nước nhà.
Ngày nay, sự lớn mạnh của EU là khó cạnh tranh, bởi EU không chỉ có thị
trường rộng lớn mà còn có đồng tiền mạnh (EURO) cạnh tranh ngang ngửa với
đồng USD của Mỹ. Sự lớn mạnh của các cường quốc một phần thể hiện qua số
lượng các TNCs, hay là phần siêu lợi nhuận mà các công ty này đem về chính
quốc thông qua hoạt động FDI. EU có số lượng TNCs hàng đầu thế giới. Trong
khi đó, sự gia tăng mạnh mẽ ĐTNN trong thời gian qua là kết quả trực tiếp của
sự tăng cường đầu tư ra nước ngoài của các TNCs. Hiện nay, khối lượng đầu tư
ra nước ngoài của các TNCs chiếm khoảng 80% trong tổng vốn đầu tư nước
ngoài trên toàn thế giới. Do đó, thu hút vốn FDI từ EU là Việt Nam thu hút được
sự quan tâm chú ý của các công ty này, tức là thu hút được công nghệ cao và
nguồn vốn lớn cho đất nước.
Ngoài ra, EU và Việt Nam đều là thành viên của diễn đàn hợp tác Á – Âu
(ASEM). Việc chúng ta thu hút đầu tư từ EU cũng là nhằm tăng cường hoạt động
của tiến trình hợp tác này. Thu hút được FDI của EU, Việt Nam không chỉ có
được nguồn vốn để phát triển kinh tế đất nước mà còn góp phần nâng cao năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế, do các doanh nghiệp Việt Nam phải đương đầu
với các cuộc cạnh tranh để tồn tại và phát triển ở thị trường của cả hai khu vực
(ASEM và EU). Và cuối cùng là vị trí của Việt Nam trên thị trường quốc tế
không ngừng được cải thiện.
- 23 -

Như vậy, nguồn vốn đầu tư từ EU đóng vai trò rất quan trọng trong quá
trình thực hiện CNH – HĐH ở Việt Nam. Do đó, Việt Nam cần thiết phải có
chính sách phù hợp để tăng cường thu hút FDI từ họ để phục vụ đắc lực cho phát
triển kinh tế nước nhà. Muốn vậy, cần thiết phải xem xét thực trạng đầu tư của
các nước EU tại Việt Nam trong thời gian qua để có thể đưa ra những đánh giá

nhận xét xác thực, từ đó đề ra những quyết sách khả thi nhằm tăng cường hơn
nữa quan hệ hợp tác đầu tư giữa hai bên trong thế kỷ mới.
CHƯƠNG II :
THỰC TRẠNG THU HÚT FDI CỦA EU VÀO VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 1988 - 2004
I/ Thực trạng FDI của EU ở Việt Nam từ 1988 đến 2004
Quan hệ Việt Nam và EU phát triển khi hai bên thiết lập quan hệ ngoại
giao chính thức ngày 22/10/1990, nhưng mối quan hệ này đã phát triển một cách
nhanh chóng cả về chiều rộng và chiều sâu. Ngày 15/12/1992, Hiệp định dệt may
được ký kết tại Brussel. Hai bên đã ký kết Hiệp định khung hợp tác (Framework
Agrrement Cooperotion). Đây là những cơ sở pháp lý rất quan trọng phát triển
- 24 -

quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu. Đến nay Việt Nam đã ký
chính thức Hiệp định Tránh đánh thuế hai lần và trốn thuế với 8 nước EU.
Trong thời gian qua Việt Nam và EU đã triển khai Chiến lược hợp tác giai
đoạn 1996 – 2000 và hiện nay đang thực hiện Chiến lược hợp tác giai đoạn 2001
– 2005 nhằm phát triển một cách toàn diện quan hệ hợp tác Việt Nam – EU sao
cho phục vụ tốt nhất cho lợi ích vì sự phát triển lâu dài và bền vững của 2 bên.
Trên thực tế quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và EU không
ngừng phát triển và mở rộng.
Về đầu tư, EU là những nhà đầu tư khá sớm vào Việt Nam sau khi Việt
Nam ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, và thuộc số những nhà đầu tư
hoạt động tích cực nhất ở Việt Nam. Cho đến nay, quan hệ đầu tư giữa Việt Nam
và EU là mối quan hệ một chiều, chủ yếu là từ phía EU đầu tư sang Việt Nam.
Hiện nay, EU là nhà đầu tư lớn và quan trọng ở Việt Nam, với 2 quốc gia thành
viên là Pháp và Hà Lan là 2 trong 10 nhà ĐTNN lớn nhất tại Việt Nam (Pháp xếp
thứ 7, Hà Lan thứ 8) trong tổng số 69 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại
Việt Nam.
1. Quy mô và tốc độ tăng FDI của EU vào Việt Nam giai đoạn 1988 – 2004 ;

Tính đến 23/6/2004, các nước EU (kể cả 10 nước mới gia nhập EU) đã có
540 dự án được cấp phép đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký 8,2 tỷ USD.
Tính bình quân mỗi năm EU đầu tư 31,76 dự án với mức vốn đăng ký 482,353
triệu USD. Nhìn chung các dự án đều có quy mô vừa nhỏ, vốn trung bình cho
một dự án đạt mức 15,187 triệu USD. Tuy nhiên, cũng có nhiều dự án quy mô
lớn (trên 40 triệu USD) như : Hợp đồng dầu khí Nam Côn Sơn (607 triệu USD);
Công ty Amata Power (110 triệu USD); Công ty Prudential (60 triệu USD).
Đồ thị 1 : Đầu tư trực tiếp của EU vào Việt Nam theo các năm
(các dự án được cấp phép)
- 25 -

×