Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC LENIN: Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ý nghĩa của nó với việc nâng cao chất lượng học tập của sinh viên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.71 KB, 14 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Học phần: TRIẾT HỌC MÁC LÊ-NIN

ĐỀ TÀI: Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về
lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ý nghĩa của nó với
việc nâng cao chất lượng học tập của sinh viên hiện nay

Giảng viên hướng dẫn :
Sinh viên thực hiện
:
Lớp
:
Mã sinh viên
:

Hà nội, ngày 26 tháng 04 năm 2021
MỤC LỤC:


MỤC LỤC
Sinh viên thực hiện :..............................................................................................................................1
MỤC LỤC.................................................................................................................................................2
MỞ ĐẦU..................................................................................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................................................2
Phần 1: Phần lý luận...........................................................................................................................2
1.1 Các khái niệm...........................................................................................................................2
1.2 Quan hệ biện chứng giữa lượng và chất.................................................................................5
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận.....................................................................................................5
Phần 2. Phần liên hệ thực tế và liên hệ bản thân.............................................................................6


2.1. Sự khác nhau cơ bản giữa việc học tập ở phổ thông và đại học...........................................7
2.2. Vận dụng quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất
và ngược lại vào quá trình học tập của sinh viên hiện nay...........................................................8
2.3. Phương pháp học tập.............................................................................................................9
KẾT LUẬN..............................................................................................................................................12


1

MỞ ĐẦU
Trong đời sống hàng ngày, trong quá trình quan sát, nghiên cứu, tiếp thu tri
thức có chọn lọc, con người dần dần nhận thức được tính trật tự và mối liên
hệ lặp đi lặp lại mang tính “quy luật” của các sự vật, sự việc, hiện tượng. Các
quy luật đó đều mang tính khách quan. Do đó, con người khơng thể tạo ra
hoặc tự ý xóa bỏ mà chỉ có thể nhận thức, tiếp thu và vận dụng nó trong thực
tiễn, trong đời sống hàng ngày. Trong tiến trình vận động và phát triển, mọi sự
vật (hiện tượng, quá trình) đều khơng ngừng biến đổi. Sự biến đổi này tuân
theo những quy luật nhất định trong đó có Quy luật chuyển hóa từ những thay
đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại. Đây là một trong
ba quy luật của phép biện chứng duy vật, là cách thức vận động, phát triển
của mọi sự vật trong thế giới. Nhận thức được quy luật này có ý nghĩa rất
quan trọng trong hoạt động thực tiễn khi chúng ta xem xét các sự vật, hiện
tượng. Sinh viên Việt Nam nói chung và sinh viên Học viện Ngân hàng nói
riêng, việc nhận thức đúng đắn quy luật lương- chất sẽ có ý nghĩa rất lớn và
đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong q trình học tập, tiếp thu tri thức và
rèn luyện đạo đức, hình thành nhân cách. Trong phạm vi của tiểu luận này, em
xin được trình bày những cơ sở lý luận cung về nội dung của quy luật lượng chất, trên cơ sở đó rút ra sự vận dụng quy luật chuyển hóa lượng chất vào việc
nâng cao chất lượng học tập của sinh viên Việt Nam hiện nay.



2

NỘI DUNG
Phần 1: Phần lý luận
1.1 Các khái niệm
Bất cứ sự vật, sự việc, hiện tượng nào cũng đều bao gồm mặt chất và mặt
lượng. Hai mặt này thống nhất với nhau trong mọi sự vật, sự việc, hiện tượng.
Trong quá trình phát triển tư tưởng triết học của nhân loại cũng đã xuất hiện
nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm chất cũng như khái niệm lượng hay
là về quan hệ giữa chúng. Sau này, phép biện chứng duy vật ra đời đem lại
những quan điểm đúng đắn về chúng, từ đó khái quát thành “quy luật chuyển
hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược
lại.
Quy luật này chỉ ra cách thức chung nhât của sự vận động và phát triển, khi
cho thấy sự thay đổi về chất chỉ xảy ra khi sự vật, hiện tượng đã tích lũy
những thay đổi về lượng đến mức nhất định. Quy luật cũng chỉ ra tính chất
của sự vận động và phát triển, khi cho thấy sự thay đổi về lượng của sự vật,
hiện tượng diễn ra từ từ kết hợp với sự thay đổi nhảy vọt về chất làm cho sự
vật, hiện tượng vừa tiến bước tuần tự, vừa có những bước đột phá vượt bậc.
Khái niệm về “chất”:
“Chất” là khái niệm dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật,
hiện tương; là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, yếu tố tạo nên sự vật,
hiện tượng làm cho sự vật, hiện tượng là nó mà khơng phải là sự vật, hiện
tượng khác.
Đặc điểm cơ bản của chất là nó thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật,
hiện tượng. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có q trình tồn tại và phát triển qua
nhiều giai đoạn, trong mỗi giai đoạn ấy nó lại có chất riêng. Như vậy, mỗi sự
vật, hiện tượng không phải chỉ có một chất mà có thể có nhiều chất.
Chất và sự vật có mối quan hệ chặt chẽ, khơng tách rời nhau. Trong hiện thực
khách quan không thể tồn tại sự vật khơng có chất và khơng thể có chất nằm



3

ngoài sự vật. chất của sự vật được biểu hiện qua những thuộc tính của nó.
Nhưng khơng phải bất kỳ thuộc tính nào cũng biểu hiện chất của sự vật.
Thuộc tính của sự vật, hiện tượng là những tính chất, trạng thái, những yếu tố
cấu thành sự vật. Thuộc tính của sự vật, hiện tượng bao gồm thuộc tính cơ bản
và thuộc tính khơng cơ bản. Thuộc tính là những cái vốn có của sự vật từ khi
sinh ra hoặc được hình thành trong sự vận động và phát triển của nó. Tuy
nhiên, những thuộc tính vốn có của sự vật, hiện tượng chỉ bộc lộ ra thông qua
sự tác động qua lại với các sự vật, hiện tượng khác.
Khái niệm về “lượng”:
Lượng là khái niệm dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng
về mặt quy mơ, trình độ phát triển, các yếu tố biểu hiện ở số lượng các thuộc
tính, ở tổng số các bộ phận, ở đại lượng, ở tốc độ và nhịp điệu vận động và
phát triển của sự vật, hiện tượng. Lương cịn biểu hiện ở kích thước dài hay
ngắn, số lượng lớn hay nhỏ, tổng số ít hay nhiều, trình độ cao hay thấp, tốc độ
vận động nhanh hay chậm, màu sắc đậm hay nhạt.
Trong sự vật, hiện tượng có nhiều loại lượng khác hay, có lượng là yếu tố quy
định bên trong, có lượng chỉ thể hiện yếu tố bên ngoài của sự vật, hiện tượng;
sự vật, hiện tượng càng phức tạp thì lượng của chúng càng phức tạp theo.
Trong tự nhiên và phần nhiều trong xã hội, lượng có thể do, đếm được; nhưng
trong một số trường hợp của xã hội và nhất là trong tư duy, lượng khó đo
được bằng số liệu cụ thể mà chỉ có thể nhận biết được bằng năng lực trừu
tượng hóa.
Chất và lượng là hai phương diện khác nhau của cùng một sự vật, hiện tương
hay một q trình nào đó trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Hai phương diện
này đều tồn tại khách quan. Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa
tương đối, tùy theo từng mối quan hệ mà xác định đâu là lượng và đâu là chất,

cái là lượng trong mối quan hệ này, lại có thể là chất trong mối quan hệ khác.


4

Các khái niệm khác:
“Độ” là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất và quy định lẫn nhau
giữa chất với lượng, là giới hạn tồn tại của sự vật, hiện tượng mà trong đó sự
thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất; sự vật, hiện tượng vẫn là
nó, chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác.
“Điểm nút” là điểm giới hạn mà tại đó, sự thay đổi về lượng đạt tới chỗ phá
vỡ độ cũ, làm cho chất của sự vật, hiện tượng thay đổi, chuyển thành chất
mới, thời điểm mà tại đó bắt đầu xảy ra bước nhảy.
“Bước nhảy” là khái niệm mà dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa cơ bản về
chất của sự vật, hiện tượng do những thay đổi về lượng trước đó gây ra, là
bước ngoặt cơ bản trong sự biến đổi về lượng. Bước nhảy kết thúc một giai
đoạn biến đổi về lượng, là sự gián đoạn trong quá trình vận động liên tục của
sự vật, hiện tượng.
Căn cứ vào quy mô và nhịp độ của bước nhảy, có bước nhảy tồn bộ và bước
nhảy cục bộ. Bước nhảy toàn bộ làm cho tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu
tố của sự vật, hiện tượng thay đổi. Bước nhảy cục bộ chỉ làm thay đổi một số
mặt, một số yếu tố, một số bộ phận của chúng. Sự phân biệt bước nhảy toàn
bộ hay cục bộ chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi chúng đều là kết quả của quá
trình thay đổi về lượng.
Căn cứ vào thời gian của sự thay đổi về chất và dựa trên cơ chế của sự thay
đổi trước đó, có bước nhảy tức thời và bước nhảy dần dần. Bước nhảy tức
thời làm chất của sự vật, hiện tượng biến đổi mau chóng ở tất cả các bộ phận
của nó. Bước nhảy dần dần là quá trình thay đổi về chất diễn ra bằng cách tích
lũy dần những yếu tố của chất mới và loại bỏ dần các yếu tố của chất cũ,
trong trường hợp này sự vật, hiện tượng biến đổi chậm hơn.



5

1.2 Quan hệ biện chứng giữa lượng và chất
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất giữa hai mặt lượng
và chất. Chất và lượng tuy là hai mặt đối lập, song hai mặt đó lại không tách
rời nhay mà lại tác động qua lại một cách biện chứng. Sự thay đổi về lượng
tất yếu sẽ dẫn đến sự chuyển hóa về chất. có thể sự tăng giảm về lượng làm
biến đổi ngay chất nhưng cũng có thể làm biến đổi dần dần về chất
Chất của sự vật, hiện tượng vẫn được giữ nguyên khi lượng thay đổi trong
giới hạn của “độ: Chất mới chỉ ra đời khi lượng đạt tới “điểm nút” và xảy ra
“bước nhảy”. Khi chất mới ra đời, chất mới sẽ tác động trở lại vào q trình
tích lũy của sự vật, hiện tượng. Chất mới tác động tới lượng trên nhiều
phương diện như kết cấu, quy mơ, trình độ, nhịp điệu. Quá trình này cứ tiếp
tục xảy ra một cách tuần hồn.
Tóm lại, quy luật này khái qt về cách thức của sự vận động và phát triển
trên thế giới. Sự thay đổi về lượng tất yếu sẽ làm thay đổi về chất, chất mới
tạo ra ảnh hưởng trở lại đến lượng. Q trình đó liên tục xảy ra, tạo thành
phương thức cơ bản, phổ biến của quá trình vận động và phát triển trong tự
nhiên, xã hội và tư duy.
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết tích lũy về lượng
để có biến đổi về chất, khơng được nơn nóng cũng như không được bảo thủ.
Bước nhảy làm cho chất mới ra đời, thay thế chất cũ là hình thức tất yếu của
sự vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng, nhưng sự thay đổi về chất
do thực hiện bước nhảy gây nên chỉ xảy ra khi lượng đã thay đổi đến giới hạn,
tức đến điểm nút, đến độ nên muốn tạo ra bước nhả thì phải thực hiện q
trình tích lũy về lượng
Khi lượng đã đạt đến điểm nút thì thực hiện bước nhảy là yêu cầu khách quan

cựa sự vận động của sự vật, hiện tượng; tư tưởng nơn nóng thường biểu hiện
ở chỗ khơng chú ý thỏa đáng đến sự tích lũy về lượng mà cho rằng, sự phát


6

triển của sự vật, hiện tượng chỉ là những bước nhảy liên tục, ngược lại, tư
tưởng bảo thủ thường biểu hiện ở chỗ không dám thực hiện bước nhảy, coi sự
phát triển chỉ là những thay đổi về lương. Do vậy, cần khắc phục cả hai biểu
hiện trên.
Sự tác động của quy luật này địi hỏi phải có thái độ khách quan, khoa học và
quyết tâm thực hiện bước nhảy; tuy đều có tính khách quan, nhưng quy luật
xã hội chỉ diễn ra thơng qua hoạt động có ý thức của con người; do vậy, khi
thực hiện bước nhảy trong lĩnh vực xã hội, tuy phải tuân theo điều kiện khách
quan nhưng cũng phải chú ý tới điều kiện chủ quan. Nói cách khác, trong hoạt
động thực tiễn, khơng những cần xác định quy mô và nhịp điệu bước nhảy
một cách khách quan, khoa học, chống giáo điều, rập khuôn, mà cịn phải có
quyết tâm và nghị lực để thực hiện bước nhảy khi điều kiện đã chín muồi, chủ
động nắm bắt thời cơ thực hiện kịp thời bước nhảy khi điều kiện cho phép,
chuyển thay đổi mang tính tiến hóa sang thay đổi mang tính cách mạng.
Quy luật u cầu phải nhận thức được sự thay đổi về chất còn phụ thuộc vào
phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng; do đó, phải
biết lựa chọn phương pháp phù hợp để tác động vào phương thức liên kết đó
trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật của chúng.
Phần 2. Phần liên hệ thực tế và liên hệ bản thân
Thi đỗ vào đại học hẳn là một niềm vui và là mục tiêu phấn đấu của rất nhiều
học sinh và theo sau đó là biết bao dự tính kế hoạch cho tương lai được đặt ra.
Đó cịn là một vinh dự, một phần thưởng to lớn dành cho những học sinh có ý
chí quyết tâm, chăm chỉ rèn luyện trong những năm tháng là học sinh trung
học phổ thông bởi khi trở thành sinh viên là đã trở thành một bộ phận đóng

vai trị quan trọng, chủ chốt trong tương lai của đất nước.
Tuy nhiên, khi đã sống và tiếp xúc với môi trường ở đại học thì khơng phải ai
cũng có thể phát huy hết tài năng như khi ở trung học phổ thơng bởi q trình
học tập ở hai mơi trường là hồn tồn khác nhau. Trong q trình học tập và


7

nghiên cứu ở đại học, sinh viên phải tham gia vào rất nhiều hoạt động khác
nhau nhằm nâng cao tri thức và rèn luyện bản thân. Bên cạnh đó, cũng có
những sinh viên đi làm thêm ngồi giờ để rèn luyện kĩ năng mềm và giảm bớt
gánh nặng tài chính cho gia đình. Nhưng khơng phải ai cũng có đủ khả năng
để thích ứng với mơi trường mới một cách nhanh chóng. Do đó, mỗi sinh viên
cần phải đặt ra cho mình một mục tiêu nhất định, một phương pháp học tập
phù hợp và một quá trình rèn luyện bản thân thích hợp để có thể nhanh chóng
hịa nhập với môi trường mới và đáp ứng được yêu cầu của nhà trường nói
riêng và tồn xã hội nói chung.
2.1. Sự khác nhau cơ bản giữa việc học tập ở phổ thơng và đại học
Q trình chúng ta học tập tại phổ thơng là nền móng tri thức để ta có thể
vươn tới nền giáo dục đại học. Bởi vậy giáo dục phổ thơng và giáo dục đại
học có quan hệ mật thiết với nhau, nhưng mục tiêu, yêu cầu đào tạo của mỗi
cấp học có mức độ khác nhau. Vậy nên, mục tiêu học tập của học sinh trung
học phổ thông khác với mục tiêu học tập và nghiên cứu của sinh viên đại học.
Ở đại học, sinh viên phải quan tâm đến các hình thức học tập khác nhau như
thực nghiệm, làm đề tài nghiên cứu khoa học, bài tiểu luận chuyên ngành, thí
nghiệm, bảo vệ đồ án,.... Những việc đó đều là những yêu cầu mới, khác biệt
và địi hỏi trình độ cao hơn nhiều so với khi cịn học ở trung học phổ thơng.
Ta có thể thấy ở đây có sự khác nhau về bản chất nên có thể nói rằng sự
chuyển đổi từ trung học phổ thơng lên đại học chính là q trình biến đổi từ
lượng thành chất. Do đó, sinh viên cần phải thay đổi cách sống, cải thiện cách

học tập sao cho thích nghi, đáp ứng yêu cầu của giáo dục đại học. Khi làm
được những điều như vậy, sinh viên sẽ đạt được những thành tích tự hào trong
q trình học tập, nghiên cứu của mình dưới mơi trường đại học.


8

2.2. Vận dụng quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành
những thay đổi về chất và ngược lại vào quá trình học tập của sinh
viên hiện nay
Trong quá trình học tập, mỗi sinh viên cần tự mình làm chủ tri thức, kỹ năng,
nắm vững yêu cầu của nghề nghiệp tương lai và có khả năng cố gắng, phát
triển để đáp ứng những yêu cầu không chỉ trước mắt mà cịn lâu dài, khơng
chỉ do u cầu của nhà trường mà còn do thực tiễn xã hội đặt ra.
Muốn vậy, khi tham gia vào hoạt động học tập, sinh viên khơng chỉ cần nhận
thức thơng thường mà cịn cần phải tiến hành hoạt động nhận thức mang tính
nghiên cứu. Tức là, dưới sự hướng dẫn của giảng viên, sinh viên khơng nên
nhận thức một cách máy móc chân lý có sẵn mà cịn phải tìm hiểu, mở rộng
thêm kiến thức. Việc xác định mục đích, xây dựng động cơ, lựa chọn phương
pháp, hình thức học tập hợp lý là vơ cùng cần thiết. Thêm vào đó, khả năng tự
học cũng là một kỹ năng vô cùng cần thiết đối với sinh viên hiện nay. Bởi
muốn có kỹ năng chuyên ngành về nghề nghiệp trong tương lai, sinh viên cần
phải có kỹ năng tự tìm tịi, học hỏi nhằm nhận thức, phát triển hệ thống tri
thức. Tri thức là sản phẩm của hoạt động nghiên cứu trong thời gian dài,
muốn nắm vững tri thức thì sinh viên cần phải chú trọng, rèn luyện khả năng
tự học một cách thường xuyên, nghiêm túc từ khi còn ngồi trên ghế nhà
trường.
Như vậy, khi áp dụng quy luật lượng chất vào trong quá trình học tập, sinh
viên muốn nâng cao kết quá học tập thì cần phải tích lũy kiến thức cho bản
thân vì có sự thay đổi về lượng mới có sự thay đổi về chất, giúp cho việc học

tập tiến bộ, điểm học cải thiện.
Bên cạnh đó, sinh viên cũng cần phải chú ý, đề phòng để tránh hai khuynh
hướng sai lầm: khi chưa tích lũy đủ lượng đã nơn nóng tích lũy về
chất( khuynh hướng chủ quan) và khi sự vật, hiện tượng đã tích lũy đủ về
lượng nhưng sinh viên lại chần chừ, do dự, khơng quyết đốn thực hiện các
bước nhảy nhằm thay đổi về chất.


9

Như vậy, từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng
thành những thay đổi về chất và ngược lại, ta có thể rút ra một vài kết luận có
ý nghĩa phương pháp luận với việc học tập và rèn luyện của sinh viên Việt
Nam hiện nay như sau:
Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích lũy
dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển
về chất và việc học tập của sinh viên cũng khơng ngoại lệ. Để có một tấm
bằng cử nhân đại học, chúng ta phải tích lũy đủ số lượng các học phần, và để
có học phần có kết quả tốt, chúng ta cần phải tích lũy đủ tri thức của các mơn
học. Từ đó suy ra, ta có thể coi thời gian học là độ, các kỳ thi là các điểm nút
và kết quả kỳ thi đạt yêu cầu là các bước nhảy, bởi nếu kết quả kỳ thi tốt cũng
sẽ chính là sự kết thức một giai đoạn tích lũy tri thức trong q trình hoạt
động, học tập, rèn luyện của sinh viên.
Do đó, trong hoạt động tiếp thu tri thức, rèn luyện, học tập, sinh viên phải biết
từng bước, dần dần tích lũy về lượng ( tri thức) nhằm dẫn đến quá trình biến
đổi về chất( kết quả học tập) theo quy luật, giống như kinh nghiệm được đúc
rút từ thời xa xưa trong hoạt động hàng ngày của cha ông ta: “năng nhặt, chặt
bị”; “góp gió thành bão, tích tiểu thành đại”. Quy luật này giúp sinh viên
chúng ta tránh được tư tưởng chủ quan trong học tập nói riêng và trong hoạt
động thực tiễn hàng ngày nói chung.

2.3. Phương pháp học tập
Nhiệm vụ của sinh viên ở trường đại học là phải học tập, rèn luyện, tu dưỡng,
phấn đấu thành những người lao động tốt, những cán bộ cơng nhân viên chức
góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước. Muốn hoàn thành nhiệm vụ cao cả mà
nặng nề ấy, ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, mỗi sinh viên cần nhận
thức sâu sắc quan điểm giáo dục, đào tạo của Đảng và nhà nước. Mỗi sinh
viên cần nhận thức rõ về nhiệm vụ, phương hướng cụ thể trong học tập của
mình, cần phải xác định được mục đích học tập nghiên cứu của mình là để


10

phấn đấu trở thành người công dân tri thức, chuẩn bị sẵn sàng cho q trình
hội nhập tồn cầu của đất nước.
Tuy nhiên, hiện nay trong các trường đại học, tình trạng sinh viên xác định
mục tiêu phấn đấu chưa rõ ràng, chưa xác định, học làm sao chỉ để qua mơn,
qua các kỳ thi. Do đó, nhiều sinh viên vẫn chưa tìm được phương pháp học
tập đúng đắn cho bản thân mình.
Bên cạnh đó, sinh viên cần biết rằng, việc xãcs định mục đích học tập nghiên
cứu khơng chỉ diễn ra trong giai đoạn khi chúng ta mới bước vào trường, mà
nó cịn là một q trình lâu dài. Trong quá trình học tập và nghiên cứu, nếu
mỗi sinh viên đều các định được hướng đi cụ thể cho bản thân, lên kế hoạch
chi tiết cho việc học tập, lập ra được mục đích đúng đắn thì họ sẽ có thể đạt
được thắng lợi.
Q trình học tập, nghiên cứu, tiếp thu tri thức không chỉ bắt đầu ở giảng
đường khi sinh viên đi hoc mà còn bắt đầu khi sinh viên đó tham gia mọt cách
tích cực các hoạt động cần thiết để tiếp cận môn học như đọc trước giáo trình,
hay tìm kiếm các tài liệu trong bài học. Với sự chuẩn bị kỹ lưỡng này, sinh
viên có thể tiếp cận kiến thức một cách dễ dàng hơn, bài bản có hệ thống hơn
khi chủ động tự đặt trước một số câu hỏi có nội dung liên quan đến bài học và

trao đổi nó với giáo viên. Vì thế, ta có thể hiểu rằng học chính là q trình
hợp tác, trao đổi, tiếp thu tri thức giữa người dạy và người học.
Ngoài ra, làm việc cũng là một cách học tập hiệu quả. Thêm vào đó, sinh viên
phải biết cách lật ngược vấn đề , phản biện, tư duy theo một cách khác. Sinh
viên sở hữu khả năng này sẽ có thể cải thiện điều kiện, phương pháp và kết
quả học tập của mình. Tư duy ở đại học là tư duy phức tạp, đòi hỏi sinh viên
cũng như giảng viên phải có tinh thần nghiên cứu, sáng tạo, tư duy, phản biện,
lật ngược vấn đề theo các cách khác nhau, soi xét vấn đề từ những khía cạnh
khác nhau.


11

Ngồi ra, giải lao, giải trí cũng là những hoạt động quan trọng không kém so
với học tập, rèn luyện. Sinh viên có thể tham gia các hoạt động đồn thể, tập
thể do nhà trường, Đoàn trường tổ chức, hay tham gia vào các sân chơi trí
thức hay các đề tài nghiên cứu khoa học theo nhóm dành cho sinh viên, từ đó
có thể hình thành, phát triển, trau dồi, rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm, năng
lực nghiên cứu hay những kỹ năng mềm khác. Từ đó, sinh viên có thể lĩnh hội
tri thức, sau đó nghiên cứu, phát triển nó thành các sản phẩm trí tuệ phục vụ,
phát triển đất nước.
Về phía nhà trường, cần phải thiết lập mối quan hệ với các công ty, tổ chứ, cơ
quan, đoàn thể, hiệp hội nhằm tạo cầu nối giúp sinh viên có cơ hội tiếp cận,
thực hành với mơi trường thực tế hay thu hút nguồn đầu tư, hỗ trợ giáo dục
giúp sinh viên cải thiện kết quả học tập.


12

KẾT LUẬN

Như vậy, lượng và chất là hai mặt thống nhất biện chứng của sự vật. chỉ khi
nào lượng đạt được tích lũy tới một độ nhất định mới làm thay đổi về chất,
nên trong chỉ đạo, hoạt động thực tiễn cũng như trong nhận thức khoa học cần
phải chú ý tích lũy dần dần những thay đổi về lượng, thực hiện kịp thời những
bước nhảy khi có điều kiện phù hợp.
Trong quá trình trau dồi, học tập và rèn luyện, sinh viên phải chống khuynh
hướng bảo thủ, trì trệ, nhằm tạo ra những bước nhảy để đẩy nhanh sự phát
triển, mặt khác, phải chống tư tưởng nóng vội, muốn đẩy nhanh sự phát triển,
tiến hành bước nhảy khi chưa đáp ứng đủ điều kiện, bất chấp các quy luật
khách quan.

Tài liệu tham khảo:
1.Bộ GD&ĐT, Giáo Trình Những Nguyên Lý Cơ Bản Của Chủ Nghĩa MácLê Nin, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, tháng 2-2009.



×