Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

tình hình nhập khẩu của việt nam trong những năm gần đây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 28 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Hoạt động ngoại thương đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế đặc biệt là trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ
hiện nay thì vai trò của ngoại thương ngày càng được khẳng định. Hoạt động
ngoại thương tạo điều kiện để xuất khẩu những sản phẩm có lợi thế so sánh,
góp phần cải thiện cán cân thương mại, đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho việc
nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất trong
nước. Đối với nhiều nước đặc biệt là các nước phát triển hiện nay chưa có
đủ khả năng để sản xuất nhiều loại tư liệu sản xuất, do đó việc nhập khẩu
sản phẩm góp phần đáp ứng nhu cầu sản xuất trong nước, qua đó tạo điều
kiện mở rộng thị trường trong và ngoài nước, nâng cao khả năng sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm. Với những nước đang phát triển như Việt Nam, nền sản
xuất trong nước đang phụ thuộc nhiều vào đầu vào nhập khẩu. Do đó kế
hoạch nhập khẩu đang được chú trọng để đảm bảo vừa đáp ứng nhu cầu sản
xuất và tiêu dùng trong nước nhưng vừa cân đối được cán cân thương mại
không để nhập siêu quá lớn sẽ ảnh hưởng không tốt tới nền kinh tế. Năm
2006, Việt Nam gia nhập WTO, năm 2007 là năm đầu tiên đánh dấu sự hội
nhập sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới, nền kinh tế trong giai
đoạn tăng trưởng và hội nhập, do đó kế hoạch nhập khẩu và tình hình thực
hiện kế hoạch đã có những điểm mới, cần phải được xem xét và phân tích
kỹ.
1
I. KẾ HOẠCH NHẬP KHẨU VÀ TÌNH HÌNH NHẬP KHẨU CỦA
VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY.
1. TỔNG QUAN VỀ KẾ HOẠCH NHẬP KHẨU
Nội dung kế hoạch nhập khẩu bao gồm: Xác định quy mô, tốc độ
nhập khẩu , danh mục sản phẩm nhập khẩu chủ yếu, cơ cấu sản phẩm nhập
khẩu và thị trường nhập khẩu chủ yếu. Đối với chúng ta mục tiêu của việc
nhập khẩu hàng hoá trước hết là đảm bảo cho nhu cầu sản xuất trong nước,
do đó cần ưu tiên cho việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, nhiên liệu.


Căn cứ dể xây dựng kế hoạch nhập khẩu là: Một là, Khả năng tăng
trưởng của nền kinh tế, theo đà tăng lên của thu nhập, một mặt nhu cầu máy
móc, thiết bị và nguyên liệu, vật liệu tăng lên, mặt khác nhu cầu trong nước
với hàng tiêu dùng trên thị trường quốc tế cũng tăng, Hai là sự chuyền dịch
cơ cầu ngành, nếu nền kinh tế có được cơ cấu ngành hợp lý, nhu cầu nhập
khẩu sẽ giảm đi. Ba là việc nhập khẩu hàng hoá chủ yếu dựa vào kim ngạch
xuất khẩu, do đó xác định quy mô, tốc độ nhập khẩu cần phải đảm bảo sự
tương quan về quy mô và tốc độ xuất khẩu. Nguyên tắc chung là phải tiến
tới cân bằng được cán cân xuất- nhập khẩu, sau đó là xuất siêu.
Tác dụng của nhập khẩu sản phẩm là góp phần đáp ứng yêu cầu sản
xuất trong nước vì có nhiều nước đang phát triển không đủ điều kiện và khả
năng để sản xuất nhiều loại tư liệu sản xuất. Qua đó tạo điều kiện mở rộng
thị trường trong và ngoài nước, nâng cao khả năng sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm.
2. TÌNH HÌNH NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM TRONG NHỮNG
NĂM GẦN ĐÂY.
2.1. Qui mô và tốc độ nhập khẩu hàng hoá :
2
Tình hình nhập khẩu hàng hoá có xu hướng tăng ổn định qua các năm
và không có những đột phá. Kim ngạch tăng đều qua các năm do Việt Nam
luôn duy trì mức tăng trưởng kinh tế cao (khoảng trên 8%/năm), do vậy nhu
cầu về nhập khẩu tư liêu sản xuất (bao gồm máy móc thiết bị và nguyên
nhiên vật liệu) vẫn ở mức cao. Tuy nhiên qua bảng số liệu cân đối ở dưới ta
có thể nhận thấy tỷ trọng nhập siêu của Việt Nam vẫn tăng khá nhanh, đó là
một biểu hiện của một nền kinh tế mất cân đối.
Tổng mức lưu chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu

Tổng số
Chia ra
Cân đối

Xuất khẩu Nhập khẩu
Triệu đô la Mỹ
1990 5156.4 2404.0 2752.4 -348.4
1995 13604.3 5448.9 8155.4 -2706.5
2000 30119.2 14482.7 15636.5 -1153.8
2001 31247.1 15029.2 16217.9 -1188.7
2002 36451.7 16706.1 19745.6 -3039.5
2003 45405.1 20149.3 25255.8 -5106.5
2004 58453.8 26485.0 31968.8 -5483.8
2005 69208.2 32447.1 36761.1 -4314.0
2006 84717.3 39826.2 44891.1 -5064.9
Nguồn: tổng cục thống kê
2.2. Kim ngạch nhập khẩu trên đầu người (từ năm 2000 đến năm 2006) :
3
Đơn vị : tỷ USD
Năm 2000 : 200,94 USD/người
Năm 2001 : 205,88 USD/người
Năm 2002 : 247,09 USD/người
Năm 2003 : 312,72 USD/người
Năm 2004 : 390,09 USD/người
Năm 2005 : 445,21 USD/người
Năm 2006 : 527,59 USD/người
Qua số liệu thống kê trên ta có thể dễ dàng nhận thấy bình quân kim
ngạch nhập khẩu trên đầu người đang tăng lên một cách rõ rệt (chỉ trong
vòng 7 năm đã tăng lên 2,5 lần). Con số này biểu hiện một thực trạng không
tốt của nền kinh tế, nền kinh tế đang phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu hàng
hoá từ nước ngoài.
2.3. Cơ cấu nhóm các mặt hàng nhập khẩu :
Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, mục tiêu của việc
nhập khẩu hàng hóa trước hết là đảm bảo cho nhu cầu sản xuất trong nước,

do đó cần ưu tiên cho việc nhập khẩu máy móc thiết bị và nhiên liệu (xăng,
dầu). Tiến tới giảm dần nhập khẩu hàng tiêu dùng, đặc biệt là những mặt
hàng trong nước có khả năng sản xuất và cung ứng.
4
nhập khẩu hàng hóa phân theo nhóm hàng
Cơ cấu (%)
TỔNG SỐ
100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0
Phân theo nhóm hàng
Tư liệu sản xuất
84.8 87.6 89.9 91.5 91.6 93.8 92.1 92.1 92.2 93.3 91.9
Máy móc TB, dụng cụ,
phụ tùng
25.7 27.6 30.3 30.6 29.9 30.6 30.5 29.8 31.6 28.8 25.3
Nguyên, nhiên VL
59.1 60.0 59.6 61.0 61.7 63.2 61.6 62.3 60.6 64.5 66.6
Hàng tiêu dùng
15.2 12.4 10.1 8.5 8.4 6.2 7.9 7.9 7.8 6.7 8.1
Lương thực
0.0 0.0 0.0 0.0 0.0
Thực phẩm
3.5 2.9 2.1 2.4 2.5 1.9 3.0 2.5 2.4 2.4 3.0
Hàng y tế
0.9 1.9 3.1 2.8 2.3 2.2 2.0 1.8 1.6 1.4 1.4
Hàng khác
10.8 7.6 5.0 3.2 3.6 2.1 3.0 3.6 3.8 2.9 3.7
Năm 2006 kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị, phụ tùng đạt gần
6,56 tỷ USD (tăng 24,2%), trong khi kim ngạch nhập khẩu nguyên nhiên vật
liệu ở vào khoảng 25,75 tỷ USD (tăng 15,3%). Đáng chú ý kim ngạch nhập
khẩu hàng tiêu dùng đạt 1,24 tỷ USD, chỉ chiếm khoảng 2,8% tổng kim

ngạch nhập khẩu hàng hoá. Tuy nhiên nhập khẩu hàng tiêu dùng lại tăng tới
24,4% so với năm 2005 và xu hướng đó có thể còn tiếp tục trong thời gian
tới.
5
Như vậy có thể thấy cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam qua các năm có xu
hướng khá ổn định, phù hợp với xu thế tăng trưởng nhanh của nền kinh tế,
đó là tăng tỷ trọng nhập khẩu các loại tư liệu sản xuất phục vụ cho các ngành
sản xuất và dịch vụ trong nước, giảm dần tỷ trọng của hàng tiêu dùng. Xu
hướng này bộc lộ mặt tích cực, là nhập khẩu nhiều máy móc và nguyên
nhiên vật liệu trong thời gian này tuy làm tăng kim ngạch nhập khẩu và tăng
nhập siêu, nhưng lại trang bị và tăng cường vững chắc khả năng sản xuất,
trước mắt để đảm bảo trang bị cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động
phục vụ nhu cầu trong nước, dần thay thế các mặt hàng trước đây phải nhập
khẩu. Sau đó khi nền kinh tế đã tăng trưởng mạnh và ổn định, sản xuất được
nhiều, năng suất cao sẽ tiến tới xuất khẩu. Tuy nhiên cơ cấu này cũng đã thể
hiện sự mất cân đối trong cơ cấu ngành kinh tế, phản ánh khả năng sản xuất
nguyên liệu - bán thành phẩm còn hạn chế, làm cho hoạt động sản xuất phụ
thuộc nhiều vào nhập khẩu các yếu tố đầu vào từ nước ngoài, việc sản xuất
trong nước vẫn còn mang nặng tính gia công, lắp ráp. Danh mục các mặt
6
hàng nhập khẩu vẫn chưa được hợp lý đã dẫn đến giá trị và tỷ trọng nhập
siêu cao. Do đó trong phương hướng tới cần phải điều chỉnh những bất hợp
lý này.
2.4. Cơ cấu nhập khẩu theo khu vực năm 2006
Trong cơ cấu nhập khẩu theo khu vực năm 2006, khu vực doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài chiếm 36.8% và khu vực doanh nghiệp trong nước là
63.2%. Có thể thấy, nhập khẩu trong khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài đang tăng nhanh góp phần đẩy nhanh tốc độ nhập khẩu trong
những năm qua. Sở dĩ như vậy là do nền kinh tế Việt Nam đang tăng trưởng
nhanh cùng với đó là quá trình hội nhập sâu rộng của đất nước, đặc biệt là

sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, luồng vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài đầu tư vào nước ta tăng mạnh (FDI thực hiện năm
2006 đạt mức kỷ lục 4,3 tỷ USD) đã làm tăng nhu cầu đầu tư một số lượng
lớn máy móc thiết bị cho các dự án, từ đó góp phần làm tăng giá trị nhập
khẩu mà đễ nhận thấy nhất là khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Trong thời gian tới, xu hướng này vẫn tiếp tục vì còn nhiều dự án của
các đối tác nước ngoài sẽ được tiếp tục triển khai.
2.5.Về thị trường nhập khẩu
7
36.8%
63.2%
Số liệu thống kê qua các năm cho thấy, phân theo khối nước, dẫn đầu
về thị phần là nhóm các nước APEC, tiếp đó là các nước ASEAN, EU và
OPEC (có kể đến các nước thuộc khối ASEAN và cùng nằm trong khối
APEC)
Bảng giá trị nhập khẩu hàng hóa phân theo khối nước chủ yếu qua các năm
(Triệu USD)
Năm Tổng số ASEAN APEC EU OPEC
1995 8155.4 2270.1 6493.6 710.4 213.7
1996 11143.6 2905.5 8959.1 1153.2 207.2
1997 11592.3 3220.5 9391.5 1335.2 317.7
1998 11499.6 3344.4 9444.5 1246.3 337.2
1999 11742.1 3290.9 9578.8 1094.9 396.8
2000 15636.5 4449.0 13242.9 1317.4 525.9
2001 16218.0 4172.3 13185.9 1506.3 435.8
2002 19745.6 4769.2 16296.8 1840.6 628.6
2003 25255.8 5949.3 20580.1 2477.7 878.0
2004 31968.8 7768.5 26386.0 2681.8 1122.0
2005 36761.1 9326.3 30686.8 2581.2 1301.0
2006 44891.1

Tổng số Trung
Quốc
Singapo Đài
Loan
Nhật
Bản
Hàn
Quốc
1995 8155.4 329.7 1425.2 901.3 915.7 1253.6
1996 11143.6 329.0 2032.6 1263.2 1260.3 1781.4
1997 11592.3 404.4 2128.0 1484.7 1509.3 1564.5
1998 11499.6 515.0 1964.0 1377.6 1481.7 1420.9
1999 11742.1 673.1 1878.5 1566.4 1618.3 1485.8
2000 15636.5 1401.1 2694.3 1879.9 2300.9 1753.6
2001 16218.0 1606.2 2478.3 2008.7 2183.1 1886.8
2002 19745.6 2158.8 2533.5 2525.3 2504.7 2279.6
2003 25255.8 3138.6 2875.8 2915.5 2982.1 2625.4
2004 31968.8 4595.1 3618.4 3698.3 3552.6 3359.4
2005 36761.1 5899.7 4482.3 4304.2 4074.1 3594.1
2006 44891.1 7390.9 6273.7 4822.8 4701.0 3870.6
8
Nguồn: Tổng cục thống kê
Cụ thể hơn, nhóm các nước là thị trường nhập khẩu chủ yếu của Việt
Nam gồm có: Trung Quốc (4.04% năm 1995 – 16.4% năm 2006), Singapo
(17,4% năm 1995 – 13,97% năm 2006), Đài Loan (11% năm 1995 - 10.7%
năm 2006), Nhật Bản (11.2% năm 1995 – 10.47% năm 2006), Hàn Quốc
(15.3% năm 1995 – 8.6% năm 2006), tiếp đến là Thái Lan, Malaixia, Hồng
Kông; Mỹ là 2.1% năm 2006. Rõ ràng các nước châu Á đang chiếm một tỷ
trọng gần như tuyệt đối trong phân bố thị trường nhập khẩu. Như vậy, vẫn
còn không ít lo ngại từ khía cạnh thị trường nhập khẩu.

Bảng giá trị nhập khẩu tư một số quốc gia chủ yếu

Triệu USD ( nguồn từ tổng cục thống kê )
Tình hình nhập khẩu của Việt Nam trong các năm cho thấy: tỷ trọng nhập
khẩu máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến vẫn ở mức thấp. Một số mặt hàng
đã qua sử dụng, công nghệ lạc hậu vẫn tiếp tục được nhập khẩu. Lý do là
chúng ta nhập khẩu tới 80,7% thị phần là từ các nước châu Á (Trung Quốc,
Đài Loan, Singapo,…) và công nghệ được nhập khẩu không phải từ các
nước có công nghệ nguồn, phần còn lại là từ EU, Nhật Bản, Châu Mỹ… lại
có thị phần chưa cao. Tóm lại là nhập siêu của Việt Nam chủ yếu là ở các thị
trường gần, chưa phải là nơi có công nghệ nguồn ( trong khi đó xuất siêu của
Việt Nam lại chủ yếu là ở các thị trường xa, thị trường có công nghệ nguồn).
Vì vậy, trong thời gian tới chúng ta cần có những điều chỉnh thích hợp để
tránh nguy cơ nhập khẩu những công nghệ cũ, làm giảm tuổi thọ công trình,
nhà máy, ảnh hưởng tới môi trường và quan trọng nhất là không để nước ta
đối mặt với nguy cơ trở thành một bãi rác công nghệ lỗi thời, lạc hậu.
II. KẾ HOẠCH NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ NĂM 2007
Trong chiến lược phát triển kinh tế giai đoạn 2001 -2010, mục tiêu của
ta đặt ra là giảm nhập siêu tiến tới cân bằng cán cân xuất nhập khẩu vào năm
2010. Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam hiện nay thì nhu cầu
nhập khẩu lớn các loại hàng hoá để phục vụ cho nhu cầu sản xuất trong nước
9
là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên mục tiêu nhập khẩu của ta là: tăng tỷ
trọng nhập khẩu các loại hàng hoá máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu
phục vụ cho sản xuất và giảm nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng. Giảm nhập
khẩu ở các thị trường truyền thống Châu Á, hướng tới các thị trường lớn ở
Châu Âu là nơi có công nghệ nguồn, tiên tiến.
Kế hoạch nhập khẩu năm 2007 đã quán triệt tư tưởng trên và đưa ra
một số chỉ tiêu cơ bản về nhập khẩu như sau :
1.Chỉ tiêu Đơn vị Thùc hiÖn n¨m

2005
KH n¨m 2007
1. xuất khẩu hàng hoá Tỷ Usd 36.9 49.1
Tốc độ tăng
Trong đó:DN có vốn
đầu tư NN
% 15.713.6 15.5
Tỷ usd 12.0 20.5
2. Chia ra % 32.5
- Máy móc thiết bị và
phụ tùng
Tỷ usd 22.7 15.8
% so với tổng số % 61.3 32.2
Nguyªn nhiªn vËt liÖu Tû usd 30.1
% so víi tæng sè % 61.3
- hàng tiêu dùng tỷ usd 2.3 3.2
% so với tổng số % 6.2 6.5
3. Mặt hàng nhập
khẩu chủ yếu
- Xăng dầu TriÖu tÊn 11.5 12.7
- Phân urê - 0.862 1.0
10
- Thép thành phẩm - 3.3 4.3
- Phôi thép - 2.2 3.0
- Bông xơ, sợi các loại Ngh×n
tÊn
354 500
- Giấy - 567 650
- Ô tô nguyên chiếc các
loại

Ngh×n
chiÕc
17 23
- Linh kiện điện tử, máy
tính
TriÖu usd 1.706 2.300
- Tân dược - 502 650
- Chất dẻo Ngh×n
tÊn
1.177 1.800
- Linh kiện ô tô TriÖu usd 795 1.000
- Linh kiện xe máy - 476 500
- Máy móc, thiết bị,
dụng cụ
- 5.281 6.200
- Nguyên phụ liệu, may,
da
- 2.282 2.800
- Hoá chất - 865 1.200
- Các sản phẩm hoá
chất
- 841 1.000
- Sữa và các sản phẩm
sữa
- 311 400
11
III. TÌNH HÌNH NHẬP KHẨU 9 THÁNG ĐẦU NĂM 2007
1. TÌNH HÌNH NHẬP KHẨU 9 THÁNG ĐẦU NĂM 2007
a.Tình hình chung
Kim ngạch nhập khẩu quý I năm 2007 đạt khoảng 11,8 tỷ USD, tăng

33,6% so với cùng kỳ năm 2006 và bằng 22,6% kế hoạch năm (quý I năm
2006 là 19,7%).
Giá trị nhập khẩu hàng hoá 6 tháng đầu năm 2007 ước tính đạt 27,2 tỷ
USD, nhập khẩu tăng 30,4% so với cùng kì năm trước
Tính chung 9 tháng đầu năm, tổng kim ngạch nhập khẩu đạt 42.87 tỷ
$, tốc độ tăng 30.3% so với cùng kì năm ngoái, bằng 82% KH cả năm.
b. Nhập khẩu theo khu vực
Quý I : Nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt
4,24 tỷ USD, tăng 23,9%; các doanh nghiệp trong nước đạt 7,6 tỷ USD, tăng
nhập khẩu tới gần 2,15 tỷ USD, tăng 39,8% so với cùng kỳ năm 2006
12
Trong 6 tháng đầu năm, nhập khẩu của khu vực kinh tế trong nước
17,3 tỷ USD, tăng 30,2% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 9,9 tỷ USD,
tăng 30,7%. Nhập khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng và nhiều vật tư,
nguyên, nhiên liệu quan trọng cho sản xuất trong nước tăng mạnh so với
cùng kỳ năm trước.
Tình hình 9 tháng đầu năm : nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài ước đạt 15.4 tỷ $, tăng 28.6% (bằng 75% kế hoạch cả
năm), doanh nghiệp trong nước đạt 27.47 tỷ$, tăng 31.2% so với cùng kì
năm 2006, chiếm 64.1% tổng kim ngạch nhập khẩu.
c.Nhập khẩu theo cơ cấu nhóm hàng và mặt hàng
Cơ cấu nhập khẩu năm 2006 là khoảng 70% hàng nguyên vật liệu
phục vụ sản xuất để tái xuất khẩu và sản xuất trong nước, bao gồm các mặt
hàng: gỗ nguyên liệu, bột giấy, đồng nguyên liệu, bông và sợi các loại, phân
bón, sắt thép, da nguyên liệu, máy móc thiết bị… các mặt hàng tiêu dùng
13
khác chiếm khoảng 30% thì trong 7 tháng đầu năm 2007 kim ngạch nhập
khẩu vẫn chủ yếu nguyên vật liệu phục vụ sản xuất như máy móc, thiết bị
dụng cụ, phụ tùng ước tính đạt 4,4 tỷ USD, tăng tới 46,4% so với cùng kỳ;
xăng dầu 3,3 tỷ USD, tăng 8,2%; sắt thép 2,15 tỷ USD, tăng 60,9%, hóa chất

tăng 47,1%. Phần tăng nhập khẩu của Việt Nam trong 9 tháng vừa qua là
67,08% thuộc bảy nhóm mặt hàng gồm máy móc, thiết bị, máy tính, dầu, sắt
thép Về nhập khẩu hàng tiêu dùng, điện tử tiêu dùng cũng chỉ tăng hơn
300 triệu USD Phần tăng hàng tiêu dùng chỉ chiếm khoảng 8,52% tổng
mức tăng hàng nhập khẩu.Tổng các mặt hàng tiêu dùng thời gian qua, Việt
Nam nhập tăng so với cùng kỳ chỉ 852 triệu USD so với khoảng 10 tỉ USD
tổng nhập khẩu tăng thêm, so với 2006 là không đáng kể.
Đa số các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu tăng so với cùng kỳ năm 2006.
Nhìn chung các mặt hàng quan trọng đều đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất và
tiêu dùng trong nước. Các nhóm hàng như máy móc, thiết bị, nguyên liệu,
nhiên liệu và vật liệu tăng trường rất nhanh. Riêng nhóm máy móc, thiết bị
và phụ tùng đạt mức cao kỷ lục với 7,2 tỉ USD, tăng tới 54,9% so với cùng
kỳ năm 2006, tăng tương ứng hơn 2,56 tỉ USD. Nhiều mặt hàng quan trọng
khác cũng tăng cao như: thép tăng 43,4%, bông 26%, hóa chất 38,6%, linh
kiện điện tử 42,7%, gỗ nguyên liệu 40,4%, thức ăn gia súc tăng 51%, xăng
dầu 8%, phân bón 8,5%, vải 33%, tân dược 26,6% so với cùng kỳ năm
2006. Riêng các mặt hàng nông sản thực phẩm nhập khẩu trong 9 tháng đạt
kim ngạch hơn 2,8 tỉ USD, tăng 32% so với cùng kỳ năm 2006. Lượng ô tô
nhập khẩu cũng tiếp tục tăng lên. Tính đến hết tháng 9, số lượng ô tô nguyên
chiếc đã nhập khẩu trên 15.300 chiếc, tăng 63,6% và bộ linh kiện ô tô cũng
đạt hơn 55.000 bộ, tăng 83% so với cùng kỳ năm 2006. Bên cạnh hầu hết
các mặt hàng nhập khẩu tăng cao thì lại có một số mặt hàng như phân bón
trê, cao su và bột giấy vẫn giảm sút so với cùng kỳ năm 2006
14
Bng cỏc mt hng nhp khu ch yu
Mặt hàng chủ yếu n v
KH
2007
c
TH 9t

2007
TH 9t
2006

So sỏnh (%)
9T-2007/9T
2006
9T-2007/KH
2007
Ôtô nguyên chiếc các
loại Chiếc 15000 15386 9403 163.6 102.6
L/Kiện ô-tô
Tr.
USD 800 578.5 334 173.2 72.3
L/Kiện xe máy
CKD,IKD
Tr.
USD 500 402.5 319 126.2 80.5
Xăng dầu các loại Ng. tấn 12300 9209 8526.5 108.0 74.9
Phân bón các loại " 2580 2377.5 108.5
Trong đó: Phân urê " 1000 438 615.5 71.2 43.8
Thép các loại " 6300 5535 4292.5 128.9 87.9
Trong đó: Phôi thép " 2300 1565 1523.5 102.7 68.0
Giấy các loại " 800 617.5 532 116.1 77.2
Bông các loại " 210 173.5 137.8 125.9 82.6
Sợi các loại " 400 308.5 255 121.0 77.1
Máy móc t/bị, p/tùng
Tr.
USD 7800 7227 4665 154.9 92.7
Tân dợc " 600 500 395 126.6 83.3

Hoá chất các loại " 1200 1037 748.5 138.5 86.4
Chất dẻo nguyên liệu Ng. tấn 1800 1155 1013.5 114.0 64.2
Vải
Tr.
USD 3500 2878 2164 133.0 82.2
NPL dệt may da
Tr.
USD 2500 1556 1463 106.4 62.2
Máy tính và linh kiện
điện tử " 2300 2059 1442 142.8 89.5
d.Nhp khu theo th trng
Trong 8 thỏng u nm 2007, c cu th trng khỏ n nh, tuy nhiờn
mc gia tng nhp khu t cỏc th trng ó cú bin ng khỏc nhau.
Nhp khu t Hn Quc n nh chim 36,5% tng kim ngch. Trong khi
ú, nhp khu t Nht Bn ó tng mnh tr li chim 25,7% sau khi gim
mnh trong quý I/07. Cỏc doanh nghip ó tng nhp t mt s th trng
15
mới như: Latvia, Haiti, Thổ Nhĩ Kỳ, Lithuania nhằm tránh phụ thuộc vào
các thị trường truyền thống.
Có 44 thị trường cung cấp mặt hàng chỉ cho nước ta trong 8 tháng đầu năm,
tăng 10 thị trường so với cùng kỳ năm ngoái. Nhập khẩu từ Hàn Quốc tiếp
tục tăng trưởng khá và là thị trường cung cấp lớn nhất đạt kim ngạch gần
11,8 triệu USD, chiếm 36,5 % tổng kim ngạch, tăng 30,1% so với cùng kỳ
năm ngoái.
Nhập khẩu từ Nhật Bản tăng mạnh trong cuối quý II và đầu quý III/07, đến
tháng 8/07 đã có dấu hiệu tăng chậm lại. 8 tháng đầu năm nay đạt kim ngạch
8,3 triệu USD, tăng 66,3% so với cùng kỳ năm ngoái.
Nhập khẩu từ Trung Quốc và Hồng Kông với mức tăng khá ổn định, đạt kim
ngạch 4,7 triệu USD và 4,1 triệu USD, tăng lần lượt 24%; 25,5% so với
cùng kỳ. Các doanh nghiệp đẩy mạnh nhập khẩu từ một số thị trường: Đức

tăng 392,7%, Sweden tăng 509,3%; Triều Tiên tăng 23.622%; Băngladesh
tăng 4.710% so với cung fkỳ năm 2006.
Tính chung, 9 tháng đầu năm 5 đối tác lớn nhất xuất khẩu hàng hóa
vào Việt Nam là Trung Quốc, Singapore, Đài Loan, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Trị giá hàng hóa nhập khẩu từ 5 thị trường này chiếm hơn 50% tổng kim
ngạch nhập khẩu của cả nước.
2. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ
Nhập khẩu tăng rất cao và nhập siêu cao được coi là một vấn đề nổi
cộm của nước ta đang được mọi người quan tâm. Nếu năm 2006 xuất khẩu
là 39.6 tỷ USD, nhập khẩu là 44.4 tỷ USD, nhập siêu 4.8 tỷ USD thì 9 tháng
đầu năm 2007 xuất khẩu là 35.2 tỷ USD,nhập khẩu 42.8 tỷ USD đạt 87.3 %
so với kim ngạch nhập khẩu cả năm(kế hoạch 49.1 tỷ USD), nhập siêu 7.6 tỷ
16
USD( kế hoạch 5.4 tỷ USD). Nhập siêu mạnh khiến cho cán cân thương mại
chênh lệch mạnh với tỷ lệ nhập siêu/ xuất khẩu tới mức cao 21.59 %. Dự báo
của Bộ Công Thương cuối năm 2007 nhập siêu là 8 tỷ USD. Song đó là sự
nhập siêu cần thiết hợp với quy luật đối với nước ta trong giai đoạn đầu của
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế mở cửa, hội nhập nền
kinh tế khu vực và toàn cầu vì về cơ bản cả xuất và nhập khẩu, chúng ta đều
vẫn giữ được động thái tích cực của sự phát triển ngoại thương trong giai
đoạn đầu của một nền kinh tế mở đang đẩy mạnh CNH, HĐH theo hướng:
tăng xuất những sản phẩm đang có lợi thế so sánh cao (cho dù phải xuất cả
những sản phẩm thô, hoặc chỉ mới qua sơ chế có hàm lượng chất xám thấp,
giá rẻ - một hạn chế lớn của ta hiện nay) để có nguồn thu ngoại tệ nhập
những sản phẩm cần thiết cho phát triển sản xuất trong nước và nhu cầu tiêu
dùng thiết yếu cho dân sinh (cho dù phải nhập cả những sản phẩm kỹ thuật,
công nghệ có hàm lượng chất xám cao, giá đắt); Thứ nữa, cho đến nay việc
nhập khẩu bằng con đường chính ngạch của ta vẫn được kiểm soát khá chặt
chẽ theo định hướng chỉ nhập những sản phẩm cần thiết cho quốc kế dân
sinh, nghĩa là chỉ nhập, và thậm chí ưu tiên nhập những sản phẩm cần thiết

cho việc đấy mạnh CNH - HĐH đất nước, kể cả những sản phẩm cần thiết
cho tiêu dùng thiết yếu của nhân dân mà ta chưa có điều kiện sản xuất được,
hoặc sản xuất được nhưng không hiệu quả bằng nhập.
Nguyên nhân của nhập siêu mạnh trong giại đoạn hiện nay là:
Thứ nhất là do nền kinh tế nước ta đang tăng trưởng nhanh và nguồn
vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh. Sự tăng trưởng có phần quan trọng là do
cơ cấu kinh tế ngành tiếp tục chuyển dịch mạnh theo hướng tích cực, tăng
nhanh tỷ trong công nghiệp – xây dựng và dịch vụ, hai nhóm ngành trên đã
trở thành động lực quyết định sự tăng trưởng cao của cả nền kinh tế - và hệ
quả đương nhiên là để có sự tăng trưởng như vậy thì sản xuất đã phát triển
17
lại càng phát triển hơn, kéo theo nhu cầu nhập khẩu vật tư, thiêt bị kỹ thuật,
công nghệ hiện đại vì thế càng gia tăng.
Bên cạnh đó, riêng 6 tháng đầu năm 2007, lượng vốn đầu tư trực tiếp từ
nước ngoài (FDI) đã đăng ký đã lên tới 5,2 tỷ USD, tăng 30% so với cùng
kỳ năm 2006, trong đó vốn thực hiện là 2,2 tỷ USD, tăng 20 % so với cùng
kỳ năm trước và đang có xu hướng gia tăng. Từ đó dẫn đến nhu cầu nhập
khẩu máy móc thiết bị phục vụ đầu tư tăng mạnh.
Thứ hai, việc nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên nhiên liệu phục vụ
sản xuất cho các công trình trọng điểm quốc gia cũng ở mức cao như máy
bay (306 triệu USD), máy móc cho nhà máy điện Cà Mau (165 triệu USD),
thiết bị dầu khí (120 triệu USD), thiết bị cho các nhà máy xi măng (115 triệu
USD), thiết bị cho các nhà máy đóng tầu (100 triệu USD),… tổng cộng
khoảng 806 triệu USD
Thứ ba, do giá cả và nhu cầu về lượng một số loại vật tư, nguyên nhiên
liệu nhập khẩu tăng. Một số loại vật tư, nguyên nhiên liệu trên thị trường thế
giới đã tăng mạnh đột biến so với cùng kỳ năm 2006, góp phần làm cho
KNNK tăng cao. Đó là: Thép thành phẩm tăng bình quân 85 USD/tấn (tăng
221 triệu USD), phôi thép tăng 90 USD/tấn (tăng 82 triệu USD), chất dẻo
tăng 15 USD/tấn (tăng 125 triệu USD). Theo Bộ Công Thương, chỉ riêng 3

mặt hàng này đã làm cho KNNK tăng thêm khoảng 500 triệu USD.
Một số mặt hàng có lượng nhập khẩu tăng như: máy móc thiết bị, phụ
tùng tăng 1,4 tỷ USD; vải tăng 554 triệu USD; thép thành phẩm tăng 476
triệu USD; linh kiện điện tử tăng 365 triệu USD; hoá chất tăng 213 triệu
USD; chất dẻo tăng 173 triệu USD; nguyên phụ liệu dệt may, giầy dép tăng
103 triệu USD Đáng lưu ý, nếu chỉ tính riêng xăng dầu nhập khẩu tăng
18
10,5% so với cùng kỳ năm trước đã khiến KNNK xăng dầu tăng thêm 324
triệu USD. Tác động của tăng lượng tới tăng KNNK là lớn hơn tác động của
tăng giá. Tăng khối lượng nhập khẩu làm KNNK 9 tháng đầu năm tăng 24%
trong đó chủ yếu là do tăng khối lượng nhập khẩu máy móc thiết bị, tăng giá
làm KNNK tăng 6%.
Theo số liệu đã công bố của Bộ Công Thương, chỉ tính riêng tổng giá
trị tăng thêm do gíá và lượng các vật tư, nguyên nhiên liệu đã lên tới con số
khoảng 4, 1 tỷ USD. Tuy nhiên, nhìn chung có thể yên tâm việc tăng mạnh
đó là vì sự cần thiết đáp ứng nhu cầu phát triển của sản xuất
Thứ tư là hiệu quả sức cạnh tranh của sản xuất trong nước còn thấp nên
khi nước ta thực hiện cam kết mở cửa sâu rộng hơn trong tiến trình hội nhập
vào kinh tế khu vực và toàn cầu thì nhiều mặt hàng không đủ sức cạnh tranh
với hàng nhập khẩu giảm khi thuế nhập khẩu giảm
Thứ năm, do ảnh hưởng của việc cắt giảm thuế đối với hàng hoá nhập
khẩu. Trong 6 tháng đầu năm 2007 đã có một số mặt hàng nhập khẩu của ta
do thực hiện cắt giảm thuế theo thông lệ của WTO nên đã góp phần làm cho
KNNK đối với những mặt hàng này tăng theo. ?Như nguyên liệu dệt may,
giày dép tăng 652 triệu USD, điện tử ô tô tăng mạnh…
Thứ sáu, do tỷ giá VND khá ổn định so với USD trong khi đó đồng
USD đang có xu hướng mất giá trên thế giới. Điều này làm cho đồng VN
tăng giá trị, giá cả của hàng hoá nước ngoài sẽ rẻ hơn tương đối và giá cả
của hàng trong nước trở nên đắt hơn tương đối. Mặc dù không phải là
nguyên nhân chính nhưng động thái này cũng góp phần khuyến khích gia

tăng nhu cầu nhập khẩu
19
Tuy nhiên nhập siêu đó đang là lời cảnh báo cho nền kinh tế Việt
Nam, là biểu hiện mặt yếu của một nền kinh tế và sẽ là bất lợi nếu cứ kéo dài
mãi xu thế nhập siêu cao này vì: Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
thời kỳ 2001-2010 Việt Nam đã đề ra là giảm nhập siêu, tiến tới cân bằng
xuất, nhập khẩu. Thực tế nhập siêu đã không giảm, trái lại liên tục gia tăng.
Ngoài ra, nhập siêu phần lớn nằm trong khu vực kinh tế trong nước. Điều đó
chứng tỏ, khu vực kinh tế trong nước về xuất khẩu chưa tận dụng hết cơ hội,
khi các nước cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu, trái lại về nhập khẩu lại
không vượt qua được thách thức lớn hơn khi nước ta cũng phải cắt giảm
thuế suất thuế nhập khẩu.
Bên cạnh nét nổi bật là tình trạng nhập siêu nhanh, tình hình nhập khẩu
trong 9 tháng đầu năm còn có những nét nổi bật sau:
- Cơ cấu nhập khẩu đang có chuyển biến theo hướng tích cực: tăng tỷ
trọng nhập khẩu các mặt hàng máy móc thiết bị, giảm tỷ trọng nhập khẩu
các mặt hàng tiêu dùng. Tỷ trọng nhập khẩu hàng tiêu dùng trong tổng
KNNK đang giảm dần và chiếm tỷ lệ thấp (< 3%) . Tỷ trọng nhập khẩu máy
móc thiết bị tăng, công nghệ nhập ngày càng được chọn lọc kỹ hơn theo
hướng nhập khẩu những công nghệ nguồn, tiên tiến.
- KNNK trong khu vực doanh nghiệp trong nước vẫn chiếm tỷ trọng
lớn, 64.1% tổng KNNK. Cơ cấu nhập khẩu trong nội bộ tư liệu sản xuất và
hàng tiêu dùng còn nhiều bất hợp lý. Nhập khẩu nhóm hàng hoá trung gian
như nguyên nhiên vật liệu chiếm trên 60%. Điều này thể hiện sự mất cân đối
trong cơ cấu ngành kinh tế, phản ánh khả năng sản xuất nguyên liệu, bán
thành phẩm còn hạn chế, làm cho hoạt động sản xuất phụ thuộc vào nhập
khẩu các yếu tố đầu vào từ nước ngoài và việc sản xuất trong nước mang
nặng tính gia công, lắp ráp như: sản xuất giấy phụ thuộc vào bột giấy nhập
20
khẩu, sản xuất thép phụ thuộc vào phôi thép nhập khẩu, sản xuất hàng điện

tử, ô tô, xe máy phụ thuộc vào linh kiện nhập. Còn đối với hàng tiêu dùng
vẫn còn nhập khẩu khá nhiều băng đĩa, phim ảnh, mỹ phẩm…Do danh mục
các mặt hàng nhập khẩu và cơ cấu nhập khẩu không hợp lý đã dẫn đến giá trị
và tỉ trọng nhập siêu cao. Trong khi đó, mặt hàng xuất khẩu thì hoặc là
nguyên liệu thô (dầu thô, than đá ) hoặc là nông sản chưa qua chế biến hay
mới sơ chế (gạo, cà phê, cao su, hạt điều, chè, lạc, thuỷ sản…), xuất khẩu
qua trung gian.
- Về thị trường nhập khẩu, thị trường nhập khẩu chủ yếu của ta hiện
nay vẫn là từ châu Á.Trong khi xuất siêu sang Hoa Kỳ, châu Âu thì Việt
Nam lại nhập siêu rất lớn từ châu Á mà Mỹ, EU có công nghệ nguồn, công
nghệ cao, có tác động lớn đến đổi mới kỹ thuật-công nghệ trong nước. Trong
khi đó với châu Á chưa phải là công nghệ nguồn, trong nhiều trường hợp
còn là công nghệ lạc hậu, thậm chí còn là “rác” công nghệ. Nếu không sớm
có những giải pháp từ cấp quản lý vĩ mô, khi các cam kết gia nhập WTO của
Việt Nam ngày càng mở rộng sẽ càng làm cho sản xuất trong nước bị phụ
thuộc, khi đó sự mất cân đối giữa xuất nhập sẽ càng tăng cao, tạo những bất
lợi cho nền kinh tế của đất nước. Trong những năm tới chúng ta cần phải
hướng tới thị trường Châu Âu nhập khẩu máy móc thiết bị trình độ cao và
hạn chế nhập khẩu hàng hoá trung gian từ Trung Quốc và một số thị trường
khác.
IV. DỰ BÁO KHẢ NĂNG THỰC HIỆN KẾ HOẠCH TRONG 3
THÁNG CUỐI NĂM
Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2007 theo kế hoạch là 49.1 tỷ USD,
tính tới tháng 9 tổng kim ngạch nhập khẩu 9 tháng đã đạt 42.87 tỷ USD. Vậy
để đạt được kế hoạch đề ra trong 3 tháng còn lại ta chỉ có thể nhập 6.23 tỷ
21
USD. Điều này là không thể được vì chỉ tính riêng tháng 9 tổng kim ngạch
nhập khẩu của Việt Nam đã là 5.1 tỷ USD. Trong 3 tháng cuối năm, nền
kinh tế được dự báo là sẽ tiếp tục tăng trưởng thậm chí tăng trưởng mạnh do
những nỗ lực thúc đẩy nhằm để đạt được mục tiêu về tăng trưởng kinh tế

năm 2007. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong 9 tháng đầu năm là 8.16 %( so
với cùng kỳ năm 2006) , do đó để đạt được mục tiêu cả năm tốc độ tăng
trưởng kinh tế là 8.5% thì 3 tháng cuối năm tốc độ tăng trưởng phải từ 9.1 –
9.5%. Do đó sản xuất sẽ tiếp tục được thúc đẩy phát triển, kéo theo nhu cầu
nhập hàng hoá, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất cũng
tăng. Mặt khác, nguồn vốn FDI được dự báo sẽ tiếp tục tăng, kim ngạch
nhập khẩu cũng tiếp tục tăng trong những tháng này cũng làm tăng nhu cầu
nhập khẩu hàng hoá. Vì vậy, tổng kim ngạch nhập khẩu trong 3 tháng này
chắc chắn sẽ vượt qua con số 6.3 tỷ USD nhiều. Chỉ tiêu tổng kim ngạch
nhập khẩu trong kế hoạch nhập khẩu sẽ không đạt được, kéo theo tốc độ
tăng nhập khẩu cũng sẽ lớn hơn so với mức kế hoạch đề ra là 15.5%.

Theo kế hoạch: tổng kim ngạch nhập khẩu : 49.1 tỷ $
tổng kim ngạch xuất khẩu : 43.7 tỷ $
thâm hụt ngân sách : 5.3 tỷ $
nhưng tính đến thời điểm này, mức thâm hụt ngân sách đã là 7.6 tỷ $, thâm
hụt ngân sách lớn mặc dù xuất khẩu 9 tháng đã vượt mức kế hoạch đề ra cả
năm. Theo dự báo của Bộ Công Thương, mức thâm hụt ngân sách đến cuối
năm 2007 có thể là 8 tỷ USD, thậm chí có một số chuyên gia kinh tế đã dự
đoán mức thâm hụt có thể lên tới 9.5 tỷ USD. Như vậy chỉ tiêu thâm hụt
ngân sách kế hoạch đã không đạt được và mức thâm hụt ngân sách có thể
vượt xa con số kế hoạch là 5.3 tỷ USD. Điều này được lý giải do nhu cầu
22
tăng trưởng kinh tế sẽ kéo theo nhu cầu nhập khẩu lớn hàng hoá trong những
tháng tiếp theo. Mặt khác, xuất khẩu tiếp tục được đẩy mạnh song cũng
không thể bù đắp nhiều cho nhập khẩu vì ngay bản thân xuất khẩu hàng hoá
cũng dựa vào nhập khẩu để sản xuất hàng hoá xuất khẩu.Với xu thế tăng
trưởng này chắc chắn sẽ càng tạo ra sự cạnh tranh gay gắt đối với hàng hoá
sản xuất trong nước - một khó khăn, thách thức lớn đối với các doanh nghiệp
nước ta cần lường trước để vượt qua.

Về cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu: kim ngạch nhập khẩu của hầu hết
các mặt hàng sẽ tăng do sự mở rộng quy mô nền kinh tế và nhu cầu sản xuất
cũng như tiêu dùng. Mặt hàng có tốc độ tăng nhiều nhất là máy móc thiết bị.
Tỷ trọng của hàng tiêu dùng trong tổng kim ngạch nhập khẩu là không lớn.
Đây là điều đáng khích lệ, tuy nhiên tỷ trọng hàng trung gian còn khá lớn
(trên 60%) là chưa thật hợp lý.
Từ đó đặt ra cần phải có sự giảm bớt tốc độ tăng trưởng quá mạnh của
nhập siêu hiện nay như thế nào cho hợp lý để đảm bảo được sự phát triển
cân đối và bền vững của nền kinh tế nước ta, trước hết là trong lĩnh vực
ngoại thương. Đó cũng chính là việc cần phải xác định được một hệ thống
các giải pháp đúng đắn, khả thi để hạn chế nhập siêu một cách hợp lý.
23
V. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
Trước tình hình nhập siêu nhanh như hiện nay chúng ta cần có những
biện pháp để giảm nhập siêu. Biện pháp cơ bản để giảm nhập siêu không
phải là giảm nhập khẩu mà căn cơ nhất là phải tăng cường xuất khẩu. Bịên
pháp giảm nhập khẩu chỉ nên áp dụng cho ngày xưa vì trước đây chúng ta
nhập để ăn, để tiêu và không có gì bù lại ngoài đi vay nên để giảm tình trạng
nhập siêu thì phải giảm nhập khẩu . Còn bây giờ chúng ta nhập siêu là để
phát triển sản xuất, thúc đẩy quá trình quá trình công nghiệp, hiện đại hoá
nền kinh tế mở cửa, hội nhập khu vực và thế giới, chúng ta có khả năng để
trả. Một số nguồn vốn để nhập khẩu đúng là cũng phải đi vay nhưng đó là
vay bền vững, có một số nguồn chúng ta còn vay không bền vững nhưng
không nhiều. Những mặt hàng thế mạnh của Việt Nam thời gian qua tăng về
lượng, bây giờ đã chững lại. Dệt may, da giày đang gặp nhiều cản trở trên
thị trường thế giới. Vì vậy, tăng xuất khẩu phải tập trung vào tăng chất
lượng hàng xuất khẩu, đưa ra những mặt hàng mới, sản phẩm công nghiệp,
công nghệ cao. Một số biện pháp tăng cường xuất khẩu chúng ta cần thực
hiện đồng bộ nhiều giải pháp:
Trước nhất chúng ta cần phải giữ vững các thị trường truyền thống

đang có nhất là các thị trường lớn như EU, Nhật, Mỹ. Muốn vậy phải thực
hiện đúng các cam kết quốc tế, nhất là cam kết giảm thuế trong WTO. Đồng
thời tiếp tục cải cách thủ tục hành chính theo hướng thông thoáng, bỏ đi các
thủ tục rườm rà trong hoạt động xuất nhập khẩu; Tiếp tục đa dạng hoá thị
trường, ngoài việc hướng vào các thị trường lớn như Mỹ, Nhật, EU…thì cần
tìm các thị trường không hoặc ít sử dụng đồng USD để tránh thiệt hại trong
xuất khẩu do đồng USD giảm giá; Tăng cường đẩu tư để xây dựng và phát
triển mạnh hơn nữa các khu công nghiệp chế xuất các sản phẩm nông- lâm-
thuỷ sản đã qua công nghiệp chế biến; Cần thay đồi nhận thức của Việt Nam
24
trong việc coi thế mạnh của mình là xuất khẩu các sản phẩm thô khai thác tự
nguồn tự nhiên có sẵn và nếu còn kéo dài tình trạng đó là một hạn chế, bất
cập rất lớn trước yêu cầu phát triển thực tiễn hiện nay.
Thứ hai, cần xây dựng hàng rào tiêu chuẩn kĩ thuật phù hợp với định
chế quốc tế đối với hàng nhập khẩu để bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước,
góp phần hạn chế nhập siêu. Khi hội nhập vào nền kinh tế, những rào cản
thuế quan được hạn chế sử dụng theo hướng tự do hoá thương mại thì hệ
thống rào cản kỹ thuật được xem là một trong những hữu hiệu để ngăn chặn
hàng nhập khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước. Các rào cản kỹ thuật có thể là:
tiêu chuẩn quy định kỹ thuật, an toàn vệ sinh dịch tễ; yêu cầu nhãn mác; yêu
cầu đóng gói bao bì; phí môi trường; nhãn sinh thái;…. Tiếp tục triển khai
một số công cụ quản lý nhập khẩu mới phù hợp với quy định của WTO như
hạn ngạch thuế quan, thuế tuyệt đối.
Thứ ba, cần coi trọng công tác thông tin, dự báo phân tích thị trường,
nắm bắt nhanh các chủ trương, chính sách, đối sách của các nước đối tác.
Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của công tác xúc tiến thương mại. Thời gian
qua công tác xúc tiến thương mại, cung cấp thông tin đã có những tiến bộ
nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra. Có được thông tin đầy
đủ, chi tiết về thị trường các doanh nghiệp sẽ kịp thời xử lý các vấn đề đột
xuất và không gặp phải các rào cản không đáng có.

Thứ tư, thúc đẩy vận động tiêu chuẩn hoá và công nhận lẫn nhau giữa
Việt Nam và các đối tác thương mại nước ngoài, đặc biệt đối với những bạn
hàng lớn như EU, Mỹ, Nhật Bản…Về vệ sinh an toàn thực phẩm và hệ
thống kiểm dịch nhằm tránh thiệt hại cho hàng xuất khẩu Việt Nam từ các
hàng rào bảo hộ hiện đại, từ đó ra tăng số lượng xuất khẩu.
25

×