Tải bản đầy đủ (.docx) (69 trang)

Tình hình thực hiện chế độ BHXH hưu trí tại huyện đông anh, hà nội (Chuyên đề ĐH Kinh tế Quốc dân)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (592.43 KB, 69 trang )

Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS. TS. Phạm Thị Định

MỤC LỤC
MỤC LỤC .................................................................................................................
DANH MỤC BẢNG .................................................................................................
LỜI NÓI ĐẦU ........................................................................................................1
PHẦN 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM
XÃ HỘI HƯU TRÍ .................................................................................................3
1.1 Chế độ hưu trí trong hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội ........................3
1.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của BHXH ....................................3
1.1.2 Cơ sở hình thành và đặc trưng của chế độ hưu trí ...............................6
1.1.3 Vai trị và tác dụng của chế độ hưu trí ..................................................8
1.2 Nội dung cơ bản của chế độ Bảo hiểm hưu trí ............................................9
1.2.1. Thời gian và mức đóng Bảo hiểm .........................................................9
1.2.2. Độ tuổi nghỉ hưu ...................................................................................11
1.2.3. Mức và thời gian hưởng trợ cấp .........................................................12
1.3 Một số chỉ tiêu đánh giá tình hình thực hiện chế độ bảo hiểm hưu trí ....13
1.3.1. Số đối tượng tham gia chế độ bảo hiểm hưu trí .................................13
1.3.2. Số thu chế độ bảo hiểm hưu trí ...........................................................14
1.3.3. Số đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm hưu trí .....................................15
1.3.4. Số chi trả trợ cấp chế độ bảo hiểm hưu trí .........................................15
1.4. Kinh nghiệm thực hiện chế độ Bảo hiểm hưu trí ở một số nước trên thế
giới và bài học cho Việt Nam ............................................................................16
1.4.1 Kinh nghiệm của các nước ...................................................................16
1.4.2. Bài học cho Việt Nam ..........................................................................18
PHẦN 2 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI HƯU
TRÍ Ở HUYỆN ĐƠNG ANH, HÀ NỘI ..............................................................20
2.1.Giới thiệu về Bảo hiểm xã hội huyện Đơng Anh .......................................20
2.1.1. Q trình hình thành và phát triển ...................................................20


2.1.2. Cơ cấu bộ máy tổ chức Bảo hiểm xã hội huyện Đông Anh ...............22
2.1.3. Kết quả hoạt động của BHXH huyện Đông Anh ..............................24
2.1.3.1. Về công tác thu và đốc thu BHXH .................................................24
2.1.3.2. Công tác chi trả chế độ BHXH ......................................................25
2.1.3.3. Công tác kiểm tra, khởi kiện ..........................................................27
2.1.3.4. Công tác cải cách thủ tục hành chính, tổ chức thực hiện quy trình một
cửa ...............................................................................................................28
2.1.3.5. Cơng tác chính sách, hồ sơ, giải quyết đơn thư .............................29
SVTH: Nguyễn Thị Trang

Lớp: Bảo hiểm 54


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS. TS. Phạm Thị Định

2.1.3.6. Công tác cấp, quản lý sổ BHXH, thẻ BHYT ..................................29
2.1.3.7. Công tác giảm định Y tế .................................................................29
2.1.3.8. Các công tác thông tin, tuyên truyền .............................................30
2.2 Thuận lợi và khó khăn trong việc thực hiện chế độ bảo hiểm hưu trí trên
địa bàn huyện Đơng Anh ..................................................................................30
2.2.1. Thuận lợi ...............................................................................................30
2.2.2. Khó khăn ..............................................................................................31
2.3. Tình hình thực hiện chế độ BHXH hưu trí tại huyện Đơng Anh ............32
2.3.1. Tình hình thu phí bảo hiểm .................................................................32
2.3.1.1. Cơ sở pháp lý .................................................................................32
2.3.1.2. Kết quả thu .....................................................................................33
2.3.2 Tình hình chi trả trợ cấp ......................................................................36
2.3.2.1 Cơ sở pháp lý ...................................................................................36

2.3.2.2 Mơ hình tổ chức chi trả ...................................................................39
2.3.2.3 Kết quả chi trả .................................................................................42
2.3.3. Đánh giá chung .....................................................................................46
2.3.3.1 Thành tựu đạt được .........................................................................46
2.3.3.2 Hạn chế và nguyên nhân ................................................................48
Phần 3 Giải pháp nhằm hồn thiện chính sách và tổ chức thực hiện chế độ hưu
trí tại Bảo hiểm xã hội huyện Đông Anh, Hà Nội ...............................................55
3.1. Giải pháp .....................................................................................................55
3.1.1. Giải pháp hồn thiện chính sách ............................................................55
3.1.2. Giải pháp tổ chức thực hiện ................................................................58
3.2. Kiến nghị .................................................................................................62
3.2.1. Kiến nghị với nhà nước .......................................................................62
3.2.2. Kiến nghị với chính quyền địa phương ..............................................62
3.2.3. Kiến nghị với BHXH Việt Nam và BHXH Hà Nội ............................63
KẾT LUẬN ...........................................................................................................65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................66

SVTH: Nguyễn Thị Trang

Lớp: Bảo hiểm 54


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS. TS. Phạm Thị Định

DANH MỤC BẢNG
Bảng số 2.1: Kết quả thu BHXH 3 năm gần đây ....................................................25
Bảng số 2.2: Kết quả chi lương hưu và T/c BHXH năm 2014 ................................26
Bảng số 2.3: Kết quả cho các chế độ BHXH ngắn hạn ...........................................27

Bảng số 2.4: Tỷ lệ trích các khoản bảo hiểm năm 2015 như sau ............................32
Bảng số 2.5: Thu BHXH tại huyện Đơng Anh (tính đến 31/12 hàng năm) .............34
Bảng 2.6: Kết quả thu BHXH theo khối quản lý (2013-2014) ................................35
Bảng số 2.7: Số người hưởng chế độ hưu trí (tính đến 31/12 hàng năm) ................42
Bảng số 2.8: Đối tượng hưởng chế độ BHXH hàng tháng (31/12 hàng năm) .........43
Bảng số 2.9: Nguồn chi trả BHXH và qui mơ chi trả chế độ hưu trí ......................44
Bảng số 2.10: Mức chi trả bình quân/người 3 năm gần đây ...................................46

SVTH: Nguyễn Thị Trang

Lớp: Bảo hiểm 54


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS. TS. Phạm Thị Định

LỜI NÓI ĐẦU
Ngoài việc làm và thu nhập là những vấn đề thiết yếu của cuộc sống con
ngườithì bảo hiểm xã hội trong nền kinh tế thị trường cũng là một vấn đề ln ln
được xem xét, bởi vì rủi ro ln là một vấn đề dễ xảy ra và có thể xảy ra với bất kì
ai trong chúng ta.Bảo hiểm xã hội (BHXH) là chính sách xã hội được nhiều quốc
gia coi trọng nhằm đảm bảo về mặt thu nhập cho người lao động khi họ tạm thời
hoặc vĩnh viễn mất khả năng lao động. BHXH đã trở thành quyền lợi và nghĩa vụ
của người lao động gắn liền với quyền về việc làm và thu nhập. Đại hội đồng Liên
hợp quốc thông qua BHXH là một trong những quyền về con người tạiTun ngơn
nhân quyền ngày 10/12/1948. Trong đó khẳng định tất cả mọi người với tư cách là
thành viên của xã hội đều có quyền hưởng BHXH, quyền đó đặt cơ sở trên sự thoả
mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự phát triển của
con người. Như vậy, BHXH là một trong những vấn đề rất lớn của mỗi quốc gia,

bởi vì nó góp phần bảo đảm đời sống của người lao động cùng gia đình họ khi gặp
khó khăn trong lao động sản xuất, ổn định cuộc sống hàng ngày.
Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm ngay từ
khi mới thành lập nước và nó đã đóng góp to lớn cho sự phát triển của đất nước.
Ngày 26/01/1995, Chính phủ đã ban hành Nghị định 12/CP về việc ban hành Điều
lệ BHXH và Quyết định số 2654-UB của UBND Thành phố Hà Nội để hồn thiện
hệ thống BHXH mang tính khoa học, hợp lý với nhiệm vụ và mục tiêu được xác
định cụ thể là bảo vệ quyền - lợi ích,ổn định cuộc sống cho người lao động, giảm
bớt gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước. Do đó, việc nghiên cứu để hồn chỉnh các
chính sách về BHXH có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với mỗi quốc gia. Hoạt
động của BHXH ngày càng hiệu quả hơn, đặc biệt là sau năm 1995 khi mà quỹ
BHXH được hình thành độc lập nằm ngoài Ngân sách Nhà nước. Quỹ BHXH là
xương sống của bất kỳ một hệ thống bảo hiểm xã hội nào vì mục đích của chế độ
BHXH là bảo đảm an toàn về thu nhập cho người lao động. Trong đó, chế độ
BHXH hưu trí chính là một trong những chế độ chính thể hiện đặc trưng của mục
đích này.
Chế độ BHXH hưu trí là chế độ cơ bản nhất trong 5 chế độ của hệ thống
BHXH, được quy định tại Mục 4 chương III Luật BHXH 2014/QH13 từ Điều 53
đến Điều 65. Đây là chế độ dành cho những người khơng cịn tham gia quan hệ lao
động nữa, do đó chế độ này rất cần thiết và không thể thiếu được, bởi bất cứ người
lao động cũng đến lúc hết tuổi lao động nhưng họ vẫn có nhu cầu đảm bảo cuộc
sống và lương hưu của họ là nguồn thu nhập chính của họ lúc này. Một trong những
SVTH: Nguyễn Thị Trang

1

Lớp: Bảo hiểm 54


Chuyên đề thực tập


GVHD: PGS. TS. Phạm Thị Định

mục đích, động lực cơ bản để người lao động tham gia quan hệ BHXH chính là
được hưởng trợ cấp khi về hưu.Nhận thức được tầm quan trọng và tính cấp thiết của
vấn đề này cùng với quá trình thực tập tại BHXH huyện Đơng Anh, em đã chọn đề
tài “Tình hình thực hiện Chế độ Bảo hiểm xã hội hưu trí ở huyện Đơng Anh, Hà
Nội”.
Mục đích của đề tài:
- Làm rõ chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí là gì?
- Thực trạng thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí ở huyện Đơng Anh
trong 3 năm qua như thế nào?
- Đề xuất một sốgiải pháp nhằm hoàn thiện chính sách và tổ chức thực hiện
chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí ở huyện Đơng Anh, Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu: chỉ chế độ BH hưu trí bắt buộc.
Nội dung của chuyên đề bao gồm:
Lời nói đầu
Phần 1: Mộtsố vấn đề lý luận cơ bản về chế độ Bảo hiểm xã hội hưu trí
Phần 2: Thực trạng thực hiện chế độ Bảo hiểm xã hội hưu trí ở huyện Đơng
Anh, Hà Nội
Phần 3: Giải pháp nhằm hồn thiện chính sách và tổ chức thực hiện chế độ bảo
hiểm xã hội hưu trí ở huyện Đơng Anh, Hà Nội
Kết luận
Chuyên đề này được hoàn thành là nhờ sự giúp đỡ tận tình của PGS.TS. Phạm
Thị Định cùng tập thể cán bộ công chức của cơ quan bảo hiểm xã hội huyện Đông
Anh. Mặc dù bản thân em đã có nhiều cố gắng nhưng do trình độ cịn hạn chế và
bảo hiểm xã hội là một vấn đề lớn và quan trọng nên bài viết không tránh khỏi
những thiếu sót, kính mong cơ giáo và các cán bộ trong cơ quan bảo hiểm xã hội
huyện Đơng Anh đóng góp ý kiến để chuyên đề được hoàn chỉnh hơn.


SVTH: Nguyễn Thị Trang

2

Lớp: Bảo hiểm 54


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS. TS. Phạm Thị Định

PHẦN 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẾ ĐỘ
BẢO HIỂM XÃ HỘI HƯU TRÍ
1.1 Chế độ hưu trí trong hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội
1.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của BHXH
Trên thế giới
Bảo hiểm xã hội đã xuất hiện từ rất lâu mà mầm mống của nó từ thế kỉ XIII ở
Nam Âu khi nền cơng nghiệp và kinh tế hàng hố đã bắt đầu phát triển. Tuy nhiên
ban đầu BHXH chỉ mang tính chất sơ khai, với phạm vi nhỏ hẹp. Từ thế kỉ XVI đến
thế kỉ XIII, một số nghiệp đoàn thợ thủ công ra đời, để bảo vệ lẫn nhau trong hoạt
động nghề nghiệp họ đã thành lập nên các quỹ tương trợ để giúp đỡ lẫn nhau. ở
Anh, năm 1973 đã thành lập hội “bằng hữu” để giúp đỡ các hội viên khi bị ốm đau,
tai nạn nghề nghiệp.
Năm 1883, nước Phổ (Cộng hoà liên bang Đức ngày nay) đã ban hành luật bảo
hiểm ốm đau đầu tiên trên thế giới, đánh dấu sự ra đời của BHXH. Bảo hiểm xã hội
đã trở thành một trong những quyền của con người và được xã hội thừa nhận. Tuyên
ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc (10/12/1948) đã ghi: “ Tất cả mọi người với
tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH”. Ngày 4/6/1952, tổ chức
lao động quốc tế (ILO) đã kí cơng ước Giơnevơ (102) về “Bảo hiểm xã hội cho

người lao động” đã khẳng định tất yếu các nước phải tiến hành BHXH cho người
lao động và gia đình họ. Theo cơng ước 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ của Tổ
chức lao động quốc tế (ILO), phạm vi của BHXH là trợ cấp cho 9 chế độ sau:
- Chăm sóc y tế
- Trợ cấp ốm đau
- Trợ cấp thất nghiệp
- Trợ cấp tuổi già
- Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
- Trợ cấp gia đình
- Trợ cấp thai sản
- Trợ cấp khi tàn phế
- Trợ cấp cho người còn sống (trợ cấp mất người nuôi dưỡng)
Nhưng trên thực tế không phải nước nào cũng thực hiện được toàn bộ 9 chế độ
trên và khơng phải nước nào cũng có phạm vi, đối tượng, nguồn hình thành quỹ
giống nhau. Có nghĩa là việc thực hiện BHXH ở những nước khác nhau thì khác
nhau, tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng nước và hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai
đoạn phát triển mà mỗi nước có hình thức áp dụng khác nhau cho phù hợp.

SVTH: Nguyễn Thị Trang

3

Lớp: Bảo hiểm 54


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS. TS. Phạm Thị Định

Trên thế giới có 35 nước thực hiện được 9 chế độ, 37 nước chưa thực hiện

được chế độ thứ 3 (trợ cấp thất nghiệp), 67 nước chưa thực hiện được chế độ thứ 3
và thứ 6 (trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp gia đình).
Tại Việt Nam
Bảo hiểm xã hội có mầm mống dưới thời phong kiến Pháp thuộc. Sau cách
mạng tháng 8/1945, Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hồ -nay là nước
Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Namđã ban hành sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947
thực hiện bảo hiểm ốm đau, tai nạn lao động và hưu trí. Các chế độ này được thực
hiện đối với những người làm việc trong các cơ quan từ cơ sở đến Trung ương.
Tuy nhiên, do chiến tranh và khả năng kinh tế có hạn nên chỉ một bộ phận lao
động xã hội được hưởng quyền lợi BHXH.
Sau khi hồ bình lập lại, ngày 27/12/ 1961 Nhà nước ban hành Nghị định
128/CP của Chính phủ về “Điều lệ tạm thời thực hiện các chế độ BHXH đối với
công nhân viên chức” và được thực hiện từ ngày 1/1/1962. Sau hơn 20 năm thực
hiện BHXH đối với công nhân viên chức, các chế độ bảo hiểm xã hội đã bộc lộ
nhiều hạn chế. Do đó, ngày 18/9/1985 Chính phủ (lúc đó là Hội Đồng Bộ Trưởng)
đã ban hành Nghị định 236/HĐBT về việc sửa đổi, bổ sung chính sách và chế độ
BHXH đối với người lao động. Nội dung chủ yếu của Nghị định này là điều chỉnh
mức đóng và hưởng BHXH.
Tuy nhiên chính sách BHXH ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế khơng phù
hợp với cơ chế mới. Vì vậy, ngày 22/6/1993 Chính phủ đã ban hành Nghị định
43/CP quy định tạm thời về các chế độ BHXH áp dụng cho các thành phần kinh tế,
đánh dấu một bước đổi mới của BHXH Việt Nam.
Tuy vậy, chỉ khi Bộ luật lao động được Quốc Hội nước cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua ngày 15/6/1994, điều lệ tạm thời về BHXH theo Nghị
định 12/CP của Chính phủ ban hành ngày 26/1/1995 và Nghị định 45/CP ban hành
ngày 15/7/1995 cho các đối tượng hưởng BHXH là công nhân viên chức và lực
lượng vũ trang, bảo hiểm xã hội Việt Nam thực sự đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động cũng như tổ chức quản lý.
Các văn bản trên đã quy định cụ thể các chế độ bảo hiểm xã hội được áp dụng
qua các giai đoạn phát triển kinh tế của đất nước.

Về hệ thống tổ chức quản lí:
- Trước năm 1995 do hai ngành quản lí. Ngành Lao động Thương binh Xã hội
quản lí việc thực hiện chế độ hưu trí và tử tuất, cịn liên đồn lao động Việt Nam
quản lí chi trả chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, nghỉ ngơi. Từ năm 1995
đến nay Chính phủ đã cho phép sát nhập bộ phận làm công tác BHXH ở hai ngành
lại thành tổ chức mới đó là BHXH Việt Nam, là cơ quan trực thuộc Chính phủ có hệ
SVTH: Nguyễn Thị Trang

4

Lớp: Bảo hiểm 54


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS. TS. Phạm Thị Định

thống dọc ở cấp tỉnh và huyện ở các địa phương. Về nguồn tài chính hình thành quỹ
BHXH chia làm hai giai đoạn:
- Thời kì 1962- 1993: trong giai đoạn này, quỹ BHXH được hính thành từ
nguồn thu tiền đóng BHXH với quy định chỉ có người sử dụng lao động đóng và tỉ
lệ đóng là 4,7% quỹ lương, trong đó:1% do ngành lao động Thương binh xã hội và
Bộ tài chính quản lí để chi trả các chế độ hưu trí, tử tuất; 3,7% do Tổng Liên Đồn
Lao động quản lí để chi trả các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động.
Đến năm 1987 được nâng lên 15%, trong đó 8% do nghành lao động TBXH quản lí,
2%để lại đơn vị để trợ cấp khó khăn đột xuất, 5% do Tổng Liên đoàn lao động Việt
Nam quản lí.
Đặc điểm nổi bật là trước năm 1987 tỷ lệ đóng góp thấp, số người hưởng chế
độ BHXH ít song tỷ trọng ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho mục tiêu này lớn. Sau
năm 1987 tỷ lệ này được nâng lên song số người hưởng tăng lên, đặc biệt từ năm

1990 với việc thực hiện các Quyết định 176/ HĐBT và 111/CP của Chính phủ về
giảm biên chế khu vực nhà nước nên số người hưởng BHXH tăng đòi hỏi ngân sách
Nhà nước phải chi bù rất lớn.
Thời kì 1993 đến nay được đánh dấu bằng việc ban hành Nghị định 43/CP
ngày 1/4/1993 của Chính phủ. Theo Nghị định này, mức thu quỹ BHXH được nâng
lên 20% trong đó một sự thay đổi căn bản, đó là: người lao động phải đóng 5%,
15% cịn lại do người sử dụng lao động đóng. Quỹ BHXH trở thành nguồn tài chính
tập trung tương đối độc lập với ngân sách Nhà nước. Ngồi ra quỹ BHXH cịn được
bổ sung từ việc sử dụng tiền nhàn rỗi đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh sinh
lời. Khoản đầu tư này đang thấp và sẽ được tăng dần trong các năm tiếp theo.
Tổng các nguồn thu BHXH tăng nhanh do cả hai nguồn ngân sách Nhà nước
hỗ trợ và tiền đóng BHXH của đơn vị sử dụng lao động và người lao động. Đó là
kết quả hoạt động của việc thực hiện điều lệ BHXH ban hành theo Nghị định 12/CP
theo tổ chức mới. Việc hình thành một hệ thống BHXH tập trung đảm bảo thu phí
BHXH kịp thời và đầy đủ hơn làm tăng khá nhanh quỹ BHXH. Nguồn từ ngân sách
Nhà nước dùng để chi trả cho những người hưởng BHXH trước tháng 1 năm 1995.
Nhìn chung sự hình thành quỹ BHXH đã dần dần đi vào ổn định, mang tính
quy luật chung. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân ngân sách nhà nước phải hỗ trợ
kéo dài nhiều năm, nhưng xu hướng giảm dần, còn chi BHXH từ quỹ (chi cho
những người về nghỉ hưu sau 1/1/1995) sẽ tăng lên do vậy cần phải có các giải pháp
để tăng nhanh nguồn thu BHXH.
1.1.2 Cơ sở hình thành và đặc trưng của chế độ hưu trí
Trong q trình lao động tạo ra của cải vật chất để đáp ứng nhu cầu của bản
thân nhưng cùng với thời gian, tuổi tác và sức khỏe của họ bị giảm sút và đến một
SVTH: Nguyễn Thị Trang

5

Lớp: Bảo hiểm 54



Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS. TS. Phạm Thị Định

lúc nào đó, họ cần phải được nghỉ ngơi, an dưỡng tuổi già. Lúc đó, khoản thu nhập
mà họ có thể sinh sống hoặc là do tích góp trong q trình lao động hoặc do con
cháu cấp dưỡng... Những nguồn thu nhập này không thường xuyên và phụ thuộc
vào điều kiện của từng người. Để đảm bảo lợi ích cho người lao động khi họ hết
tuổi lao động và giúp họ có nguồn thu nhập thường xuyên, ổn định, nhà nước đã
thực hiện chế độ BHXH hưu trí.
Vậy Bảo hiểm hưu trí là hình thức bảo đảm thu nhập cho người lao động khi
hết tuổi lao động. Trong quá trình lao động, người lao động tạo ra thu nhập để ni
sống chính họ. Quá trình này diễn ra ngay trong các nhà máy, xí nghiệp, đơn vị kinh
tế, hành chính sự nghiệp trong lĩnh vực quốc doanh và ngoài quốc doanh. Trong q
trình đó, họ cống hiến sức lao động bằng cách tạo ra thu nhập cho cá nhân họ nói
riêng cũng như xã hội nói chung để xây dựng đất nước ngày một giàu mạnh hơn.
Do đó, đến khi họ khơng cịn khả năng lao động nữa thì họ phải được sự quan tâm
ngược lại từ phía xã hội. Đó chính là khoản tiền trợ cấp hưu trí hàng tháng phù hợp
với số phí BHXH mà họ đã đóng góp trong suốt q trình lao động. Nguồn trợ cấp
này tuy ít hơn so với lúc đang làm việc nhưng nó rất quan trọng và cần thiết giúp
cho người về hưu ổn định về mặt vật chất cũng như tinh thần trong cuộc sống, tạo
cho họ có thêm điều kiện để cống hiến cho xã hội những kinh nghiệm quý báu trong
quá trình lao động sản xuất mà họ đã tích luỹ được nhằm xây dựng đất nước ngày
càng phồn vinh hơn. Bảo hiểm hưu trí bảo đảm quyền lợi cho người lao động, giúp
họ tự bảo vệ mình khi hết tuổi lao động, tự lo cho chính mình một cách hợp lý nhất
nhờ vào việc họ đã cống hiến sức lao động của mình để tạo ra của cải vật chất cho
xã hội trước đó. Người lao động chỉ cần trích ra một tỷ lệ % tiền lương tương đối
nhỏ khi còn đang làm việc trong một thời gian nhất định. Đến khi hết tuổi lao động
phải nghỉ việc, họ sẽ có được sự bảo đảm của xã hội làm giảm bớt phần nào khó

khăn về mặt tài chính do khơng còn lao động được nữa. Như vậy, bảo hiểm hưu trí
là một chế độ mang tính xã hội hóa cao, được thực hiện một cách thường xuyên và
đều đặn, kế tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nói cách khác, chế độ bảo hiểm hưu
trí lấy đóng góp của thế hệ sau chi trả cho các thế hệ trước. Vì vậy, nó tạo ra sự ràng
buộc và đồn kết giữa các thế hệ, làm cho mọi người trong xã hội quan tâm và gắn
bó với nhau hơn, thể hiện mối quan tâm sâu sắc giữa người với người trong xã hội.
Có ba đặc trưng cơ bản của chế độ hưu trí. Thứ nhất là bảo hiểm hưu trí là một
chế độ BHXH dài hạn nằm ngồi q trình lao động. Đặc trưng này thể hiện cả
trong quá trình đóng và hưởng bảo hiểm hưu trí. Người lao động tham gia đóng phí
BHXH trong một thời gian khá dài. Thời gian đó liên tục đủ lớn theo quy định thì sẽ
đủ một trong những điều kiện để được hưởng bảo hiểm hưu trí. Khi đã đủ các điều
SVTH: Nguyễn Thị Trang

6

Lớp: Bảo hiểm 54


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS. TS. Phạm Thị Định

kiện thì người lao động sẽ được hưởng trợ cấp hưu trí trong khoảng thời gian tính từ
lúc về hưu cho đến khi người lao động chết. Quá trình hưởng này dài ngắn bao
nhiêu tuỳ thuộc vào tuổi thọ của từng người và những người hưởng bảo hiểm hưu
trí là những người đã kết thúc quá trình làm việc của mình mà theo quy định được
nghỉ ở nhà và hưởng lương hưu.
Thứ hai là trong chế độ hưu trí có sự tách biệt giữa đóng và hưởng. Vì đây là
một chế độ nằm ngồi q trình lao động, cho nên để được hưởng chế độ hưu trí khi
về hưu thì người lao động phải tham gia đóng phí ngay trong q trình lao động.

Trong suốt quá trình lao động, số tiền người lao động đóng góp vào quỹ bảo hiểm
hưu trí dùng để chi trả lương hưu (trợ cấp tuổi già) cho thế hệ trước. Như vậy có sự
kế thừa giữa các thế hệ lao động trong việc hình thành quỹ bảo hiểm hưu trí, qua đó
thể hiện ngun tắc lấy số đơng bù số ít của bảo hiểm.
Thứ ba là có sự phụ thuộc chặt chẽ vào quan hệ sử dụng lao động trong chế độ
BHXH hưu trí. Người lao động và người sử dụng lao động có mối quan hệ với
nhau. Người sử dụng lao động muốn ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh thì
ngồi việc đầu tư cho thiết bị máy móc hiện đại, cịn phải chăm lo tới đời sống
người lao động mà mình đang sử dụng, tạo cho họ việc làm, đảm bảo cuộc sống cho
họ khi hết tuổi lao động bằng việc đóng BHXH cho người lao động. Có như vậy thì
người lao động mới an tâm lao động, tạo ra giá trị thặng dư, góp phần thúc đẩy nền
kinh tế nước nhà. Từ những tác dụng và đặc trưng trên, quỹ bảo hiểm hưu trí chiếm
tỷ trọng tương đối lớn trong quỹ bảo hiểm hưu trí. Do đó, bộ phận quản lý quỹ có
thể sử dụng phần quỹ bảo hiểm hưu trí nhàn rỗi để đầu tư sinh lời nhằm ổn định,
bảo đảm cân bằng và tăng trưởng quỹ. Từ đó góp phần thúc đẩy đầu tư tăng trưởng
vào nền kinh tế quốc dân, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, góp phần hạn
chế nạn thất nghiệp hiện nay.

SVTH: Nguyễn Thị Trang

7

Lớp: Bảo hiểm 54


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS. TS. Phạm Thị Định

1.1.3 Vai trị và tác dụng của chế độ hưu trí

Trong hệ thống các chế độ BHXH thường bao gồm nhiều chế độ khác nhau
(chế độ ốm đau, chế độ thai sản, chế độ tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp, chế độ
hưu trí…). Tuy nhiên, các chế độ BHXH được xây dựng và thực hiện phụ thuộc vào
trình độ phát triển và mục tiêu cụ thể của hệ thống BHXH trong từng thời kỳ của
mỗi nước. Và đặc biệt, trong bất cứ hệ thống BHXH nào cũng có những chế độ
chính thể hiện đặc trưng những mục tiêu chủ yếu của hệ thống bảo hiểm xã hội.
Một trong những chế độ đó là chế độ hưu trí hay chế độ bảo hiểm tuổi già cho
người lao động.
Theo quy định của ILO thì chế độ này là một trong những chế độ bắt buộc, là
chế độ chính sách khi mỗi quốc gia muốn xây dựng cho mình một hệ thống bảo
hiểm xã hội. Theo thống kê của ILO, trong tổng số 163 nước trên thế giới có hệ
thống BHXH (1993) thì có tới 155 nước có thực hiện chế độ hưu trí chiếm tỷ lệ
95,1%. Điều đó chứng tỏ chế độ hưu trí rất được các nước cũng như người lao động
quan tâm. Bởi vì chế độ bảo hiểm hưu trí đóng vai trò rất quan trọng trong hệ thống
các chế độ BHXH.
Về mặt xã hội, chế độ hưu trí dành cho những người khơng cịn tham gia vào
quan hệ lao động nữa. Vì vậy, chế độ này rất cần thiết và khơng thể thiếu được vì
người lao động nào cũng đến lúc hết tuổi lao động nhưng họ vẫn có nhu cầu đảm
bảo cuộc sống. Lúc này, lương hưu là nguồn thu nhập chính của họ. Được hưởng trợ
cấp lương hưu là nguồn động lực cơ bản để người lao động tham gia vào quan hệ
BHXH.
Về mặt pháp lý, tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã thông qua công ước số 102
năm 1952 quy định những quy phạm tổi thiểu về ASXH, trong đó khuyến khích các
quốc gia thành viên phải thực hiện ít nhất 3 trong 9 chế độ được quy định trong
cơng ước, trong 3 chế độ có chế độ bảo hiểm hưu trí. Điều này chứng tỏ bảo hiểm
hưu trí ln được ILO, các quốc gia và người lao động quan tâm.
BHXH là một trong những chính sách lớn của Đảng và nhà nước ta, từ hiến
pháp đầu tiên năm 1946 đến các hiến pháp sau này đều khẳng định quyền hưởng
BHXH của người lao động. Trên cơ sở đó, Quốc hội, Chính phủ, Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về chế độ

BHXH đồng thời sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất
nước. Đặc biệt là khi bộ luật BHXH năm 2006 được ban hành không chỉ đánh dấu
một mốc mới trong lĩnh vực BHXH mà còn cải thiện chế độ hưu trí theo hướng
cơng bằng hơn giữa các thành viên kinh tế, hướng tới sự phát triển ổn định và bền
vững. Và tới năm 2014, Chính phủ đã ban hành Luật BHXH 2014/QH13 có 6 thay
đổi chính nhằm hồn thiện hơn chính sách của Đảng và Nhà nước về BHXH.
SVTH: Nguyễn Thị Trang

8

Lớp: Bảo hiểm 54


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS. TS. Phạm Thị Định

Một vấn đề nữa đặt ra là xu hướng già hoá của dân số thế giới. Trên thế giới,
cứ một giây, có hai người tổ chức sinh nhật tròn 60 tuổi – trung bình một năm có
gần 58 triệu người trịn 60 tuổi. Hiện nay trên thế giới cứ chín người có một người
từ 60 tuổi trở lên và con số này dự tính đến năm 2050 sẽ tăng lên là cứ năm người
sẽ có một người từ 60 tuổi trở lên. Điều này dẫn đến số lượng người nghỉ hưu ngày
càng tăng. Vì vây,chế độ hưu trí giữ vai trị ngày càng quan trọng trong đời sống
kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Hơn nữa, chế độ bảo hiểm hưu trí cịn thể hiện
được sự quan tâm chăm sóc của Nhà nước, người sử dụng lao động đối với người
lao động, nguồn lao động chính tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Chế độ bảo hiểm
hưu trí cịn mang tính nhân văn, thể hiện đạo lý của dân tộc đồng thời phản ánh
trình độ văn minh của một chế độ xã hội.
Ngồi ra, bảo hiểm hưu trí có tác dụng rất to lớn khi giúp đảm bảo đời sống
cho người lao động khi họ về hưu, do đó giúp cho xã hội ổn định và gắn bó. Ngày

nay, tỷ lệ người già trong dân số càng tăng, do đó ổn định bộ phận này là rất quan
trọng. Mặt khác, khi nghỉ hưu, người lao động cần được sống an nhàn và thoải mái
hơn. Đối với người có trình độ, khả năng, họ lại tiếp tục cống hiến, truyền đạt kinh
nghiệm cho thế hệ sau. Người lao động trong q trình có sự đảm bảo chắc chắn về
phần thu nhập khi họ nghỉ hưu, do đó có thể làm việc với năng suất và chất lượng
cao hơn. Bảo hiểm hưu trí giúp người lao động tiết kiệm cho bản thân mình ngay
trong quá trình lao động để đảm bảo đời sống khi nghỉ hưu, giảm bớt phần nào gánh
nặng cho người thân, gia đình và xã hội.
1.2 Nội dung cơ bản của chế độ Bảo hiểm hưu trí
1.2.1. Thời gian và mức đóng Bảo hiểm
Tổng số đơn vị thời gian có đóng phí bảo hiểm để được hưởng chế độ hưu trí
được gọi là thời gian đóng bảo hiểm hưu trí. Việc quy định thời gian đóng phí
BHXH nhằm xác định sự cống hiến về mặt lao động của mỗi người với xã hội nói
chung và phần đóng góp vào phần BHXH nói riêng. Thời gian đóng BHXH là một
trong những căn cứ để chi trả đối với người lao động theo như luật định nhằm đảm
bảo sự công bằng, bình đẳng giữa những người tham gia BHXH, thực hiện một
trong những nguyên tắc cơ bản của BHXH. Việc xác định thời gian đóng phí BHXH
được dựa trên căn cứ: độ tuổi về hưu, tỷ lệ đóng góp,tuổi thọ về những người về
hưu, mức được hưởng… tóm lại tùy thuộc vào khả năng tài chính về chế độ hưu trí
nói riêng và BHXH nói chung… Về ngun tắc nếu xuất phát từ việc đóng BHXH
để hình thành quỹ sử dụng cho chế độ hưu trí thì phải tính tổng số thời gian đóng
phí BHXH thực tế. Cịn trong trường hợp người lao động làm việc trong những
trường hợp đặc biệt như người lao động làm việc ở nơi độc hại, vùng sâu vùng xa,
SVTH: Nguyễn Thị Trang

9

Lớp: Bảo hiểm 54



Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS. TS. Phạm Thị Định

… được điều lệ BHXH quy định số thời gian này được làm căn cứ để giảm tuổi đời
khi nghỉ hưu. Trong các chế độ BHXH bắt buộc, đối với chế độ hưu trí,hai yếu tố là
độ tuổi xác định và số năm đóng BHXH là điều kiện được hưởng chế độ đều được
hầu hết các nước quy định.
Cũng như tất cả các chế độ bảo hiểm khác, mức đóng cho chế độ hưu trí là
một vấn đề rất được chú trọng. Trong thực tế, mức thu cho chế độ này được xác
định riêng theo một tỷ lệ nào đó so với thu nhập hay tiền lương dùng để tính BHXH
và bảo hiểm hưu trí. Đối với người lao động làm cơng ăn lương thì thu nhập này
thường là tiền lương. Trong một số trường hợp mức thu cho chế độ hưu trí khơng
xác định riêng mà được gộp chung vào một mức thu gọi là thu BHXH nói chung. Ở
Việt Nam, hiện nay thực hiện thu chung một mức phí BHXH cho tất cả các chế độ
BHXH đang được thực hiện mặc dù trong đó có định lượng phần dành cho các chế
độ bảo hiểm dài hạn như bảo hiểm hưu trí. Trong trường hợp như vậy, phí bảo hiểm
hưu trí được xác lập riêng và được xác định theo công thức sau đây:
P = T * TBH * L.
Trong đó:
P: mức phí đóng cho chế độ hưu trí
T: tỷ lệ % đóng BHXH hưu trí nói chung
TBH: tỷ lệ thu BHXH tính theo thu nhập hay tiền lương
L: tiền lương hay thu nhập dùng để tính phí BHXH và chế độ hưu trí
Việc xác định phí nộp cho chế độ hưu trí riêng ra hay góp chung như nói ở
trên tùy thuộc điều kiện và mơ hình hay phương thức tổ chức hoạt động ở từng
nước. Nếu phí cho chế độ hưu trí được xác định riêng thì sẽ tạo thuận lợi cho việc
tính tốn và quản lý cho chế độ này, nhất là khi nó mở rộng ra những khu vực khác
nhau mà người lao động ở đó có hình thức thu nhập khơng đồng nhất như thu nhập
bằng tiền. Tách riêng như vậy cũng tạo ra sự linh hoạt hơn cho người tham gia chế

độ này. Tuy nhiên, nếu tách riêng như vậy, cũng có nghĩa là các chế độ khác cũng
được tách riêng ra, điều này làm cho hoạt động quản lý BHXH nói chung phải phức
tạp hơn. Cịn trong trường hợp khơng xác định riêng mức thu phí cho từng chế độ
thì có thể cơng việc quản lý ít phức tạp hơn nhưng lại phức tạp khi phải xác định phí
đóng cho bảo hiểm khi xác định cho người lao động có các hình thức thu nhập khác
nhau.
1.2.2. Độ tuổi nghỉ hưu
Điều 126 công ước 102 quy định trường hợp những người ở tình trạng sống
lâu hơn một độ tuổi quy định là những người được bảo vệ bởi chế độ bảo hiểm hưu
trí. Độ tuổi quy định này là không quá 65 tuổi, tuy nhiên các nhà quản lý có thẩm
quyền ở các nước vẫn có thể ấn định một độ tuổi cao hơn xét theo khả năng làm
việc của những người cao tuổi ở quốc gia đó. Để những quy định trên đi vào cuộc
SVTH: Nguyễn Thị Trang

10

Lớp: Bảo hiểm 54


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS. TS. Phạm Thị Định

sống thì hầu hết các quốc gia tham gia công ước đều cụ thể hóa những trường hợp
cơ bản được hưởng trợ cấp. Trong đó, quy định độ tuổi nghỉ hưu là độ tuổi tại đó
mà người lao động do tuổi đã cao hoặc không đủ sức khỏe để tiếp tục làm việc thì
sẽ ngững làm việc một cách đều đặn và cơ bản. Độ tuổi nghỉ hưu khác với độ tuổi
được hưởng trợ cấp chế độ BHXH hưu trí, đó là độ tuổi tối thiểu mà tại đó người
lao động tham gia BHXH đạt được những điều kiện quy định để hưởng tiền lương
hưu.

Độ tuổi hưởng chế độ hưu trí đóng một vai trị quan trọng trong việc xác định
chi phí của hệ thống chế độ, bởi vì qua những điều tra tính tốn trên phạm vi tồn
cầu, tổ chức ILO đã khẳng định nếu độ tuổi nghỉ hưu là 55 tuổi thì chi phí cho chế
độ BHXH hưu trí sẽ tăng 50 % so với tuổi nghỉ hưu là 60 tuổi. Tuổi hưởng chế độ
hưu trí thường được cân nhắc như sau:
- Khả năng làm việc tổng thể của người cao tuổi
Chăm sóc y tế tốt có thể giúp làm chậm lại q trình lão hóa ở người cao tuổi.
Thực tế đã chứng minh, một chế độ dự phòng bệnh tật như sinh hoạt tốt cho sức
khỏe, phát hiện và điều trị bệnh sớm, vận động như đạp xe, chơi thể thao, tinh thần
lạc quan giúp cho thể chất của một số người ở độ tuổi 60 vẫn chỉ như người ở độ
tuổi 30-40. Q trình lão hóa ở mỗi người là khác nhau. Do đó, những người ngay
từ khi trẻ mà đã có kế hoạch chăm sóc sức khỏe bản thân thì khi họ vào độ tuổi 50,
thậm chí là 60 vẫn có khả năng lao động, đóng góp công sức vào sự phát triển của
nền kinh tế, đặc biệt là những người lao động trong môi trường không độc hại,
không phải lao động nặng nhọc dẫn đến suy giảm sức khỏe. Do đó, tùy vào từng đối
tượng lao động, khả năng lao động của mỗi đối tượng sẽ khác nhau. Chính phủ cần
cân nhắc sao cho độ tuổi nghỉ hưu của họ hợp lý, tránh lãng phí nguồn nhân lực cho
nước nhà, giảm áp lực tới quỹ hưu trí nói riêng và quỹ BHXH nói chung.
- Vị thế của người cao tuổi trong thị trường lao động
Càng ngày người trẻ tuổi càng năng động, tài năng trong thị trường lao động.
Họ tìm kiếm cơ hội kinh doanh, đổi mới ngành nghề, chính vì vậy mà có rất nhiều
người thành cơng khi cịn mới 20, 30 tuổi. Tuy nhiên đó chỉ là số ít, mặc dù con số
đó đang có xu hướng tăng lên. Đa số những người chiếm vị thế cao trong thị trường
lao động vẫn là những người ngồi 40, 50 tuổi. Họ có kinh nghiệm làm việc lâu dài,
có mối quan hệ rộng, có tài sản tích lũy. Vậy việc họ nghỉ hưu ở độ tuổi này có phải
là đáng tiếc hay khơng? Tuy nhiên, cũng có những người lao động chân tay, nặng
nhọc và trong môi trường độc hại nên sức khỏe bị suy giảm. Việc cho họ nghỉ hưu
sớm là điều cần thiết, mang ý nghĩa nhân văn lớn. Do đó, độ tuổi nghỉ hưu cũng cần
được cân nhắc dựa trên vị thế của người cao tuổi trong thị trường lao động.
- Khả năng kinh tế của chế độ hưu trí

SVTH: Nguyễn Thị Trang

11

Lớp: Bảo hiểm 54


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS. TS. Phạm Thị Định

Yếu tố này cũng là một trong những yếu tố quan trong để xác định độ tuổi
nghỉ hưu của người lao động. Nếu xác định đổ tuổi nghỉ hưu quá sớm dẫn tới thời
gian đóng thấp, nguồn thu của chế độ hưu trí sẽ giảm. Từ đó, mức chi chế độ hưu trí
tăng lên, khơng có sự cân bằng giữa thu – chi có thể dẫn tới khả năng vỡ quỹ
BHXH. Điều này sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc sống của người lao động và
nền kinh tế nước nhà. Do đó, yếu tố kinh tế của chế độ hưu trí đóng vai trị rất quan
trọng để Chính phủ mỗi quốc gia cần cân nhắc độ tuổi nghỉ hưu sao cho hợp lý.
Điều quan trong là phải cân đối từ giác độ mức hưởng thỏa mãn đóng và chi
phí liên quan đến tuổi thọ bình quân của người cao tuổi. Mặt khác, khi quy định tuổi
về hưu còn phải dựa vào quy luật sinh - lão - bệnh - tử và điều kiện kinh tế xã hội
của mỗi nước. Ngoài ra, tuổi nghỉ hưu còn được quy định hạ thấp so với độ tuổi
bình qn đối với những người làm cơng việc trong điều kiện lao động và môi
trường nặng nhọc, nguy hiểm đã có ảnh hưởng nhất định làm suy giảm một phần
khả năng lao động so với bình thường hay những người có thể chất yếu khơng đủ
sức đảm đương công việc.
1.2.3. Mức và thời gian hưởng trợ cấp
Số tiền mà một người về hưu nhận được hàng tháng kể từ khi nghỉ hưu được
gọi là mức hưởng trợ cấp. Hiện nay đang có nhiều quan điểm khác nhau về mức
hưởng. Về cơ bản có hai quan điểm chính. Quan điểm thứ nhất cho rằng tiền lương

hưu là để đảm bảo mức sống tối thiểu của người nghỉ hưu theo tiêu chuẩn sống của
quốc gia. Còn theo quan điểm thứ hai thì cho rằng tiền lương hưu phải có giá trị
đảm bảo cho người về hưu có mức sống cao, thâm chí trên mức trung bình của xã
hội. Sự khác nhau này tất nhiên sẽ dẫn đến mức đóng tương ứng trước khi được
hưởng cũng khác nhau. Trong thực tế, khuynh hướng nào cũng có lý khi giải thích
nhưng nếu xét về mức sống của người về hưu và đặt trong quan hệ với sự phát triển
và ý nghĩa về sự hấp dẫn của BHXH đối với người lao động thì khuynh hướng thứ
hai có sức thuyết phục hơn. Nhưng dù là mức hưởng được xác định theo quan điểm
nào thì vẫn phải đảm bảo u cầu có tính nguyên tắc là tiền lương hưu phải thấp
hơn tiền lương khi làm việc. Tiền lương được tính theo cơng thức sau:
LH = T * L
Trong đó:
LH: tiền lương hưu được hưởng
T: tỷ lệ phần trăm dùng để tính lương hưu
L: tiền lương hay thu nhập dùng để tính lương hưu
Ngồi ra, tùy theo luật pháp của từng nước về chế độ này mà người nghỉ hưu
được hưởng thêm các quyền lợi như trợ cấp một lần khi nghỉ hưu, hay đối với
những người lao động nghỉ việc chưa đủ tuổi để hưởng chế độ hưu hàng tháng cũng
SVTH: Nguyễn Thị Trang

12

Lớp: Bảo hiểm 54


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS. TS. Phạm Thị Định

nhận được trợ cấp một lần và ngoài lương hưu hàng tháng, người nghỉ hưu còn

được bảo hiểm y tế do quỹ BHXH đài thọ; khi người lao động mất, gia đình họ
được hưởng chế độ tử tuất.
Thời gian kể từ khi nghỉ hưu cho đến khi qua đời được gọi là thời gian hưởng
chế độ hưu trí. Với mỗi người thì thời gian hưởng lương hưu thơng thường là có
khác nhau vì tuổi nghỉ hưu và tuổi thọ khơng giống nhau. Và do một trong những
vấn đề có tính xã hội, tính bù trừ… trong BHXH nên trong quản lý thường lấy số
bình quân thời gian hưởng tiền lương hưu trong cùng một hệ thống BHXH để tính
tốn cho các chi tiêu khác. Thời gian hưởng tiền hưu phải ngắn hơn thời gian đóng
BHXH cho chế độ hưu trí. Tuy vậy, thời gian nghỉ hưu để hưởng tiền lương hưu có
thể khác nhau trong khi thực hiện chế độ bảo hiểm này. Điều đó phụ thuộc vào các
yếu tố như tuổi đời khi nghỉ hưu theo quy định của pháp luật, tuổi thọ bình quân của
người nghỉ hưu. Những yếu tố này lại phụ thuộc vào chính sách lao động và BHXH
trong từng giai đoạn, vào mức sống và điều kiện sống của dân cư. Trong thực tế,
tuổi nghỉ hưu theo quy định của pháp luật thường ổn định trong một thời gian dài và
nếu có thay đổi thì cũng ở trong khoảng từ 55 đến 60 tuổi đối với người lao động
bình thường trong xã hội. Trong trường hợp đặc biệt có thể có những điều chỉnh
nhưng cũng dựa trên những độ tuổi đó. Khi tuổi thọ bình qn ngày càng tăng lên
thì thời gian hưởng chế độ hưu trí cũng có xu hướng tăng lên. Vấn đề có tính quy
luật này buộc các nhà nghiên cứu các chế độ chính sách về lao động và BHXH phải
tính đến để điều chỉnh tuổi về hưu cho phù hợp.
1.3. Một số chỉ tiêu đánh giá tình hình thực hiện chế độ bảo hiểm hưu trí
1.3.1. Số đối tượng tham gia chế độ bảo hiểm hưu trí
Từ số đối tượng tham gia chế độ bảo hiểm hưu trí tính được tỷ lệ người lao
động trong xã hội thực hiện vào chế độ hưu trí trong tổng số lao động nói chung.
Đây là chỉ tiêu phản ánh kết quả thực hiện mục tiêu mở rộng phạm vi hoạt động của
chế độ hưu trí. Trong điều kiện ở các nước có nền kinh tế kém phát triển, số người
tham gia vào chế độ hưu trí khơng nhiều thì chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá
quy mô và sự phát triển của chế độ hưu trí qua các thời kỳ.
Theo đuổi mục tiêu mọi người đều có quyền và được tham gia vào BHXH để
hưởng chế độ hưu trí nên trong q trình phát triển và mở rộng phạm vi hoạt động,

số người tham gia vào chế độ này phải tăng nhanh hơn tốc độ tăng nguồn lao động
xã hội. Cơ sở mục tiêu mở rộng của chế độ này để xác định tỷ lệ tăng số lượng
người tham gia chế độ hưu trí. Ở đây có thể lượng hố chỉ tiêu này qua tỷ lệ phần
trăm số người tham gia vào chế độ bảo hiểm hưu trí và tốc độ tăng của tỷ lệ này qua

SVTH: Nguyễn Thị Trang

13

Lớp: Bảo hiểm 54


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS. TS. Phạm Thị Định

các năm. Ngồi ra, cũng có thể tính thêm chỉ tiêu tỷ lệ tăng tương đối so với tỷ lệ
tăng lao động xã hội.
1.3.2. Số thu chế độ bảo hiểm hưu trí
Thu bảo hiểm hưu trí là một chỉ tiêu tổng hợp và hiệu quả của nó được đánh
giá trên các mặt chủ yếu sau:
- Tỉ lệ về số người đóng BHXH
Tỉ lệ % người đóng =* 100
Thực chất là thực hiện thu đúng và đủ số người đóng bảo hiểm hưu trí. Thu
đúng ở đây chủ yếu là thu đúng đối tượng phải thu. Số đối tượng phải thu hiện nay
là số người lao động thuộc diện đóng BHXH bắt buộc, đăng kí tham gia đóng bảo
hiểm hưu trí. Họ phải đóng BHXH, trong đó có chế độ hưu trí. Số người này thường
thay đổi do có sự thay đổi của các doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh, nhất là
số người lao động làm việc ở khu vực ngoài quốc doanh. Việc thu đúng thu đủ là rất
cần thiết để BHXH vừa đảm bảo lợi ích cho người lao động, vừa đảm bảo có những

tác dụng tích cực với các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như với
nền kinh tế nói chung. Mục tiêu thu ởđây là đảm bảo thu 100% đối tượng thuộc
diện phải đóng BHXH và bảo hiểm hưu trí. Chỉ tiêu này có thể áp dụng mở rộng ra
cho tất cả số người lao động có nhu cầu tham gia bảo hiểm hưu trí, và rộng hơn nữa
là toàn bộ số người lao động trong xã hội.
- Thu đủ số tiền theo quy định cho chế độ hưu trí.
Tỷ lệ % tiền thu được = * 100
Số tiền thu được này phụ thuộc vào mức thu theo luật định và số lượng người
mà các cơ quan BHXH đã thu được, hay số người trực tiếp đóng bảo hiểm xã hội.
Thu đủ là rất quan trọng khơng chỉ vì như đã đề cập ở trên mà đó cịn là bảo đảm
một sự chủ động về nguồn tài chính, làm cho nguồn quỹ BHXH được ổn định, giúp
duy trì các hoạt động bình thường và ngày càng phát triển của chế độ hưu trí.
- Thu đúng thời gian:
Đó là thời gian mà các đơn vị và cá nhân phải đóng BHXH theo quy định của
pháp luật hiện hành. Nếu không thu đúng thời gian sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch tài
chính trực tiếp của chế độ hưu trí. Nhất là trong điều kiện chế độ hưu trí áp dụng
theo cơ chế thu của người đóng trả cho người hưởng. Cịn trong chế độ hưu trí theo
cơ chế của đầu tư ứng trước thì thu kịp thời là một điều kiện quan trọng để ổn định
và phát triển quỹ hưu trí trong tương lai trên cơ sở các kế hoạch sử dụng quỹ để đầu
tư sinh lời.
1.3.3. Số đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm hưu trí
SVTH: Nguyễn Thị Trang
Lớp: Bảo hiểm 54
14


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS. TS. Phạm Thị Định


Số đối tượng hưởng chế độ hưu trí là một trong những chỉ tiêu quan trọng
đánh giá tình hình thực hiện chế độ hưu trí. Việc xác định đối tượng hưởng trợ cấp
hưu trí đúng và đầy đủ sẽ đảm bảo được quyền lợi của người lao động và gia đình
họ, đồng thời giúp quản lý BHXH chặt chẽ hơn, đảm bảo chi trả đúng đối tượng, từ
đó đảm bảo cơng bằng giữa những người tham gia BHXH.
Đối tượng được hưởng trợ cấp hưu trí là những người lao động đã tham gia
BHXH có quyền được nhận trợ cấp hưu trí (tích đủ điều kiện về thời gian và mức
đóng góp để được hưởng mức trợ cấp phù hợp theo quy định riêng của từng quốc
gia).
Tỷ lệ số đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm hưu trí trên số đối tượng tham gia
chế độ này sẽ giúp cho những nhà quản lý BHXH có cái nhìn tổng quan về tình
hình thực hiện chế độ hưu trí. Từ đó, những nhà quản lý đưa ra kiến nghị để khắc
phục và điều chỉnh sao cho thích hợp, giúp bảo hiểm hưu trí nói riêng và BHXH nói
chung phát triển bền vững trong nền kinh tế thị trường.
1.3.4. Số chi trả trợ cấp chế độ bảo hiểm hưu trí
Trong hoạt động chi trả, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cũng tập trung vào các
nội dung chủ yếu sau đây:
- Chi trả đúng đối tượng:
Đó là đảm bảo tiền hưu phải đến đúng người được hưởng, những người mà
hội đủ được điều kiện ràng buộc để được hưởng chế độ hưu trí. Điều này có liên
quan đến công tác quản lý đối tượng hưởng chế độ hưu trí. Khác với người lao động
khi tham gia đóng bảo hiểm xã hội, sự di chuyển hay thay đổi nơi ở của từng người
về hưu phụ thuộc vào khả năng và điều kiện sống mà họ lựa chọn. Khi đó cơng tác
quản lý phải có sự linh hoạt tốt để khơng chỉ quản lý tốt mà cịn được thực hiện chi
trả thuận lợi đúng đối tượng được hưởng chế độ này.
- Chi trả đủ về số lượng:
Chỉ tiêu chi trả đủ về số lượng phản ánh về số tiền chi trả đủ cho mọi đối
tượng được hưởng hưu trí theo quy định. Đây là yêu cầu pháp lý, được luật quy
định thành các mức tiền hưu được hưởng. Chi trả đủ cho người về hưu phải được
toàn của số tiền này trong quá trình chi trả cho các đối tượng được hưởng chế độ

hưu trí.
- Chi trả kịp thời gian:
Chi trả kịp thời gian chính là việc bảo đảm người về hưu phải được nhận
lương hưu đúng theo thời gian quy định. Đây là điều rất quan trọng vì tiền hưu là
một loại thu nhập thường xuyên của người về hưu. Đối với các đối tượng này, việc
nhận lương hưu đúng hạn sẽ giúp cho họ có thể ổn định được đời sống. Đối với các
cơ quan bảo hiểm, điều này có ý nghĩa rất lớn trong quản lý nói chung và thanh
quyết tốn cho chế độ hưu trí nói riêng. Trong điều kiện hiện nay, khi mà BHXH
SVTH: Nguyễn Thị Trang

15

Lớp: Bảo hiểm 54


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS. TS. Phạm Thị Định

đang còn có nhiều thay đổi cho phù hợp với q trình đổi mới nền kinh tế xã hội ở
Việt Nam, các chỉ tiêu này rất quan trọng trong quản lý quá trình thực hiện BHXH ở
nước ta.
1.4. Kinh nghiệm thực hiện chế độ Bảo hiểm hưu trí ở một số nước trên thế
giới và bài học cho Việt Nam
1.4.1 Kinh nghiệm của các nước
Tính đến năm 1993, trên thế giới đã có 163 nước thực hiện chính sách BHXH,
trong đó số các nước thực hiện chế độ hưu trí, tai nạn lao động, ốm đau, thai sản là
nhiều nhất lên tới 155 nước, chiếm khoảng 95%, ít nhất là chế độ thất nghiệp là có
khoảng 63 nước, chiếm 38,6%. Tuỳ thuộc vào điều kiện tình hình kinh tế, chính trị,
xã hội của mỗi nước mà có các thực hiện khác nhau giữa các chế độ. Tuy nhiên, xu

hướng chung hiện nay là đang dần thực hiện ngày càng đầy đủ hơn các chế độ. Đối
với lịch sử phát triển của ngành BHXH nói chung và bảo hiểm hưu trí nói riêng trên
thế giới thì tại Việt Nam cịn rất mới, như vậy chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm của
các nước đi trước.
Kinh nghiệm ở các nước công nghiệp phát triển cho thấy, ngay ở Cộng hòa
Liên bang (CHLB) Đức, người ta đều thống nhất một cơ quan thu BHXH nói chung
để kiểm tra mức thu nhập của người lao động, tránh tình trạng chế độ nào có sự điều
tiết xã hội và chia sẻ cao thì đóng thấp và ngược lại chế độ nào ít chia sẻ xã hội thì
đóng góp với mức thu nhập thấp. Hiện nay, bảo hiểm hưu trí đối với người lao động
của CHLB Đức được thực hiện thông qua ba chế độ:
- Hệ thống bảo hiểm hưu trí bắt buộc của Nhà nước liên bang. Đây là hệ thống
chủ yếu nhất, thực hiện bảo hiểm hưu trí bắt buộc đối với 80% tổng số lao động làm
công ăn lương trong cả nước. Hệ thống này bao gồm các cơ quan bảo hiểm hưu trí
đối với cơng nhân và các cơ quan bảo hiểm hưu trí đối với công chức, viên chức
Đức. Hệ thống này thực hiện các chế độ BHXH hưu trí sau:
+ Bảo hiểm cho thân nhân người tham gia hệ thống khi người tham gia
bảo hiểm hưu trí mất.
+ Bảo hiểm tàn tật và thực hiện các biện pháp phục hồi sức khỏe khi
người tham gia bảo hiểm hưu trí bị tai nạn, bị tàn phế.
- Hệ thống bảo hiểm hưu trí doanh nghiệp, thực hiện bảo hiểm hưu trí đối với
những người lao động làm việc trong các doanh nghiệp đó.
- Hệ thống bảo hiểm hưu trí tư nhân, thực hiện bảo hiểm hưu trí tự nguyện cho
mọi người lao động tự nguyện tham gia (kể cả người lao động đã tham gia hệ thống
bảo hiểm hưu trí nhà nước).
Tỷ lệ đóng góp cho hệ thống bảo hiểm hưu trí bắt buộc của Nhà nước liên
bang đối với người lao động và người sử dụng lao động được quy định hàng năm,
SVTH: Nguyễn Thị Trang

16


Lớp: Bảo hiểm 54


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS. TS. Phạm Thị Định

phụ thuộc vào mức chi trả cụ thể hàng năm cho các chế độ thuộc bảo hiểm hưu trí
và mức trợ cấp của ngân sách liên bang cho hệ thống (dao động xung quanh con số
30% tổng chi hàng năm của hệ thống). Thơng thường, tỷ lệ đóng góp này dao động
xuang quanh con số 19.5% khoản lương thực nhận hàng tháng của người lao động
tham gia hệ thống, trong đó, tỷ lệ mức đóng góp giữa người lao động và người sử
dụng lao động là 50/50.
Tại Trung Quốc, các chế độ hưu trí khác nhau được áp dụng đối với người lao
động thuộc các doanh nghiệp, nông dân và công chức, viên chức thuộc các cơ quan,
tổ chức của Chính phủ:
– Chế độ hưu trí đối với người lao động thuộc các doanh nghiệp được giới
thiệu vào những năm đầu 1950 và được cải cách từ năm 1984. Năm 1997, chế độ
bảo hiểm hưu trí cơ bản trong tồn quốc đối với những người lao động thuộc các
doanh nghiệp đã được ban hành và đang được mở rộng tới người làm tư và lao động
tự do. Đến cuối năm 2003, đã có trên 154.9 triệu người tham gia chế độ này và đã
có 38.5 triệu người được hưởng chế độ.
Chế độ hưu trí này dựa trên sự kết hợp giữa cộng đồng xã hội (thông qua việc
thiết lập quỹ cộng đồng để chia sẻ rủi ro) và các tài khoản cá nhân. Mức đóng hiện
tại đối với cá nhân là khoảng 8% tiền lương, tiền công và của người sử dụng lao
động là 20% của tổng quỹ tiền lương. Ngoài ra, chính quyền các cấp có thể cung
cấp trợ cấp tài chính trong trường hợp quỹ này thiếu hụt. Cơ quan BHXH tạo ra các
tài khoản cá nhân về hưu trí cho mỗi người lao động với mức là 11% tiền lương,
tiền cơng trong đó phần 8% đóng góp của người lao động được chuyển trực tiếp vào
tài khoản và phần 3% được trích từ phần đóng góp của người sử dụng lao động.

Phần đóng góp của người sử dụng lao động sau khi trích chuyển một phần vào tài
khoản cá nhân được chuyển vào quỹ cộng đồng.
Người lao động khi đến tuổi nghỉ hưu theo quy định và tham gia ít nhất 15
năm sẽ được nhận trợ cấp hưu trí hàng tháng. Trợ cấp hưu trí cơ bản bao gồm 2
phần chính: phần từ quỹ cộng đồng bằng 20% mức tiền lương trung bình chung
năm trước của người lao động; phần từ tài khoản cá nhân bằng 1/120 của tổng số
tiền tích lũy được. Những người làm việc trước thời gian ban hành chính sách hưu
trí nói trên thì sẽ áp dụng chế độ hưu trí quá độ khi nghỉ hưu và Nhà nước sẽ điều
chỉnh mức độ trợ cấp hưu trí theo sự phát triển kinh tế (từ năm 1998 đến 2002,
lương hưu đã tăng khoảng 50%).
Ngoài ra, để đối phó với khó khăn tài chính cho vấn đề già hóa dân số trong
tương lai, năm 2000 quỹ bảo đảm xã hội quốc gia khơng dựa vào sự đóng góp đã
được thành lập và số tiền dự phịng tích luỹ đến 2003 khoảng 130 tỷ nhân dân tệ.
SVTH: Nguyễn Thị Trang

17

Lớp: Bảo hiểm 54


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS. TS. Phạm Thị Định

Chính phủ cũng hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp tạo ra các chương trình
bảo hiểm hưu trí bổ sung nhưng hiện tại mới bao phủ được 7 triệu người lao động.
1.4.2. Bài học cho Việt Nam
Qua nghiên cứu về quá trình tổ chức và thực hiện hệ thống hưu trí của một số
nước trên thế giới có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
- Ở hầu hết các nước, vai trị của Nhà nước, Chính phủ trong hệ thống hưu trí

là rất quan trọng. Nhà nước với tư cách là người đề ra định hướng cho sự hoạt động
hưu trí và là một sự bảo trợ rất quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của hệ thống
này. Đặc biệt là bảo trợ về tài chính ở các mức độ và hình thức khác nhau.
- Xu hướng đa dạng hoá về tổ chức thực hiện, về nội dung và phương thức tiến
hành trong chế độ hưu trí là phổ biến. Mặc dù vai trị của nhà nước là rất quan trọng
như đã nêu ở trên nhưng tham gia hoạt động trong hệ thống hưu trí khơng chỉ có các
tổ chức của nhà nước, các tổ chức khác ngồi khu vực nhà nước cũng có thể tham
gia với điều kiện tuân thủ đúng những quy định trong luật BHXH và hưu trí. Đây là
một trong những điều kiện quan trọng nhất để mọi thành viên trong xã hội có nhu
cầu đều có thể tham gia vào chế độ hưu trí.
- BHXH nói chung cũng như bảo hiểm hưu trí nói riêng đối với mỗi nước có
những đặc trưng riêng về tình hình phát triển kinh tế xã hội, tình hình dân số và lao
động mà có những vận dụng cụ thể vào xây dựng cho mình một hệ thống hưu trí
phù hợp về nội dung và hình thức thực hiện. Các yếu tố quan trọng để xác lập chế
độ hưu trí ở các nước khác nhau cũng khác nhau chẳng hạn tuổi đời, mức sống, mức
đóng góp... Trong đó phải đảm bảo được lợi ích chính đáng của người tham gia chế
độ hưu trí và duy trì sự ổn định, đảm bảo cho hệ thống hưu trí phát triển.
- Trong tất cả các nước, hệ thống chế độ hưu trí là cốt lõi của hệ thống các chế
độ BHXH nói chung. Trong khi các hệ thống BHXH khác có thể thực hiện bởi các
tổ chức bảo hiểm khác nhau (như bảo hiểm thương mại về con người) thì bảo hiểm
hưu trí chỉ có thể được thực hiện trong hệ thống BHXH. Cải cách hệ thống BHXH
chủ yếu và thực chất là cải cách chế độ hưu trí.
- Hệ thống chế độ hưu trí theo phương pháp PAYGO (thu phí của người tham
gia hiện tại chi trả cho người đang hưởng chế độ) đã từng được thực hiện trên hầu
hết các nước có hệ thống BHXH nhưng đến nay hệ thống này bộc lộ nhiều nhược
điểm và cần phải được thay thế bằng hệ thống khác. Hệ thống mới là các nước thực
hiện theo phương pháp đầu tư ứng trước. Nhưng đó là q trình chuyển đổi trong
một thời gian dài.
Như vậy có thể nói BHXH và chế độ hưu trí đang là một trong những vấn đề
xã hội quan tâm rất lớn, có ý nghĩa kinh tế và chính trị rất quan trọng. Nhận thức

đúng về bản chất chức năng của BHXH và chế độ hưu trí đang còn là cả một quá
SVTH: Nguyễn Thị Trang

18

Lớp: Bảo hiểm 54


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS. TS. Phạm Thị Định

trình. Chế độ hưu trí đã được thực hiện từ rất lâu và có vai trị ngày càng quan trọng
trong xã hội nhưng quá trình phát triển cũng là quá trình tiếp tục nghiên cứu và đổi
mới, hồn thiện khơng ngừng.

SVTH: Nguyễn Thị Trang

19

Lớp: Bảo hiểm 54


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS. TS. Phạm Thị Định

PHẦN 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI HƯU TRÍ
Ở HUYỆN ĐƠNG ANH, HÀ NỘI

2.1. Giới thiệu về Bảo hiểm xã hội huyện Đơng Anh
2.1.1. Q trình hình thành và phát triển
Ngày 31/10/1992, BHXH thành phố đã ra đời theo Quyết định số 2654/UB
của UBND thành phố Hà nội. Ban đầu thành lập có tên là BHXH Hà Nội và trực
thuộc Sở lao động thương binh xã hội Hà Nội, chịu trách nhiệm về các chế độ
BHXH do Sở Lao động - thương binh -Xã hội đảm nhiệm trước kia (bao gồm chế
độ trợ cấp hưu trí, mất sức lao động, tử tuất) cùng với nhánh nghiệp vụ mới là
BHXH ngồi quốc doanh. Song song với nó là các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản,
tai nạn lao động do Liên đoàn lao động thành phố quản lý thực hiện. Cho đến giữa
năm 1995, BHXH Hà Nội mới chuyển sang trực thuộc BHXH Việt Nam, với một
hệ thống chuyên ngành tập trung vào một đầu mối, bao gồm cả sự nghiệp BHXH
thuộc Sở Lao động - Thương binh -Xã hội và các chế độ BHXH do liên đoàn lao
động thành phố chuyển sang. Kể cả nhiệm vụ thu BHXH mà trước đây do Cục thuế
và Sở tài chính đảm nhiệm bàn giao sang. Lúc này BHXH Hà Nội được đổi thành
BHXH thành phố Hà Nội.
Về tổ chức thực hiện Nghị định 19/CP ngày 16 tháng 2 năm 1995 của Chính
phủ về việc thành lập BHXH thành phố Hà Nội và BHXH các quận, huyện tạo
thành hệ thống dọc theo cơ cấu quản lý 3 cấp. Như vậy, trực thuộc BHXH thành
phố Hà Nội có các cơ quan sau: BHXH quận Hồn Kiếm; BHXH quận Ba Đình;
BHXH quận Hai Bà Trưng; BHXH quận Đống Đa; BHXH huyện Từ Liêm; BHXH
huyện Gia Lâm; BHXH huyện Sóc Sơn và BHXH huyện Đông Anh, mới đây thành
lập thêm quận Tây Hồ, quận Thanh Xuân,quận Cầu Giấy .
BHXH thành phố Hà Nội là đơn vị hạch tốn thu - chi độc lập, có con dấu,
tài khoản riêng và là một phần của hệ thống BHXH Việt Nam. Ban đầu biên chế
được giao là 180 người, trong đó 120 người được phân bổ cho các quận huyện.
Với định biên như vậy cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm xã hội Thành phố Hà
Nội được phân thành 7 phòng ban như sau:
- Văn phòng
- Phòng kế hoạch tài vu;
- Phòng nghiệp vụ bảo hiểm (quản lý chế độ thu);

SVTH: Nguyễn Thị Trang

20

Lớp: Bảo hiểm 54


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS. TS. Phạm Thị Định

- Phòng quản lý thu;
- Phịng quản lý chi;
- Phịng máy tính và lưu trữ;
- Phòng kiểm tra.
Nhiệm vụ của BHXH thành phố Hà Nội là tổ chức thực hiện toàn diện Nghị
định 12/CP ngày 26/1/1995,tổ chức thực hiện Nghị định 45/CP ngày 15/9/1995
cùng với các nhiệm vụ khác mà BHXH Việt Nam hoặc nhà nước giao cho. Như vậy
nhiệm vụ của BHXH thành phố Hà Nội là tổ chức thu BHXH theo địa bàn lãnh thổ
và tổ chức thực hiên 5 chế độ BHXH theo luật định. Đây là hai nhiệm vụ trọng tâm
của BHXH thành phố, tuy nhiên để hoàn thành tốt hai nhiệm vụ này thì BHXH
thành phố cịn thực hiện một số nghiệp vụ khác mang tính chất hỗ trợ, đó là: quản lý
hồ sơ (bao gồm hồ sơ về thu BHXH và hồ sơ chi trả chế độ BHXH), quyết toán, lập
hồ sơ, quản lý lao động tiền lương, giải quyết các đơn thư khiếu nại tố cáo thuộc địa
bàn thành phố Hà Nội, thanh tra, kiểm sốt và kiểm tốn...
BHXH huyện Đơng Anh là một bộ phận không thể tách rời của BHXH thành
phố Hà Nội, tất cả các hoạt động của BHXH huyện Đông Anh đều hướng tới mục
tiêu nhiệm vụ của BHXH thành phố Hà Nội nói riêng, của BHXH Việt Nam nói
chung.
Được sự chỉ đạo chặt chẽ, sát sao của BHXH thành phố Hà Nội, sau khi

thành lập vào tháng 9/1995, BHXH huyện Đơng Anh đã chính thức đi vào hoạt
động. BHXH huyện Đơng Anh có những chức năng cơ bản sau:
Bảo hiểm xã hội Huyện có chức năng giúp Giám đốc Bảo hiểm xã hội Thành
phố tổ chức thực hiện các chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội và quản lý tài chính
bảo hiểm xã hội trên địa bàn huyện. Bảo hiểm xã hội quận chịu sự quản lý trực tiếp,
toàn diện của Giám đốc Bảo hiểm xã hội Thành phố, chịu sự quản lý hành chính
trên địa bàn lãnh thổ của UBND quận.
Bảo hiểm xã hội Huyện Đông Anh là một cơ quan trực thuộc của BHXH
Thành phố Hà Nội, thực hiện nhiệm vụ do BHXH Thành phố giao cho, bao gồm:
Xây dựng chương trình, kế hoạch cơng tác năm trình Giám đốc Bảo hiểm xã
hội Tỉnh phê duyệt và tổ chức thực hiện;
Hướng dẫn đơn vị sử dụng lao động lập danh sách tham gia bảo hiểm xã hội;
đôn đốc, theo dõi việc thu nộp bảo hiểm xã hội của các đơn vị trên địa bàn huyện
hoặc trực tiếp thu bảo hiểm xã hội theo phân cấp của Bảo hiểm xã hội Việt Nam và
Bảo hiểm xã hội tỉnh;

SVTH: Nguyễn Thị Trang

21

Lớp: Bảo hiểm 54


Chuyên đề thực tập

GVHD: PGS. TS. Phạm Thị Định

Tiếp nhận kinh phí, danh sách và tổ chức chi trả cho các đối tượng hưởng các
chế độ bảo hiểm xã hội do Bảo hiểm xã hội tỉnh chuyển đến theo phân cấp.
Theo dõi việc thay đổi địa chỉ, danh sách tăng, giảm đối tượng hưởng chế độ

trong quá trình chi trả;
Tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo về chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội để
giải quyết theo thẩm quyền hoặc báo cáo với Bảo hiểm xã hội tỉnh xem xét, giải
quyết.
Tổ chức ký kết hợp đồng trách nhiệm và quản lý mạng lưới chi trả bảo hiểm
xã hội ở xã, phường, thị trấn;
Quản lý các loại đối tượng khám chữa bệnh bắt buộc và tự nguyện theo quy
định của Bảo hiểm xã hội tỉnh trên địa bàn phụ trách; hướng dẫn đôn đốc các đơn vị
thực hiện các thủ tục phục vụ cho việc khai thác phát hành hoặc gia hạn thẻ khám
chữa bệnh theo phân cấp của Bảo hiểm xã hội tỉnh;
Thực hiện công tác giám định chi phí khám chữa bệnh của người có sổ, thẻ
bảo hiểm xã hội tại các cơ sở khám chữa bệnh. Tiếp nhận và hướng dẫn người bệnh
trong quá trình đến khám chữa bệnh, giải quyết những vướng mắc và đảm bảo
quyền lợi cho bệnh nhân có sổ, thẻ bảo hiểm xã hội;
Thực hiện việc thơng tin, tun truyền, giải thích chính sách, chế độ bảo
hiểm xã hội trên địa bàn;
Quản lý cơng chức, viên chức, tài chính và tài sản thuộc Bảo hiểm xã
hội huyện theo phân cấp của Bảo hiểm xã hội Việt Nam và Bảo hiểm xã hội tỉnh;
thành phố.
Với sự cố gắng và nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, BHXH huyện
Đông Anh đã đạt được những thành tích như sau:
- Ủy ban Nhân dân Thành phố, Bảo hiểm xã hội Việt Nam tặng 6 bằng khen.
- Ủy ban Nhân dân Thành phố tặng cờ thi đua “ Đơn vị xuất sắc phong trào
thi đua”.
Và nhiều giấy khen của Bảo hiểm xã hội TP Hà Nội và Ủy ban Nhân dân
huyện Đông Anh,
Chi bộ Đảng luôn đạt chi bộ trong sạch vững mạnh. Năm 2006, 2008 được
Huyện Ủy tặng danh hiệu "Chi bộ trong sạch vững mạnh xuất sắc tiêu biểu".
2.1.2. Cơ cấu bộ máy tổ chức Bảo hiểm xã hội huyện Đông Anh
Tổng số cán bộ công chức viên chức tại Bảo hiểm xã hội Huyện Đông Anh là

33 người.
Cơ quan BHXH huyện không chia theo phòng nghiệp vụ một cách cụ thể
như BHXH Thành phố Hà Nội, nhưng được chia ra các bộ phận:
- Bộ phận quản lý chế độ chính sách BHXH
- Bộ phận thu BHXH
- Bộ phận chi trợ cấp ốm đau thai sản
SVTH: Nguyễn Thị Trang

22

Lớp: Bảo hiểm 54


×