Tải bản đầy đủ (.doc) (222 trang)

bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (804.79 KB, 222 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Cùng với sự phát triển xã hội loài người theo quy luật "Quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất…" mà C. Mác đã
khẳng định, kinh tế thị trường, sản xuất hàng hóa đã bao trùm nền kinh tế của
các nước…, thì hàm lượng chất xám, trí tuệ trong mỗi sản phẩm ngày càng
chiếm tỷ trọng cao, đặc biệt là có những sản phẩm thuần túy là trí tuệ được
lưu thông trong thị trường với giá trị không nhỏ. Cách đây hàng thế kỷ, nhiều
nước đã có luật sở hữu công nghiệp. Với các nỗ lực chung của các quốc gia
có nền kinh tế thị trường, ngay từ thế kỷ XIX đã ra đời Liên minh quốc tế bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp - đó là Công ước Paris năm 1883.
Ngày nay, nền kinh thị trường cạnh tranh gay gắt, việc bảo hộ quyền
sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa không những bảo vệ quyền,
lợi ích chính đáng của chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hóa với những sản phẩm
chất lượng, mẫu mã tương ứng…, mà điều quan trọng hơn là bảo vệ lợi ích
chính đáng của người tiêu dùng được các quốc gia, các tập đoàn kinh tế, các
doanh nghiệp… rất quan tâm, vì nó tạo ra sự khuyến khích, bảo đảm cho đầu
tư trong, ngoài nước và cũng là động lực tăng trưởng kinh tế.
Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, trong đó có nhãn hiệu hàng hóa đã
trở thành vấn đề mang tính toàn cầu. Một trong số 16 cơ quan chuyên môn
của Liên hợp quốc là Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) có trụ sở ở
Géneve, Thụy Sĩ, được thành lập năm 1967 với Hiệp định về các khía cạnh
liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS) nhằm
thúc đẩy tiến trình bảo hộ sở hữu trí tuệ trên toàn thế giới, thúc đẩy hợp tác
giữa các quốc gia và các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, khuyến
khích việc ký kết các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ, hiện đại hóa pháp
1
luật quốc gia các nước thành viên, quản lý các điều ước quốc tế về sở hữu trí
tuệ…
Từ tầm quan trọng đặc biệt đó, vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói
chung và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa nói riêng


trở thành vấn đề thách thức đối với nhiều quốc gia, đã trở thành một trong
những điều kiện bắt buộc để một nước trở thành thành viên của Tổ chức thương
mại thế giới (WTO). Đối với nước ta, thách thức đó trở nên cấp bách hơn bao
giờ hết, khi mà việc đàm phán, thương lượng song phương hay đa phương để
được trở thành thành viên chính thức của WTO đã ở giai đoạn sắp kết thúc.
Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa ở nước
ta trong thời gian qua cũng đã có được bước chuyển biến khả quan kể cả
trong lĩnh vực xây dựng và hoàn thiện pháp luật đến cơ chế thực thi, cũng như
xử lý các vi phạm…, tuy nhiên trong lĩnh vực này vẫn còn nhiều bất cập, đó
là:
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp nói chung và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng
hóa nói riêng còn thiếu, chưa đạt đủ các tiêu chí của Hiệp định TRIPS/WTO;
- Hoạt động thực thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp còn chưa hạn
chế, chưa đẩy lùi được tình trạng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và
xâm phạm nhãn hiệu hàng hóa đang diễn biến phức tạp và ngày càng gia tăng;
- Việc xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và xâm
phạm nhãn hiệu hàng hóa vẫn còn thiên về xu hướng "hành chính hóa", "hình
sự hóa", mà chưa chú ý xử lý vi phạm bằng biện pháp, chế tài dân sự…
Tình trạng này đã gây nản lòng các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
2
Xuất phát từ tình hình đó, việc nghiên cứu đề tài: "Bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam" sẽ góp phần lý
giải nhiều vấn đề cả về lý luận và thực tiễn trong việc hoàn thiện pháp luật,
bảo đảm cơ chế và nâng cao năng lực của các cơ quan chức năng trong lĩnh
vực bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở nước ngoài đã có nhiều công trình nghiên cứu về bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa như: Quyền sở hữu công nghiệp của
các giáo sư Albert Chavane và Jean Jacques Burst (Cộng hòa Pháp, 1993);

Nhãn hiệu hàng hóa - sự sáng tạo, giá trị và sự bảo hộ của Francis Le FEBVRE
(Cộng hòa Pháp, 1994); Nhãn hiệu hàng hóa của giáo sư Andrea Semprini Đại
học Montpellier III (Cộng hòa Pháp, 1995); Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
của Tiến sĩ Gordian N. Hasselblatt (Cộng hòa Liên bang Đức, Beck
Mỹnchen, 2001)… Các công trình nêu trên chủ yếu đề cập đến vấn đề luật
nhãn hiệu hàng hóa của các nước đó.
Ở nước ta, một số nhà khoa học, luật gia đã có những công trình khoa
học liên quan đến bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng
hóa như: "Nâng cao vai trò và năng lực của Tòa án trong việc thực thi quyền
sở hữu trí tuệ ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn" (TS. Đinh
Ngọc Hiện - Đề tài khoa học cấp Bộ, Tòa án nhân dân tối cao, 1999); "Ý
nghĩa của Nghị định số 12/1999/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong lĩnh vực sở
hữu công nghiệp và vấn đề tổ chức thực hiện" (PGS.TS Đoàn Năng); "Pháp
luật về sở hữu trí tuệ - Thực trạng và hướng phát triển trong những năm đầu
thế kỷ XXI" (PGS.TS Lê Hồng Hạnh - đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Tư pháp,
2000); "Nhãn hiệu hàng hóa trong pháp luật dân sự" (PGS.TS Đinh Văn Thanh,
luật gia Đinh Thị Hằng) ; trong các hội thảo khoa học, nhiều nhà khoa học
cũng đề cấp đến vấn đề này, như: "Xử lý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
và thực hiện Nghị định 12/CP/1999 của Chính phủ" (PGS.TS Đoàn Năng), "Vai
3
trò của Tòa án nhân dân trong việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp tại Việt
Nam" (TS. Đinh Ngọc Hiện), "Tình hình đăng ký sở hữu công nghiệp và thực
trạng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp tại Việt Nam"; "Tầm quan trọng
của bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa trong kỷ nguyên hội nhập kinh tế nhằm tăng
cường tính cạnh tranh toàn cầu" (Trần Việt Hùng). Đặc biệt, trong hội thảo
tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2001, nhiều bài viết đã đề cập trực tiếp đến
vấn đề nghiên cứu, như: "Bảo hộ quốc tế nhãn hiệu hàng hóa" (Trần Việt
Hùng); trong Tạp chí Nhà nước và Pháp luật cũng có bài nghiên cứu, như: "Về
thực trạng và phương hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp ở nước ta hiện nay" (PGS.TS Đoàn Năng) ; trong Tạp chí Luật

học cũng có một số bài như: "Thương hiệu hay nhãn hiệu hàng hóa" (PGS.TS Lê
Hồng Hạnh) "Giáo trình Luật dân sự Việt Nam" của Trường Đại học Luật Hà
Nội cũng có mục về sở hữu trí tuệ
Các công trình của các tác giả Việt Nam đề cập vấn đề bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa trong mối quan hệ chung với các
đối tượng khác của sở hữu trí tuệ, có nêu lên thực trạng xâm phạm, có kiến nghị
giải pháp khắc phục Nhưng, nhìn chung chưa có công trình nào nghiên cứu
chuyên sâu, toàn diện và có hệ thống về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với
nhãn hiệu hàng hóa.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ về mặt lý luận, cơ sở pháp
lý, cơ chế thực thi của việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu hàng hóa ở nước ta và trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu
quả thực thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa.
Với mục đích trên, trong luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ
chủ yếu sau đây:
- Nghiên cứu nhãn hiệu hàng hóa là một đối tượng của quyền sở hữu
công nghiệp trong mối quan hệ chung của việc bảo hộ sở hữu công nghiệp; xây
4
dựng một số khái niệm khoa học có liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa, bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa… nhằm tạo ra hệ quan
điểm, quan niệm và cách nhìn đúng đắn về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu hàng hóa trong thời đại hiện nay;
- Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của pháp luật về bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam, đánh giá
hiệu quả điều chỉnh của pháp luật hiện hành; chỉ ra những hạn chế cần khắc
phục trong việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung các quy định về bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu trong hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ;
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động thực thi bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa của các cơ quan nhà nước và của Tòa án

nhân dân, từ đó đề xuất các biện pháp đồng bộ nhằm bảo hộ có hiệu quả
quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa;
- Nghiên cứu pháp luật quốc tế và pháp luật nước ngoài về bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa, bộ máy và biện pháp
thực thi bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa của các nước, so sánh và tham khảo kinh
nghiệm của nước ngoài, nhất là mô hình Tòa án về sở hữu công nghiệp;
- Đề xuất các biện pháp nâng cao chất lượng thực thi bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án được hoàn thành trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước về sở hữu công nghiệp nói chung.
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận án, các phương pháp nghiên cứu
khoa học chuyên ngành như: Tổng kết thực tiễn, phân tích, tổng hợp, so sánh,
thống kê, hệ thống hóa… cũng được sử dụng triệt để nhằm làm rõ các vấn đề
5
liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp nói chung và bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa nói riêng.
5. Những đóng góp mới của luận án
Là công trình khoa học đầu tiên đi chuyên sâu nghiên cứu một cách
toàn diện và có hệ thống từ chế định pháp luật, cơ chế thực thi và thực trạng
bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam, trong
nội dung của luận án đã có được một số đóng góp mới, cụ thể như:
5.1. Nêu rõ mọi khía cạnh của bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu hàng hóa trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế và từ việc
nghiên cứu pháp luật Việt Nam, chỉ rõ hiệu quả và những nguyên nhân, hạn
chế trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa
ở nước ta.
5.2. So sánh, đối chiếu các quy định pháp luật Việt Nam về bảo hộ

quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa với quy định về bảo hộ
nhãn hiệu hàng hóa trong một số điều ước quốc tế và pháp luật của một số
nước khác trên thế giới, từ đó chỉ rõ "tính đầy đủ" và "tính hiệu quả" của pháp
luật Việt nam và mục tiêu cụ thể cần đạt tới.
5.3. Xây dựng được một số khái niệm khoa học có liên quan đến lĩnh
vực nghiên cứu như:
- Nhãn hiệu hàng hóa - đối tượng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp;
- Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa;
- Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa;
- Hàng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa;
- Hành vi sản xuất hàng giả và hàng giả
5.4. Nêu ra các khuyến nghị và giải pháp đồng bộ nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật, tăng cường hiệu quả các hoạt động
6
thực thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa theo
các tiêu chí "đầy đủ" và "hiệu quả" để các cơ quan có thẩm quyền tham khảo
trong việc hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả đạt được của luận án góp phần làm sáng tỏ về phương diện lý
luận trong khoa học chuyên ngành pháp luật dân sự, thống nhất chung về khái
niệm nhãn hiệu hàng hóa; bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
hàng hóa… và tầm quan trong của việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu hàng hóa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
Những kết quả nghiên cứu và các kiến nghị trong luận án phần nào đã
được các cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình soạn thảo văn bản
quy phạm pháp luật, cụ thể là đã được thể hiện trong nội dung sửa đổi, bổ
sung Bộ luật dân sự năm 2005 và dự án Luật sở hữu trí tuệ được Quốc hội
thông qua tại kỳ họp thứ 8 khóa XI (năm 2005).
Nhiều kiến giải trong luận án có ý nghĩa thực tiễn góp phần hoàn thiện

cơ chế thực thi bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa,
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
Những giải pháp được nêu trong luận án có tác dụng thiết thực đối với
các doanh nghiệp trong việc xây dựng chương trình bảo vệ nhãn hiệu hàng
hóa của mình.
Những kiến nghị có liên quan đến hoạt động của Tòa án nhân dân sẽ
góp phần nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án trong việc đấu tranh chống các
hành vi vi phạm đối với nhãn hiệu hàng hoá nói riêng và bảo vệ quyền sở hữu
công nghiệp nói chung. Đề xuất thành lập Tòa chuyên trách về sở hữu công
7
nghiệp có thể được thực hiện trong quá trình triển khai chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2010.
Những luận cứ khoa học và thực tiễn được trình bầy trong luận án có
thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy khối
kiến thức về sở hữu trí tuệ; những kết luận, khuyến nghị trong luận án có thể
được tham khảo trong hướng dẫn thi hành và áp dụng pháp luật ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án gồm có 3 chương, 10 mục.
8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC BẢO HỘ NHÃN HIỆU HÀNG HÓA
1.1. KHÁI NIỆM NHÃN HIỆU HÀNG HÓA
Nhãn hiệu hàng hóa được sử dụng vô cùng rộng rãi trong nền kinh tế
thị trường, nó gắn liền với quá trình sản xuất, kinh doanh hàng hóa và dịch
vụ… từ thời cổ xưa, khi mà nền kinh tế tự cung, tự cấp bị phá vỡ, sản xuất và
trao đổi hàng hóa được hình thành và chiếm vị trí quan trọng trong tiến trình
phát triển của nhân loại.
Từ hình thức giản đơn chỉ là tên gọi một sản phẩm, một thương nhân

nào đó , nhãn hiệu hàng hóa đã dần dần được cấu trúc bởi các yếu tố hay hàng
loạt các yếu tố đặc trưng cho một sản phẩm hàng hóa, một loại hình dịch vụ cụ
thể, để khi nó đến tay người tiêu dùng có được những bảo đảm cần thiết về tính
năng sử dụng, chất lượng sản phẩm, độ an toàn và kể cả những cam kết bảo
hành
Trong thời đại ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của nền sản xuất
hàng hóa, thương mại toàn cầu phát triển…, nhiều chủng loại hàng hóa, dịch
vụ, kèm theo đó là chiến lược quảng cáo, tiếp thị của các nhà sản xuất, kinh
doanh…, thì việc phân biệt các loại hàng hóa, dịch vụ đã làm cho người tiêu
dùng "chóng mặt". Người tiêu dùng không những bị "chóng mặt" từ các nhà
sản xuất, kinh doanh chân chính, với những sản phẩm hàng hóa, dịch vụ bảo
đảm chất lượng, uy tín, nhưng muôn hình, muôn vẻ của họ, mà còn bị "mất
mật" vì hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng… Khi người tiêu dùng
"mất mật" thì nhà sản xuất, kinh doanh chân chính cũng khó sống và kéo theo
là những tổn hại lớn về kinh tế - xã hội của một nền kinh tế nói chung.
Như vậy, nhãn hiệu hàng hóa không chỉ còn là thông điệp và sự bảo
đảm của nhà sản xuất, kinh doanh đối với người tiêu dùng mà đã trở thành giá
trị kết cấu của nền kinh tế, vì thế sự bảo hộ của Nhà nước và rộng hơn là của
9
pháp luật quốc tế đối với hàng hóa và nhãn hiệu hàng hóa luôn là vấn đề thời
sự quan trọng. Bảo hộ đối với một đối tượng nào đó là vấn đề cần phải làm rõ
nó là gì, nghĩa là phải xác định được những đặc trưng hay các dấu hiệu của
đối tượng. Nói khía cạnh khoa học thì đó là khái niệm về đối tượng bảo hộ và
ở đây chính là khái niệm nhãn hiệu hàng hóa.
Trong khoa học cũng như trong điều chỉnh pháp luật hay trong quản
lý, khái niệm về nhãn hiệu hàng hóa đã được các học giả, các nhà lập pháp
hay các nhà quản lý, các nhà sản xuất, kinh doanh… xác định khá nhiều và
cũng rất khác nhau. Tuy không thể nêu và phân tích hết được, song những
khái niệm nhãn hiệu hàng hóa được giới thiệu và phân tích dưới đây sẽ góp
phần làm sáng tỏ hơn vấn đề nghiên cứu.

1.1.1. Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa theo quan niệm của Tổ chức
sở hữu trí tuệ thế giới
Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) là một trong số 16 cơ quan
chuyên môn của Liên hợp quốc. WIPO có trụ sở ở Géneve, Thụy Sĩ, được
thành lập năm 1967 với các mục là: Thúc đẩy bảo hộ sở hữu trí tuệ trên toàn
thế giới; thúc đẩy hợp tác giữa các quốc gia và các tổ chức quốc tế trong lĩnh
vực sở hữu trí tuệ; khuyến khích việc ký kết các điều ước quốc tế về sở hữu
trí tuệ; giúp cho việc hiện đại hóa pháp luật quốc gia các nước thành viên;
quản lý các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ [69, tr. 7].
Theo định nghĩa của WIPO, nhãn hiệu hàng hóa là: Dấu hiệu dùng để
phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của doanh nghiệp công nghiệp hoặc thương
mại hoặc của một nhóm các doanh nghiệp đó. Dấu hiệu này có thể là một
hoặc nhiều từ ngữ, chữ, số, hình, hình ảnh, biểu tượng, màu sắc hoặc sự kết
hợp các màu sắc, hình thức hoặc sự trình bày đặc biệt trên bao bì, bao gói
sản phẩm. Dấu hiệu này có thể là sự kết hợp của nhiều yếu tố nói trên. Nhãn
hiệu hàng hóa chỉ được chấp nhận bảo hộ nếu nó chưa được cá nhân hoặc
doanh nghiệp nào khác ngoài chủ sở hữu nhãn hiệu đó sử dụng hoặc nhãn
10
hiệu đó không được trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với một nhãn
hiệu khác được đăng ký trước đó cho cùng loại sản phẩm.
Định nghĩa nhãn hiệu hàng hóa trên đây của WIPO xác định các yếu tố và
bản chất của nhãn hiệu hàng hóa. Định nghĩa này đã được WTO tiếp thu, kế
thừa và thể hiện trong Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại
của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS/WTO). Cụ thể, tại khoản 1 Điều
15 của Hiệp định TRIPS có quy định:
Bất kỳ một dấu hiệu hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào có khả
năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với
hàng hóa hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác, đều có thể làm
nhãn hiệu hàng hóa. Các dấu hiệu đó, đặc biệt là các từ, kể cả tên
riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình họa và tổ hợp các màu

sắc cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó, phải có khả năng
được đăng ký là nhãn hiệu hàng hóa. Trường hợp bản thân các dấu
hiệu không có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ tương
ứng, các thành viên có thể quy định rằng khả năng được đăng ký
phụ thuộc vào tính phân biệt đạt được thông qua việc sử dụng. Các
thành viên có thể quy định rằng điều kiện để được đăng ký là các
dấu hiệu phải nhìn thấy được [8, tr. 17].
Phân tích khái niệm trên của Hiệp định TRIPS/WTO thì nhãn hiệu
hàng hóa có các yếu tố như:
- Một dấu hiệu hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào đó có khả năng phân biệt
hàng hóa hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa hoặc dịch vụ của các
doanh nghiệp khác;
- Các dấu hiệu đó có thể là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số,
các yếu tố hình họa và tổ hợp các màu sắc cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu
hiệu đó…;
- Các dấu hiệu đó phải có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu hàng hóa.
11
Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa trong pháp luật quốc tế thường được
quy định một cách khái quát, chung chung, mang tầm vĩ mô. Việc xác định
một đối tượng nào đó bất kỳ có phải là nhãn hiệu hàng hóa hay không thì
người ta sẽ căn cứ vào mục đích sử dụng của nó và bất kỳ dấu hiệu nào có
khả năng phân biệt hàng hóa này với hàng hóa khác thì đều có thể xem là yếu
tố cấu tạo nên một nhãn hiệu hàng hóa [56, tr. 22].
Hiệp định TRIPS/WTO xuất phát từ cách tiếp cận mục đích sử dụng
của dấu hiệu đó để phân biệt "hàng hóa, dịch vụ của một doanh nghiệp với
hàng hóa dịch vụ của các doanh nghiệp khác". Đây là phương pháp tiếp cận
chung nhất của các nước thành viên Hiệp định TRIPS về nhãn hiệu hàng hóa.
Tuy nhiên, Hiệp định này vẫn dành cho các nước thành viên được quyền có
cách tiếp cận riêng liên quan đến các yếu tố có khả năng phân biệt hàng hóa
hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp.

1.1.2. Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật của Cộng đồng
Châu Âu
Theo bản Quy định số 40/94 của Hội đồng Châu Âu ngày 20-12-1993 về
nhãn hiệu cộng đồng, thì nhãn hiệu hàng hóa được định nghĩa tại Điều 4 như
sau:
Được công nhận là nhãn hiệu cộng đồng bất kỳ dấu hiệu nào
có khả năng hiện hữu dưới dạng đồ họa, các chữ cái, tên riêng, các
phác họa hình ảnh, từ ngữ, các chữ số, hình dáng của hàng hóa hoặc
của bao gói của hàng hóa mà các dấu hiệu đó có khả năng phân biệt
hàng hóa, dịch vụ của chủ thể kinh doanh này với hàng hóa, dịch vụ
của một chủ thể kinh doanh khác [68].
Quy định trên có hiệu lực chung cho cả Cộng đồng Châu Âu, bao gồm
25 nước có chủ quyền.
Nhãn hiệu Cộng đồng có thể là bất kỳ dấu hiệu nào nhưng dấu hiệu đó
phải có khả năng thể hiện dưới dạng đồ họa, các chữ cái, tên riêng, các phác
12
họa hình ảnh, từ ngữ, các chữ số… và các dấu hiệu đó phải có khả năng phân
biệt hàng hóa, dịch vụ của các chủ thể kinh doanh khác nhau. Về cơ bản các
điều kiện bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa theo quy định của Cộng đồng Châu Âu
phù hợp với quy định của WIPO và Hiệp định TRIPS/WTO. Chức năng phân
biệt của nhãn hiệu hàng hóa không giới hạn ở sự phân biệt hàng hóa (dịch vụ)
cùng loại của các chủ thể kinh doanh khác nhau.
1.1.3. Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật nhãn hiệu
hàng hóa của một số nước
Để bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho các nhà sản xuất, kinh doanh,
mỗi nước đều ban hành luật nhãn hiệu.
Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa trong luật của các nước đều dựa trên cơ
sở khái niệm nhãn hiệu hàng hóa của Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công
nghiệp (năm 1883), của WIPO và của Hiệp định TRIPS/WTO.
a) Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa trong luật nhãn hiệu của Cộng

hòa Liên bang Đức
Luật nhãn hiệu của Cộng hòa Liên bang Đức có hiệu lực từ ngày
01-01-1995 thay thế luật nhãn hiệu năm 1894 [78, tr. 990].
Khoản 1 Điều 3 của Luật quy định nhãn hiệu hàng hóa:
Các từ ngữ (bao gồm cả tên riêng), hình ảnh, chữ cái, chữ
số, dấu hiệu âm thanh, hình ảnh không gian ba chiều (bao gồm cả
hình dáng của hàng hóa và bao bì của hàng hóa) cũng như các
màu sắc và sự kết hợp của các màu sắc đó. Các dấu hiệu có liên
quan phải có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của doanh
nghiệp này với hàng hóa hoặc dịch vụ của doanh nghiệp khác.
Khái niệm nhãn hiệu nêu trên tuy được quy định khái quát chung nhưng
cũng đã thể hiện được các điều kiện cơ bản của nhãn hiệu. Các dấu hiệu được
quy định trong luật không chỉ bao gồm các dấu hiệu truyền thống được quy định
13
trong các điều ước quốc tế mà còn bao gồm cả các dấu hiệu hiện đại như dấu
hiệu âm thanh, hình ảnh không gian ba chiều ; phạm vi bảo hộ được mở rộng
cho phù hợp với sự phát triển của khoa học, công nghệ và của nền kinh tế.
b) Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa trong luật nhãn hiệu của Hoa Kỳ
Ở Hoa Kỳ, luật nhãn hiệu hàng hóa được ban hành năm 1946 (Luật
Lanham). Theo Luật này thì: "Nhãn hiệu hàng hóa là từ hoặc một số từ, chữ
số hoặc ký tự, hình ảnh hoặc ký hiệu hoặc thiết kế đồ họa hoặc âm thanh
hoặc sự kết hợp các yếu tố đó mà một doanh nghiệp sử dụng để nhận biết hàng
hóa hoặc dịch vụ của mình và phân biệt chúng với hàng hóa hoặc dịch vụ của
người khác" [50, tr. 3].
Theo quy định nêu trên, về cơ bản nhãn hiệu hàng hóa ở Hoa Kỳ là
các dấu hiệu vừa truyền thống vừa hiện đại tương tự như quy định về nhãn
hiệu trong Luật nhãn hiệu của Cộng hòa Liên bang Đức. Doanh nghiệp sử
dụng nhãn hiệu nhằm mục đích nhận biết hàng hóa hoặc dịch vụ của mình và
phân biệt chúng với hàng hóa hoặc dịch vụ của người khác.
c) Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật của Australia

Theo pháp luật về nhãn hiệu hàng hóa của Australia, "âm thanh, mùi
vị có thể được đăng ký. Thêm vào đó, nhãn hiệu hàng hóa được đăng ký ngay
cả khi chúng không có sẵn tính phân biệt với điều kiện là nhãn hiệu hàng hóa
đó đã đạt được tính phân biệt thông qua sử dụng" [42, tr. 16].
Nhãn hiệu hàng hóa được bảo hộ theo quy định nêu trên có những nết
đặc thù so với các quy định về nhãn hiệu trong luật của Cộng hòa Liên bang
Đức và Hoa Kỳ đó là: ngoài dấu hiệu âm thanh thì mùi vị cũng có thể được
đăng ký bảo hộ là nhãn hiệu hàng hóa. Nhãn hiệu hàng hóa được đăng ký bảo
hộ thông qua việc sử dụng của các nhà sản xuất, kinh doanh; nếu nhãn hiệu
đó đã đạt được tính phân biệt thông qua sử dụng mặc dù trước khi sử dụng
nhãn hiệu không có sẵn tính phân biệt.
14
Tóm lại, qua khái niệm nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật nhãn hiệu
hàng hóa của các tổ chức quốc tế và của các nước như Đức, Hoa Kỳ, Australia
nêu trên, thì thấy rằng: Luật pháp quốc tế và luật pháp của các nước này đều
xác định rõ nhãn hiệu phải có những dấu hiệu thể hiện khả năng nhận biết và
phân biệt. Dấu hiệu nhận biết và phân biệt được coi là yếu tố định lượng rất
quan trọng khi phân biệt nhãn hiệu hàng hóa này với nhãn hiệu hàng hóa
khác. Nhãn hiệu hàng hóa có các chức năng phân biệt và nhận biết hàng hóa,
dịch vụ (không bắt buộc phải là hàng hóa, dịch vụ cùng loại) của chủ thể kinh
doanh này với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể kinh doanh khác (doanh nghiệp
này với doanh nghiệp khác). Đây là điều kiện quan trọng nhất bảo đảm cho
nhãn hiệu hàng hóa thực hiện chức năng của mình, tạo dựng bản sắc riêng cho
từng chủ thể kinh doanh và tránh sự nhầm lẫn khi hàng hóa được đưa vào lưu
thông trên thị trường.
Các yếu tố cấu thành nhãn hiệu hàng hóa được quy định rõ, cụ thể dễ
vận dụng cho doanh nghiệp tìm các dấu hiệu để đăng ký nhãn hiệu hàng hóa
và cho cả cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ.
Ngoài các yếu tố truyền thống được quy định như từ ngữ, chữ cái, tên
riêng, chữ số, hình ảnh, các yếu tố "hiện đại" phát sinh trong điều kiện mới đã

được pháp luật của các nước quy định trong phạm vi bảo hộ như dấu hiệu âm
thanh, hình ảnh không gian ba chiều (ở Đức, Hoa Kỳ, Australia), mùi vị (ở
Australia), đáp ứng yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ngày càng cao trong
điều kiện hội nhập quốc tế, phát triển khoa học và công nghệ.
Tuy nhiên, việc xác định và bảo hộ các dấu hiệu âm thanh, mùi vị là
nhãn hiệu hàng hóa cũng sẽ đặt ra cho các cơ quan có thẩm quyền những khó
khăn nhất định trong quá trình tiến hành xét nghiệm điều kiện bảo hộ về khả
năng phân biệt và nhận biết.
15
Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa theo các luật nhãn hiệu hàng hóa của
Đức, Hoa Kỳ, Australia nêu trên đã nhận được sự ủng hộ của WIPO. Đây là
sự chuyển hướng về quan điểm nhận thức cho phù hợp với thực tiễn.
Trong bài trình bày về khái niệm và các khía cạnh chung của quyền sở
hữu trí tuệ tại Hội thảo về tăng cường thực thi quyền sở hữu trí tuệ do WIPO,
Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam (NOIP) và Cơ quan sáng chế Nhật Bản (JPO)
phối hợp tổ chức tại Hà Nội vào các ngày 5 và 6 tháng 7 năm 2004, bà Louise
Van Greunen Vuagat, Phó trưởng phòng thực thi và các dự án đặc biệt của
WIPO đã thể hiện quan điểm:
Nhãn hiệu hàng hóa là bất kỳ dấu hiệu nào hoặc sự kết hợp của các
dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa dịch vụ của một doanh nghiệp với
hàng hóa hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác.
Các dấu hiệu có thể được đăng ký là nhãn hiệu hàng hóa, đặc biệt là
các từ ngữ bao gồm cả tên riêng, các chữ cái, các chữ số, các yếu tố hình họa,
tổ hợp các màu sắc hoặc tổ hợp của bất kỳ các dấu hiệu đó.
Tuy nhiên, các dấu hiệu có khả năng phân biệt theo quy định của các
nước đáp ứng điều kiện quy định thì có thể được đăng ký là nhãn hiệu hàng
hóa. Các dấu hiệu này có thể là dấu hiệu âm thanh, mùi vị [70, tr. 5].
Việc phân tích và so sánh khái niệm nhãn hiệu hàng hóa theo quy định
của WIPO, Hiệp định TRIPS, Cộng đồng Châu Âu và trong các luật nhãn
hiệu hàng hóa của Đức, Hoa Kỳ và Australia là rất cần thiết đối với sự phát

triển của pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa, giúp cho các nhà
khoa học, các nhà quản lý có cách tiếp cận mới trong việc phân tích và xây
dựng chính sách, pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa nói riêng và sở hữu
trí tuệ nói chung.
1.1.4. Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật Việt Nam
16
- Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa theo quan niệm của các nhà
nghiên cứu
Trong quá trình hoàn thiện luận án, tác giả đã nghiên cứu nhiều bài báo,
công trình khoa học của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu. Đặc điểm chung
nhất là các nhà khoa học, nhà nghiên cứu chủ yếu phân tích khái niệm nhãn
hiệu hàng hóa theo quy định trong Bộ luật dân sự năm 1995 và coi đó là khái
niệm ổn định mà không có khái niệm khoa học về nhãn hiệu hàng hóa.
- Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam được quy định trong
văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất; đó là Bộ luật
dân sự năm 1995
"Nhãn hiệu hàng hóa là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa,
dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng
hóa có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng
một hoặc nhiều màu sắc" [8, tr. 198]. Nhãn hiệu hàng hóa được hiểu bao gồm cả
nhãn hiệu dịch vụ.
Theo quy định nêu trên, thì đặc điểm trước tiên của một nhãn hiệu
hàng hóa là nhãn hiệu hàng hóa đó phải có những dấu hiệu có khả năng phân
biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác
nhau. Nhãn hiệu hàng hóa có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu
tố đã được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc.
So sánh với quy định tại Điều 15 của Hiệp định TRIPS (về khái niệm
nhãn hiệu hàng hóa), thì quy định tại Điều 785 Bộ luật dân sự có những hạn
chế hơn về phạm vi bảo hộ, cụ thể như: Điều luật này quy định các dấu hiệu
có thể được bảo hộ làm nhãn hiệu hàng hóa chỉ bao gồm các dấu hiệu từ ngữ,

hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu
sắc. Đây là các dấu hiệu "truyền thống". Các yếu tố khác được quy định tại Điều
15 của Hiệp định TRIPS như tên riêng, các chữ cái, chữ số, tổ hợp các màu
sắc, tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc
17
dịch vụ không được quy định tại Điều 785 Bộ luật dân sự. Điều 15 của Hiệp
định TRIPS quy định phạm vi bảo hộ rất rộng, "bất kỳ dấu hiệu hoặc tổ hợp
các dấu hiệu nào" sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có nhiều cơ
hội, khả năng lựa chọn các yếu tố để được bảo hộ làm nhãn hiệu hàng hóa.
Quy định của Bộ luật dân sự về phạm vi bảo hộ hạn chế việc doanh nghiệp
lựa chọn các yếu tố đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa.
So sánh với quy định tại khoản 1 Điều 6 Hiệp định Thương mại Việt
Nam - Hoa Kỳ thì nhãn hiệu hàng hóa được cấu thành bởi dấu hiệu bất kỳ hoặc
sự kết hợp bất kỳ của các dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ
của một người với hàng hóa hoặc dịch vụ của người khác, bao gồm từ ngữ, tên
người, hình, chữ cái, chữ số, tổ hợp màu sắc, các yếu tố hình hoặc hình dạng của
hàng hóa hoặc hình dạng của bao bì hàng hóa. Nhãn hiệu hàng hóa bao gồm cả
nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận.
Những quy định trên trong Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
có tính chất khái quát hơn và phù hợp với chuẩn mực quốc tế theo quy định
của WTO về nhãn hiệu hàng hóa. Đó là một khái niệm về nhãn hiệu hàng hóa
tương đối rộng, đầy đủ hơn so với quy định trong Bộ luật dân sự Việt Nam.
Điều đó thể hiện tính khái quát cao tại Điều 6 của Hiệp định đối với nền kinh
tế và trong điều kiện nền sản xuất hàng hóa phát triển [56, tr. 25].
Tuy có bước phát triển so với quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam,
nhưng Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và Bộ luật dân sự Việt
Nam vẫn chưa ghi nhận và quy định bảo hộ các yếu tố như âm thanh, mùi vị
(nhãn hiệu phi hình thể) như quy định trong luật nhãn hiệu của Đức, Hoa Kỳ và
Australia.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ như hiện nay, pháp

luật về nhãn hiệu hàng hóa của Việt Nam cần có những quy định sửa đổi, bổ
sung các dấu hiệu về nhãn hiệu hàng hóa cần được bảo hộ cho phù hợp với
quy định của các điều ước quốc tế, thông lệ quốc tế, sự phát triển kinh tế - xã
hội và sự đòi hỏi bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ sở sản xuất,
18
kinh doanh mà không chỉ giới hạn ở các dấu hiệu truyền thống như hiện nay.
Đây là một đòi hỏi hết sức khách quan, vì trong nền kinh tế thị trường phát
triển, cạnh tranh gay gắt, quốc tế hóa đời sống kinh tế người sản xuất, kinh
doanh muốn tồn tại và phát triển phải thường xuyên đa dạng hóa sản phẩm,
phát triển sản phẩm mới. Để giữ uy tín và bảo vệ lợi ích của mình, họ phải sử
dụng các dấu hiệu riêng biệt để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của mình với
hàng hóa, dịch vụ của các cơ sở khác nhằm tránh bị nhầm lẫn.
Theo quy định tại Điều 785 Bộ luật dân sự, thì nhãn hiệu hàng hóa bị
giới hạn "dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất,
kinh doanh khác nhau". Tuy nhiên, trong hoạt động kinh doanh, thương mại đã
xảy ra trường hợp các cơ sở sản xuất, kinh doanh có nhiều loại hàng hóa, dịch
vụ khác nhau nhưng lại có nhãn hiệu hàng hóa giống nhau trong đó có nhãn
hiệu nổi tiếng.
Trong điều kiện mới, quy định của Bộ luật dân sự không còn phù hợp
nữa mà phải thay đổi theo hướng xác định chức năng phân biệt của nhãn hiệu
hàng hóa không chỉ đối với "hàng hóa, dịch vụ cùng loại" mà còn mở rộng
đối với cả "hàng hóa, dịch vụ không cùng loại" của các cơ sở sản xuất, kinh
doanh khác nhau.
Tóm lại: Nhãn hiệu hàng hóa là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch
vụ của cá nhân, tổ chức kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu không được trùng,
tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ của cá nhân, tổ chức
kinh doanh khác. Đây là điều kiện hết sức quan trọng để đánh giá khả năng được
bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa của các dấu hiệu đăng ký. Dấu hiệu được dùng làm
nhãn hiệu hàng hóa phải có đầy đủ các điều kiện do pháp luật quy định.
Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa được quy định tại Điều 785 Bộ luật

dân sự là khái niệm pháp lý. Tuy nhiên, trong khoa học pháp lý chuyên ngành
chưa có khái niệm khoa học về nhãn hiệu hàng hóa. Do đó, trong luận án cần
thể hiện rõ khái niệm khoa học về nhãn hiệu hàng hóa như sau:
19
Nhãn hiệu hàng hóa là thuật ngữ pháp lý - kinh tế được sử dụng trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh và trở thành đối tượng bảo hộ của pháp luật
quốc gia và các điều ước quốc tế khi nó bảo đảm các yếu tố về dấu hiệu nhìn
thấy được, có thể là chữ cái, chữ số, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba
chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu
sắc… dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các cá nhân, tổ chức sản xuất,
kinh doanh khác nhau.
Nhãn hiệu hàng hóa bao gồm cả nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể
và nhãn hiệu chứng nhận.
1.1.4.1. Chức năng của nhãn hiệu hàng hóa
Vai trò quan trọng nhất của mỗi nhãn hiệu hàng hóa chính là chức năng
phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, chức
năng phân biệt không phải là chức năng duy nhất của nhãn hiệu hàng hóa, mà
nhãn hiệu hàng hóa còn có các chức năng khác nhau như: "Chức năng bảo đảm
chất lượng, chức năng chỉ dẫn nguồn gốc, chức năng quảng cáo, chức năng kiểm
tra và tổ chức thị trường" [76, tr. 19-20].
a) Về chức năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của nhãn hiệu hàng hóa
Trong nền kinh tế thị trường, hàng hóa, dịch vụ rất đa dạng và phong
phú. Người tiêu dùng lựa chọn hàng hóa, dịch vụ để mua chủ yếu dựa vào các
dấu hiệu hay nhãn hiệu hàng hóa mà các cơ sở sản xuất, kinh doanh gắn trên
sản phẩm hay bao bì sản phẩm khi đưa ra thị trường. Như vậy, nhãn hiệu hàng
hóa có chức năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các cơ sở sản xuất, kinh
doanh khác nhau. Nhờ có nhãn hiệu hàng hóa mà người tiêu dùng có thể xác
định được hàng hóa, dịch vụ mà mình yêu thích.
b) Về chức năng thông tin nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ
Người tiêu dùng quyết định chọn mua một sản phẩm nào đó mà không

hề do dự vì trước đây họ đã mua hàng hóa đó rồi, đã biết hàng hóa của nhà
20
sản xuất nào và hoàn toàn tin tưởng vào hàng hóa của nhà sản xuất đó. Như
vậy, chỉ cần nhìn vào nhãn hiệu hàng hóa, người tiêu dùng có thể có quyền nghĩ
rằng các sản phẩm mang nhãn hiệu hàng hóa đều có cùng nguồn gốc hoặc có
mối liên hệ giữa các nhà sản xuất khác nhau sử dụng nhãn hiệu hàng hóa
giống nhau. Đối với các hàng hóa nhập khẩu hoặc sản xuất theo hợp đồng li-
xăng, thì nhãn hiệu hàng hóa còn đóng vai trò chỉ dẫn nguồn gốc của hàng
hóa đó.
c) Về chức năng thông tin về sản phẩm
Người tiêu dùng chọn mua hàng hóa vì họ hài lòng về chất lượng, giá
cả của hàng hóa đó. Họ chọn mua hàng hóa đó vì họ biết được chất lượng của
hàng hóa, sản phẩm được chế tạo từ loại vật liệu gì, hàng hóa đó phù hợp với
nguồn tài chính của họ và nhiều thông tin khác về sản phẩm đó. Như vậy,
nhãn hiệu hàng hóa có chức năng thông tin gián tiếp về sản phẩm.
d) Về chức năng quảng cáo
Thông qua vai trò cá thể hóa sản phẩm, màu sắc, sự nổi tiếng của nhãn
hiệu hàng hóa, nhãn hiệu hàng hóa còn thực hiện chức năng quảng cáo sản
phẩm cho nhà sản xuất để sản phẩm có thể sớm đến được với người tiêu
dùng.
e) Về chức năng kiểm tra và tổ chức thị trường
Sự nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hóa thu hút nhà sản xuất đi đến lựa
chọn nhãn hiệu hàng hóa làm phương tiện để kiểm tra thị trường. Nhãn hiệu
hàng hóa nổi tiếng chiếm lĩnh thị trường, thị phần càng lớn, thì nhà sản xuất
có nhiều cơ hội để kiểm tra và tổ chức thị trường có lợi cho mình.
1.1.4.2. Các loại nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật Việt Nam
Một đặc thù của pháp luật về nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam là Bộ luật
dân sự chỉ quy định khái niệm chung về nhãn hiệu hàng hóa tại Điều 785. Các
khái niệm về các loại nhãn hiệu được quy định trong Nghị định của Chính phủ.
21

Nghị định số 63/CP của Chính phủ đã được sửa đổi, bổ sung một số
điều theo Nghị định số 06/2001/NĐ-CP ngày 01-02-2001 của Chính phủ (sau
đây gọi tắt là Nghị định số 06/CP của Chính phủ) quy định cụ thể các loại
nhãn hiệu hàng hóa như sau:
a) Nhãn hiệu tập thể
Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu hàng hóa được tập thể các cá nhân,
pháp nhân hoặc các chủ thể khác cùng sử dụng, trong đó mỗi thành viên sử
dụng một cách độc lập theo quy chế do tập thể đó quy định (khoản 8 Điều 2
của Nghị định số 63/CP của Chính phủ). Nhãn hiệu tập thể được đăng ký bảo
hộ sớm ở nước ta và quốc tế là nhãn hiệu "SEAPRODEX". Tuy nhiên, đây
còn là khái niệm mới, chưa được quy định cụ thể và số lượng đơn đăng ký
còn ít.
b) Nhãn hiệu liên kết
Nhãn hiệu liên kết là các nhãn hiệu hàng hóa tương tự với nhau do cùng
một chủ thể đăng ký để dùng cho các sản phẩm, dịch vụ cùng loại, tương tự với
nhau hoặc có liên quan với nhau và các nhãn hiệu hàng hóa trùng nhau do cùng
một chủ thể đăng ký để dùng cho các sản phẩm, dịch vụ tương tự với nhau
hoặc có liên quan tới nhau (khoản 8a Điều 2 Nghị định số 63/CP của Chính
phủ). Đây cũng là khái niệm mới, chưa được quy định cụ thể trong Bộ luật
dân sự.
c) Nhãn hiệu nổi tiếng
Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu hàng hóa được sử dụng liên tục cho
sản phẩm, dịch vụ có uy tín khiến cho nhãn hiệu đó được biết đến một cách
rộng rãi (khoản 8b Điều 2 Nghị định số 63/CP của Chính phủ). Để xác định
nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng, thông thường cơ quan nhà nước có thẩm quyền
phải căn cứ vào các tiêu chí do pháp luật quy định (như: phạm vi lãnh thổ mà
hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu lưu hành; doanh số, uy tín của hàng hóa,
22
dịch vụ; số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu đó ). Khái niệm nhãn hiệu hàng
hóa nổi tiếng cũng là khái niệm mới, chưa được quy định trong Bộ luật dân

sự.
d) Nhãn hiệu dịch vụ
"Nhãn hiệu dịch vụ được hiểu là những dấu hiệu dùng để phân biệt
dịch vụ này với dịch vụ khác hoặc giữa các dịch vụ cùng loại của các cơ sở
sản xuất, kinh doanh khác nhau" [56, tr. 43]. Hiện nay, trong Bộ luật dân sự
chưa có định nghĩa này. Chúng tôi cho rằng nhãn hiệu dịch vụ cần được quy
định rõ hơn trong Luật sở hữu trí tuệ.
1.1.5. Phân biệt nhãn hiệu hàng hóa với tên thương mại, nhãn hàng
hóa, thương hiệu
Nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, nhãn hàng hóa, thương hiệu là
những khái niệm khác nhau; thuộc phạm vi điều chỉnh của các văn bản quy
phạm pháp luật khác nhau. Việc phân biệt các khái niệm này là rất cần thiết
nhằm tránh sự nhầm lẫn gây ảnh hưởng đến việc bảo hộ từng đối tượng và sự
lựa chọn của người tiêu dùng.
1.1.5.1. Phân biệt nhãn hiệu hàng hóa với tên thương mại, nhãn
hàng hóa
Tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, nhãn hàng hóa đã được quy định trong
các văn bản quy phạm pháp luật; cụ thể như:
- Nghị định số 54/2000/NĐ-CP ngày 3-10-2000 của Chính phủ về bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên
thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới
sở hữu công nghiệp (sau đây gọi tắt là Nghị định số 54/CP của Chính phủ).
- Quyết định số 178/1999/QĐ-TTg ngày 30-9-1999 của Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quy chế ghi nhãn hàng hóa lưu thông trong nước và hàng
23
hóa xuất khẩu, nhập khẩu (sau đây gọi tắt là Quyết định số 178/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ).
Tuy nhiên, trong thực tế rất nhiều người lầm tưởng tên thương mại, nhãn
hàng hóa và nhãn hiệu hàng hóa là một, nhưng thực ra chúng rất khác nhau. Nhãn
hiệu hàng hóa và tên thương mại là hai đối tượng khác nhau thuộc phạm vi điều

chỉnh của pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Còn nhãn hàng hóa
không phải là đối tượng do pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp điều
chỉnh.
1- Tên thương mại
Theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Nghị định số 54/CP của Chính
phủ thì: Tên thương mại được bảo hộ là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng
trong hoạt động kinh doanh, đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:
a) Là tập hợp các chữ cái, có thể theo chữ số, phát âm được;
b) Có khả năng phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với các
chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực kinh doanh.
Về thực chất tên thương mại chính là tên của các doanh nghiệp được
thành lập theo Luật doanh nghiệp nói riêng và tên của các chủ thể kinh doanh
nói chung (các loại hình doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể). Chức năng
chủ yếu của tên thương mại là chỉ tên tổ chức, cá nhân trong hoạt động kinh
doanh phân biệt một doanh nghiệp này với một doanh nghiệp khác.
Khi thành lập doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp phải đặt tên cho doanh
nghiệp. Tên doanh nghiệp là một trong các nội dung chủ yếu của đơn đăng ký
kinh doanh. Chủ doanh nghiệp phải lập và nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh theo
quy định của Luật doanh nghiệp tại cơ quan đăng ký kinh doanh thuộc ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố thực thuộc trung ương (cụ thể là Sở kế hoạch và Đầu
tư). Sau khi doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, thì
có quyền hoạt động kinh doanh và được sử dụng tên của doanh nghiệp ghi
24
trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh để phân biệt doanh nghiệp của
mình với các doanh nghiệp khác. Một doanh nghiệp chỉ có một tên thương
mại (có thể có tên đối nội và tên đối ngoại). Tên thương mại được bảo hộ
trong phạm vi của một địa bàn và không bị hạn chế về thời hạn bảo hộ.
Chừng nào chủ sở hữu vẫn còn duy trì hoạt động kinh doanh dưới tên thương
mại đó, thì quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại vẫn được bảo
hộ.

Không phải mọi tên gọi đều có thể được bảo hộ dưới danh nghĩa là tên
thương mại. Theo quy định tại khoản 2 Điều 14 của Nghị định số 54/CP của
Chính phủ các tên gọi sau đây không được bảo hộ dưới danh nghĩa là tên thương
mại:
a) Tên gọi của cơ quan hành chính, các tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp hoặc các chủ
thể không liên quan tới hoạt động kinh doanh;
b) Tên gọi nhằm mục đích thực hiện chức năng của tên thương mại
nhưng không có khả năng phân biệt chủ thể kinh doanh của các cơ sở kinh
doanh trong cùng một lĩnh vực.
c) Tên thương mại gây nhầm lẫn với tên thương mại của người khác
đã được sử dụng từ trước trên cùng một địa bàn và trong cùng một lĩnh vực
kinh doanh, gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hóa của người khác đã được
bảo hộ từ trước khi bắt đầu sử dụng tên thương mại đó.
Ngoài các quy định trên đây của Nghị định số 54/CP của Chính phủ
về các trường hợp không bảo hộ tên thương mại, còn có quy định trong Luật
thương mại và Luật doanh nghiệp về các trường hợp không bảo hộ. Đó là:
- Điều 24 Luật Thương mại quy định về tên thương mại, biển hiệu, tại
khoản 2 quy định rõ "tên thương mại và biển hiệu không được vi phạm truyền
thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục Việt Nam" [40].
25

×