Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

BaiBao_DayhoctoanchoHSTHbangsoivahatdau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (832.48 KB, 10 trang )

DẠY HỌC TOÁN CHO HỌC SINH TIỂU HỌC BẰNG SỎI VÀ HẠT ĐẬU
Bùi Nguyễn Bích Thy, Lê Thị Nguyệt,
Kiều Anh, Lê Hoàng Phương Quỳnh,
Sinh viên năm 3, Khoa Giáo dục Tiểu học
GVDH: ThS Trần Đức Thuận
Tóm tắt: Đồ dùng dạy học Tốn trên thế giới ngày càng đa dạng hóa và hướng đến
sự phát triển tư duy học sinh. Tại Việt Nam, nhiều giáo viên đã tự thiết kế những đồ
dùng dạy học nhưng đa phần theo xu hướng phức tạp hóa và mà hiệu quả dạy học
lại khơng cao. Với việc dạy học Toán bằng sỏi và hạt đậu, chúng tơi muốn chứng
minh rằng: học Tốn bằng sỏi và hạt đậu giúp học sinh trung bình - yếu và khơng
thích học Tốn sẽ tiến bộ hơn trong học tập và dần tìm lại niềm vui trong tốn học.
Từ khóa: học sinh trung bình - yếu mơn Tốn, đồ dùng dạy học Toán, dạy học Toán
bằng sỏi và hạt đậu, thực trạng dạy học Toán ở Việt Nam.
MATHEMATICS TEACHING FOR PRIMARY STUDENTS BY PEBBLE
AND BEAN
Abstract: The trend of teaching material and tool in the world is diversification and
development of thinking for primary students, especially in Math. In Vietnam,
many teachers design educating materials, but with the style of complicating and
lacking of high effectiveness. By teaching Mathematics with pebble and bean, we
would like to prove the hypothesis that when learning with these materials, the
students who are not good or quite bad at Math and the ones not favoring this
subject are all helped to decrease the mistakes and gradually get to like and regain
the confidence in learning Math.
Keywords: students at medium – low level in Mathematics, teahing aids, teaching
Mathematics with pebbles and beans, the reality of teaching Math.
1. Đặt vấn đề
Theo tác giả Vũ Quốc Chung “Lứa tuổi tiểu học (6-7 tuổi đến 11-12 tuổi) là
giai đoạn mới của phát triển tư duy - giai đoạn tư duy cụ thể. Trong một chừng mực
nào đó, hành động trên các đồ vật, sự kiện bên ngồi cịn là chỗ dựa hay điểm xuất
phát cho tư duy”. Do đó, giáo viên nên sử dụng đồ dùng dạy học để giúp học sinh
tiếp cận với kiến thức mới của mơn Tốn, đặc biệt là giai đoạn đầu tiểu học.


Tại nhiều nước trên thế giới, đồ dùng dạy học ngày càng được đa dạng hóa
và hướng đến sự phát triển tư duy của học sinh, chẳng hạn như Mathlink cubes
(Singapore), Numicon (New Zeland), Cuisenaire (Bỉ), Bàn tính (Trung Quốc).
1


Những đồ dùng này chủ yếu hỗ trợ cho giáo viên trong việc giảng dạy về so sánh
các số; các phép tính cộng, trừ, nhân, chia; phân số; chu vi, diện tích.
Ở Việt Nam, đồ dùng dạy học cịn khá hạn chế, chủ yếu là que tính, thẻ số,
thẻ dấu. Nhưng việc thao tác với các thẻ số, thẻ dấu có thể có nhiều bất tiện và gây
mất thời gian. Hơn nữa, tính ứng dụng của những đồ dùng dạy học này chưa cao,
chủ yếu sử dụng vào những năm đầu tiểu học. Đồng thời, thực tế tại các vùng sâu,
vùng xa, học sinh vẫn chưa tiếp cận được với bộ đồ dùng học Toán của Bộ Giáo
dục và Đào tạo. Do đó, việc tiếp thu kiến thức mới của học sinh những nơi này gặp
nhiều khó khăn. Hiện nay, nhiều giáo viên tiểu học đã tự thiết kế đồ dùng theo ý
tưởng của riêng mình, tuy nhiên hầu hết đều theo xu hướng phức tạp hóa mà chưa
đặt mục tiêu gọn nhẹ, hiệu quả lên đầu. Đôi khi học sinh còn lúng túng khi thao tác
với đồ dùng dạy học vì cách sử dụng khơng đơn giản.
Từ việc phân tích những đồ dùng dạy học Tốn trong và ngồi nước, chúng
tơi thấy rằng dạy học Tốn cho học sinh tiểu học nên là những đồ dùng dạy học đơn
giản và mang lại hiệu quả dạy học cao. Trong quá trình tìm kiếm, chúng tơi nhận ra
rằng sỏi và hạt đậu có thể áp dụng vào dạy học Tốn cho học sinh tiểu học một cách
hiệu quả, đặc biệt là các học sinh trung bình - yếu. Bên cạnh đó, sỏi và hạt đậu xuất
phát từ tự nhiên, rất thích hợp cho việc dạy học ở vùng sâu, vùng xa, những nơi cịn
thiếu thốn về phương tiện dạy học. Đó cũng chính là những lí do để nhóm chúng tơi
chọn đề tài: “Dạy học Toán cho học sinh tiểu học bằng sỏi và hạt đậu”.
Thực hiện đề tài này, nhóm chúng tôi muốn chứng minh hiệu quả của việc sử
dụng sỏi và hạt đậu trong dạy học Toán cho học sinh tiểu học, cụ thể là giúp học
sinh trung bình - yếu và khơng thích học Tốn giảm các lỗi sai và dần u thích, tự
tin trong mơn Tốn. Đồng thời, chúng tôi mong muốn giúp giáo viên ở những vùng

sâu, vùng xa có những ý tưởng thiết kế đồ dùng học tập mới vốn có sẵn trong tự
nhiên, gần gũi trong cuộc sống thường ngày để học sinh có thể học toán một cách
trực quan, dễ dàng tiếp cận với kiến thức mới.
2. Thiết kế bài dạy và trò chơi học tập Toán bằng sỏi và hạt đậu
2.1.

Thiết kế bài dạy bằng sỏi và hạt đậu
Cộng, trừ trong phạm vi 10 (Lớp 1): Mục tiêu
giúp học sinh hình thành bảng cộng, trừ trong phạm vi
10. Cách tiến hành: giáo viên phát cho học sinh 10 viên
sỏi, một tấm thẻ số 10 và hai vòng tròn nhỏ để trống.
Học sinh chia 10 viên sỏi và đặt vào hai vòng tròn nhỏ.
Sau đó, viết các phép tính cộng, trừ thích hợp.
So sánh các số trong phạm vi 10 (Lớp 1): Mục
tiêu giúp học sinh có kĩ năng so sánh đúng các số trong
phạm vi 10. Cách tiến hành: giáo viên phát cho học sinh
các viên sỏi với hai màu khác nhau. Học sinh sắp xếp
các viên sỏi theo thứ tự tương ứng với nhau và điền dấu
thích hợp.

2


Phân tích cấu tạo số có hai chữ số (Lớp 1): Mục
tiêu giúp học sinh rèn kĩ năng phân tích cấu tạo các số có
hai chữ số. Cách tiến hành: giáo viên phát cho học sinh
các hạt đậu và các que gỗ (trên mỗi que đính 10 hạt đậu).
Học sinh lấy hạt đậu, que gỗ tương ứng với số cho trước
hoặc đọc số từ các que gỗ và hạt đậu được xếp trên bàn.
So sánh số có hai chữ số (Lớp 1): Mục tiêu giúp

học sinh rèn kĩ năng so sánh đúng các số có hai chữ số.
Cách tiến hành: giáo viên phát cho học sinh hạt đậu, đĩa
đậu (mỗi đĩa có 10 hạt đậu). Học sinh phân tích cấu tạo số
và rải hạt đậu, đĩa đậu (1 hạt đậu = 1 đơn vị, 1 đĩa đậu = 1
chục) vào các vịng trịn rồi so sánh.
Nhận diện hình học (Lớp 1): Mục tiêu giúp học
sinh nhận diện đúng hình vng, hình trịn, hình tam giác.
Cách tiến hành: học sinh xếp các hạt đậu thành hình
vng, hình trịn, hình tam giác. Sau đó, học sinh tự sáng
tạo xếp thành những hình tùy thích từ hình tam giác, hình
vng, hình trịn ban đầu.
Giải tốn có lời văn (Lớp 1): Mục tiêu giúp học
sinh viết đúng phép tính giải khi bước đầu làm quen với
giải tốn có lời văn. Cách tiến hành: giáo viên phát cho
học sinh các hạt đậu ngự. Học sinh đọc bài tốn, mơ hình
hóa bài tốn bằng hạt đậu, thao tác với hạt đậu để viết
phép tính giải thích hợp.
Tìm x (Lớp 2): Mục tiêu giúp học sinh
tự rút ra quy tắc tìm x. Cách tiến hành: giáo
viên phát cho học sinh các viên sỏi và hạt đậu.
Học sinh đặt số lượng sỏi hoặc hạt đậu tương
ứng với các số đã biết và phân tích để tìm
được giá trị x, từ đó rút ra quy tắc.
Cộng, trừ có nhớ (Lớp 2): Mục tiêu
giúp học sinh tính đúng cộng, trừ có nhớ.
Cách tiến hành: giáo viên phát các ống nhựa
trong và các hạt đậu. Học sinh xếp đậu vào
ống nhựa trong (gồm 10 hạt đậu) và các hạt
đậu lẻ đúng với phép tính cần làm.
Đơn vị, chục, trăm (Lớp 2): Mục tiêu giúp học sinh

biết 10 đơn vị = 1 chục, 10 chục = 1 trăm. Cách tiến hành:
giáo viên phát cho học sinh hạt đậu lẻ, đĩa đậu (mỗi đĩa
có 10 hạt đậu). Học sinh rải đậu vào các vòng tròn. 1 đĩa
đậu ở hàng đơn vị thay bằng 1 hạt ở hàng chục, 10 hạt
đậu ở hàng chục thay bằng 1 hạt ở hàng trăm.

3


Thống kê (Lớp 3): Mục tiêu giúp học sinh rèn kĩ
năng đếm, thống kê, xử lí, phân tích số liệu. Cách tiến
hành: giáo viên rải đậu khác loại và viên sỏi khác màu
một cách ngẫu nhiên. Học sinh thống kê số lượng mỗi
loại đậu và số viên sỏi cùng màu viết vào bảng số liệu.
Sau đó, phân tích dựa trên số liệu trong bảng.
Chu vi, diện tích (Lớp 3): Mục tiêu giúp học sinh
phân biệt khái niệm chu vi và diện tích. Cách tiến hành:
giáo viên phát cho học sinh các hạt đậu. Học sinh sắp xếp
các hạt đậu thành đường bao quanh (chu vi); đường bao
quanh và phần bên trong (diện tích).
Gam (Lớp 3): Mục tiêu giúp học sinh có kiến thức
sử dụng đơn vị gam để đo khối lượng, thực hiện đúng
phép tính số học với các số đo đại lượng. Cách tiến hành:
giáo viên phát cho học sinh những túi đậu có khối lượng
khác nhau. Sau đó, giáo viên đưa ra yêu cầu để học sinh
kiểm tra sự bằng nhau và thêm bớt khối lượng đậu sao
cho hai bên cân thăng bằng.
Phân số (Lớp 4): Mục tiêu giúp học sinh hình
thành biểu tượng phân số. Cách tiến hành: giáo viên đặt
hạt đậu lên một hoặc nhiều phần trên que gỗ. Học sinh

viết phân số thể hiện số phần có đậu chiếm mấy phần
mấy của số phần trên que gỗ và số phần khơng có đậu
chiếm mấy phần mấy của số phần trên que gỗ.
Tỉ số (Lớp 4): Mục tiêu giúp học sinh hình thành
biểu tượng tỉ số và viết đúng tỉ số của hai số. Cách tiến
hành: giáo viên phát cho học sinh các que gỗ (ở hai đầu
của que gỗ có đính hai loại đậu khác nhau). Học sinh
viết tỉ số của hai loại đậu trên các que gỗ.
2.2.

Thiết kế trò chơi học tập bằng sỏi và hạt đậu
Trị chơi “Những viên sỏi số diệu kì”: Mục tiêu
giúp học sinh rèn kĩ năng tính cộng, trừ trong phạm vi 10.
Luật chơi: bốc thăm một tấm thẻ, người chơi tìm các viên
sỏi ghép thành phép tính có kết quả là con số trong tấm
thẻ. Bạn nào ghép thành phép tính đúng và nhanh nhất thì
được 1 điểm. Bạn nào đạt 10 điểm là thắng.
Trò chơi “Khắc nhập, khắc nhập”: Mục tiêu giúp
học sinh rèn kĩ năng tính cộng, trừ trong phạm vi 10. Luật
chơi: lần lượt mỗi người chơi chọn que gỗ có phép tính
hoặc số hạt đậu thích hợp để xếp liền kề với một trong hai
đầu que gỗ. Người chiến thắng là người hết que gỗ trước.

4


Trò chơi “Đố bạn”: Mục tiêu giúp học sinh đọc đúng tỉ
số của hai số nhanh và chính xác. Luật chơi: lần lượt mỗi học
sinh bốc 2 viên sỏi, các bạn còn lại đập tay xuống bàn, ai nhanh
hơn sẽ nói tỉ số của hai số. Nếu nói đúng thì được lấy 2 viên sỏi

đó. Trị chơi kết thúc khi số lượng sỏi trên bàn ít hơn 2 viên.
Người chiến thắng là người có số lượng sỏi nhiều nhất.
3. Thực nghiệm dạy học Toán cho học sinh tiểu học bằng sỏi và hạt đậu
3.1.

Đối tượng nghiên cứu

Nhóm học sinh tiểu học từ lớp Một đến lớp Bốn đang học tại Trung tâm học
tập cộng đồng Bình Chánh, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Tất cả các
em đều khơng thích học Tốn, học chậm mơn Tốn, làm bài tập sai nhiều, điểm thi
cuối học kì I trung bình từ 3 - 6 điểm.
Chúng tôi chia các học sinh này thành 2 nhóm ngẫu nhiên:
Nhóm thực nghiệm (N1): 6 học sinh được học bằng sỏi và hạt đậu.
Nhóm đối chứng (N2): 6 học sinh được học bằng hình thức truyền thống.
3.2.

Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài, nhóm chúng tơi sử dụng các phương pháp
chủ yếu sau: phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp quan sát khoa học,
phương pháp phỏng vấn trực tiếp, phương pháp điều tra, phương pháp thực nghiệm
khoa học, nhóm các phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp.
3.3.

Phương tiện nghiên cứu

Để chuẩn bị cho việc thực nghiệm dạy học Toán cho học sinh bằng sỏi và hạt
đậu, chúng tôi đã chuẩn bị những phương tiện như sau: các loại sỏi và hạt đậu khác
nhau, đồ dùng dạy học tự thiết kế từ sỏi và hạt đậu, các bài kiểm tra kiến thức, các
phiếu thông tin, máy ảnh và điện thoại phục vụ cho việc chụp hình, quay phim.

3.4.

Cách thức tiến hành nghiên cứu

Ban đầu, chúng tơi tìm hiểu sách, báo, tạp chí và các cơng trình nghiên cứu
xoay quanh vấn đề dạy Toán cho học sinh tiểu học bằng sỏi và hạt đậu. Sau đó,
chúng tơi suy nghĩ về các ý tưởng dạy học mơn Tốn bằng sỏi, hạt đậu.
Thực nghiệm dạy học thử với 4 học sinh có học lực trung bình - yếu mơn
Tốn bằng sỏi và hạt đậu. Sau đó, chúng tơi xem xét hiệu quả và chỉnh sửa kế hoạch
dạy học cho phù họp hơn.
Chọn địa điểm thực nghiệm, chọn đối tượng thực nghiệm bằng cách quan sát
q trình học Tốn của các học sinh ở lớp và tham khảo ý kiến của giáo viên chủ
nhiệm.
Khai thác thơng tin và năng lực học Tốn của học sinh bằng phiếu kiểm tra,
tìm hiểu những dạng bài học sinh hay sai trong tập học thường ngày của các em và
qua ý kiến của giáo viên chủ nhiệm.

5


Nhóm đối chứng học với giáo viên chủ nhiệm theo cách dạy truyền thống,
nhóm thực nghiệm học với chúng tơi bằng sỏi và hạt đậu.
Dạy học Toán bằng sỏi và hạt đậu cho nhóm thực nghiệm trong 1 tháng, mỗi
tuần 4 buổi dạy, mỗi buổi khoảng 1 tiếng 15 phút. Quá trình thực nghiệm gồm hai
giai đoạn: ở giai đoạn 1, chúng tôi dạy lại những dạng bài học sinh thường xuyên
sai trước đó bằng sỏi và hạt đậu. Sau đó, tổ chức cho học sinh làm bài kiểm tra để
so sánh với điểm số trước khi dạy. Đồng thời, chúng tôi cũng bấm thời gian để đo
về tốc độ làm bài giữa hai lần trước và sau thực nghiệm. Ở giai đoạn 2, chúng tôi
dạy kiến thức mới cho học sinh nhóm thực nghiệm bằng sỏi và hạt đậu. Cuối mỗi
buổi học kiến thức mới, chúng tôi tổ chức cho học sinh làm bài kiểm tra để kiểm

chứng hiệu quả của việc dạy học bằng sỏi và hạt đậu.
Cuối kì thực nghiệm, tiến hành cho cả hai nhóm làm một bài kiểm tra tổng
hợp các kiến thức đã giảng dạy trong suốt quá trình thực nghiệm.
Kết hợp với nhật kí giảng dạy và sổ theo dõi học sinh để xử lý, phân tích,
giải thích kết quả, đưa ra những kết luận và đề ra những định hướng phát triển đề
tài.
4. Kết quả nghiên cứu:
4.1.

Thái độ học Toán của học sinh nhóm thực nghiệm (N1) và nhóm đối
chứng (N2) trong và sau quá trình thực nghiệm
Biểu đồ 1. Thái độ học Tốn của học sinh N1 sau q trình thực nghiệm
(Tỉ lệ %)
Khơng
thích
0%

Bình
thường
0%
u
thích
40%

Rất u
thích
60%

Trước đó, các học sinh được hỏi đều trả lời Khơng thích học Tốn. Cuối q
trình thực nghiệm, chúng tôi thu được kết quả như sau: học sinh trả lời Yêu thích

chiếm 40%, Rất yêu thích chiếm 60%. Đây là một tín hiệu tích cực sau quá trình
dạy học Tốn bằng sỏi và hạt đậu. Các em học sinh đã dần tìm lại niềm vui trong
việc học Tốn.
Khi được hỏi về lí do thích học Tốn bằng sỏi và hạt đậu, học sinh nhóm
thực nghiệm có các ý kiến như sau:

6


Biểu đồ 2. Ý kiến của học sinh N1 về lí do thích học Tốn bằng sỏi và hạt đậu
(Tỉ lệ %)
35.71%

40.00%

28.57%

30.00%

21.43%

20.00%

14.29%

10.00%
0.00%
Đồ dùng bằng
sỏi, đậu đẹp


Trò chơi bằng Học bằng sỏi, Làm bài đúng
sỏi, đậu vui
hạt đậu dễ hiểu nhiều hơn trước

Dựa vào biểu đồ 2, chúng tôi thấy rằng lí do các em thích học Tốn do Đồ
dùng học tập bằng sỏi, đậu đẹp chiếm tỉ lệ cao nhất (35.71%), Trò chơi vui chiếm tỉ
lệ cao thứ hai (28.57%). Điều này phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí và đặc điểm
nhận thức của học sinh tiểu học, các em thích thú khi việc học tập kết hợp với trị
chơi, vừa học vừa thư giãn, giải trí nên học sinh có tâm thế thoải mái. Hơn nữa, học
sinh tiểu học thường bị ấn tượng và chú ý đến màu sắc tươi sáng, sự mới lạ của các
đồ dùng bằng sỏi, hạt đậu. Bên cạnh đó, một tỉ lệ ít hơn nhưng chúng tơi đánh giá
rất quan trọng, đó là Học bằng sỏi, hạt đậu dễ hiểu (14.29%) và Làm bài đúng
nhiều hơn trước (21.43%). Tỉ lệ này cho thấy học sinh đã bắt đầu nhận thức được sự
tiến bộ trong học Toán của bản thân. Sự nhận thức về việc học tập của bản thân
chính là động cơ bền vững giúp học sinh cố gắng hơn trong việc học Tốn sau này.
Khơng chỉ nhóm thực nghiệm mà 6 học sinh nhóm đối chứng cũng thể hiện
sự quan tâm và thích thú với việc học bằng sỏi, hạt đậu. Các em thể hiện sự buồn bã
khi khơng được học Tốn bằng sỏi và hạt đậu, thường không chú ý vào bài giảng
của giáo viên mà thường tị mị, nhìn sang các bạn nhóm thực nghiệm học và thao
tác với các viên sỏi, hạt đậu.
4.2.

Kết quả học tập của học sinh nhóm thực nghiệm (N1) sau giai đoạn 1 dạy
học Tốn bằng sỏi, hạt đậu

Biểu đồ 3. So sánh tỉ lệ làm bài đúng của học sinh N1 trước và sau khi thực nghiệm
giai đoạn 1 (Tỉ lệ %)
100

86.7


81.8

80

71.4

80
60

54.5
40

40

26.7

36.4

60
45.5
33.3

14.3

20
0
V.D (L1)

Th.Th (L1)


Tr.H (L2)

Trước thực nghiệm

7

D.Th (L2)

Th.Q (L3)

Sau thực nghiệm

Th.S (L4)


Qua biểu đồ 3, ta thấy tỉ lệ làm bài đúng của tất cả học sinh nhóm thực
nghiệm đều tăng sau thời gian thực nghiệm. Học sinh làm bài đúng nhiều nhất sau
quá trình thực nghiệm là học sinh lớp 1 (86.7%). Học sinh làm bài đúng tăng cao
nhất là học sinh lớp 3 (tăng 57.1%). Điều này cho thấy việc học với sỏi, hạt đậu đã
đạt hiệu quả, học sinh làm bài đúng hơn, lỗi sai đã giảm đi so với học bằng cách dạy
truyền thống.
Bảng 1. So sánh tốc độ làm bài của học sinh N1 trước và sau thực nghiệm
(Đơn vị: phút)

Trước

V.D
(L1)
12


Th.Th
(L1)
14

Tr.H
(L2)
18

D.Th
(L2)
12

Th.Q
(L3)
11

Th.S
(L4)
10

Sau

9

8

14

11


16

6

So sánh

Nhanh 3

Nhanh 6

Nhanh 4

Nhanh 1

Chậm 5

Nhanh 4

Qua bảng 1, chúng ta thấy tốc độ làm bài của học sinh sau khi thực nghiệm
nhanh hơn so với trước khi thực nghiệm từ 1 đến 6 phút. Tốc độ làm bài tăng nhiều
nhất là 6 phút. Có một học sinh làm bài chậm hơn so với trước khi thực nghiệm 5
phút, nguyên nhân là do trước thực nghiệm, Th.Q không tập trung làm bài kiểm tra
(tỉ lệ làm đúng 2/14 câu). Nhưng sau thực nghiệm, Th.Q đã tập trung làm bài nên
mất nhiều thời gian hơn, nhưng số câu đúng đã tăng lên (tỉ lệ làm đúng 10/14 câu).
Điều này cho thấy việc sử dụng đồ dùng dạy học bằng sỏi, hạt đậu mang lại hiệu
quả nhất định, học sinh vừa làm bài nhanh hơn mà số câu đúng tăng lên so với
trước.
4.3.


Kết quả học tập của học sinh nhóm thực nghiệm (N1) và nhóm đối chứng
(N2) sau giai đoạn 2 dạy học Toán bằng sỏi, hạt đậu

Ở cuối kì thực nghiệm, chúng tơi tổ chức cho học sinh N1 và học sinh N2 cùng
làm một bài kiểm tra tổng hợp các kiến thức được dạy trong suốt quá trình thực
nghiệm. Kết quả như sau:
Biểu đồ 4. Tỉ lệ làm bài đúng của học sinh N1 và N2 sau kì thực nghiệm (Tỉ lệ %)
100
81.8
80

72.7

60
40

20

70

63.6

45.5 50
36.4
20

30

36.4


60
40

0
NHĨM THỰC NGHIỆM

8

NHÓM ĐỐI CHỨNG


Qua biểu đồ 4, ta thấy nhóm đối chứng có tỉ lệ làm bài đúng thấp hơn so với
nhóm thực nghiệm và tỉ lệ này chênh lệch khá rõ rệt. Ngun nhân chính là do học
sinh nhóm thực nghiệm được học và thao tác với sỏi, hạt đậu nên nắm vững bản
chất kiến thức, đồng thời trong quá trình học các em được chơi trò chơi với sỏi, hạt
đậu để rèn kĩ năng tính tốn - một trong số kĩ năng mà học sinh cịn yếu. Chính vì
thế, học sinh thực nghiệm khi làm bài thì có kết quả tốt hơn so với học sinh nhóm
đối chứng. Qua đây, chúng tôi thấy rằng việc học với phương tiện sỏi, đậu mang lại
hiệu quả.
Bảng 2. Tốc độ làm bài của nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm (Đơn vị: phút)
Tên
Thời
gian

V.
D
11

Nhóm thực nghiệm (N1)
Th. Tr. D.T Th. Th.

Th
H
h
Q
S
9
11
10
13
16

M.
D
15

Nhóm đối chứng (N2)
B. K.T Th. H.
A
h
H
T
14
16
17
11

H.
H
18


Nhìn chung, qua bảng 2, ta thấy nhóm đối chứng có tốc độ làm bài chậm hơn
so với nhóm thực nghiệm. Tốc độ chênh lệch cao nhất lên đến 7 phút. Do học sinh
nhóm thực nghiệm được thao tác nhiều với sỏi, đậu nên khắc sâu kiến thức, hiểu và
được rèn luyện nhiều nên tốc độ làm bài tập nhanh hơn. Trong đó, có 1 học sinh
H.T (nhóm đối chứng, lớp 3) có tốc độ làm bài nhanh hơn so với học sinh thực
nghiệm (2 phút). Tuy nhiên, về tỉ lệ làm bài đúng của học sinh H.T thì thấp hơn so
với học sinh Th.Q nhóm thực nghiệm (thấp hơn 27.2%). Qua đó, ta thấy sự tiến bộ
rõ rệt của nhóm học sinh thực nghiệm. Với việc học như thế này, học sinh có nhiều
cơ hội được trải nghiệm, tìm tịi, tự khám phá kiến thức bằng đồ học học tập, từ đó
hứng thú học tập mơn Tốn.
5. Kết luận và hướng phát triển đề tài
5.1.

Kết luận

Học sinh tiểu học hứng thú khi học Toán với sỏi, hạt đậu hơn so với cách dạy
truyền thống. Học sinh ban đầu còn lạ lẫm về cách thức tổ chức hoạt động học tập
với sỏi và hạt đậu. Nhưng càng ngày các em càng quen dần và thích thú, thậm chí
nhiều em tự đưa ra dự đoán, khám phá ra cách thức thao tác với sỏi, hạt đậu khi học
một nội dung mới.
Khi học Toán với đồ dùng học tập (như sỏi, hạt đậu), học sinh thao tác để tự
tìm ra quy tắc, khái niệm, kiến thức mới, từ đó tăng khả năng tư duy, chủ động
khám phá tri thức. Cũng chính nhờ vậy mà học sinh trung bình - yếu mơn Tốn đã
có sự tiến bộ: tăng số lượng câu đúng, thời gian làm bài nhanh hơn trước. Điều này
cho thấy dạy học Toán bằng sỏi và hạt đậu đạt hiệu quả cao.
Trò chơi học tập bằng sỏi, hạt đậu thu hút học sinh, giúp các em ôn lại kiến
thức, rèn kĩ năng tính tốn trong khơng khí thư giãn, vui chơi.
5.2.

Hướng phát triển đề tài


9


Không chỉ dừng lại việc sử dụng sỏi, hạt đậu trong dạy học mà còn tạo ra
nhiều trò chơi hơn để sỏi và hạt đậu trở thành bộ đồ dùng để các em có thể “vừa học
vừa chơi” mỗi ngày. Hơn nữa, chúng tôi mong muốn sỏi và hạt đậu trở thành đồ
dùng dạy học hữu ích cho những nơi thiếu thốn cơ sở vật chất như vùng sâu, vùng
xa. Ngồi ra, trong thời gian tới, nếu có cơ hội, chúng tôi sẽ suy nghĩ về việc sử
dụng các đồ dùng khác cũng xuất phát từ tự nhiên, gần gũi với học sinh trong cuộc
sống thường ngày để đưa vào dạy học Toán cho học sinh tiểu học như cúc áo (hạt
nút), nắp chai,…
6. Danh mục tài liệu tham khảo
[1]. Vũ Quốc Chung, Đào Thái Lai, Đỗ Tiến Đạt, Trần Ngọc Lan, Nguyễn Hùng
Quang, Lê Ngọc Sơn (2005), Phương pháp dạy học Toán ở tiểu học, NXB Đại học
Sư Phạm Hà Nội, Hà Nội.
[2]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Chương trình Giáo dục phổ thơng cấp Tiểu
học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[3]. Nguyễn Thị Bích Hạnh, Trần Thị Thu Mai (2007), Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí
học sư phạm tiểu học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[4]. Trần Thúy Ngà (2012), Dạy học mơn Tốn tiểu học theo định hướng tăng
cường tính trực quan, Luận án Tiến sĩ cấp Viện, Viện Khoa học Giáo dục Việt
Nam.
[5]. Fred Ventura (2011), Tools for active teaching and Active learning “Hands-on
Math”, Ventura Educational Systems.
[6]. Courtney (2015), It’s all about the Beans, Adventures in Guided Math.
[7]. Carol A.Thornton and Judith K.Wells (1991), Mathlink cubes, Learning
Resources.
[8]. Anna Ranson (2013), Number pebbles for counting and addition, The
Imagination Tree.


10



×