Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Nguồn gốc và lịch sử phát triển của tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (710.31 KB, 15 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VIỆT NAM HỌC & TIẾNG VIỆT
----------

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ

Môn học: LỊCH SỬ TIẾNG VIỆT

Giảng viên hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
Mã số sinh viên
Lớp

: PGS.TS. Nguyễn Văn Hiệu
: Nguyễn Công Toại
: 16031507
: K61 Việt Nam học

Hà Nội, ngày 18 tháng 04 năm 2019


Câu 1: Trình bày các quan điểm khác nhau về nguồn gốc tiếng Việt
Trong lịch sử, có những ngơn ngữ mà vì một lí do nào đó đã bị chia tách ra thành
nhiều ngôn ngữ khác nhau. Ngôn ngữ bị chia tách đó thường được gọi là ngơn ngữ mẹ
hay ngơn ngữ cơ sở. Như vậy, về ngun tắc, có thể tìm tịi ngược dịng thời gian lịch
sử của những ngôn ngữ được giả định là vốn cùng “sinh ra” từ một ngơn ngữ mẹ, để
quy chúng vào những nhóm, những chi, những ngành, những dòng… khác nhau, tuỳ
theo mức độ thân thuộc nhiều hay ít. Để phát hiện ra sự thân thuộc giữa các ngôn ngữ
người ta dùng phương pháp so sánh – lịch sử. Nội dung của phương pháp này là so sánh
các từ và dạng thức của từ tương tự nhau về ý nghĩa và âm thanh trong các ngôn ngữ


khác nhau dựa vào tài liệu ngôn ngữ sống cũng như những sự kiện, hiện tượng được ghi
trên văn bia và thư tịch cổ. Phương pháp so sánh lịch sử cũng rất chú trọng so sánh các
hiện tượng ngữ âm, nhưng tất nhiên các hiện tượng ngữ âm được tìm hiểu thơng qua
việc so sánh các từ và dạng thức từ. Nội dung của phương pháp so sánh – lịch sử là qua
việc so sánh tìm ra các quy luật tương ứng về ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp rồi qua đấy
xác định quan hệ thân thuộc giữa các ngôn ngữ.
Vấn đề xác định quan hệ họ hàng của tiếng Việt hay thực chất là xác định nguồn gốc
của nó đã được đề xuất và thảo luận trong khoảng gần 200 năm. Trong khoảng thời gian
dài đó, chắc chắn đã có nhiều ý kiến khác nhau dựa trên những tư liệu và cách nhìn
nhận khác nhau. Tuy nhiên, về cơ bản có hai khuynh hướng tiêu biểu và phổ biến đó là:
khuynh hướng khơng xếp tiếng Việt vào họ ngôn ngữ Nam Á và khuynh hướng xếp
tiếng Việt vào họ ngôn ngữ Nam Á.
Trước tiên là về hướng khuynh hướng không xếp tiếng Việt vào họ ngôn ngữ
Nam Á. Trong khuynh hướng này, các nhà nghiên cứu ngơn ngữ có rất nhiều các quan
điểm và ý kiến khác nhau.
Thứ nhất, có ý kiến cho rằng “tiếng Việt chỉ là nhánh bị thoái hoá” của tiếng Hán.
Đây là cách nhìn nhận của một số ít người nhưng thuộc vào những người quan tâm tới
vấn đề nguồn gốc tiếng Việt sớm nhất. Đại diện cho luồng ý kiến này đó chính là
L.Taberd (1838). Sở dĩ các học giả theo ý kiến này cho rằng tiếng Việt là một nhánh


thối hóa của tiếng Hán vì họ cho rằng: trong tiếng Việt có nhiều từ gốc tiếng Hán. Về
ngữ âm, cũng có những chuyển đổi có tính quy luật giữa tiếng Việt và tiếng Hán (tiếng
Việt hiện nay gần tương ứng với hệ thống tứ thanh của tiếng Hán đời Đường). Tuy
nhiên, khi phân tích kỹ lưỡng những từ có trong tiếng Việt tương ứng với tiếng Hán,
những người có kinh nghiệm trong nghiên cứu so sánh - lịch sử rất dễ nhận thấy những
từ tương ứng ấy trong tiếng Việt chỉ là những từ vay mượn. Những từ này thuộc vào
lớp từ vựng văn hóa chứ khơng phải là những từ thuộc lớp từ vựng cơ bản. Chúng ta có
thể liệt kê những từ để làm ví dụ như: bệnh, buồng, bến, mùi. gan, gần, vốn, ván,... được
cho là có cách dùng như từ thuần Việt, rõ ràng đó vẫn là những từ chỉ xuất hiện khi xã

hội con người đã phát triển chứ khơng phải thuộc nhóm cội nguồn. Hoặc thậm chí thi
thoang có một từ tương ứng nào đó thuộc lớp từ vựng cơ bản thì chắc chắn số lượng
của chúng không đủ nhiều và điều quan trọng hơn cả là sự tương ứng của những từ như
thế khơng mang tính hệ thống.
Ví dụ: Người ta có thể nói đến từ đầu trong tiếng Việt là một trường hợp tương ứng
với từ 頭 tiếng Hán. Và đây rõ ràng là một từ thuộc lớp từ rất cơ bản. Nhưng tìm đi tìm
lại, chúng ta vẫn khơng thể coi những từ tiếng Việt khác cùng hệ thống chỉ các khái
niệm cơ thể cơ bản như từ đầu (chẳng hạn như: mũi, tóc, tai, mắt, răng, mặt, da (lốt),
xương, chân, tay,...) là những từ tương ứng với tiếng Hán được. Vì thế cách nhìn nhận
dựa vào số lượng từ tương ứng với Hán kiểu như từ đầu trong tiếng Việt là chưa đú sức
thuyết phục và do đó khơng mang đầy đủ tính khoa học để xác định nguồn gốc cùa ngơn
ngữ.
Cịn về mặt ngữ âm, như trong cơng trình cùa GS. Nguyễn Tài Cẩn đã chỉ rõ, những
quy tắc ngữ âm thể hiện cách đọc Hán - Việt mặc dù mang tính quy luật nhưng người
ta vẫn nhận biết chúng bắt nguồn chỉ từ giai đoạn trung cổ (tương ứng với thời nhà
Đường) của tiếng Hán. Riêng về sự tương ứng của cơ chế thanh điệu, tình hình lại càng
rõ ràng hơn. Bởi vì, theo chứng minh của A.G. Haudricourt và hiện đã được đa số người
nghiên cứu chấp nhận, ở giai đoạn tiền Việt - Mường, tiếng Việt là một ngơn ngữ khơng
có thanh điệu giống như các ngôn ngữ Môn - Khmer hiện nay. Cho nên, mặc dù giữa
hai ngơn ngữ có sự tương ứng về cơ chế thanh điệu, điều đó vẫn khơng phản ánh mổi
quan hệ nguồn gốc chung nào giữa chúng. Như vậy, trong vốn từ tiếng Việt cho dù


những từ tương ứng với tiếng Hán có số lượng áp đảo, lại có cả sự tương ứng về quy
luật ngữ âm và cả về cơ chế thanh điệu, điều đó vẫn khơng có nghĩa chúng phản ánh
cội nguồn chung giữa hai ngơn ngữ này. Hay nói một cách khác việc coi tiếng Việt như
một nhánh của tiếng Hán là chưa thể chứng minh được theo thao tác và yêu cầu của
ngôn ngữ học so sánh - lịch sử.
Loại ý kiến thứ hai là những ý kiến xếp tiếng Việt vào họ ngơn ngữ Nam Đảo. Đó
là ý kiến của Bình Nguyên Lộc với hai cuốn Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam

(Sài Gòn, 1972) và Lột trần Việt ngữ (Sài Gòn, 1973), và gần đây là ý kiến của tác giả
Hồ Lê (1996). Cơ sở của những ý kiến này là sự tương ứng từ vựng giữa tiếng Việt với
các ngôn ngữ khác nhau trong họ Nam Đảo. Tuy nhiên, phải nói ngay rằng, đây là
những tương ứng chưa phải là những tương ứng mang tính hệ thống và do đó khả năng
vay mượn là rất lớn. Khả năng này còn được đẩy lên cao hơn nữa khi mà, như chúng ta
đã biết, sự cư trú đan xen giữa những cư dân Nam Á và cư dân Nam Đảo là có thực và
diễn ra trong một khoảng thời gian dài. Cần phải nói thêm rằng, tác giả Bình Ngun
Lộc đã cho rằng “có 40% từ Mã Lai trong vốn từ của tiếng Việt”, tuy nhiên “trong hai
cuốn sách của ơng chỉ thấy kể có khoảng dăm chục từ” … Do vậy, có thể nói, việc nêu
vấn đề tiếng Việt có quan hệ họ hàng với các ngơn ngữ Nam Đảo chỉ mang tính giả
thiết và trong tình hình như vậy có thể nói giả thiết ấy chưa được chứng minh.
Ý kiến thứ ba, đáng chú ý hơn cả, cho rằng tiếng Việt là một ngôn ngữ thuộc họ
ngơn ngữ Thái. Cần phải nói ngay rằng, trong số những ý kiến không xếp tiếng Việt
vào họ ngôn ngữ Nam Á thì cách lí giải cho ý kiến này có vai trị quan trọng nhất. Ý
kiến này được Henry Maspéro đề xuất vào đầu thế kỉ XX, và trong một thời gian dài,
nó đã chi phối quan niệm về phân loại nguồn gốc ngôn ngữ của các nhà ngôn ngữ trên
thế giới. Bằng phương pháp so sánh – lịch sử, với lập luận chặt chẽ, tỉ mỉ về các khía
cạnh từ vựng cơ bản, ngữ pháp và thanh điệu, Maspéro đã làm những nhà nghiên cứu
đương thời khơng có cách gì bác bỏ được. Cụ thể là:
Về từ vựng: giữa tiếng Việt với các ngôn ngữ Thái cũng như với các ngơn ngữ
Mơn - Khmer đều có sự tương ứng.


Về ngữ pháp: tiếng Việt gần với tiếng Thái và khác rất xa với các ngôn ngữ
Môn - Khmer hiện nay bởi các tiếng Mơn - Khmer có cơ sở sơ sài về hình thái học trong
khi đó tiếng Việt là một ngơn ngữ khơng có giá trị hình thái học.
Về thanh điệu: với Maspéro, thanh điệu tiếng Việt là một vấn đề quan trọng vì
tiếng Việt hiện nay là một ngơn ngữ cũng có thanh điệu như các ngơn ngữ Thái và Hán.
Trong khi đó, cho đến nay, các ngôn ngữ Môn - Khmer vẫn là các ngôn ngữ khơng có
thanh điệu.

Tuy nhiên, những luận điểm của Maspéro khơng phải là khơng có hạn chế và những
hạn chế đó sau này đã được A.G. Haudricourt chỉ ra một cách thuyết phục.
Về khuynh hướng xếp tiếng Việt vào họ ngôn ngữ Nam Á. Sau một thời gian dài
giới ngôn ngữ học hoàn toàn chấp nhận và phổ biến những kết luận do H. Maspéro đưa
ra, vào năm 1953 một nhà bác học rất nổi tiếng người Pháp khác, giáo sư A.G.
Haudricourt, đã trình bày một ý kiến phản bác hết sức thuyết phục cho rằng, tiếng Việt
là một ngôn ngữ Môn - Khmer của họ Nam Á chứ không phải là một ngơn ngữ thuộc
họ Thái. Sau khi có ý kiến cùa A.G. Haudricourt lần lượt một số tác giả khác như R.
Shafer (1956), N.D. Andreev (1958), s. Wilson (1966) và đặc biệt là S.E. Yakhontov
(1973) và gần đây là M. Ferlus (1974, 1979, 1995...), G. Diffloth (1975, 1991,...) cùng
nhiều nhà ngôn ngữ học Việt Nam như giáo sư Nguyễn Tài cẩn... đã đồng ý với những
chứng minh và lập luận cùa học giả Pháp nổi tiếng này.
Lập luận của A.G. Haudricourt trong việc chứng minh nguồn gốc Nam Á của tiếng
Việt được thể hiện rõ trong hai năm 1953 và 1954, khi A.G. Haudricourt đã lần lượt
công bố hai bài báo quan trọng:
– Về nguồn gốc Nam Á của tiếng Việt
– Về nguồn gốc các thanh trong tiếng Việt
Với hai bài báo này, ông đề nghị phải xếp tiếng Việt vào họ ngôn ngữ Nam Á, chứ
không phải là họ Thái như H. Maspéro đã đề nghị. Cần phải nói ngay rằng, A.G.
Haudricourt khơng phải là người đầu tiên nêu ra quan điểm xếp tiếng Việt vào họ ngôn
ngữ Nam Á. Mà, như đã trình bày ở trên, quan điểm này đã được đề xuất từ năm 1856,


và hiện nay, đây là quan điểm nhận được nhiều sự đồng tình nhất bởi cơ sở khoa học
của nó. Trong số những ý kiến ủng hộ đó, có thể coi lập luận của Haudricourt là đầy đủ
nhất và là những lí lẽ đại diện cho cách phân loại này. Hơn thế nữa, qua lập luận của
Haudricourt chúng ta còn có thể rút ra được những cơ sở để xác định nguồn gốc tiếng
Việt.
Thứ nhất, về vấn đề từ vựng. Sau khi tiến hành khảo sát lại nhóm từ chỉ các bộ phận
cơ thể trong tiếng Việt mà Maspéro đã dẫn ra để làm chứng cứ trong cơng trình so sánh

của ơng, Haudricourt đã chỉ ra rằng nhóm từ ấy về cơ bản là những từ thuộc về Mon Khmer, chứ không phải là vừa gốc Thái vừa gốc Mon - Khmer như Maspéro đã chỉ ra.
Vì vậy, trên phương diện từ vựng, quan hệ giữa tiếng Việt và các ngôn ngữ Thái là quan
hệ vay mượn.
Thứ hai, về vấn đề ngữ pháp, cụ thể là vấn đề cấu tạo từ bằng phương thức phụ tố.
Hiện nay người ta vẫn nhận thấy dấu vết của phương thức này. Ví dụ điển hình là cặp
từ giết – chết:
kchết -----> (xát hóa) giết
Ngồi ra, cịn có một số cặp từ khác: cọc - nọc, kẹp - nẹp, con - non…
Qua những cặp từ như vậy, chúng ta có thể chứng minh chúng là hệ quả của phương
thức cấu tạo từ bằng phụ tố cịn lưu giữ trong các ngơn ngữ Mon - Khmer. Tuy nhiên,
điểm lập luận này, đối với Haudricourt, không phải là quan trọng nhất.
Điểm quan trọng ở đây chính là vấn đề thanh điệu. Haudricourt cho rằng, việc hiện
nay tiếng Việt có hệ thống thanh điệu giống như tiếng Thái cịn các ngơn ngữ MonKhmer khơng thanh điệu chưa nói lên điều gì về nguồn gốc. Bởi hệ thống thanh điệu có
thể xuất hiện, có thể mất đi trong lịch sử của một ngôn ngữ. Hơn nữa, theo V.B.
Kasevich, ở một số ngôn ngữ ở Đông Nam Á và Tây Phi tuy chúng đều có thanh điệu
và thậm chí có những điểm giống nhau đến kì lạ về ngữ pháp nhưng “tuyệt đối rõ ràng
là những ngôn ngữ này không phải là họ hàng”.
Theo Haudricourt, thanh điệu tiếng Việt là một hiện tượng mới có, nói cách khác,
trước đây tiếng Việt cũng là một ngơn ngữ khơng có thanh điệu và hiện nay nó là một


ngơn ngữ có thanh điệu giống như các ngơn ngữ Thái. Chính vì điều này mà Haudricourt
đã chứng minh được rằng, về nguồn gốc, tiếng Việt tương tự như các ngôn ngữ Mon Khmer:
Giữa thanh điệu và phụ âm đầu có liên quan chặt chẽ đến nhau theo hướng các phụ
âm đầu tắc vô thanh tương ứng với một thanh có âm vực cao, cịn những phụ âm đầu
hữu thanh thì tương ứng với thanh điệu có âm vực thấp.
Thanh điệu tiếng Việt có sự tương ứng với cách kết thúc âm tiết:
+ Hai thanh ngang - huyền: âm tiết mở
+ Hai thanh hỏi - ngã: âm cuối xát
+ Hai thanh sắc - nặng: âm cuối tắc yết hầu.

Và cuối cùng, dựa trên kết quả phục nguyên, Haudricourt đã đưa ra sơ đồ về nguồn
gốc các thanh trong tiếng Việt như sau:
SƠ ĐỒ VỀ NGUỒN GỐC CÁC THANH TRONG TIẾNG VIỆT
Đầu công nguyên

Thế kỉ thứ VI

Thế kỉ XII

(không thanh)

(ba thanh)

(sáu thanh)

pa

pa

pa

ba

sla, hla

hla

la

la


ba

ba





la

la





pas, pah



pả

bả

slas, hlah

hlà

lả


lả

bas, bah







las, lah







Ngày nay


pax, pa?








slax, ba?

hlá





bax, ba?



pạ

bạ

lax, la?



lạ

lạ

Từ những lí lẽ trên, A.G. Haudricourt đã khẳng định: “tốt nhất là chỉ nên xếp tiếng
Việt là thành viên của nhánh Mon - Khmer thuộc họ Nam Á ở khu vực Đông Nam Á
hiện nay”.
Câu 2: Khái quát các giai đoạn lịch sử trong quá trình phát triển tiếng Việt
Với thời gian giả định trong hàng ngàn năm lịch sử, tiếng Việt chắc chắn đã trải qua
nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Theo kết qua phân định dược tiến hành trên nguyên

tẳc tái lập tiền ngơn ngữ, lịch sử tiếng Việt có thể chia thành 6 giai doạn phát triển. Và
trước khi tách biệt trờ thành thành viên cùa nhóm Việt - Mường, tiếng Việt vẫn là một
bộ phận (cũng có thế là phương ngữ) của cộng đồng Môn - Khmer.
2.1. Giai đoạn phát triển Môn - Khmer (Mon - Khmer)
Đây không phải là giai đoạn đầu tiên trong lịch sử phát triển riêng của tiếng Việt.
Vào thời kì này tiếng Việt cùng với các ngôn ngữ khác của nhánh Môn - Khmer đang
là một khối chung thống nhất. Nhiều nhà nghiên cứu ước tính giai đoạn Mơn - Khmer
này của lịch sử tiếng Việt kết thúc muộn nhất là vào khoảng cách ngày nay 3000 - 4000
năm.
Đặc điểm nổi bật nhất là ngôn ngữ vẫn lưu giũ những từ có từ thời tiền Nam Á hoặc
tiền Môn - Khmer hoặc chung cho cả khối Đông Môn - khmer. Một đặc điểm nổi bật
khác là trong ngôn ngữ vẫn lưu giữ phương thức phụ tố để cấu tạo từ và trong từ song
tiết Môn - Khmer âm tiết cuối ln được nhấn mạnh, địng thời là phần chính ổn định
nhất của từ ngữ âm.


Còn đối với vấn đề cấu trúc trong cấu tạo từ, ở khối ngơn ngữ Đơng Mơn - Khmer
có một nét riêng là “ âm tiết cuối luôn luôn được nhấn mạnh ở từ song tiết. Âm tiết
cuối là phần chính, phần ổn định nhất của từ.
2.2. Giai đoạn tiền Việt Mường (Proto Việt - Mường)
Đây là thời kì tiếng Việt cùng với tất cả các ngơn ngữ thuộc nhóm Việt - Mường
hiện nay đang là một ngôn ngữ chung và nó được coi là vừa tách ra khỏi khối Đơng
Mon - Khmer để có một lịch sử riêng, khác với những ngôn ngữ khác thuộc nhánh Mon
- Khmer. Giai đoạn này có thể coi là giai đoạn phát triển đầu tiên trong lịch sử tiếng
Việt, tức là nó có tư cách là ngôn ngữ chung, ngôn ngữ mẹ hay tiền ngơn ngữ của cả
nhóm Việt - Mường hiện nay. Nói khác đi, giai đoạn TVM là thời gian đầu tiên trong
lịch sử tiếng Việt với tư cách là một cá thể ngơn ngữ của họ Nam Á.
Theo ước tính, thời gian tương đối của giai đoạn TVM bắt đầu khi khối ngơn ngữ
Đơng Mon - Khmer có sự khác biệt nội bộ để tạo thành những nhóm riêng lẻ, có thể từ
hàng nghìn năm trước Cơng ngun (Cn), đến những thế kỉ đầu Cn. Về mặt xã hội ngôn

ngữ, giai đoạn TVM tương ứng với thời kì nó được những cư dân chủ thể của giai đoạn
văn minh/văn hoá Đông Sơn sử dụng, nhưng địa bàn ngôn ngữ này có thể chỉ giới hạn
trong lãnh thổ Đại Việt vào thời kì độc lập sau này. Vì giai đoạn TVM về sau phân chia
thành những ngôn ngữ Việt - Mường khác nhau nên nó có sự khác biệt mang tính
phương ngữ rõ rệt.
Nét đặc trưng ngơn ngữ chính của giai đoạn TVM là như sau. Trước hết, nó lưu giữ
đầy đủ thành phần từ vựng cội nguồn Nam Á, Mon - Khmer và Đông Mon - Khmer.
Điều này thể hiện rất rõ khi so sánh những từ cơ bản của nhóm Việt - Mường với các
ngơn ngữ Nam Á. Tuy nhiên, cũng đã có dấu hiện ở giai đoạn này chứng tỏ có sự tiếp
xúc với những ngơn ngữ Nam Đảo. Sau đó là tính đồng thời lưu giữ dạng thức cấu tạo
từ đơn tiết và song tiết, trong đó dạng thứ hai có số lượng nhiều hơn. Cuối cùng, như
đã được chứng minh, tiếng TVM chưa có thanh điệu, nó vẫn giữ thế đối lập vơ
thanh/hữu thanh trong các âm đầu xát lẫn tắc và thế đối lập tắc/xát/mũi ở cuối âm tiết.
2.3. Giai đoạn Việt - Mường cổ (pré Việt Mường)


Đây là thời kì mà tiếng TVM trước đây đã có sự phân hố để tách một phần thành
những ngơn ngữ bảo thủ song tiết và phần khác là những ngơn ngữ đơn tiết trong nhóm
Việt - Mường hiện nay. Giai đoạn này có thời gian tương đối từ khoảng thế kỉ I sau Cn
cho đến những thế kỉ VIII - IX. Về lịch sử, nước Việt Nam lúc giờ bị đô hộ của phong
kiến phương Bắc và tiếng Việt chịu tác động sâu sắc của sự đô hộ này. Cho nên về mặt
xã hội ngôn ngữ, lúc này tiếng Việt chỉ là ngơn ngữ bình dân và trong cộng đồng xã hội
đã có sử dụng tiếng Hán và chữ Hán. Đây chính là nguyên nhân tác động rất nhiều đến
sự phát triển sau này của tiếng Việt.
Có thể nói những đặc điểm chính về ngơn ngữ của giai đoạn này như sau. Thứ
nhất, bên cạnh việc lưu giữ lớp từ vốn có từ giai đoạn trước, tiếng VMc đã có sự vay
mượn lẫn nhau với các ngơn ngữ Thái - Kađai (Tai - Kađai) và Hán. Những từ tương
ứng với tiếng Thái thuộc thời kì này cũng thuộc lớp từ cơ bản, còn những từ gốc Hán
lúc này là những từ cổ Hán Việt. Thứ hai, ở giai đoạn này tiếng VMc đã chịu ảnh hưởng
của xu thế đơn tiết hoá theo hướng rụng đi các tiền âm tiết theo kiểu CvCVC > CVC

(C: phụ âm, v: nguyên âm lướt, V: nguyên âm). Đồng thời, phương thức cấu tạo từ bằng
phụ tố hầu như khơng cịn hoạt động trong tiếng VMc nữa. Thứ ba, về mặt ngữ âm tiếng
VMc là một ngơn ngữ có ba thanh điệu và đã xuất hiện dãy âm xát trong hệ thống âm
đầu. Sự xuất hiện thanh điệu ở thời kì này đã làm mất đi đặc trưng xát ở cuối âm tiết.
2.4. Giai đoạn Việt - Mường chung (Việt - Mường commun)
Sau một thời gian phát triển, tiếng VMc đã phân hoá thành những bộ phận khác
nhau. Một phần do tính biệt lập về địa lí chịu sự biến đổi ít hơn, cịn phần khác dường
như do chịu ảnh hưởng của tiếng Hán biến đổi nhiều hơn. Tiếng VMC trong lịch sử có
thể coi là hệ quả của sự phát triển khác nhau đó.
Về mặt thời gian tương đối, tiếng VMC là giai đoạn ước chứng từ thế kỉ thứ X
cho đến khoảng thế kỉ XIV. Vào thời kì này, Việt Nam là quốc gia độc lập. Về mặt xã
hội ngôn ngữ, tiếng Việt trở thành ngơn ngữ tồn dân nhưng văn ngơn Hán và chữ Hán
dường như vẫn giữ vai trò giáo dục, hành chính và văn học. Tuy nhiên, vào thời gian
này chữ Nôm – loại chữ đầu tiên ghi âm tiếng Việt – đã xuất hiện.


Ở giai đoạn này, tiếng VMC có những đặc điểm ngơn ngữ chính sau đây. Thứ nhất,
đó là hiện tượng vay mượn từ gốc Hán để hình thành lớp từ Hán Việt quan trọng sau
này. Nhưng, sự vay mượn này không đồng đều ở những vùng lãnh thổ khác nhau của
tiếng VMC và chính là ngun nhân khiến nó bị phân hố về sau. Thứ hai, tiếng VMC
đã là ngơn ngữ đơn tiết (CVC) là hệ quả của một quá trình đơn tiết hố trước đây và
hầu như nó cũng khơng cịn lưu giữ một dấu vết gì của phương thức cấu tạo từ bằng
phụ tố. Thứ ba, tiếng VMC đã là một ngơn ngữ có sáu thanh điệu và cùng với nó là
ngơn ngữ chỉ cịn lại loạt âm đầu vô thành, tức là đã mất đi sự đối lập vô thanh/hữu
thanh trong các âm đầu âm tiết và dường như hồn tồn khơng cịn sự đối lập tắc/xát ở
cuối âm tiết. Đồng thời, trong ngôn ngữ đã xuất hiện loạt âm đầu xát. Như vậy, dường
như tiếng VMC đã đặt cơ sở vững chắc cho sự phát triển của tiếng Việt và tiếng Mường
về sau.
2.5. Giai đoạn tiếng Việt cổ (Việt ancien)
Đây là thời kì tiếng VMC đã phân hoá thành hai cá thể tiếng Việt và tiếng Mường.

Do vậy, ở Việt Nam tiếng Mường là ngôn ngữ thiểu số gần gũi nhất với tiếng Việt.
Người ta ước chừng giai đoạn này là khoảng thời gian từ đầu thế kỉ XIV đến cuối thế
kỉ XV. Ở thời kì này, ngồi những đặc điểm xã hội ngơn ngữ vẫn lưu giữ từ thời VMC,
ở tiếng Vc chữ Nôm đã vươn lên vai trò là chữ viết văn học với Quốc âm thi tập của
Nguyễn Trãi và nó đã được ghi lại trong Annam dịch ngữ.
Đặc điểm chính về ngơn ngữ của giai đoạn này là tiếng Vc đã có một lớp từ Hán
Việt ổn định, cái mà tiếng Mường khơng có được. Thứ nữa, tiếng Vc đã hồn thành
việc xử lí các âm tiền tắc họng thành các âm mũi. Ngồi ra nó đã phân hố dãy âm đầu
vơ thanh VMC thành hai nhóm là nhóm hút vào (*p > b, *t > d) và nhóm vơ thanh xưa
(*c,*k). Chính lí do này đã khiến cho tiếng Vc kéo âm xát *s hoặc *s' chuyển thành âm
t hoặc th quốc ngữ hiện nay. Và có lẽ, theo cách nhìn của chúng tơi, dãy âm xát có từ
trước đây đã hoàn tất ở giai đoạn này.
2.6. Giai đoạn tiếng Việt trung cổ (Việt moyen)
Tiếp theo giai đoạn VC là thời kì VT. Lúc này, những hiện tượng biến đổi ở tiếng
Việt hầu như khơng cịn liên quan đến tiếng Mường. Giai đoạn này ước tính từ cuối thế


kỉ XV, đầu thế kỉ XVI đến nửa đầu thế kỉ XIX. Về mặt xã hội ngôn ngữ, nét nổi bật
nhất là sự xuất hiện chữ quốc ngữ với việc ra đời cuốn từ điển Annam-Lusitan-Latin
(gọi tắt là Việt - Bồ - La, VBL) năm 1651 của A. de Rhodes và sau đó là những văn
bản, từ điển ghi bằng quốc ngữ. Đây là hệ quả của một sự tiếp xúc mới quan trọng của
tiếng Việt với nhiều ngôn ngữ châu Âu, đặc biệt là tiếng Pháp. Thứ đến là tiếng Việt trở
thành một ngôn ngữ văn học, bác học với diện mạo mới hết sức phong phú. Cuối cùng,
với việc mở rộng về phía Nam, tiếng Việt hồn thiện và hình thành nên những vùng
phương ngữ như nó có hiện nay. Về mặt ngơn ngữ, tiếng Vt chỉ có một hiện tượng nổi
bật là nó đã thực sự đơn tiết hoá triệt để. Những ghi chép trong từ điển VBL đã chứng
minh điều này.
2.7. Giai đoạn tiếng Việt hiện đại ( Việt modern)
Từ giữa thế kỉ XIX, tiếng Việt phát triển sang giai đoạn hiện đại. Có điều, sự phát
triển ấy không đều ở những bộ phận khác nhau trong nội bộ ngôn ngữ. Tuy nhiên, vào

thời điểm hiện nay với trách nhiệm là tiếng nói của một dân tộc, tiếng Việt đã làm trịn
vai trị là cơng cụ giao tiếp, công cụ tư duy để phát triển xã hội.
Ở giai đoạn này, tiếng Việt có hai đặc điểm xã hội quan trọng. Thứ nhất là sự tiếp
xúc sâu đậm với ngơn ngữ, văn học và văn hố Pháp, hệ quả của việc Pháp đô hộ Việt
Nam. Sự tiếp xúc này là một nhân tố thúc đẩy nó phát triển mạnh mẽ. Thứ hai là từ năm
1945, với sự ra đời của nước Việt Nam độc lập, tiếng Việt trở thành ngơn ngữ chính
thức của nhà nước. Vai trị xã hội mới này của ngơn ngữ vừa địi hỏi, vừa tạo điều kiện
để nó phát triển. Nhìn ở hai đặc điểm xã hội quan trọng đó, một vài nhà nghiên cứu đề
nghị tách giai đoạn này thành tiếng Việt hiện đại và tiếng Việt đương đại. Nhưng nếu
coi trọng tính nhất quán về ngữ âm, làm như vậy là không cần thiết.
Sự phát triển nội tại của tiếng Việt ở giai đoạn này, như đã nói ở trên cũng có sự
khác nhau. Nhìn về mặt lịch sử, ngữ âm là bộ phận phát triển nhanh nhất. Ngôn ngữ
Truyện Kiều của Nguyễn Du đạt đến độ điêu luyện tinh vi về ngữ âm đã nói rõ điều đó.
Những năm đầu thế kỉ XX, với sự thành công của nhiều trào lưu sáng tác văn học, ngữ
pháp tiếng Việt phát triển một cách hoàn chỉnh. Cuối cùng, với sự xuất hiện và cung
cấp đầy đủ một hệ thống thuật ngữ cho mọi mặt của đời sống xã hội, tiếng Việt hoàn
thiện ở tất cả các bình diện cấu trúc ngữ nghĩa của nó. Rõ ràng, ở thời điểm hiện nay,


tiếng Việt hồn tồn đáp ứng đầy đủ địi hỏi của xã hội với tư cách là công cụ giao tiếp,
phương tiện tư duy của dân tộc.
Như vậy, trong những giai đoạn lịch sử phát triển của tiếng Việt, ba giai đoạn đầu
lịch sử tiếng Việt là lịch sử nhóm Việt - Mường. Chỉ ở ba giai đoạn sau lịch sử tiếng
Việt mới là lịch sử của một cá thể ngôn ngữ. Đây là một đặc điểm hết sức tế nhị trong
việc nghiên cứu lịch sử tiếng Việt.
Mơ hình hóa giai đoạn phát triển

Thời
Gian
Giai đoạn Môn

Khmer (MonKhmer)
Đặc
điểm

Thời
gian

Giai đoạn tiền Việt
Mường (proto Việt
- Mường)

Khoảng cách ngày này 3000 - 4000 năm

Ngôn ngữ vân lưu giữ những từ có từ thời
tiền Nam Á hoặc tiền Môn Khmer hoặc chung
cho cả khối Đông Môn - Khmer
Ngôn ngữ vẫn lưu giữ phương thức phụ tố để
cấu tạo từ , trong từ song tiết âm tiết cuối ln
được nhấn mạnh , là phần chính ổn định

Từ hàng nghìn năm trước cơng ngun đến
những thế kỉ đầu công nguyên
Lưu giữ đầy đủ thành phần từ vựng cội nguồn
Nam Á, Mon - Khmer và Đông Môn - Khmer

Đặc điểm

Tính đồng thời lưu giữ dạng thức cấu tạo từ đơn
tiết và song tiết
Tiếng TVM chưa có thanh điệu


Thời
gian

Giai đoạn Việt Mường cổ

Khoảng thế kỉ I sau công nguyên cho đến TK VIII IX

Tiếng Việt Mường cổ đã có sự vay mượn khác
nhau với các ngôn ngữ Thái - Kadai và Hán
Đặc
điểm

Chịu ảnh hưởng của xu thế đơn tiết hóa theo
hướng rụng đi các tiền âm tiết
Có ba thanh điệu và đã xuất hiện dãy âm xát trong
hệ thống âm đầu


Từ TK thứ X cho đến khoảng TK thứ XIV

Thời
gian

Giai đoạn Việt Mường chung

Hiện tượng vay mượn từ gốc Hán để hình
thành lớp từ Hán Việt quan trọng sau này
Đặc điểm


Là ngơn ngữ đơn tiết-hệ quả của 1 q trình
đơn tiết hóa

Là một ngơn ngữ có sáu thanh điệu

Khoảng từ TK XIV đến cuối TK XV

Thời
gian
Giai đoạn tiếng
Việt cổ

Có một lớp từ Hán Việt ổn định
Đặc
điểm

Hoàn thành xử lý các âm tiền tắc họng thành các
âm mũi
Phân hóa dẫy âm đầu vơ thanh thành hai nhóm

Thời
gian

0
0
0
0

Giai đoạn tiếng Việt
Trung cổ


Từ cuối TK XV đầu TK XVI đến nửa đầu
TK XIX

Sự xuất hiện chữ quốc ngữ
Đặc
điểm

Tiếng Việt trở thành ngôn ngữ văn học,bác
học với diện mạo hết sức phong phú
Tiếng Việt hồn thiện và hình thành nên
các vùng phương ngữ


Thời
gian

Giai đoạn tiếng Việt
hiện đại

Từ giữa TK thứ XIX đến nay

Sự tiếp xúc sâu đậm với ngôn ngữ , văn học
và văn hóa Pháp
Đặc
điểm
Tiếng Việt trở thành ngơn ngữ chính thức
của nhà nước




×